Tải bản đầy đủ (.pdf) (254 trang)

Kỷ yếu Hội thảo khoa học phát triển xã hội học công ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.71 MB, 254 trang )

KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC
PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM
Kỷ niệm

10 NĂM NGÀY XÃ HỘI HỌC NAM BỘ
(2008-2018)
&
20 NĂM THÀNH LẬP KHOA XÃ HỘI HỌC
TRƯỜNG ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM
(1998-2018)

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 12 năm 2018


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

LỜI NÓI ĐẦU
“Ngày Xã hội học Nam Bộ” là sự kiện thƣờng niên của Hội Xã hội học phía Nam, đƣợc
tổ chức lần đầu tại Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ vào năm 2008. Từ đó đến nay, sự
kiện này đã lần lƣợt tổ chức tại: Trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM (2009, 2014),
Trƣờng Đại học Bình Dƣơng (2011), Trƣờng Đại học Tôn Đức Thắng (2013), Trƣờng Đại
học Đà Lạt (2016) và Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ (2017). “Ngày Xã hội học Nam
Bộ” đã nhận đƣợc sự tham gia đông đảo của các đơn vị nghiên cứu và đào tạo xã hội học
cũng nhƣ các Chi hội Hội Xã hội học tại khu vực phía Nam.
Năm 2018 là dấu mốc quan trọng tròn 20 năm thành lập Khoa Xã hội học, Trƣờng ĐH
KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM, và cũng là thời khắc đánh dấu 10 năm của “Ngày Xã hội
học Nam Bộ”. Để kỷ niệm hai sự kiện quan trọng này, Trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP.
HCM và Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ đồng phối hợp tổ chức Hội thảo khoa học với
chủ đề “Phát triển Xã hội học công ở Việt Nam”.
Hội thảo nhằm tạo ra diễn đàn cho các nhà nghiên cứu, cũng nhƣ sinh viên, các nhà hoạt
động thực tiễn, các tổ chức xã hội và công chúng về các lĩnh vực liên quan, chia sẻ kết quả


nghiên cứu, trình bày quan điểm của mình. Hội thảo cũng nhằm thảo luận để khơi gợi các ý
tƣởng nghiên cứu mới trong lĩnh vực xã hội học, tăng cƣờng hơn nữa sự hợp tác và trao đổi
trong cộng đồng nghiên cứu, giảng dạy và hoạt động xã hội học.
Ban Tổ chức đã nhận đƣợc 23 bài viết của các giảng viên, nhà nghiên cứu đến từ các
Trƣờng Đại học, Viện nghiên cứu. Nội dung bài viết đề cập đến nhiều vấn đề trong nghiên
cứu, đào tạo Xã hội học trong bối cảnh kinh tế - xã hội và hội nhập toàn cầu hiện nay. Tập
kỷ yếu đƣợc chia làm hai chủ đề lớn: (1) Lý thuyết Xã hội học và các vấn đề xã hội và (2)
Lao động, việc làm và di cư.
Ban Biên tập đã cố gắng biên tập và sắp xếp nội dung các bài viết nhƣng không thể tránh
khỏi thiếu sót. Với vai trò cầu nối và gắn kết các cá nhân, đơn vị, tổ chức và cộng đồng Xã
hội học, chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng: Hội thảo này là diễn đàn mở để mọi ngƣời sẻ chia
và trình bày các kết quả nghiên cứu của mình. Do đó, tất cả các ý kiến và quan điểm của
Quý vị đều đƣợc tôn trọng và ghi nhận. Chúng tôi rất mong nhận đƣợc sự đóng góp ý kiến
của Quý vị để công tác tổ chức và biên tập nội dung hoàn thiện hơn. Thƣ từ đóng góp xin
gửi về Ban Tổ chức Ngày hội Xã hội học Nam Bộ 2018 qua email:

BAN BIÊN TẬP

1


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

MỤC LỤC
PHẦN I: LÝ THUYẾT XÃ HỘI HỌC VÀ CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI
1. XÃ HỘI HỌC CÔNG CỘNG: MỘT HƢỚNG NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC HƠN LÀ
MỘT PHƢƠNG PHÁP, HAY TẬP HỢP CÁC LÝ THUYẾT .............................................. 6
ThS. Tạ Xuân Hoài
2. PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC TRONG KHU VỰC NHÀ NƢỚC: PHÁC THẢO VỀ CƠ
HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐẶT RA TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ .............. 15

PGS. TS. Nguyễn Đức Chiện
3. ĐẨY MẠNH ĐÀO TẠO VÀ NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG XÃ HỘI HỌC CHUYÊN
NGÀNH GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN KHOA HỌC XÃ HỘI (TRƢỜNG HỢP VÙNG NAM
BỘ - VIỆT NAM)............................................................................................................... 22
PGS. TS Huỳnh Quốc Thắng
4. XÃ HỘI HỌC Ở TRUNG QUỐC TRƢỚC 1949 ......................................................... 29
GS. TS. Bùi Thế Cƣờng
5. MƢỜI LĂM LUẬN ĐỀ VỀ NGHIÊN CỨU XUYÊN NGÀNH CỦA GERTRUDE
HIRSCH HADORN VÀ CỘNG SỰ ................................................................................... 46
GS. TS. Bùi Thế Cƣờng
6. KHÁI NIỆM CỘNG ĐỒNG ĐÔ THỊ: CẤU TRÚC, MẠNG LƢỚI VÀ SỰ KIẾN TẠO
BIỂU TƢỢNG.................................................................................................................... 50
ThS. Đỗ Hồng Quân
7. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ VAI TRÒ CỦA CHA MẸ TRONG VIỆC GIÁO
DỤC CON TỪ 0 ĐẾN 6 TUỔI ........................................................................................... 63
TS. Phạm Thị Thúy
8. NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN
NAY ................................................................................................................................... 75
ThS. Nguyễn Quang Giải, ThS. Nguyễn Phƣơng Cƣờng
9. VAI TRÒ CỦA INTERNET ĐỐI VỚI SỰ LỰA CHỌN NGHỀ NGHIỆP CỦA HỌC
SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TẠI TP. HỒ CHÍ MINH VÀ THÀNH PHỐ BIÊN
HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI .................................................................................................... 84
TS. Thái Huỳnh Anh Chi, ThS. Trần Thị Thanh Lan, ThS. Đỗ Hồng Quân
10. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN SỰ HÀI LÒNG CỦA CÔNG DÂN VỀ GIẢI
QUYẾT CÁC THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TẠI CƠ SỞ (NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP
QUẬN ĐỐNG ĐA - HÀ NỘI) ......................................................................................... 100
ThS. Nguyễn Chu Du
11. GIÀ HÓA DÂN SỐ: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỚI CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ
HỘI VÀ CHÍNH SÁCH HƢU TRÍ................................................................................... 111
ThS. Nguyễn Thị Hồng

2


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

12. CHĂM SÓC NGƢỜI CAO TUỔI TRONG TIẾN TRÌNH GIÀ HOÁ DÂN SỐ TẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.......................................................................................... 121
ThS. Lê Văn Thành
13. ĐẶC ĐIỂM LỐI SỐNG QUẦN CƢ VÀ TƢƠNG TRỢ LẪN NHAU CỦA CỘNG
ĐỒNG NGƢỜI HOA Ở BÌNH DƢƠNG NHÌN TỪ GÓC ĐỘ KINH TẾ VÀ VĂN HÓA . 132
ThS. Đào Vĩnh Hợp, ThS. Võ Thị Ánh Tuyết
14. GIẢI PHÁP SINH KẾ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG TRONG CÁC
TIỂU VÙNG ĐBSCL VÀ CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI.......................................................... 146
TS. Trần Thị Phụng Hà

PHẦN II: LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM VÀ DI CƯ
15. LAO ĐỘNG NỮ VÀ NGHÈO ĐÔ THỊ TRONG NỀN KINH TẾ PHI CHÍNH QUY 152
ThS. Dƣơng Trƣờng Phúc
16. IDENTIFYING SOME FORMS OF VIOLENCE TOWARDS FEMALE DOMESTIC
WORKERS IN HO CHI MINH CITY NOWADAYS ...................................................... 164
Cao Thanh Tam, M.A.
17. ĐA DẠNG GIỚI TRONG CHUYỂN ĐỔI VIỆC LÀM CỦA THỊ TRƢỜNG LAO
ĐỘNG NHẬP CƢ TẠI ĐÀ LẠT ...................................................................................... 177
TS. Vũ Thị Thùy Dung
18. HÀI LÒNG VỚI VIỆC LÀM Ở CÁC GIAI CẤP TRUNG LƢU THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH ............................................................................................................................... 187
GS. TS. Bùi Thế Cƣờng
19. HỖ TRỢ SINH KẾ ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG KHMER NHẬP CƢ Ở BÌNH DƢƠNG TỪ
MỘT PHÂN TÍCH ĐỊNH LƢỢNG .................................................................................. 199
ThS. Lê Anh Vũ

20. TÁC ĐỘNG CỦA TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG ĐẾN CÔNG NHÂN LAO ĐỘNG
TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP – CÁCH MẠNG 4.0....................................................... 212
PGS.TS Hoàng Thị Nga
21. SỰ TRỞ VỀ CỦA NHỮNG CÔ DÂU VIỆT VÀ NHỮNG NGƢỜI CON LAI ......... 218
TS. Nguyễn Nữ Nguyệt Anh, PGS. TS. Nguyễn Thị Hồng Xoan
22. LAO ĐỘNG DI CƢ TỰ DO TRONG KHU VỰC ASEAN: NGHIÊN CỨU TRƢỜNG
HỢP LAO ĐỘNG VIỆT NAM TẠI THÁI LAN .............................................................. 231
ThS. Nguyễn Xuân Anh
23. FAMILY AND MIGRATION AMONG FACTORY WORKERS IN CHINA AND
VIETNAM ....................................................................................................................... 243
Prof. Kaxton Siu, Prof. Jonathan Unger

3


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

CHƯƠNG TRÌNH
Ngày 21/12/2018
 Hoạt động chính: Ngày Xã hội học Nam Bộ 2018 (Hội thảo khoa học “Phát triển Xã
hội học công ở Việt Nam”)
 Địa điểm: Hội trƣờng D, 10-12 Đinh Tiên Hoàng, P. Bến Nghé, Q.1, TP. HCM
 Thời gian: 07:30 - 17:00
07:30 - 08:00: Đăng ký
08:00 - 09:00: Khai mạc và Phiên toàn thể
09:00 - 11:45: Phiên tiểu ban
11:45 - 12:00: Bế mạc
12:00 - 13:30: Nghỉ trƣa
13:30 - 17:00: Tọa đàm Biến đổi khí hậu


Ngày 22/12/2018
 Hoạt động chính: Chƣơng trình Kỷ niệm 20 năm thành lập Khoa Xã hội học
 Địa điểm: Hội trƣờng D và khuôn viên sân nhà B, 10-12 Đinh Tiên Hoàng, P. Bến
Nghé, Q.1, TP. HCM
 Thời gian: 08:00 - 21:00
Phần Lễ: 08:00 - 11:00 (Hội trƣờng D)
Phần Hội: 11:00 - 21:00 (khuôn viên sân nhà B)

4


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

THÀNH PHẦN TỔ CHỨC HỘI THẢO
Ban Chỉ đạo:
1. PGS. TS Ngô Thị Phƣơng Lan - Hiệu trƣởng, Trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP.
HCM - Trƣởng ban
2. PGS. TS Lê Thanh Sang - Viện trƣởng, Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ - Đồng
Trƣởng ban
Ban Tổ chức:
1. PGS. TS Nguyễn Thị Hồng Xoan - Trƣởng khoa, Khoa Xã hội học, Trƣờng ĐH
KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM - Trƣởng ban
2. GS. TS Bùi Thế Cƣờng - Uỷ viên, Hội đồng biên tập Tạp chí Khoa học Xã hội TP.
HCM – Đồng Trƣởng ban
3. TS. Trần Anh Tiến - Trƣởng phòng, Phòng QLKH-DA, Trƣờng ĐH KHXH&NV,
ĐHQG TP. HCM - Thành viên
4. TS. Nguyễn Nữ Nguyệt Anh - Phó Trƣởng khoa, Khoa Xã hội học, Trƣờng ĐH
KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM - Thành viên
5. ThS. Phạm Thị Thùy Trang - Phó Trƣởng khoa, Khoa Xã hội học, Trƣờng ĐH
KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM - Thành viên

6. ThS. Cao Thanh Tâm - Khoa Xã hội học, Trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM Thành viên
Ban Biên tập:
1. PGS. TS Nguyễn Thị Hồng Xoan - Trƣởng khoa, Khoa Xã hội học, Trƣờng ĐH
KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM - Trƣởng ban;
2. GS. TS Bùi Thế Cƣờng - Uỷ viên, Hội đồng biên tập Tạp chí Khoa học Xã hội TP.
HCM - Đồng Trƣởng ban;
3. TS. Nguyễn Nữ Nguyệt Anh - Phó Trƣởng khoa, Khoa Xã hội học, Trƣờng ĐH
KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM - Thành viên;
4. ThS. Phạm Thị Thùy Trang - Phó Trƣởng khoa, Khoa Xã hội học, Trƣờng ĐH
KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM - Thành viên
5. ThS. Cao Thanh Tâm - Khoa Xã hội học, Trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM Thành viên
6. ThS. Trịnh Thị Nhài - Khoa Xã hội học, Trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM Thành viên
7. ThS. Ngô Trà My - Khoa Xã hội học, Trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM Thành viên

5


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

XÃ HỘI HỌC CÔNG CỘNG: MỘT HƢỚNG NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC HƠN LÀ
MỘT PHƢƠNG PHÁP, HAY TẬP HỢP CÁC LÝ THUYẾT
ThS. Tạ Xuân Hoài
Khoa Khoa học xã hội và Nhân văn, Trƣờng Đại học Tôn Đức Thắng
Email:
Tóm tắt: Bài viết này thảo luận về xã hội học công cộng, đây là một chương trình nghị sự
đã và đang được tranh luận chưa hoàn thành. Các nhà xã hội học cho rằng, để xã hội học
công cộng tồn tại như một chuyên ngành xã hội hội học, điều quan trọng cần phải làm rõ
tính khoa học của nó với các hình thức phù hợp khoa học, cố gắng vượt qua những lợi ích
của chính nó. Nội dung bài viết này dựa vào những công trình nghiên cứu của các nhà xã
hội học Mỹ - Hiệp hội Xã hội học Hoa Kỳ có nhiều đóng góp cho cuộc tranh luận công khai

thực sự về nội dung này – Những quan điểm về xã hội học công cộng của Ben Agger, Theda
Skocpol và Michael Burawoy được sử dụng nhằm để phân tích phù hợp với bản chất của tên
gọi “Xã hội học công cộng” - “Public Sociology”, cũng như sự cần thiết của hướng nghiên
cứu xã hội học công cộng là một hướng nghiên cứu xã hội học hơn là một phương pháp, hay
tập hợp các lý thuyết.
Từ khóa: xã hội học chuyên biệt, xã hội học phê phán, xã hội học chính sách và xã hội
học công cộng, công chúng.
1. Dẫn nhập
Trong thập niên trƣớc, các cuộc tranh luận về xã hội học công cộng đã đƣa ra những câu
hỏi liên quan đến việc bổ sung mục đích nghiên cứu của xã hội học. Xã hội học công cộng
đặt ra câu hỏi về xã hội học là gì và mục tiêu nghiên cứu cần có của nó là gì (1). Thực ra, các
cuộc tranh luận nhƣ vậy có một lịch sử lâu dài trong xã hội học Mỹ và trong khoa học xã hội
Mỹ nói chung. Chẳng hạn, nhà sử học Mark C. Smith đã điều tra các cuộc tranh luận trƣớc
đây về mục đích của khoa học xã hội trong cuốn sách khoa học xã hội của ông: “Social
Science in the Crucible: The American Debate over Objectivity and Purpose, 1918 - 1941”
(1994), trong khi Stephen P. Turner và Jonathan H. Turner tranh luận trong cuốn sách của
họ: “The Impossible Science: An Institutional Analysis of American Sociology” (1990), cho
rằng nghiên cứu xã hội học với mục đích thông qua sự phụ thuộc vào công chúng bên ngoài,
đã dẫn đến sự hạn chế tiềm năng xã hội học(2).
Những cuộc tranh luận về xã hội học công cộng đã và đang tạo ra những kết quả sâu sắc
đối với nghiên cứu, giảng dạy và làm xã hội học, đã bắt đầu với một vài thay đổi định hƣớng
lại chƣơng trình đào tạo để trong đó bao gồm các hƣớng nghiên cứu xã hội học công cộng,
cũng nhƣ làm rõ hơn vai trò của xã hội học trong đời sống công cộng, trong việc cung cấp
thông tin hữu ích, chính xác và khoa học nghiêm ngặt cho các nhà hoạch định chính sách và
các nhà lãnh đạo cộng đồng (Burawoy, 2005).
6


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”


Cho đến nay, chƣa có định nghĩa nào về xã hội học công cộng một cách thống nhất, mặc
dù thuật ngữ xã hội học công cộng - “public sociology” - lần đầu tiên đƣợc Herbert Gans
giới thiệu trong "Sociology in America: The Discipline and the Public” của ông tại Hiệp hội
Xã hội học Mỹ (American Sociological Association – ASA) vào năm 1988. Diễn văn này là
tập hợp các nghiên cứu của các nhà xã hội học công cộng, nhƣ nhà xã hội học David
Riesman, Robert Bellah. Đến năm 2000, nhà xã hội học Ben Agger cho xuất bản công trình
“Public Sociology: From Social Facts to Literary Acts”, đƣợc xem là công trình về xã hội
học công cộng đầu tiên và Ben Agger gọi xã hội học công cộng là xã hội học giải quyết các
vấn đề công cộng lớn của xã hội. Tuy nhiên, sau cuộc họp thƣờng niên của Hiệp hội Xã hội
học Hoa Kỳ (ASA) vào năm 2004, tại đó Michael Burawoy đã đƣa ra quan điểm về xã hội
học công cộng đƣợc giới thiệu trong bài diễn văn của ông, cung cấp một tóm tắt ngắn gọn về
thuật ngữ xã hội học công cộng.
"Phản ánh tâm thế của xã hội, xã hội học công cộng phải chỉ ra, thúc đẩy và thông báo
tranh luận công khai về sự bất bình đẳng và phân biệt chủng tộc, các chế độ giới tính
mới, suy thoái môi trường, trào lưu thị trường, bạo lực của chính phủ hoặc phi chính
phủ”(3).
M. Burawoy tin rằng thế giới cần xã hội học công cộng. M. Burawoy và những ngƣời ủng
hộ xã hội học công cộng khác khuyến khích xã hội học công cộng phấn đấu mang lại những
đối thoại giữa nhà xã hội học và các (loại) công chúng ngoài các viện, trƣờng đại học nghiên
cứu, một sự đối thoại mà trong đó cả hai bên có thể nâng cao sự hiểu biết của mình về những
vấn đề công cộng. Chúng bao gồm những cuộc tranh luận về chính sách công, hoạt động
chính trị, mục đích của phong trào xã hội và các thể chế của xã hội dân sự. Nếu xã hội học
công cộng đƣợc coi là "chuyển thể" trong ngành xã hội học, thì đó chính là mục tiêu khôi
phục lại nguyên tắc xã hội học bằng cách vận dụng các phƣơng pháp thực nghiệm và hiểu
biết lý thuyết để tìm ra những gì xã hội có thể đƣợc. Xã hội học công cộng có lẽ đƣợc hiểu
rõ nhất là một hƣớng nghiên cứu xã hội học hơn là một phƣơng pháp, hay tập hợp các lý
thuyết(4).
Theo M. Burawoy việc xác định và làm rõ sự khác biệt của bốn loại kiến thức xã hội học:
xã hội học chuyên nghiệp, xã hội học chính sách, xã hội học phê bình và xã hội học công
cộng sẽ phân biệt đƣợc xã hội học công cộng nhƣ là một hƣớng nghiên cứu của xã hội học,

nó rộng lớn hơn nhấn mạnh việc mở rộng thêm ranh giới chuyên ngành xã hội học.
2. Xã hội học công cộng trong nghiên cứu xã hội học
Công việc của các nhà xã hội học từ cổ điển đến đƣơng đại, thƣờng chia ra làm hai lĩnh
vực nghiên cứu: xã hội học ứng dụng và xã hội học hàn lâm.
Xã hội học ứng dụng hay còn đƣợc gọi là xã hội học thực hành, đã đề cập đến hoạt động
lao động của các nhà xã hội học can thiệp vào đối tƣợng nghiên cứu, bằng cách sử dụng kiến
thức xã hội học trong một môi trƣờng cụ thể. Các nhà xã hội học ứng dụng hoạt động trong
nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau, bao gồm các trƣờng đại học, chính phủ và các tổ chức
tƣ nhân. Xã hội học ứng dụng sử dụng lý thuyết xã hội và các phƣơng pháp nghiên cứu xã
7


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

hội với mục đích “tạo ra thay đổi xã hội tích cực thông qua can thiệp tích cực” (Bruhn, 1999,
1). Cụ thể hơn, xã hội học ứng dụng có thể đƣợc xem nhƣ là phần vận dụng của lý thuyết xã
hội học chuyển thể thành thực tiễn cho các đối tƣợng nghiên cứu của nó. Các nhà xã hội học
ứng dụng có vai trò mô tả cách thức sử dụng kiến thức xã hội học trong việc trả lời các câu
hỏi nghiên cứu, hoặc các vấn đề đƣợc xác định bởi các nhóm lợi ích cụ thể, chứ không phải
để trả lời các câu hỏi của các nhà nghiên cứu (Steele và Price, 2007, 4).
Nghiên cứu ứng dụng đôi khi đƣợc tiến hành trong một môi trƣờng đa lĩnh vực và phối
hợp với các tổ chức khác nhau, bao gồm các dịch vụ cộng đồng, các nhóm xã hội, các tổ
chức xã hội và đôi khi hợp tác với các trƣờng đại học. Xã hội học ứng dụng sử dụng kết quả
nghiên cứu của mình để giúp cộng đồng giải quyết các vấn đề hàng ngày. Chẳng hạn nhƣ cải
thiện trật tự cộng đồng và phòng chống tội phạm, mô tả thực trạng và cải thiện tình trạng ma
túy, đánh giá nhu cầu của các khu vực nông thôn – đô thị, phát triển năng lực của hệ thống
giáo dục, hoặc thúc đẩy sự phát triển tình trạng nhà ở, các nguồn lực liên quan đến mƣu sinh
và mô thức sống của cộng đồng.
Xã hội học hàn lâm khác với xã hội học ứng dụng, vì xã hội học hàn lâm trong đó các
nhà xã hội học làm việc trong môi trƣờng học tập nhƣ trƣờng đại học với giảng dạy và định

hƣớng nghiên cứu thuần túy. Mặc dù có một số nguồn gốc phổ biến, thực hành xã hội học
hoàn toàn khác biệt với công việc xã hội. Hiện nay, một số lƣợng ngày càng tăng của các
trƣờng đại học đang cố gắng để giảng dạy chƣơng trình đào tạo xã hội học thực tế theo cách
này. Các khóa học xã hội học hàn lâm cung cấp cho sinh viên những kỹ năng để có thể làm
việc hiệu quả với từng đối tƣợng nghiên cứu, cung cấp kiến thức hữu ích cho nghề nghiệp
nhƣ hỗ trợ nạn nhân và phục hồi ma túy và dạy học sinh cách tích hợp kiến thức xã hội với
các lĩnh vực khác mà họ có thể đi vào nhƣ liệu pháp hôn nhân và gia đình và các công việc
xã hội.
Nguyên tắc xã hội học là năng động và luôn thay đổi và có một lịch sử lâu dài về việc kết
hợp những hiểu biết về lý thuyết mới và phƣơng pháp thực nghiệm vào các phân tích các
hiện tƣợng nghiên cứu của nó(5). Thật vậy, xã hội học đã phát triển từ các quá trình nghiên
cứu thích ứng với vấn đề nghiên cứu về sự thống trị và phong trào lao động; các khái niệm
về lý thuyết phân tầng đã chuyển từ nghiên cứu về tính di động trong một hệ thống phân
tầng của uy tín nghề nghiệp, để xem xét việc thay đổi cấu trúc bất bình đẳng xã hội, chủng
tộc và giới tính; xã hội học chủng tộc đã chuyển từ các lý thuyết về đồng hóa, sang nền kinh
tế chính trị, để nghiên cứu về các chủng tộc; và lý thuyết xã hội đã đƣa ra những cách giải
thích căn bản về các hiện tƣợng xã hội trên đƣờng dẫn đến kiến thức xã hội hoàn toàn mở
hơn. Đáp ứng khoảng cách ngày càng tăng giữa các đặc điểm xã hội học và thế giới hiện
nay, đó cũng chính là thách thức của xã hội học công cộng nghiên cứu làm sao thu hút nhiều
công chúng bằng nhiều phƣơng cách, thƣờng với mục tiêu trao quyền cho công chúng bị
thiệt thòi (Burawoy, 2005). Bằng cách này, các nhà xã hội học Mỹ những năm gần đây đã và
đang làm cho xã hội học công cộng trở thành một hƣớng nghiên cứu có thể đƣợc công nhận
và hợp pháp. Theo đó, họ đã chỉ ra sự phân chia lao động xã hội học, trong đó xã hội học
8


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

công cộng là một phần của nghiên cứu xã hội học rộng lớn, bao gồm xã hội học chuyên biệt,
xã hội học phê phán, xã hội học chính sách và xã hội học công cộng.

Xã hội học chính sách
Đầu tiên cần phân biệt xã hội học công cộng từ xã hội học chính sách. Xã hội học chính
sách là hƣớng nghiên cứu cung cấp các giải pháp cho các vấn đề xã hội và mục tiêu thƣờng
đƣợc xác định bởi một đối tƣợng nghiên cứu, có thể là chính phủ hay các tổ chức xã hội. Xã
hội học chính sách cung cấp kiến thức, công cụ có thể đƣợc sử dụng để giải quyết hoặc giúp
đỡ một trƣờng hợp cụ thể trong lĩnh vực nghiên cứu của xã hội. Một số đối tƣợng nghiên
cứu đƣợc xác định là nhiệm vụ của các nhà xã hội học chính sách với mức độ cá nhân, tổ
chức..., bên cạnh đó cũng có thể là các đối tƣợng nghiên cứu khác ở cấp độ rộng lớn hơn,
nhƣ các chƣơng trình nghị sự, chính sách xã hội, tổ chức cộng đồng... Thƣờng xã hội học
chính sách tập trung nghiên cứu về các dịch vụ quan trọng đối với cộng đồng, nghèo đói,
phát triển cộng đồng hoặc có thể cung cấp một chƣơng trình nghiên cứu rộng hơn ở cấp độ
quốc gia, quốc tế. Thông tin thu thập đƣợc từ xã hội học chính sách mở ra cho một đối tƣợng
nghiên cứu khác ngoài học thuật. Nó không chỉ giới hạn trong ranh giới học thuật. Những
phát hiện của nghiên cứu xã hội học chính sách có thể ảnh hƣởng đến công chúng, vì chúng
có thể ảnh hƣởng đến chính sách của chính phủ, hay chính sách của một tổ chức xã hội.
Trong những năm gần đây, xã hội học chính sách đƣợc xem nhƣ là một phƣơng pháp nghiên
cứu phổ biến để phân tích các chính sách về giáo dục, kinh tế, chính trị… Chính công việc
nghiên cứu của các nhà xã hội học chính sách nhƣ vậy, nên đôi khi nó còn đƣợc gọi là “xã
hội học chính sách xã hội”.
Xã hội học công cộng
Ngƣợc lại, xã hội học công cộng, tham gia vào một mối quan hệ đối thoại giữa nhà xã hội
học và công chúng. Trong đó chƣơng trình nghị sự của mỗi đối tƣợng nghiên cứu đƣợc đƣa
vào thảo luận và bổ sung, hiệu chỉnh cho nhau. Các nghiên cứu của xã hội học công cộng,
chƣơng trình nghị sự đƣợc đƣa vào nghiên cứu thƣờng liên quan đến các giá trị hoặc mục
tiêu nghiên cứu đƣợc chia sẻ từ cả hai bên, để thông tin thảo luận có đi có lại. Đó là mục tiêu
của xã hội học công cộng, phấn đấu mang lại những đối thoại giữa nhà xã hội học và các
(loại) công chúng ngoài các viện, trƣờng đại học nghiên cứu; một đối thoại mà trong đó cả
hai bên có thể nâng cao sự hiểu biết của mình về những vấn đề công cộng. Chúng bao gồm
những cuộc tranh luận về chính sách công, hoạt động chính trị, mục đích của phong trào xã
hội và các thể chế của xã hội dân sự.

Các phƣơng pháp tiếp cận xã hội học công cộng và xã hội học chính sách không loại trừ
lẫn nhau và thậm chí không đối kháng nhau, chúng thƣờng bổ sung cho nhau trong quá trình
nghiên cứu. Đặc biệt là khi chính sách thất bại, xã hội học chính sách có thể trở thành xã hội
học công cộng (Burawoy, 2005). Sự khác biệt giữa xã hội học công cộng và xã hội học
chính sách thƣờng khó có thể phân định rạch ròi, nhƣ việc xã hội học công cộng có thể đồng
thời phục vụ khách hàng và tạo ra cuộc tranh luận công khai.

9


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

Xã hội học chuyên biệt
Xã hội học chuyên biệt cung cấp các phƣơng pháp nghiên cứu và thử nghiệm, các chuyên
ngành hẹp, bằng cách phân tích và tích lũy kiến thức, đƣa ra những câu hỏi định hƣớng cũng
nhƣ khung khái niệm trong nghiên cứu các vấn đề xã hội trong từng lĩnh vực cụ thể. Xã hội
học chuyên biệt quan trọng nhất là bao gồm rất nhiều chƣơng trình nghiên cứu giao thoa
nhau, mỗi chƣơng trình có các giả định khác nhau. Từ việc thao tác hóa bộ khái niệm, xác
định bộ câu hỏi và vận dụng lý thuyết nghiên cứu, nhƣ các lý thuyết chuyên ngành về xã hội
học tổ chức, xã hội học chính trị, xã hội học văn hóa, xã hội học gia đình, xã hội học kinh tế,
xã hội học đô thị… Trong các lĩnh vực nghiên cứu cụ thể này, còn có các lý thuyết chuyên
sâu hơn, lý giải các sự kiện hiện tƣợng nghiên cứu của nó rõ hơn. Xã hội học chuyên biệt là
một dạng xã hội học có liên quan chủ yếu với việc nghiên cứu của các nhà xã hội học hàn
lâm khác.
Xã hội học phê phán
Xã hội học phê phán là một hƣớng nghiên cứu về xã hội học, nhằm để kiểm tra tri thức
của các chƣơng trình nghiên cứu xã hội học chuyên biệt. Một vài nghiên cứu về xã hội học
phê phán nhƣ: Công trình nghiên cứu xã hội học chuyên biệt của Alvin Gouldner (1970) đã
sử dụng lý thuyết cấu trúc chức năng để nghiên cứu cho các giả định của ông về một xã hội
đồng thuận không phù hợp với các cuộc xung đột leo thang của những năm 1960. Lý thuyết

Nữ quyền đƣợc cho là lý thuyết kỳ quặc đã kéo theo các nhà xã hội học chuyên biệt xem xét
nguyên nhân sâu xa và sự phổ biến của giới tính, tình dục và chủng tộc đàn áp. Trong mỗi
trƣờng hợp xã hội học phê phán cố gắng để làm cho xã hội học chuyên biệt nhận thức đƣợc
các thành kiến, thúc đẩy các chƣơng trình nghiên cứu mới đƣợc xây dựng trên nền tảng thay
thế. Kiến thức xã hội học phê phán thẩm định lại các cơ sở giá trị của xã hội cũng nhƣ nghề
nghiệp của xã hội học và xã hội học phê phán cũng chính là lƣơng tâm của các nhà xã hội
học chuyên biệt (Burawoy, 2005).
Các nhà xã hội học thế giới nói chung và các nhà xã hội học Mỹ nói riêng vẫn tiếp tục tạo
sự tranh luận trong việc phân loại nghiên cứu xã hội học trên thế giới hiện nay, thay vì tiếp
tục dành cho các cuộc tranh luận về kỹ thuật nghiên cứu định lƣợng và kỹ thuật nghiên cứu
định tính, phƣơng pháp luận quy nạp và phƣơng pháp luận diễn giải, xã hội học vĩ mô và xã
hội học vi mô bằng cách tập trung hai câu hỏi: Vì sao chúng ta theo đuổi xã hội học? Các
luận điểm còn lại cố gắng biện minh và mở rộng hệ thống phân loại xã hội học này thế
nào?(6)
3. Xã hội học công hay Xã hội học công cộng?
Để hiểu rõ khái niệm “public” trong khái niệm “public sociology”, chúng ta cần phải tìm
hiểu rõ mục tiêu của xã hội học công cộng khi các nhà xã hội học tuyên bố về nó. Theo M.
Burawoy, “những lý do cho sự hấp dẫn của xã hội học ngày nay, là tính đa dạng và mối quan
hệ của xã hội học trong nguyên tắc chung, nhƣng có sự chuyển thể trong phân công lao động
xã hội học”. Việc xem xét mối quan hệ hỗ tƣơng của việc phân chia các hƣớng nghiên cứu
xã hội học – chuyên biệt, phê phán, chính sách, công cộng, cũng nhƣ so sánh xã hội học với
10


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

các ngành khoa học xã hội khác, sẽ làm xã hội học trở nên đặc biệt, không chỉ là khoa học
mà còn là một lực lƣợng đạo đức và công cộng. Đây là lời hứa và thách thức của xã hội học
công cộng, cũng chính là sự bổ sung nguyên tắc xã hội học, chứ không phải là sự phủ nhận
vai trò của xã hội học chuyên biệt.

M. Burawoy cho rằng, nhiệm vụ của các nhà xã hội học bấy lâu nay đã trở nên nhạy cảm
hơn, tập trung hơn vào tiêu cực, nhƣng bằng chứng mà các nhà xã hội học đã tìm ra đƣợc
không gợi ý hồi quy trong rất nhiều môi trƣờng xã hội khác nhau – khu vực, quốc gia, thế
giới. Và tất nhiên, các nhà xã hội học bị chi phối rất nhiều trong đặc tính của nó bởi một thể
chế xã hội cụ thể thù địch với chính ý tƣởng của “xã hội”.
Do vậy, xã hội học công cộng có nhiệm vụ "phản ánh tâm thế của xã hội” nhƣ là một
phần của đời sống xã hội học của chúng ta. Xã hội học công cộng phấn đấu mang lại những
đối thoại giữa nhà xã hội học và các (loại) công chúng ngoài các viện, trƣờng đại học nghiên
cứu, một sự đối thoại mà trong đó cả hai bên có thể nâng cao sự hiểu biết của mình về những
vấn đề công cộng. Chúng bao gồm những cuộc tranh luận về chính sách công, hoạt động
chính trị, mục đích của phong trào xã hội và các thể chế của xã hội dân sự (Burawoy, 2005).
Xã hội dân sự đƣợc hiểu nhƣ là các hiệp hội, phong trào và công chúng ở bên ngoài nhà
nƣớc và nền kinh tế, nhƣ: các đảng phái chính trị, công đoàn, trƣờng học, cộng đồng đức tin,
phƣơng tiện truyền thông in ấn, tổ chức tự nguyện và tổ chức nhân quyền(7). Xã hội học liên
kết với xã hội dân sự, đó là nhiệm vụ xã hội học công cộng, nó đại diện cho lợi ích của nhân
loại, loại trừ hoặc giảm thiểu lợi ích của chủ nghĩa độc tài nhà nƣớc và thị trƣờng. Điều này
đã thể hiện đầy đủ nghĩa “công cộng” của khái niệm “public” trong khái niệm “public
sociology” – Xã hội học công cộng.
Nghĩa thứ hai của khái niệm “public” trong khái niệm “public sociology” là nghĩa “công
chúng”. Xã hội học công cộng đƣa xã hội học vào một cuộc trò chuyện với công chúng,
đƣợc hiểu là những ngƣời tự tham gia vào cuộc trò chuyện trong quá trình nghiên cứu của
các nhà xã hội học (Burawoy, 2005). Chúng ta không nên nghĩ về công chúng nhƣ cố định,
nhƣng trong quá trình nghiên cứu các nhà xã hội học có thể tham gia vào sáng tạo của công
chúng, cũng nhƣ nắm bắt diễn tiến của công chúng. Thật vậy, một phần nghiên cứu của các
nhà xã hội học cụ thể là định nghĩa các dạng (loại) ngƣời - những ngƣời bị AIDS, phụ nữ,
phụ nữ bị ung thƣ, ngƣời đồng tính, tội phạm thanh thiếu niên… - và nếu các nhà xã hội học
làm đƣợc nhƣ vậy với sự cộng tác của công chúng, là đồng nghĩa với việc xã hội học sẽ tạo
ra công chúng, mặc dù họ có thể không thực sự tham gia vào. Ví nhƣ, ngƣời phụ nữ đã trở
thành cơ sở của công chúng, nghĩa là những phụ nữ đƣợc định nghĩa sẽ không bị gạt ra ngoài
và không bị im lặng. Với sự trợ giúp của xã hội học chuyên biệt, các nhà xã hội học công

cộng sẽ nhìn nhận các vấn đề riêng tƣ của công chúng thành các vấn đề công cộng, bằng
cách các nhà xã hội học công cộng tham gia vào cuộc sống của công chúng. Từ quan điểm
này đã cho thấy, sự đa dạng của công chúng, rõ ràng rằng xã hội học công cộng cần phát
triển một “xã hội học của công chúng”.

11


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

Trƣớc đó, Theda Skocpol (2003) đã khuyến cáo rằng, công chúng đang biến mất - bị phá
hủy bởi thị trƣờng, bị xâm chiếm bởi các phƣơng tiện truyền thông hoặc bị cản trở bởi bộ
máy quan liêu của nhà nƣớc. Tuy nhiên, chính sự tồn tại của một xã hội học công cộng rộng
lớn, cho thấy không có sự thiếu hụt công chúng nếu chúng ta quan tâm đến việc tìm kiếm
công chúng. Và các nhà xã hội học công cộng phải sử dụng rất nhiều phƣơng pháp để tìm
hiểu về việc thu hút công chúng tham gia vào nghiên cứu của họ.
Xã hội học ngoài việc tạo ra các công chúng khác nhau cho nghiên cứu của chính mình,
các nhà xã hội học còn có thể cấu thành chính mình nhƣ một công chúng hoạt động trong
lĩnh vực nghiên cứu. M. Burawoy chứng minh rằng, “có một công chúng sẽ không biến mất
trƣớc khi chúng ta làm xã hội học công cộng, đó là sinh viên của chúng ta. Mỗi năm chúng
tôi tạo ra khoảng 25.000 BA mới, những ngƣời có chuyên ngành xã hội học. Có ý nghĩa gì
khi nghĩ họ là một công chúng tiềm năng? Sinh viên sẽ trở thành đại sứ xã hội học cho thế
giới bên ngoài rộng lớn hơn khi họ trở lại lớp học, với sự tham gia của họ với vai trò nhiều
(loại) công chúng khác nhau. Chúng tôi là tất cả các nhà xã hội học công cộng tiềm năng.”
(Burawoy, 2005).
Tuy nhiên, các nhà xã hội học công cộng cần phân biệt giữa các (loại) công chúng khác
nhau, nhƣ việc làm nhƣ thế nào để hai bên công chúng học thuật và công chúng ngoài học
thuật đƣợc đƣa vào đối thoại? Đó là một câu hỏi mở và rất khó cho các nhà xã hội học công
cộng trả lời. Do vậy, các nhà xã hội học công cộng cần thông qua đối thoại mở, thông qua sự
tham gia tự do và bình đẳng cho công chúng, thông qua tính dân chủ nội tại của mỗi tổ chức,

xã hội cụ thể. Sự đa dạng của xã hội học công cộng phản ánh không chỉ các công chúng
khác nhau mà là các cam kết giá trị khác nhau về một phần của nguyên tắc xã hội học. Xã
hội học công cộng không có giá trị quy tắc nội tại, ngoài cam kết đối thoại công chúng về
các vấn đề công cộng đƣợc nêu lên bởi xã hội học.
Nhƣ vậy cho thấy, khái niệm “public sociology” không thể đƣợc hiểu và dùng với nghĩa
“xã hội học công” hoặc “xã hội học công chúng”. Vì nhƣ thế rất dễ ngộ nhận xã hội học
nghiên cứu về các chính sách công, về chính sách nhà nƣớc, các vấn đề mang tầm chiến lƣợc
của chính sách xã hội, hoặc nghiên cứu về công chúng. Do vậy, để hiểu rõ hơn vai trò,
nhiệm vụ và hƣớng nghiên cứu của chuyên ngành xã hội học mới này đúng bản chất với “cái
tên” của nó đã đƣợc phân tích ở trên, cần phải đƣợc gọi tên thể hiện đầy đủ bản chất của nó
là Xã hội học cộng cộng.
4. Thay lời kết
Khoa học xã hội không phải là một lĩnh vực nghiên cứu chung của các ngành, mặc dù xu
hƣớng nghiên cứu liên ngành ngày càng có giá trị và mở rộng. Bởi vì mỗi ngành có nhiệm
vụ và vai trò nghiên cứu đặc thù khác nhau và cả lợi ích cũng khác nhau. Nếu nhƣ quan
điểm của khoa học kinh tế là thị trƣờng và sự mở rộng của nó, quan điểm của khoa học
chính trị là trạng thái và sự bảo đảm ổn định chính trị, thì quan điểm xã hội học là xã hội dân
sự và bảo vệ xã hội. Trong giới thiệu về xã hội học công cộng của Michael Burawoy,
“nhiệm vụ xã hội học công cộng là tăng cƣờng các thể chế xã hội dân sự chống lại sự lấn
12


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

chiếm của nhà nƣớc và thị trƣờng”, đã giúp xã hội học có thể đƣợc kết nối với xã hội bằng
cách nghiên cứu xã hội dân sự. Trong đó, xã hội học công cộng đang có xu hƣớng làm thay
đổi đối với cái nhìn và nhiệm vụ của xã hội học, từ đó chính các nhà xã hội học đã điều
chỉnh những thay đổi cho phù hợp với việc dạy học và làm xã hội học trong bối cảnh xã hội
hiện nay.
Từ những phân tích trên cho thấy, chúng ta cần hiểu và gọi đúng tên Xã hội học công

cộng, sẽ giúp cho chúng ta định hƣớng lại chƣơng trình đào tạo phù hợp, triển khai các công
trình nghiên cứu khả thi với đối tƣợng nghiên cứu của xã hội học, bao gồm cả các kiến thức
xã hội học (xã hội học chuyên biệt, xã hội học phê phán, xã hội học chính sách hay xã hội
học công cộng). Thật vậy, với rất nhiều chƣơng trình kết hợp lý tƣởng của xã hội học công
cộng vào chƣơng trình giảng dạy cho sinh viên, điều này sẽ giúp khả năng đào tạo hiệu quả
đáng kể cho cách các nhà xã hội học tƣơng lai đƣợc đào tạo để làm xã hội học.
Chú thích
(1)
Nguyên văn Tiếng Anh: “Debates over public sociology have rekindled questions
concerning the extra-academic purpose of sociology. Public sociology raises questions about
what sociology is and what its goals ought to (or even could) be”.
( 2018)
(2)
Nguyên văn Tiếng Anh: “Historian Mark C. Smith, for instance, has investigated
earlier debates over the purpose of social science in his book Social Science in the Crucible:
The American Debate over Objectivity and Purpose,1918-1941 (1994), while Stephen P.
Turner and Jonathan H. Turner argue in their book, The Impossible Science: An Institutional
Analysis of American Sociology (1990), that sociology's search for purpose, through
dependence on external publics, has limited the discipline's potential”.
( 2018).
(3)
Nguyên văn Tiếng Anh: “As mirror and conscience of society, sociology must define,
promote and inform public debate about deepening class and racial inequalities, new gender
regimes, environmental degradation, market fundamentalism, state and nonstate violence”,
(Michael Burawoy. 2005).
(4)
Nguyên văn Tiếng Anh: “Public sociology is a subfield of the wider sociological
discipline that emphasizes expanding the disciplinary boundaries of sociology in order to
engage with non-academic audiences. It is perhaps best understood as a style of sociology
rather than a particular method, theory”. (Michael Burawoy. 2005).

(5)
Nguyên văn Tiếng Anh: “The sociological discipline is dynamic and ever changing,
and has a long history of incorporating new theoretical and empirical insights into its
analyses,
often
with
the
goal
of
empowering
marginalized
publics”.
( 2018).
(6)
Nguyên văn Tiếng Anh: “displacing debates about quantitative and qualitative
techniques, positivist and interpretive methodologies, micro and macro sociology by

13


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

centering two questions: for whom and for what do we pursue sociology? The remaining
theses attempt to justify and expand this classification system”. (Michael Burawoy. 2005).
(7)
Nguyên văn Tiếng Anh: “… movements and publics that were outside both state and
economy, political parties, trade unions, schooling, communities of faith, print media and a
variety of voluntary organizations”. (Michael Burawoy. 2005).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. J. G. Bruhn. (1999). “Introductory Statement: Philosophy and Future

Direction”. Sociological Practice, Số 1(1): từ 1 - 2.
2. M. Burawoy. (2005). “2004 ASA Presidential Address For Public Sociology”.
American Sociological Review, Số 70, từ 4 - 28/02.
3. M. Burawoy, W. Gamson, C. Ryan, S. Pfohl, D. Vaughan, C. Derber, J. Schor. “Public
Sociologies: A Symposium from Boston College”. Social Problems, Số 51 (1), trang 103–
130. ISSN: 0037-7791.
4. J. Gans. (1989). "Sociology in America: The Discipline and the Public American
Sociological Association, 1988 Presidential Address". American Sociological Review, Số 54,
từ 1 – 16.
5. S. F. Steele and J. Price. (2007). “Applied Sociology: Terms, Topics, Tools And Tasks,
2nd ed”. Belmont: Thomson Wadsworth Publishing.
6. Straus, Roger A, Jammie, Straus, Roger và Breese, Jeffrey. (2009). “In Doing
Sociology. Case Studies in Sociological Practice”. Rowman & Littlefield, ISBN 978-07391-3395-8.
7. University of California. (2016). “Public Sociology”. University of California Press,
2016-04-15

14


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC TRONG KHU VỰC NHÀ NƢỚC: PHÁC THẢO VỀ
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐẶT RA TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
PGS. TS Nguyễn Đức Chiện
Viện Xã hội học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Email:
Tóm tắt: Dựa vào nguồn tài liệu thứ cấp và quan sát thu thập được, bài viết tổng quan sơ
lược chặng đường phát triển của nền xã hội học trong khu vực nhà nước ở Việt Nam suốt
hơn bốn thập kỷ qua; phân tích chỉ ra một số thành công, cơ hội và thách thức đặt ra trong
hoạt động nghiên cứu và đào tạo lĩnh vực xã hội học ở Việt Nam hiện nay. Dựa vào bằng

chứng thu thập được và kết quả phân tích, bài viết đưa ra một số bàn luận và khuyến nghị
nhằm cải thiện, nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học, góp phần vào phát
triển bền vững và thịnh vượng của nền xã hội học Việt Nam trong bối cảnh xã hội chuyển
đổi và hội nhập quốc tế.
Từ khóa: phát triển xã hội học, khu vực Nhà nước, cơ hội, thách thức
1. Đặt vấn đề
Xã hội học là một chuyên ngành khoa học xã hội đƣợc hình thành từ những biến đổi sâu
sắc về chính trị, kinh tế, xã hội, khoa học ở các nƣớc Tây Âu vào nửa sau thế kỷ XIX (Tony
Bilton và các tác giả khác, 1993:19). Ngay từ ban đầu, các nhà xã hội học tiền bối đã nỗ lực
vận dụng những thành tựu phƣơng pháp nghiên cứu trong khoa học tự nhiên để nghiên cứu
các vấn đề xã hội mới nảy sinh, đƣa ra cách lý giải thuyết phục về các hiện tƣợng, sự kiện xã
hội, tính quy luật và mối quan hệ nhân quả của nó trong đời sống xã hội ở các quốc gia
phƣơng Tây. Với góc nhìn khoa học mới giúp xã hội học giải thích thấu đáo các vấn đề xã
hội nảy sinh trong đời sống xã hội. Mặc dù là chuyên ngành ra đời muộn nhƣng với tính sát
thực và hiệu quả, xã hội học nhanh chóng trƣởng thành cuốn hút quan tâm của toàn xã hội.
Nhƣ lời Peter Berger - một học giả có uy tín trong giới xã hội học quốc tế đã nhận xét về
tính ƣu trội của ngành khoa học này “Sức quyền rũ của xã hội học là ở chỗ cách nhìn (giải
thích vấn đề) của nó giúp ta phát hiện ra dƣới ánh sáng mới chính thế giới mà chúng ta sống
suốt đời (...) sự thông thái của xã hội học chính là ở chỗ các sự vật không đúng nhƣ vẻ ngoài
của chúng” (Tony Bilton và các tác giả khác, 1993:21).
Ở Việt Nam, chính thức xã hội học du nhập muộn hơn so với các ngành khoa học xã hội
khác. Ngƣợc dòng thời gian, qua các tƣ liệu cho thấy từ thập niên đầu đến thập niên 60 của
thế kỷ XX Xã hội học thế giới đã phát triển mạnh mẽ ở một số quốc gia châu Âu, Châu Mỹ,
nhƣng Xã hội học Việt Nam vẫn chƣa đƣợc xác lập một cách chính thức. Phải đến những
năm cuối của thập niên 70 (thế kỷ XX) trƣớc yêu cầu cấp bách của xã hội và những nỗ lực
chung của xã hội, đặc biệt là các nhà khoa học xã hội, Xã hội học Việt Nam chính thức định
hình với tính chất là một tổ chức nghiên cứu. Năm 1977, Ban Xã hội học đƣợc thành lập
15



HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

thuộc Viện Khoa học xã hội (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) với lực lƣợng
nghiên cứu rất mỏng (10 cán bộ), chủ yếu từ các chuyên ngành khoa học khác chuyển sang,
nhƣ Triết học, Toán, Văn học, Sử học, Kinh tế chính trị. Sự ra đời Ban Xã hội học đánh dấu
một mốc quan trọng trong việc định hình và phát triển của bộ môn khoa học này.
Cuối năm 1983, Hội đồng Bộ trƣởng (nay là Chính phủ) đã ký Quyết định thành lập Viện
Xã hội học trên cơ sở Ban Xã hội học. Quyết định này có ý nghĩa quan trọng đối với những
ngƣời làm nghiên cứu Xã hội học. Bộ máy lãnh đạo, cơ cấu phòng và lực lƣợng nghiên cứu
đƣợc bổ sung sau khi thành lập viện. Do ở Việt Nam lúc đó chƣa có cơ sở đào tạo xã hội học
nên Viện Xã hội học tuyển chọn các sinh viên tốt nghiệp đại học, nhà nghiên cứu từ các
ngành khoa học tự nhiên và nhân văn vào làm công tác nghiên cứu. Đây cũng là một khó
khăn đặt lên vai lãnh đạo và các cán bộ nghiên cứu khi phải bắt đầu làm quen với ngành
khoa học mới mẻ này. Đầu thập niên 90 (thế kỷ XX), trƣớc nhu cầu cấp bách của xã hội
trong thời kỳ Đổi mới, Chính phủ đã quyết định thành lập nhiều cơ sở đào tạo chuyên ngành
xã hội học bậc đại học và sau đại học ở viện và trƣờng đại học khu vực nhà nƣớc1 (Cơ sở
đào tạo Sau đại học thuộc Viện Xã hội học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; Khoa
Tâm lý học - Xã hội học ở Đại học Tổng hợp Hà Nội, Khoa Xã hội học ở Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh, Cơ sở đào tạo Sau đại học thuộc Viện Xã hội học, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Khoa Xã hội học ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền; Khoa Xã
hội học ở Đại học Công đoàn, v.v…). Có thể nói, giai đoạn này đánh dấu sự mở rộng và lớn
mạnh của nền xã hội học Việt Nam với sự ra đời hàng loạt cơ sở nghiên cứu và đào tạo xã
hội học chuyên nghiệp, chủ yếu là trong các trƣờng đại học và các viện nghiên cứu ở Hà Nội
và Thành phố Hồ Chí Minh, việc ra đời các cơ sở này đã đóng góp thiết thực vào công tác
đào tạo các thế hệ sinh viên, học viên có kiến thức chuyên môn sâu về chuyên ngành xã hội
học ở Việt Nam2.
Trải qua hơn 40 năm xây dựng và phát triển, từng bƣớc khắc phục khó khăn, vừa làm vừa
học, các thế hệ tiền bối “thế hệ vàng3” đã không ngừng phấn đấu cho sự lớn mạnh của nền
xã hội học Việt Nam. Kết quả, xã hội học ở Việt Nam đã có nhiều nhà khoa học đầu ngành
về lĩnh vực lý thuyết xã hội học và chuyên ngành, nhƣ: Xã hội học An sinh xã hội, Xã hội

học Đô thị, Xã hội học Nông thôn, Xã hội học Gia đình, Xã hội học Dân số, Xã hội học Văn
hóa, Xã hội học Dƣ luận xã hội và Truyền thông đại chúng, Xã hội học Quản lý, Xã hội học
Tôn giáo, Xã hội học Giới, v.v… Các nhà khoa học đầu đàn của xã hội học đã và đang có
đóng góp quan trọng vào công tác giảng dạy và nghiên cứu đề tài/ dự án trong nƣớc và quốc
tế. Thực tế hoạt động nghiên cứu xã hội học trong thời gian qua đƣợc phát triển không
1

Xã hội học khu vực nhà nƣớc đƣợc hiểu là các cơ sở nghiên cứu và đào tạo xã hội học thuộc nhà nƣớc, do (chính phủ
hoặc địa phƣơng) đầu tƣ về kinh phí và cơ sở vật chất (đất đai, nhà cửa) và hoạt động chủ yếu bằng kinh phí từ các
nguồn tài chính công.
2
Giới hạn xã hội học khu vực nhà nƣớc trong bài viết này quan tâm đến công tác đào tạo và nghiên cứu xã hội học ở các
trƣờng đại học và viện nghiên cứu của nhà nƣớc. Bài viết không bàn về “Xã hội học công” hay “Xã hội học công cộng”.
3
GS. TS Bùi Thế Cƣờng, Nguyên Viện trƣởng Viện KHXH vùng Nam Bộ đề cập cụm từ này trong bài viết “Có hay
không một thế hệ vàng của Viện Xã hội”, đƣợc in trong Kỷ yếu Viện Xã hội học 40 năm phát triển và hội nhập (19772017). Nxb KHXH 2017.

16


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

ngừng với số lƣợng đề tài, dự án ở các cấp độ trong nƣớc và quốc tế gia tăng. Công tác đào
tạo cũng có sự phát triển nở rộ theo chiều rộng. Mỗi năm, các cơ sở đào tạo xã hội học đã
cung cấp một lực lƣợng nhân lực hùng hậu với hàng nghìn sinh viên, hàng trăm học viên cao
học và nghiên cứu sinh ngành xã hội học. Thông qua các dự án nghiên cứu và chƣơng trình
giảng dạy, các cán bộ đã xuất bản hàng trăm đầu sách và hàng nghìn bài báo, công trình
nghiên cứu khoa học; đề tài cấp Nhà nƣớc, cấp Bộ, dự án quốc tế đạt kết quả nhất định, đƣợc
ứng dụng vào công tác giảng dạy và hoạch định chính sách phát triển ở nƣớc ta. Có thể nói,
cở sở xã hội học khu vực nhà nƣớc đã và đang có đóng góp quan trọng trong việc cung cấp

nguồn nhân lực cho công cuộc đổi mới, phát triển đất nƣớc.
Tuy nhiên, nhìn lại chặng đƣờng phát triển của nền xã hội học ở Việt Nam, các cơ sở đào
tạo và nghiên cứu thuộc khu vực nhà nƣớc trong thời gian qua cũng không tránh khỏi hạn
chế; cơ hội và thách thức mới4 vẫn đang tiếp diễn đối với quá trình phát triển nền xã hội học
nƣớc ta, đặt ra nhiều câu hỏi cần nghiên cứu trả lời, nhƣ: trong hơn 40 năm qua các cơ sở xã
hội học khu vực nhà nƣớc đã đạt đƣợc những thành tựu gì trong bức tranh phát triển xã hội
học khu vực và thế giới? Cơ hội, bất cập và thách thức nào đang tiếp tục đặt ra đối với sự
phát triển nền xã hội học Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế? Dựa vào nguồn tài liệu
thứ cấp và quan sát của tác giả thu thập đƣợc, bài viết tổng quan phác thảo sơ lƣợc chặng
đƣờng phát triển của nền xã hội học ở Việt Nam trong suốt hơn bốn thập kỷ qua; phân tích
chỉ ra một số thành công, cơ hội và thách thức trong hoạt động nghiên cứu và đào tạo lĩnh
vực xã hội học ở Việt Nam thời gian qua; bài viết cũng đƣa ra một số bàn luận và khuyến
nghị giải pháp nhằm cải thiện nâng cao chất lƣợng đào tạo và nghiên cứu khoa học, góp
phần vào quá trình phát triển và sự thịnh vƣợng của nền xã hội học ở nƣớc ta trong bối cảnh
xã hội Việt Nam chuyển đổi và hội nhập quốc tế5.
2. Cơ hội, thách thức trong đào tạo và nghiên cứu khoa học ở các cơ sở xã hội học
khu vực nhà nƣớc
Cơ hội và thách thức trong hoạt động đào tạo xã hội học
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nƣớc ta rất chú trọng đến công tác đào tạo nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng giảng dạy, nghiên cứu cho cán bộ ở các viện nghiên
cứu chuyên ngành và các cơ sở đào tạo. Đào tạo nƣớc ngoài với các đề án nhƣ: Đề án 322,
Đề án 911, Đề án 165, và các đề án khác đƣợc ra đời nhằm tạo cơ hội cho các cán bộ giảng
dạy và nghiên cứu trẻ tham gia học tập nâng cao trình độ chuyên môn. Bên cạnh đó, bằng
các mối quan hệ độc lập, các viện và trƣờng cũng có nhiều chƣơng trình hợp tác song

4

Phát triển xã hội học trong khu vực nhà nƣớc ở bài viết này muốn nói đến sự đời và phát triển các cơ sở nghiên cứu và
giảng dạy xã hội học ở Việt Nam; số lƣợng các đề tài/ dự án nghiên cứu; số lƣợng ngƣời tốt nghiệp các bậc cử nhân,
thạc sĩ, tiến sĩ chuyên ngành xã hội học. Còn thuật ngữ cơ hội trong phát triển xã hội học khu vực nhà nƣớc ở Việt Nam

đƣợc bài này đề cập đến những cơ hội tham gia đào tạo, tham gia các đề tài nghiên cứu; thách thức là những khó khăn
trong công tác đào tạo và nghiên cứu mà các cơ sở này đang phải đối diện, thách thức này có thề cản trở tiến trình phát
triển và hội nhập xã hội học Việt Nam.
5
Hạn chế nguồn dữ liệu bài viết quan tâm phân tích mang tính định tính về cơ hội và thách thức trong phát triển xã hội
học khu vực nhà nƣớc ở các viện nghiên cứu và trƣờng đào tạo chuyên ngành xã hội học.

17


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

phƣơng với các viện, trƣờng đại học nƣớc ngoài, trong đó có các học bổng ngắn và dài hạn
cho cán bộ trẻ tham gia các khóa đào tạo ngắn hạn, thạc sĩ, tiến sĩ, sau tiến sĩ.
Công tác đào tạo chuyên ngành xã hội học ở trong nƣớc cũng đƣợc phát triển nở rộ với
việc Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo ký quyết định thành lập nhiều cơ sở đào tạo xã hội
học, có chức năng giảng dạy và cấp bằng cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ xã hội học. Có thể nói, cơ
chế và môi trƣờng đào tạo đang tạo nhiều cơ hội tốt cho cán bộ, ngƣời học nâng cao trình độ
kiến thức và hiểu biết về tri thức xã hội học, nhằm nhanh chóng phát triển ngành xã hội học
và đóng góp thiết thực vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.
Tuy nhiên, những bất cập và thách thức trong hoạt động đào tạo ở các viện nghiên cứu và
các trƣờng đại học ở nƣớc ta vẫn đang tiếp tục đặt ra đối với ngành xã hội học; chẳng hạn
nhƣ tình trạng cán bộ không nỗ lực quyết tâm tham gia khai thác các cơ hội đào tạo trong và
ngoài nƣớc để nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiên cứu, kỹ năng tin học, ngoại
ngữ và điều này có thể dẫn đến nguy cơ tụt hậu về chuyên môn xã hội học của thế hệ trẻ so
với thế hệ trƣớc; tình trạng cán bộ đƣợc cử đi đào tạo trong và ngoài nƣớc nhƣng khi hoàn
thành khóa học không về nƣớc hoặc trở về thì xin chuyển ra bên ngoài làm việc cho các tổ
chức NGO, tổ chức quốc tế. Đây cũng đƣợc xem là vấn đề chảy máu chất xám diễn ra ở các
cơ sở nghiên cứu và đào tạo xã hội học khu vực nhà nƣớc.
Liên quan đến tình hình đào tạo ở các cơ sở xã hội học khu vực nhà nƣớc, một số bất cập

và thách thức đang đặt ra hiện nay là chất lƣợng đào tạo không đƣợc nhƣ mong muốn. Tình
trạng sinh viên, học viên sau đại học ít hứng thú với bài giảng, thiếu tích cực trong việc tra
cứu đọc các tài liệu trong và ngoài nƣớc có liên quan đến môn học, số môn học và chƣơng
trình đạo tạo môn học chƣa hợp lý, v.v... Thực tế này phần nào ảnh hƣởng đến kiến thức
chuyên ngành của ngƣời học bị thiếu hút nghiêm trọng. Hệ quả này tất yếu dẫn đến sinh
viên, học viên sau đại học lúng túng, gặp khó khăn trong thiết kế đề cƣơng nghiên cứu, triển
khai điền dã thu thập thông tin, xử lý số liệu và viết khóa luận, luận văn, luận án tốt nghiệp.
Cũng liên quan đến bất cập về chất lƣợng đào tạo hiện nay là ngƣời học tốt nghiệp về công
tác tại viện, trƣờng hay cơ quan bên ngoài gặp nhiều khó khăn với công việc đƣợc giao.
Thực tế nhiều sinh viên khi tốt nghiệp đại học ra trƣờng về một đơn vị công tác đều cho biết
những điều họ học trong trƣờng khác nhiều với thực tế, nhất là đối với cơ quan nghiên cứu.
Khi mới vào nghề, hầu hết họ đều thiếu hiểu biết về quy trình nghiên cứu và kỹ năng cần
thiết để triển khai một nghiên cứu. Bên cạnh đó, vẫn còn hạn chế về trình độ công nghệ
thông tin, khả năng ngoại ngữ, kỹ năng mềm, v.v.. phần nào dẫn khó khăn khi tham gia hoạt
động nghiên cứu. Một bất cập nữa là tình trạng ngƣời học xã hội học khi ra trƣờng khó xin
việc, hiện tƣợng không ít trƣờng hợp sinh viên phải “treo bằng xã hội học”, làm trái ngành
nghề đào tạo, thậm chí làm công nhân lao động hoặc đi xuất khẩu lao động.
Có thể khẳng định hoạt động xã hội học trong khu vực nhà nƣớc đã cung cấp lƣợng nhân
lực khoa học hùng hậu cho ngành xã hội học, khoa học xã hội và cho các lĩnh vực phát triển
của đất nƣớc. Hiện nay, nếu thống kê cơ cấu tuổi của nhân lực đƣợc đào tạo xã hội học ở các
cơ sở đào tạo thì có thể sẽ cho thấy bức tranh đậm nét về nhân lực trẻ, trình độ chuyên môn,
18


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

bằng cấp cao gia tăng. Tuy nhiên, vấn đề gây quan ngại nhất là chất lƣợng đào tạo ở nhiều
cơ sở đào tạo thời gian vừa qua là chƣa đƣợc nhƣ mong đợi của xã hội, hiện tƣợng đào tạo
chạy theo số lƣợng hơn là chất lƣợng. Thực tế có thể làm suy giảm niềm tin xã hội và uy tín
của ngành xã hội học Việt Nam, và hơn thế nữa ảnh hƣởng đến năng lực cạnh tranh trong

đào tạo xã hội học ở khu vực nhà nƣớc so với cơ sở đào tạo xã hội học khu vực tƣ, năng lực
cạnh tranh trong đào tạo với các trƣờng đào tạo xã hội học trong khu vực và thế giới.
Cơ hội và thách thức trong hoạt động nghiên cứu xã hội học
Đƣợc sự quan tâm của Chính phủ, các bộ ngành và nhu cầu của các địa phƣơng, các tổ
chức phi chính phủ và tổ chức quốc tế, hoạt động nghiên cứu và tƣ vấn xã hội học cũng có
sự phát triển nở rộ trong thời gian qua. Cho đến nay ngành xã hội học đã có nhiều đề tài cấp
nhà nƣớc, đề tài cấp bộ, cấp địa phƣơng, cấp cơ sở đã đƣợc các thế hệ cán bộ nghiên cứu và
giảng dạy thực hiện bằng nguồn ngân sách của Chính phủ, địa phƣơng. Kết quả các đề tài
nghiên cứu này đã có đóng góp khoa học trong việc phát hiện và lý giải thấu đáo quy luật
mối quan hệ xã hội nảy sinh trong đời sống xã hội, là cơ sở cho việc hoạch định đƣờng lối
của Đảng, xây dựng chính sách phát triển của Nhà nƣớc và các địa phƣơng. Kết quả quá
trình thực hiện một chuỗi các đề tài cũng đóng góp quan trọng vào công tác đào tạo cán bộ,
nhất là cán bộ trẻ ở các cơ sở nghiên cứu và giảng dạy xã hội học. Sản phẩm của các đề tài
cũng đƣợc xuất bản, bao gồm sách chuyên khảo, bài báo công trình khoa học, là nguồn tài
liệu tham khảo bổ ích cho sinh viên, học viên sau đại học, giới nghiên cứu và quản lý xã hội.
Các đề tài/ dự án nghiên cứu, tƣ vấn hợp tác với các viện, trƣờng, tổ chức quốc tế cũng
phát triển mạnh, đa dạng về cấp độ và quy mô hợp tác nghiên cứu trong những thập niên vừa
qua. Có thể thấy trong những thập niên vừa qua các cơ sở nghiên cứu và đào tạo xã hội khu
vực nhà nƣớc ở Việt Nam đã thực hiện nhiều đề tài/ dự án nghiên cứu hợp tác với các viện
nghiên cứu, trƣờng đại học có uy tín trên thế giới, hợp tác với các tổ chức quốc tế có quy mô
hoạt động toàn cầu nhƣ: UNDP, WB, UNFPA, JICA, ADB, HAI, và nhiều tổ chức quốc tế,
tổ chức phi chính phủ (NGO), v.v… Các mối quan hệ hợp tác nghiên cứu này không chỉ có
ý nghĩa trong việc mở rộng đề tài nghiên cứu, tƣ vấn phát triển xã hội, đóng góp khuyến
nghị khoa học có giá trị đối với chính sách hỗ trợ phát triển của các tổ chức quốc tế cho Việt
Nam; bổ sung nguồn dữ liệu tham khảo hữu ích cho Chính phủ, bộ ngành và các địa phƣơng
trong quá trình phát triển; nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng tƣ vấn về phát triển xã
hội, phát triển cộng đồng cho cán bộ; nâng cao vị thế của các cơ sở xã hội học ở Việt Nam.
Tuy nhiên, thực tế phát triển xã hội học trong khu vực nhà nƣớc thời gian qua còn tồn tại
nhiều bất cập và thách thức, kể cả thách thức vừa mới nảy sinh gần đây. Tình trạng một số
đề tài kết quả nghiên cứu tốt, có phát hiện khoa học và hàm ý chính sách nhƣng chƣa đƣợc

xã hội đón nhận sử dụng vào thực tiễn đời sống xã hội, v.v… Ở phần trên vừa cho thấy các
cơ sở đào tạo và nghiên cứu xã hội học công thời gian qua đã thực hiện nhiều hệ đề tài trong
và ngoài nƣớc, nhƣng theo đánh giá của một số chuyên gia thì phần lớn đề tài đạt chất lƣợng
chuyên môn chƣa đƣợc nhƣ kỳ vọng, cho dù đề tài/ dự án đã nỗ lực công bố sản phẩm sách
và bài tạp chí đƣợc xuất bản ở trong nƣớc. Điểm hạn chế nổi bật là kết quả đề tài thiếu đóng
19


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

góp lý luận và phƣơng pháp cho sự phát triển tri thức chuyên ngành xã hội học; các phát
hiện và khuyến nghị khoa học của đề tài thiếu tính khả thi, ứng dụng trong thực tiễn quản lý
phát triển xã hội ở Việt Nam. Nguyên nhân của thực tế này có thể xuất phát từ các giả định
khác nhau: do hạn chế trong thiết kế đề cƣơng nghiên cứu, quy trình khảo sát theo phƣơng
pháp xã hội học chƣa tốt, chƣa biết kết hợp phƣơng pháp liên ngành, xuyên ngành trong
nghiên cứu; xử lý và phân tích các dữ liệu khảo sát thực nghiệm theo kinh nghiệm, không
vận dụng triệt để tính ƣu việt của phƣơng pháp và lý thuyết xã hội học, vấn đề tuyển chọn và
xét duyệt các đề tài/ dự án nghiên cứu, v.v…
3. Bàn luận
Một vài phân tích trên đã phác thảo sơ bộ về quá trình hình thành và phát triển của nền xã
hội học ở Việt Nam hơn 40 năm qua. Mặc dù là chuyên ngành khoa học ra đời muộn hơn so
với các chuyên ngành khoa học xã hội khác, nhƣng các cơ sở nghiên cứu và đào tạo xã hội
học khu vực nhà nƣớc nhanh chóng trƣởng thành khẳng định vị thế quan trọng trong giới
khoa học xã hội trong nƣớc và khu vực. Xã hội học Việt Nam khi mới ra đời với vỏn vẹn 10
cán bộ thì đến nay nền xã hội học này đã có một lực lƣợng đông đảo cán bộ nghiên cứu,
giảng dạy ở các cơ sở nghiên cứu và đào tạo, và nhiều cán bộ có chuyên môn xã hội học
đang công tác ở các bộ ngành, địa phƣơng và các tổ chức NGO, tổ chức quốc tế.
Hoạt động đào tạo ở các cơ sở xã hội học khu vực nhà nƣớc trong những thập niên vừa
qua đã đạt đƣợc những thành quả quan trọng. Nhiều lƣợt cán bộ nghiên cứu và giảng dạy đã
khai thác triệt để các chƣơng trình học bổng trong và ngoài nƣớc để tham gia các khóa đào

tạo thạc sĩ, tiến sĩ, sau tiến sĩ. Kết thúc khóa học trở về cơ quan, có những đóng góp quan
trọng đối với công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học. Bên cạnh đó, hoạt động nghiên cứu,
tƣ vấn xã hội học cũng đã khai thác tốt các đề tài, dự án đƣợc đặt hàng từ Chính phủ, các bộ
ngành, địa phƣơng, các viện nghiên cứu, đại học nƣớc ngoài và các tổ chức NGO, tổ chức
quốc tế. Kết quả các công trình nghiên cứu, tƣ vấn đã có một số đóng góp tham mƣu cho
Đảng và Nhà nƣớc ta hoạch định, xây dựng mô hình quản lý phát triển xã hội bền vững;
nghiên cứu tƣ vấn đã giúp nhiều địa phƣơng định hƣớng quy hoạch hƣớng đến phát triển hài
hóa; nghiên cứu tƣ vấn gợi ý cho các tổ chức quốc tế có định hƣớng chính sách hỗ trợ phát
triển bao trùm. Kết quả nhiều đề tài nghiên cứu đƣợc chắt lọc, xuất bản phẩm là tài liệu tham
khảo bổ ích cho hoạt động nghiên cứu và giảng dạy chuyên ngành xã hội học và khoa học xã
hội ở Việt Nam.
Tuy nhiên, nhiều bất cập và thách thức đang tiếp tục đặt ra đối với phá triển xã hội học
khu vực nhà nƣớc ở Việt Nam, trong đó nổi bật:
Một là: Hoạt động đào tạo ở nhiều cơ sở đào tạo xã hội học có chất lƣợng chƣa đúng
mong đợi. Tình trạng nhiều sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh chƣa chủ động
trong học tập, nghiên cứu khoa học; hiện tƣợng theo học đối phó với mục đích chính là có
bằng cấp hơn là kiến thức thu đƣợc; một số giảng viên chƣa làm hết trách nhiệm đƣợc phân
công, thiếu giáo trình, bài giảng; khâu đánh giá học tập chƣa đƣợc chú trọng, kể cả chấm
khóa luận, luận văn, và luận án tốt nghiệp. Thực tế này không chỉ ảnh hƣởng đến chất lƣợng
20


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

đầu ra mà nó còn giảm uy tín của các cơ sở đào tạo xã hội học, nhất là trong bối cảnh hội
nhập quốc tế đang diễn ra sâu rộng, đòi hỏi các cơ sở đào tạo ở Việt Nam phải không ngừng
nâng cao chất lƣợng để thu hút đối tƣợng yêu thích bộ môn xã hội học là sinh viên, học viên
trong nƣớc và quốc tế.
Hai là: Công tác nghiên cứu ở một số cơ sở xã hội học khu vực nhà nƣớc hiện nay, có vẻ
nhƣ quan tâm số lƣợng hơn là chất lƣợng nghiên cứu, khả năng đóng góp lý luận và thức

tiễn của nghiên cứu. Do hạn chế trong thiết kế đề cƣơng nghiên cứu khoa học nên có hiện
tƣợng đơn giản hóa, kinh nghiệm hóa trong thiết kế và triển khai các đề tài nghiên cứu; chƣa
chú trọng khâu khảo sát và điền dã; xử lý, phân tích số liệu thiên về kinh nghiệm hơn là vận
dụng các quan điểm lý thuyết để luận giải các dữ liệu và bằng chứng thực nghiệm, v.v…
Thực tiến này làm giản đơn, nghèo nàn kết quả nghiên cứu, hạn chế đóng góp tri thức mới
đối với sự phát triển chuyên ngành xã hội học Việt Nam và thế giới. Kết quả là nền xã hội
học của chúng ta chƣa có nhiều công trình khoa học có giá trị học thuật cao đƣợc cộng đồng
khoa học và xã hội đón nhận.
Trong thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu chất lƣợng, song chƣa hoặc chậm
trễ trong ứng dụng vào thực tiễn quản lý xã hội.
Nhìn tổng thể, một số phác thảo phân tích cho thấy nghiên cứu và đào tạo ở khu vực nhà
nƣớc thời gian qua có vẻ mới chỉ phát triển về chiều rộng, chƣa có chiều sâu, chất lƣợng
chƣa đáp ứng kỳ vọng của ngành và xã hội. Nếu điều này là đúng thì đó là vấn đề quan ngại
đối với uy tín, vị thế của xã hội học Việt Nam; khả năng cạnh tranh của nền xã hội học này
với nền xã hội học các nƣớc trong khu vực và trên thế giới. Trong bối cảnh hội nhập, các cơ
sở xã hội học khu vực nhà nƣớc chƣa vƣợt qua thách thức truyền thống thì tiếp tục đối diện
thách thức mới. Để có cơ sở đƣa ra giải pháp hiệu quả nhằm giúp xã hội học nƣớc ta vƣợt
qua thách thức đang đặt ra trong đào tạo và nghiên cứu, chúng tôi đề xuất một số hƣớng sau:
Thứ nhất: Cần thiết kế một nghiên cứu đánh giá toàn diện kết quả, hạn chế, bất cập và
thách thức đặt ra đối với phát triển nền xã hội học ở nƣớc ta;
Thứ hai: Trên cơ sở đó có cơ chế, giải pháp mới nâng cao chất lƣợng, đóng góp khoa học
của các công trình nghiên cứu, tƣ vấn và kết quả đào tạo ở các cơ sở xã hội học;
Thứ ba: Đồng thời đề xuất phƣơng hƣớng khả thi nhằm thúc đẩy nền xã hội học nƣớc ta
phát triển và hội nhập khu vực và thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Viện Xã hội học. (2017). Kỷ yếu Viện Xã hội học 40 năm phát triển và hội nhập (19772017). Hà Nội: Khoa học xã hội.
2. Tony Bilton và các tác giả khác. (1993). Nhập môn Xã hội học. (Phạm Thủy Ba dịch).
Hà Nội: Khoa học xã hội.
3. Peter L.Berger. (1963). Lời mới đến với Xã hội học: Một góc nhìn nhân văn. (Phạm
Văn Bích dịch). Hà Nội: Tri thức.

21


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

ĐẨY MẠNH ĐÀO TẠO VÀ NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG XÃ HỘI HỌC CHUYÊN
NGÀNH GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN KHOA HỌC XÃ HỘI (TRƢỜNG HỢP VÙNG
NAM BỘ - VIỆT NAM)
PGS. TS Huỳnh Quốc Thắng
Khoa Văn hóa học, Trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM
Email:
Tóm tắt: Với xu thế chung của quá trình hội nhập và đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện
đại hóa đặc biệt là trong bối cảnh cách mạng công ngiệp 4.0 hiện nay, Nam Bộ là một trong
những vùng đất có những tình thế và yêu cầu hết sức đặc biệt đối với sự nghiệp đào tạo và
nghiên cứu về khoa học xã hội nói chung, xã hội học nói riêng. Vấn đề đặt ra không chỉ là
nhằm góp phần sớm khắc phục tình trạng “vùng trũng về nguồn nhân lực” (đặc biệt ở Tây
Nam Bộ) và việc tạo điều kiện để phát triển nhanh các “chính sách đầu tư” và sớm triển
khai thực hiện các “quy hoạch, kế hoạch” mà còn là bởi nhiều vấn đề kinh tế, văn hóa - xã
hội lớn lao khác của toàn vùng…Tất cả đã và đang đặt ra yêu cầu đẩy mạnh đào tạo và
nghiên cứu ứng dụng Xã hội học, đặc biệt là về Xã hội học chuyên ngành nhằm góp phần
giải quyết những vấn đề sách lược và chiến lược liên quan thực tiễn phát triển của vùng đất
này cả trong trước mắt lẫn về tương lai lâu dài.
Từ khóa: Đào tạo và nghiên cứu ứng dụng, Xã hội học chuyên ngành, vùng Nam Bộ.
Dẫn nhập
Xuất phát từ yêu cầu thực tế đất nƣớc, thời gian qua trong đào tạo đặc biệt là trong nghiên
cứu khoa học, nhiều đề tài độc lập hoặc các đề tài khoa học xã hội nhìn chung đều có thể và
cần thiết phải có sự tham gia của Xã hội học. Lý do trực tiếp là vì trong các ngành khoa học
xã hội:
“Xã hội học là một ngành khoa học thực tiễn và ứng dụng cao. Từ những vấn đề về toàn
cầu hóa, đến vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vấn đề về đô thị hóa, từ vấn đề di dân và

dân nhập cƣ, vấn đề nghèo đói, những vấn đề về biến đổi xã hội, vấn đề dân tộc, tôn giáo,
vấn đề phân hóa, phân tầng xã hội đến các vấn đề về xung đột xã hội, xung đột đất đai; từ
những vấn đề về nông nghiệp nông thôn đến quản lý và phát triển đô thị bền vững…” (Vũ
Thị Thùy Dung (2014), tr. 20).
Liên hệ vùng đất Nam Bộ, nơi mà tiến trình lịch sử - văn hóa và xã hội đã và đang đặt ra
nhiều vấn đề bức xúc đối với các yêu cầu nói trên bởi không chỉ những vấn đề thuộc hệ quả
của quá khứ hay mâu thuẫn hiện tại mà còn là vì những định hƣớng chiến lƣợc của địa
phƣơng cũng nhƣ cho cả nƣớc trong tƣơng lai lâu dài. Theo đó, những vấn đề liên quan Xã
hội học chuyên ngành đƣợc đặt ra đã nhƣ là một nhu cầu tất yếu.

22


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

1. Khái quát yêu cầu thực tế và định hƣớng nội dung đào tạo, nghiên cứu ứng dụng
Xã hội học chuyên ngành ở vùng Nam Bộ
Tùy mục tiêu, nội dung, chủ đề trọng tâm của từng đề tài hoặc vấn đề đặt ra trong từng
thời kỳ để xác định những định hƣớng đào tạo, nghiên cứu nhƣng nhìn chung hiện nay có
thể xác định một số chuyên ngành Xã hội học trọng tâm cần thiết xuất phát từ yêu cầu thực
tế Nam Bộ nhƣ sau:
Xã hội học nông thôn
Theo góc nhìn chuyên môn, Xã hội học nông thôn nói chung đó là khoa học “nghiên cứu
động lực và tình hình đời sống nông thôn…” (Tô Duy Hợp, 1997), hoặc “nghiên cứu về mối
quan hệ, cơ cấu xã hội, chức năng và hành vi xã hội ở vùng nông thôn để nói lên sự phát
triển của xã hội nông thôn, những quy luật biến đổi xã hội nông thôn” (Lý Thƣ Kinh, 1989).
Tuy nhiên, nông thôn Nam Bộ không chỉ là những vấn đề liên quan nông dân và nông
nghiệp bao gồm nghề trồng trọt (lúa, cây ăn trái…) hay chăn nuôi (cá đồng, gia súc…) mà
còn là, những vấn đề ngày càng lớn mang ý nghĩa trên nhiều mặt (kinh tế, văn hóa, chính trị,
an ninh quốc phòng…) với đối tƣợng đặc thù là ngƣ dân, ngƣ nghiệp ở các vùng biển, đảo.

Đối với vùng Đông Nam Bộ nói riêng và trên toàn vùng Nam Bộ nói chung, khái niệm
“vùng ven đô” ở các đô thị lớn (nhƣ TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dƣơng, Cần Thơ…)
cùng với chủ trƣơng phát triển “nông nghiệp công nghệ cao”, “du lịch sinh thái” (nhà vƣờn)
với “du lịch làng nghề” (thủ công mỹ nghệ) trở thành một bộ phận quan trọng của ngành
“công nghiệp không khói” của địa phƣơng. Đây thực sự là định hƣớng mới có ý nghĩa lớn.
Đặc biệt, chủ trƣơng xây dựng nông thôn mới triển khai trên cả nƣớc với yêu cầu tạo ra
quá trình chuyển đổi từ xã hội nông nghiệp cổ truyền tiến lên nông nghiệp hiện đại, quá trình
đô thị hóa tự giác mà trong chừng mức vẫn bảo tồn và phát huy tốt những giá trị văn hóa
nông thôn truyền thống từng gắn bó lâu đời với lịch sử văn hóa dân tộc. Điều đó càng mang
ý nghĩa sâu sắc đối với Nam Bộ nói chung và nhất là với Đồng bằng sông Cửu Long, nơi có
vai trò quan trọng không chỉ là vựa lúa lớn nhất, nơi góp phần quyết định chiến lƣợc an ninh
lƣơng thực cho cả nƣớc mà còn là nơi “văn minh miệt vƣờn”, “văn minh chợ nổi” mang
những nét đặc trƣng văn hóa nổi bật so với cả nƣớc…
Xã hội học đô thị
Đông Nam Bộ (với các địa phƣơng điển hình nhƣ TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình
Dƣơng…) , trung tâm của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đồng thời cũng là những trung
tâm đô thị hàng đầu với tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa – hiện đại hóa thuộc loại phát
triển nhanh, mạnh nhất nƣớc. Thực tế minh chứng rõ nhất về điều đó khi các địa phƣơng ở
đây đang đi trƣớc so với cả nƣớc đối với việc ứng dụng thành tựu của cuộc cách mạng 4.0.
Khái niệm “đô thị thông minh” không còn là viễn cảnh xa xôi mà hiện đã từng bƣớc đƣợc
triển khai thực hiện bằng nghị quyết và đề án tại địa phƣơng.
Tây Nam Bộ cũng có những trung tâm đô thị lớn nhƣ Cần Thơ từng đƣợc xem là “Tây
Đô” của toàn vùng, Đồng Tháp đang chuyển động mạnh với chỉ số năng lực cạnh tranh
(CPI) liên tục đứng trong tốp đầu cả nƣớc và Phú Quốc (Kiên Giang) đang từng ngày
23


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

chuyển động tiến lên trở thành một “đặc khu” theo mô hình “công nghiệp du lịch” thuộc tầm

cỡ quốc gia và khu vực…Tất cả đều chuyển động theo hƣớng quá trình đô thị hóa ngày càng
gia tốc với nhiều thành tựu phát triển xã hội nhƣng cũng có nhiều hệ lụy đặt ra nhƣ văn hóa
giao tiếp ứng xử thị dân, giao thông đô thị, vệ sinh môi trƣờng… Tất cả đều là những nét đặc
thù lớn đồng thời là những yêu cầu cao cho chuyên ngành Xã hội học đô thị cả về khía cạnh
đào tạo nhân lực lẫn về nghiên cứu ứng dụng hiện nay.
Xã hội học văn hóa
Thông thƣờng, Xã hội học văn hóa chủ yếu tập trung nghiên cứu thực trạng của mọi lĩnh
vực đời sống văn hóa, sự đồng hóa về văn hóa, sự giao lƣu tiếp biến văn hóa, quá trình xã
hội hóa, sự vận động và biến đổi của văn hóa trong không gian, thời gian nhằm xác định
những nhu cầu văn hóa cụ thể của từng nhóm công chúng để từ đó có những đề xuất về việc
hoạch định chính sách văn hóa phù hợp…Tuy nhiên vấn đề không chỉ nhƣ thế, so với cả
nƣớc, vùng văn hóa Nam Bộ mang những nét đặc trƣng rõ rệt về văn hóa lịch sử, văn hóa
tộc ngƣời. Trong đó, tôn giáo tín ngƣỡng trong vùng khá phức tạp với số lƣợng tín đồ, thiết
chế tôn giáo nhiều nhất nƣớc. Ngoài các tôn giáo thế giới nhƣ Phật giáo, Thiên Chúa giáo,
Tin Lành, Hồi Giáo…, nơi đây còn là địa bàn sinh sôi, phát triển mạnh những tôn giáo địa
phƣơng mang đậm cả màu sắc tín ngƣỡng dân gian nhƣ Cao Đài, Hòa Hảo, Bửu Sơn Kỳ
Hƣơng…Đáng chú ý, một số lễ hội dân gian nơi đây có sức hút thuộc loại lớn nhất nƣớc nhƣ
Lễ hội Bà Chúa Xứ - Châu Đốc (An Giang), Lễ hội Bà Đen – Tây Ninh…
Bên cạnh văn hóa tôn gáo, tín ngƣỡng và lễ hội, văn hóa tộc ngƣời vùng đất này cũng
mang nhiều nét đặc trƣng so với các vùng miền khác. Cộng đồng ngƣời Hoa ở đây chủ yếu
là “Hoa cận – hiện đại” (Hoa Minh Hƣơng), họ vừa mang nét riêng của văn hóa tộc ngƣời
vừa đóng góp một truyền thống chung đó là văn hóa kinh doanh trở thành nhƣ là một bộ
phận quan trọng tạo nên bản sắc văn hóa địa phƣơng của Nam Bộ, vùng đất năng động với
nền kinh tế thị trƣờng phát triển thuộc loại nhanh, mạnh nhất nƣớc. Ngƣời Khmer và ngƣời
Chăm ở đây cũng có những nét văn hóa tôn giáo, phong tục tập quán đặc thù so với ngƣời
Khmer ở Campuchia và ngƣời Chăm ở Nam Trung Bộ để trở thành những “nhóm địa
phƣơng” (ethnographic group). Ngay cả cộng đồng ngƣời Việt (Kinh) ở Nam Bộ cũng mang
những nét riêng nhất định so với các vùng miền khác: “do diện giao tiếp rộng với nhiều tầng,
nhiều lớp nhƣ vậy kết hợp với các yếu tố khác về địa lý, lịch sử...đã góp phần tạo ra tính đa
dạng về địa - văn hóa (geo - culture) của vùng, tiểu vùng và các địa phƣơng trong vùng cùng

tính năng động, cởi mở…nhƣ là một bản sắc chung nhất của văn hóa Nam Bộ. Tất cả đƣợc
phản ánh trong mọi mặt đời sống vật chất, tinh thần của ngƣời dân Việt nơi đây…” (Huỳnh
Quốc Thắng (2003), tr. 83 – 84). Nhìn trên tổng thể, văn hóa Nam Bộ từ truyền thống tiến
lên hiện đại với quá trình chuyển đổi từ trong nhận thức đến thực tế đời sống xã hội theo mô
hình văn hóa nông nghiệp chuyển thành công nghiệp với rất nhiều vấn đề phải trực diện đối
đầu từ “nhu cầu văn hóa” và “thị hiếu thẩm mỹ” cho đến vấn đề “lối sống”, “văn hóa giao
tiếp ứng xử” (ở công sở, nơi công cộng, trong gia đình…) tất cả đều là những vấn đề lớn

24


×