Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Vai trò của khoa học và công nghệ trong sự phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.89 KB, 26 trang )

Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU
Khoa học và công nghệ đã trở thành yếu tố cốt tử của sự phát triển, là lực lượng
sản xuất trực tiếp của nền kinh tế toàn cầu. Điều này được phản ánh rõ trong việc
hoạch định các chính sách và chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế của
nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào trình độ sự phát triển cụ thể của từng
nước mà xây dựng chiến lược, chính sách phát triển khoa học kỹ thuật mang tính đa
dạng và đặc thù đối với từng giai đoạn phát triển cụ thể phù hợp với hoàn cảnh, điều
kiện cơ sở vật chất của mỗi quốc gia.
Đối vớiViệt Nam hiện nay, khoa học và công nghệ không chỉ là quá trình mang
tính tất yếu mà đó còn là một đòi hỏi bức thiết. Đứng trước thực trạng đất nước từ một
nền kinh tế nông nghiệp đang phấn đấu vươn lên đạt đến mục tiêu:" Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh" lại vốn là một nước nghèo bị chiến tranh
tàn phá nhiều năm, tình trạng khủng khoảng kinh tế xã hội vẫn chưa chấm dứt, lạm
phát còn ở mức cao, sản xuất chưa ổn định, bội chi ngân sách lớn.
Nhận thức rõ vai trò đó, Đảng và Nhà nước, ta đã có nhiều nghị quyết quan
trọng về Khoa học – Công nghệ và khẳng định: "Cùng với giáo dục, đào tạo khoa học
và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế -xã hội, là điều
kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Công nghiệp hoá- hiên đại hoá đất nước bằng cách dựa vào khoa học, kỹ thuật". Như
vậy, vai trò động lực là lực lượng sản xuất hàng đầu của khoa học và kỹ thuật đã được
Đảng ta nhất quán khẳng định và là điều tất yếu không thể thay đổi được. Song vấn đề
đặt ra là làm sao để khoa học và công nghệ đảm nhận được vai trò đó trong điều kiện
đất nước ta hiện nay để phát triển khoa học và kỹ thuật phù hợp với vài trò là lực
lượng sản xuất hàng đầu trong quá trình công nghiệp hoá- hiên đại hoá đất nước.
Nghiên cứu về vấn đề khoa học và công nghệ trong sự nghiệp công nghiệp hoá
- hiện đại hoá không chỉ là công trình khoa học của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, mà
còn là của toàn thể xã hội. Và cho tới nay, chúng ta cũng đã thu được nhiều kết quả
không nhỏ trong việc nghiên cứu, góp phần giúp cho đất nước hoàn thành mục tiêu là
một nước công nghiệp vào những năm 2020. Được sự giúp đỡ tận tình của thầy cô,
nhóm đã nghiên cứu về vấn đề "Vai trò của khoa học và công nghệ trong sự phát


1
triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam" là một vấn đề lớn cần có thời gian và sự hiểu
biết cũng như sự đầu tư nhiều. Mặc dù nhóm rất cố gắng nhưng do thời gian và trình
độ còn hạn chế vì vậy bài viết này chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót rất
mong nhận được sự đóng góp chỉ dạy của các thầy cô.
Chương I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ KHOA
HỌC CÔNG NGHỆ
1. Lý luận chung về lực lượng sản xuất
1.1. Lực lượng sản xuất là gì?
Lực lượng sản xuất là toàn bộ các yếu tố vật chất và tinh thần của con người,
tạo tành năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên theo mục đích của quá trình sản
xuất vật chất.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong
quá trình sản xuất, thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản
xuất của cải vật chất. Trong lực lượng sản xuất thì nhân tố con người đóng vai trò
quyết định nhất. Song ngày nay trong công cuộc cách mạng đã mở ra bước nhảy vọt
lớn của lực lượng sản xuất, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Theo quan niệm của Mác, lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kĩ
năng lao động của họ và tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ lao động. Sức lao
động của con người và tư liệu sản xuất, kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản
xuất. Và quan hệ sản xuất là "quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất". Mỗi phương thức sản xuất đặc trưng cho một hình thái kinh tế -xã hội nhất
định, nó là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan
hệ sản xuất tương ứng, đóng vai trò quyết định đối với tất cả các mặt của đời sống
xã hội: kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội. Và lịch sử xã hội loài người chẳng qua
là lịch sử phát triển kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất. Trong mỗi phương
thức sản xuất thì lực lượng sản xuất là yếu tố động đóng vai trò quyết định. Lực
lượng sản xuất là thước đo năng lực thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo
tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển xã hội loài người, làm thay đổi

mối quan hệ giữa người với người và từ đó dẫn tới sự thay đổi các mối quan hệ xã
hội. Trong tác phẩm "Sự khốn cùng của triết học", Mác viết: "Những quan hệ xã
hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi
phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những
2
mối quan hệ xã hội của mình". Khi lực lượng sản xuất trước hết là tư liệu sản xuất
thay đổi và phát triển thì quan hệ sản xuất tất yếu cũng thay đổi và phát triển theo,
khi đó bắt đầu thời đại của một cuộc cách mạng xã hội. Như vậy, lực lượng sản
xuất không chỉ là yếu tố khách quan, năng động nhất của phương thức sản xuất mà
còn là yếu tố cấu thành nền tảng vật chất của toàn thể nhân loại.
Dựa trên những tư tưởng cụ thể của học thuyết Mác về hình thái kinh tế-xã hội
với vai trò then chốt của lực lượng sản xuất là cơ sở lý luận cho phép chúng ta khẳng
định sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN là nhiệm vụ
trung tâm xuyên suốt trong thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển
CNTB, là quy luật khách quan trong quá trình phát triển của dân tộc ta.
1.2 Vai trò của lực lượng sản xuất
Con người muốn tồn tại được thì cần phải có những yếu tố cơ bản như ăn, ở,
uống…muốn vậy con người cần sản xuất vật chất. Tuy vậy muốn sản xuất ra của cải
vật chất thì yếu tố cơ bản và tiền đề quan trọng chính là lực lượng sản xuất. Sản xuất
vật chất không ngừng phát triển. Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sư biến
đổi, phát triển của mọi mặt đời sống, quyết định sự phát triển của xã hội từ thấp đến
cao, do đó lực lượng sản xuất trở nên có ý nghĩa và thực sự quan trọng.
Lực lượng sản xuất là một bộ phận cấu thành phương thức sản xuất, là nền
tảng, là cơ sở, là tiền đề của sản xuất. Vì nếu không có công cụ lao động thì con người
không thể sản xuất ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu của con người.
Lực lượng sản xuất tạo ra của cải vật chất cho xã hội, đáp ứng nhu cầu của xã
hội. Trong quá trình sản xuất con người đã sử dụng công cụ lao động tác động vào tự
nhiên, cải biến, các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa
mãn nhu cầu và phát triển của con người.
Lực lượng sản xuất là một bộ phận cấu thành của phượng thức sản xuất, mà

phương thức sản xuất là một bộ phận của hình thái kinh tế xã hội. Sự thay thế hình thái
kinh tế xã hội này bằng hình thái kinh tế xã hội khác tiến bộ hơn đánh dấu một bước
phát triển mới của xã hội. Như vậy sự phát triển của lực lượng sản xuất góp phần vào
việc hình thành nên một chế độ xã hội mới. Trong quá trình đấu tranh cho sự phát triển
xã hội, Lênin đã nói: “Suy cho cùng phương thức sản xuất này thắng phương thức sản
xuất kia chính là ở chỗ tạo ra năng suất lao động xã hội cao hơn”.
Từ những ý nghĩa nêu trên, ta thấy được rằng lực lượng sản xuất đóng một vai
trò quan trọng đối với sản xuất xã hội và quá trình phát triển của lịch sử loài người. Do
vậy vấn đề phát triển lực lượng sản xuất cần được coi trọng và đề cao trong mọi thời
kỳ phát triển của xã hội.
3
2. Khoa học và công nghệ trong mối quan hệ với sự phát triển
2.1. Khái niệm về khoa học và công nghệ
Khoa học là một khái niệm thể hiện ở nhiều nội dung khác nhau: khoa học là
một khối liên kết kiến thức được gom góp từ những nỗ lực năng động của con người
để hiểu được thế giới dựa trên quan sát và thí nghiệm, là một hình thái ý thức xã hội, là
một công cụ nhận thức; khoa học là một lĩnh vực hoạt động xã hội; khoa học là một hệ
thống tri thức của nhân loại được thể hiện bằng những khái niệm, phán đoán, học
thuyết…Tuy nhiên định nghĩa cho rằng khoa học là một hệ thống chỉnh thể các tri thức
của tiến trình lịch sử xã hội được coi là định nghĩa đầy đủ nhất dưới góc độ lịch sử
phát triển của khoa học. Ngoài ra, khoa học còn được hiểu là quá trình hoạt động của
con người để có được hệ thống tri thức về thế giới với chức năng làm cho con người
nắm được những quy luật của hiện thực khách quan, ngày càng làm chủ được những
điều kiện sinh hoạt tự nhiên và xã hội.
Công nghệ là sự tạo ra, sự biến đổi, việc sử dụng, và kiến thức về các công cụ,
máy móc, kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp, hệ thống, và phương pháp tổ chức, nhằm
giải quyết một vấn đề, cải tiến một giải pháp đã tồn tại, đạt một mục đích, hay thực
hiện một chức năng cụ thể. Công nghệ cũng có thể chỉ đến một tập hợp những công cụ
như vậy, bao gồm máy móc, những sự sắp xếp, hay những quy trình. Công nghệ ảnh
hưởng đáng kể lên khả năng kiểm soát và thích nghi của con người cũng như của

những động vật khác vào môi trường tự nhiên của mình.
2.2. Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ:
Khoa học là một khối liên kết kiến thức được gom góp từ những nỗ lực năng
động của con người để hiểu được thế giới dựa trên quan sát và thí nghiệm.
Khoa học và công nghệ có mối liên hệ mật thiết với nhau, tác động tới nhau và
thúc đẩy nhau cùng phát triển. Thuật ngữ khoa học và công nghệ là sự thể hiện đồng
hành gắn bó giữa lý luận, lý thuyết và thực tiễn, thực hành, giữa nghiên cứu và ứng
dụng thực tế. Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ được hiểu như là mối quan hệ
giữa thông tin và công nghệ.
Khoa học là cơ sở và nền tảng để phát triển công nghệ với máy móc, quy trình
kỹ thuật cùng hệ thống thông tin đặt dưới sự vận hành của con người. Ngược lại, công
nghệ cải tiến và phát triển tạo điều kiện, môi trường để nghiên cứu, phát hiện và lý giải
những sự vật hiện tượng tự nhiên để hình thành nên những lý thuyết khoa học mới có
thể ứng dụng vào hoạt động sản xuất. Có thể ví mối quan hệ giữa khoa học và công
nghệ như một vòng xoáy ngày càng được khuếch đại.
4
Nền sản xuất xã hội là phương thức trao đổi vật chất, năng lượng và thông tin
giữa xã hội và tự nhiên. Chính trong quá trình sản xuất, con người bằng trí tụê và lao
động được định hướng bởi trí tuệ đã không ngừng biến đổi các dạng vật chất, năng
lượng, thông tin. Năng lượng là số đo của các dạng vật chất trong các dạng khác nhau.
Trong phương thức sản xuất xã hội, sự vận động biến đổi của vật chất được thực hiện
thông qua các hệ thống công nghệ. Bởi vậy, bất kỳ một bước nhảy vọt nào của hệ
thống năng lượng cũng đều diễn ra với một cuộc cách mạng trong công nghệ. Thông
tin- là một dạng biểu hiện của vật chất đang vận động. Thông tin xã hội gắn liền với sự
vận động của dạng vật chất có tổ chức cao nhất - bộ óc con người.
Trong quá trình phát triển lịch sử của xã hội loài người đã từng diễn ra năm
bước nhảy vọt về chất của thông tin xã hội, được biểu hiện dưới năm hình thức thông
tin điển hình từ thấp đến cao: tiếng nói, chữ viết, kỹ thuật in ấn, các thiết bị truyền
thông bằng điện và điện tử, mạng internet. Cùng với đó là năm giai đoạn phát triển của
công nghệ với năm hệ thống công nghệ khác nhau về chất và phù hợp với chúng là

những hệ thống năng lượng đã và đang tồn tại trong lịch sử xã hội. Đó là giai đoạn một
với hệ thống công nghệ tự nhiên thô sơ, giai đoạn hai với hệ thống công nghệ cơ khí
thủ công, giai đoạn ba với hệ thống công nghệ cơ khí máy móc ở trình độ cơ khí hoá,
giai đoạn bốn với hệ thống công nghệ cơ khí máy móc ở trình độ điện khí hoá tự động
hoá bậc thấp, giai đoạn năm với hệ thống công nghệ trí tuệ, bao gồm công nghệ thông
tin và các loại công nghệ cao khác.
So sánh các giai đoạn phát triển cơ bản của thông tin và công nghệ, chúng ta
thấy chúng có mối quan hệ chặt chẽ và phù hợp với nhau cả về mặt thời gian và nội
dung, tính chất. Các cuộc cách mạng này biểu hiện trình độ phát triển ngày càng cao
hơn của vật chất.
Sự biến đổi phù hợp này là cơ sở để có thể gọi các cuộc cách mạng đó là cuộc
cách mạng thông tin - công nghệ. Thông qua các cuộc cách mạng này mối quan hệ
khoa học - công nghệ ngày càng bền chặt và sâu sắc hơn.
2.3. Vai trò của khoa học và công nghệ trong quá trình phát triền kinh tế xã hội
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng to
lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy
sản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học phát triển và đạt được nhiều thành tựu to lớn.
Khi mà con người đã trải qua những cuộc đại cách mạng công nghiệp thì khoa học trở
thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống và
trở thành "lực lượng sản xuất hàng đầu", là yếu tố không thể thiếu được để làm cho lực
lượng sản xuất có động lực để tạo nên những bước phát triển nhảy vọt tạo thành cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Có thể nói rằng: "Khoa học và công nghệ
5
hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại”.
Ở Việt Nam hiện nay thì khoa học và công nghệ giữ vai trò là động lực cho sự
phát triển của công cuộc đổi mới nền kinh tế. Được thể hiện ở những mặt sau:
Thứ nhất, khoa học và công nghệ đóng vai trò quyết định trong quá trình trang
bị và trang bị lại công nghệ hiện đại, tiên tiến cho nền sản xuất xã hội nói riêng và cả
các ngành kinh tế quốc dân nói chung. Trên thực tế, nước ta đã tiến hành công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa từ đầu những năm 60 của thế kỷ XX. Nhưng vẫn tiếp tục để cho

lực lượng sản xuất trong tình trạng lạc hậu, các trang thiết bị máy móc phần lớn là thủ
công, thủ công bán cơ giới. Do vậy, mà cả năng suất lao động và chất lượng các sản
phẩm do nền sản xuất xã hội tạo ra vẫn còn rất thấp so với mặt bằng chung của thế
giới, và trong khu vực. Chỉ có trên cơ sở thay đổi các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại
mới có thể đẩy mạnh được sản xuất, nhất là trong những ngành sản xuất mũi nhọn như
bưu chính viễn thông, năng lượng, vật liệu, chế biến.
Thứ hai, khoa học và công nghệ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc đào
tạo, bồi dưỡng, khai thác và phát huy nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn lực trí
tuệ – một nguồn lực to lớn, có tính chất quyết định đối với sự nghiệp CNH, HĐH ở
nước ta hiện nay. Bằng nhiều con đường, nhiều cách thức khác nhau, chúng ta đang
thực hiện quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ cho tất cả các ngành kinh tế quốc
dân. Tuy nhiên, điều quan trọng và có tính chất quyết định bậc nhất ở đây là cần phải
có những con người có tri thức và năng lực để có thể khai thác, sử dụng hiệu quả nhất
các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại. Từ chỗ có tri thức về khoa học và công nghệ, con
người và xã hội Việt Nam sẽ chuyển dần từ chỗ chủ yếu là lao động chân cơ bắp, thủ
công với những trang thiết bị kỹ thuật cũ kỹ, thô sơ, lạc hậu sang lao động trí tuệ, lao
động công nghiệp với máy móc, trang bị thiết bị kỹ thuật hiện đại.
Thứ ba, khoa học và công nghệ giữ vai trò động lực trong việc tạo ra môi
trường và thị trường thông tin – một môi trường mới đầy sức mạnh và quyền lực đối
với sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH nói riêng, đối với sự phát triển xã hội, nói chung.
Thông tin trong lĩnh vực khoa học và công nghệ có liên quan hết sức chặt chẽ đến việc
nắm bắt các bí mật, bí quyết công nghệ, được thể hiện qua các phương pháp, các thiết
bị, dữ liệu khoa học và công nghệ mới nhất. Thông tin như một người hướng dẫn nắm
trong tay chiếc chìa khoá thần diệu, giúp chúng ta mở được những “cánh cửa làm ăn”
một cách đúng lúc, đúng cách, giúp ta tìm kiếm nhưng cơ hội những lĩnh vực làm ăn
hiệu quả, và biết rút lui đúng lúc khi tiềm năng lĩnh vực đó đã cạn. Công nghệ thông
tin có vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình xây dựng kinh tế tri thức và hội nhập
toàn cầu về kinh tế của Việt Nam.
Thứ tư, khoa học và công nghệ có vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện cơ
chế tổ chức, quản lý sản xuất nhằm thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá .Trong sản

xuất nói riêng, trong mọi hoạt động xã hội nói chung nếu không có một cơ chế tổ chức
6
quản lý điều hành quản lý thì chắc chắn không thể mang lại kết quả tích cực. Điều đó
cũng giống như một dàn nhạc lớn, chỉ có các nhạc công mà không có nhạc trưởng thì
trống đánh xuôi, kèn thổi ngược, không thể hoà tấu bất kỳ bản nhạc nào.
Chương II
SỰ TÁC ĐỘNG CỦA KHOA HỌC CÔNG NGHỆ ĐẾN SỰ
PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM
1. Sự dự báo của Mác về sự phát triển công nghiệp
Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX đã được khẳng định, trong đó vai trò của
LLSX là yếu tố tác động làm thay đổi QHSX và hình thành phương thức sản xuất mới.
Với vai trò và tác động của mình, KHCN ngày càng khẳng định vị trí không thể thiếu
trong sự phát triển của lực lượng sản xuất nói riêng và của cả xã hội loài người nói
chung.
C.Mac đã đưa ra luận điểm: “khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”.
Điều đó chính là sự dự báo về việc tác động mạnh mẽ và vị trí quan trọng của khoa
học trong sự vận động và biến đổi của loài người. Luận điểm của C.Mac được hiểu là
khoa học trực tiếp tham gia vào việc sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Bởi vì,
khoa học là sản phẩm sáng tạo của tư duy con người, khi được con người ứng dụng
trong hoạt động sản xuất, hay nói cách khác là khi được chuyển hoá, được “vật chất
hoá” thành công cụ sản xuất và được con người sử dụng trong hoạt động lao động để
tạo ra của cải vật chất thì nó trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”
Mác đã xây dựng nên học thuyết về hình thái kinh tế- xã hội. Hoạt động sản
xuất bao gồm : Sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra chính bản thân con
người. Sản xuất vật chất đóng vai trò cực kỳ quan trọng là động lực là nền tảng của các
hoạt động sản xuất còn lại của xã hội. Nhờ có sản xuất mà con người có thể biến đổi
được giới tự nhiên, biến đổi được đời sống xã hội và biến đổi chính con người. Lực
lượng sản xuất bao gồm người lao động với kĩ năng lao động và công cụ lao động , sự
kết hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất tạo thành lực lượng sản xuất. Mỗi
phương thực sản xuất đặc trưng cho một hình thái kinh tế- xã hội. Phương thức sản

xuất cũ, lạc hậu được thay thế bằng phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Lực lượng
sản xuất không chỉ là yếu tố khách quan, năng động nhất của phương thức sản xuất mà
còn là yếu tố cấu thành nền tảng vật chất của cả nhân loại,
7
Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc
đẩy sản xuất phát triển. Qua ba cuộc đại cách mạng công nghiệp khoa học đã trở
thành lực lượng sản xuất hàng đầu là yếu tố không thể thiếu làm cho để làm cho lực
lượng sản xuất có động lực để tạo nên những bước phát triển nhảy vọt tạo thành cuộc
cách mạng khoa học và kỹ thuật hiện đại.
Với vai trò nền tảng và động lực của khoa học và kỹ thuật trong tiến trình công
nghiệp hoá - hiện đại hoá cũng là nói đến công nghiệp hoá - hiện đại hoá dựa trên cơ
sở khoa học và kỹ thuật. Quan điểm CacMác đã từng dự báo: “ Theo đà phát triển của
đại công nghiệp, việc tạo ra của cải thực tế trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động
và số lượng lao động đã chi phí hơn là vào sức mạnh của những tác nhân được khởi
động trong thời gian lao động, và bản thân những tác nhân, đến lượt chúng (hiệu quả
to lớn của chúng) tuyệt đối không tương ứng với thời gian lao động trực tiếp cần thiết
để sản xuất ra chúng, mà đúng ra, chúng phụ thuộc vào trình độ chung của khoa học
và vào sự tiến bộ của kỹ thuật, hay là phụ thuộc vào sự ứng dụng khoa học ấy vào sản
xuất”
Khoa học và kỹ thuật hiện đại là yếu tố không thể thiếu trong đời sống kinh tế
xã hội của một quốc gia mà còn là yếu tố then chốt trong sự nghiệp công nghiệp hoá -
hiện đại hoá đất nước, là yếu tố “quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển của
các quốc gia”.
Đảng ta đã xác định khoa học và kỹ thuật là lực lượng sản xuất trực tiếp quan
trọng hàng đầu cho xã hội. Công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân
giàu nước mạnh,xã hội công bằng,dân chủ,văn minh phải dựa trên nền tảng và động
lực của khoa học – kỹ thuật.
Vai trò động lực của khoa học và kỹ thuật được thể hiện thông qua sự đổi mới
không ngừng của kỹ thuật và sản phẩm, tạo ra năng suất, chất lượng,và sức cạnh tranh
cao của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá đang là xu

hướng của toàn nhân loại. Chỉ khi nào khoa học và kỹ thuật thực sự trở thành lực
lượng sản xuất hàng đầu thì vai trò nền tảng và động lực của nó mới trở nên vững chắc
và mạnh mẽ. Việt Nam muốn đẩy nhanh tiến trình đổi mới đất nước thì phải tiến hành
song song cả hai qúa trình vừa thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá vừa xây dựng
và phát triển nền khoa học kỹ thuật.
2. Vai trò của Khoa học công nghệ trong sự phát triển và biến đổi của lao
động ở Việt Nam
2.1. Sự phát triển và biến đổi của lao động Việt Nam trong thời gian qua
Con người tham gia vào quá trình sản xuất với tư cách là sức lao động, vừa với
tư cách là con người có ý thức, chủ thể của những quan hệ kinh tế. Trình độ văn hóa,
8
trình độ kỹ thuật chuyên môn, ý thức và thái độ của người lao động đối với sản xuất và
sản phẩm là những yếu tố quan trọng để sử dụng, khai thác kỹ thuật và tư liệu sản xuất
vốn có để sáng tạo ra trong quá trình sản xuất. Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh “Muốn nâng
sản xuất công nghiệp và nông nghiệp lên mức độ cao… mà chỉ có phương tiện cơ giới
và hóa học phù trợ thì không đủ. Còn cần phải phát triển một cách tương ứng năng lực
của con người sử dụng những phương tiện đó nữa”.
Việt Nam là một nước có dân sô đông và trẻ do vậy nước ta có một nguồn lực
về lao động dồi dào. Đó là những người lao động có sức khỏe mang bản chất cần cù
chịu khó, thông minh và và sáng tạo, một lợi thế so sánh quan trọng của nước ta. Việt
Nam có quy mô dân số vào loại lớn hơn 90 triệu dân, là nước đông dân thứ 14 trên thế
giới, thứ 8 Châu Á và thứ 3 khu vực Đông Nam Á… Đó là tiềm năng cực kỳ to lớn về
nguồn lực con người để phát triển đất nước hay có thể nói là nguồn lao động dồi dào.
Dân số trong tuổi lao động có xu hướng tăng lên. Có thể thấy rõ điều này qua 4 cuộc
điều tra dân số năm 1979, 1989, 1999, 2009
Dân số trong tuổi lao động thời kỳ 1979 – 2009
(Đơn vị : 1.000 người)
Năm 1979 Năm 1989 Năm 1999 Năm 2009
Số
tuyệt

đối
Tỉ
trọng
(%)
Số
tuyệt
đối
Tỉ
trọng
(%)
Số
tuyệt
đối
Tỉ
trọn
g
(%)
Số
tuyệt
đối
Tỉ
trọn
g
(%)
Tổng số dân 52,742 100 64,376 100 76,328 100 85,847 100
Dưới tuổi lao động 23,465 44.49 25,223 39.18 25,562 33.5 26,227 30.5
Trong tuổi lao động
24,832 47.08 33,496 52.03 43,556 57.1 52,160 60.7
Trên tuổi lao động 4,445 8.43 5,657 8.79 7,210 9.4 7,460 8.8
Việt Nam có lợi thế lực lượng lao động dồi dào song nhìn chung là chất lượng

chưa cao mặc dù trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn lực đang phát triển và có xu
hướng tăng cao hơn.
Năm 2013, tỷ lệ người biết chữ là 94,7%%, toàn quốc đạt tiêu chuẩn quốc gia
về xoá mù chữ và phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Vào năm 2011, số năm đi học kỳ
vọng là 10,4 năm, số năm đi học trung bình của dân cư là 5,5 năm, được xếp vào các
nước có trình độ dân trí khá trên thế giới và khu vực.
9
2.2. Vai trò của Khoa học công nghệ trong sự phát triển và biến đổi của lao
động ở Việt Nam
Thứ nhất, nhờ những tiến bộ khoa học – công nghệ, người ta đã tiến hành cơ
khí hoá nền sản xuất, giải phóng con người khỏi lao động chân tay nặng nhọc, cơ cấu
lao động xã hội chuyển từ lao động giản đơn là chủ yếu sang lao động bằng máy móc,
có kỹ thuật và nâng cao năng suất lao động lên nhiều lần.
Những tiến bộ khoa học – công nghệ làm tăng tỷ trọng công nghiệp dịch vụ,
chuyển nền kinh tế truyền thống của ta từ nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn sang nền
kinh tế có tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ ngày càng chiế ưu thế. Ngoài ra, việc tiếp
thu và ứng dụng các dây chuyền công nghệ hiện đại vào sản xuất góp phần cải thiện
nền công nghiệp lạc hậu của ta. Nhiều công nghệ tiên tiến, hiện đại đã được chuyển
giao vào nước ta trong các lĩnh vực như khai thác dầu khí, thông tin, viễn thông, xây
dựng… tạo nền tảng cho các ngành công nghệ chủ chốt ở nước ta. Từ đó có thể thấy,
những tiến bộ khoa học – công nghệ đã cải thiện môi trường lao động, nâng cao trình
độ tay nghề và trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ và tạo điều kiện cho công tác
nghiên cứu khoa học.
Một trong những ưu điểm của người lao động Việt Nam là tính cần cù, siêng
năng, hăng say tìm tòi, sáng tạo. Họ không chỉ biết áp dụng tiến bộ khoa học, công
nghệ để xoá đói, giảm nghèo, vượt khó làm giàu mà còn phát huy sáng tạo, cải tiến
máy móc, thiết bị phục vụ cho nhu cầu lao động sản xuất. Một trong những gương mặt
điển hình:
Ông K’Sá H Tang, một nông dân K’Ho chưa từng qua trường lớp cơ khí nào đã
mày mò cải tiến thành công máy tuốt bắp, nâng năng suất lao động lên hàng chục lần

so với phương thức thủ công. Thời gian tuốt một gùi bắp chỉ mất 5 phút trong khi đó
để tuốt bằng tay phải mất 1 ngày.
Máy bứt củ lạc của ông Huỳnh Thái Dương, tỉnh Bình Thuận đã đạt được
những thông số cần thiết như bứt củ lạc không sót, không vỡ vỏ ngoài, không dập vỏ
trong, không lẫn tạp chất, chi phí thời gian từ 2-2,5 giờ/ha lạc, tỉ lệ thất thoát (vỡ vỏ,
hao hụt…) chỉ 0,3%. Năng suất tương đương với 80 công lao động. Giá máy là 38
triệu đồng (trong khi máy nhập của Đài Loan là 600 triệu đồng).
Thứ hai, nhờ những tiến bộ khoa học – công nghệ đã tạo ra những người lao
động mới: những con người lao động trí tuệ sáng tạo, vừa có tri thức chuyên sâu một
ngành nghề, vừa có hiểu biết rộng, tầm nhìn xa, bao quát, nhạy bén, vững vàng trong
nghề nghiệp.
Người lao động chính là lực lượng sản xuất mạnh mẽ nhất, to lớn nhất, là nguồn
lực của mọi nguồn lực, là động lực của mọi động lực phát triển xã hội. Từ chỗ có tri
thức về khoa học và công nghệ, con người và xã hội Việt Nam sẽ chuyển dần từ chỗ
10
chủ yếu là lao động chân cơ bắp, thủ công với những trang thiết bị kỹ thuật cũ kỹ, thô
sơ, lạc hậu sang lao động trí tuệ, lao động công nghiệp với máy móc, trang bị thiết bị
kỹ thuật hiện đại.
Khoa học và công nghệ đến với con người thông qua quá trình giáo dục, đào
tạo và hoạt động thực tiễn trang bị cho con người những tri thức và kinh nghiệm cần
thiết để cho họ có thể nhanh chóng thích nghi với các trang thiết bị hiện đại, tiên tiến
trong sản xuất, đời sống. Mặt khác, do sự thường xuyên đổi mới theo hướng hiện đại
dần các trang thiết bị sản xuất và đời sống buộc con người phải thường xuyên học tập,
trau dồi kiến thức, chuyên môn để khỏi bị đào thải ra khỏi quá trình sản xuất xã hội
thích ứng với cuộc sống hiện đại. Chính nhờ vậy mà trình độ và chất lượng của đội
ngũ những người lao động trong lực lượng sản xuất không ngừng được nâng cao và
hiện đại hóa.
Hiện nay ở Việt Nam đang hình thành 2 loại hình lao động: lao động phổ thông
và lao động chất lượng cao. Lao động phổ thông hiện tại vẫn chiếm số đông, trong khi
đó, tỷ lệ lao động chất lượng cao lại chiếm tỷ lệ rất thấp. Cái thiếu của Việt Nam hiện

nay không phải là lao động phổ thông, mà là lao động chất lượng cao.
Dự kiến, năm 2015, số lao động qua đào tạo ở bậc sơ cấp nghề khoảng 18
triệu người, chiếm khoảng 59% tổng số lao động đã qua đào tạo của nền kinh tế; bậc
trung cấp khoảng 7 triệu người (khoảng 23%); bậc cao đẳng gần 2 triệu người
(khoảng 6%); bậc đại học khoảng 3,3 triệu người (khoảng 11%); bậc trên đại học
khoảng 200 nghìn người (khoảng 0,7%). Năm 2020, số lao động đào tạo ở bậc sơ cấp
nghề khoảng gần 24 triệu người (khoảng 54%) tổng số lao động qua đào tạo của nền
kinh tế; bậc trung cấp nghề khoảng gần 12 triệu người (khoảng 27%); bậc cao đẳng
hơn 3 triệu người (khoảng 7%); bậc đại học khoảng 5 triệu người (khoảng 11%) và bậc
trên đại học khoảng 300 nghìn người (khoảng 0,7%). Phát triển nhân lực đến năm
2020 của các ngành, lĩnh vực, khu vực như công nghiệp; xây dựng; dịch vụ; nông,
lâm, ngư nghiệp; giao thông vận tải; tài nguyên, môi trường; du lịch; ngân hàng; tài
chính; công nghệ thông tin; năng lượng hạt nhân; đào tạo nhân lực để đi làm việc ở
nước ngoài. Quy mô đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng năm 2020 có khoảng
3,4 - 3,9 triệu sinh viên. Tỷ lệ sinh viên vào năm 2020 là từ 350 - 400 người/trên 1 vạn
dân.
Mạng lưới trường đại học và cao đẳng vào năm 2020 sẽ có tổng cộng 573
trường, trong đó, 259 trường đại học và 314 trường cao đẳng. Trong giai đoạn 2011-
2015 sẽ thành lập thêm 158 trường (70 trường đại học và 88 trường cao đẳng). Về
mạng lưới trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề (gọi
chung là cơ sở dạy nghề): Đến năm 2015 có 190 trường cao đẳng nghề, trong đó, có
60 trường ngoài công lập; 300 trường trung cấp nghề, trong đó, có 100 trường ngoài
11
công lập; 920 trung tâm dạy nghề, trong đó có 320 trung tâm ngoài công lập. Đến năm
2020 có khoảng 230 trường cao đẳng nghề, trong đó, có 80 trường ngoài công lập; 310
trường trung cấp nghề, trong đó có 120 trường ngoài công lập; 1.050 trung tâm dạy
nghề, trong đó có 350 trung tâm ngoài công lập. Tổng vốn đầu tư cho phát triển nguồn
lao động đến năm 2020 (gồm giáo dục và đào tạo; dạy nghề; y tế; chăm sóc sức
khỏe, ) khoảng 2.135 nghìn tỷ VNĐ, chiếm 12% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Thứ ba, nhờ những tiến bộ khoa học – công nghệ đã nâng cao nhận thức của

người lao động.
Cùng với sự phát triển của KHCN, nhận thức của người lao động về thế giới
quan và nhân sinh quan ngày càng tiến bộ. Việc nhận thức và hiểu biết về thế giới của
người Việt Nam đã được cải thiện và nâng cao (thể hiện trong hệ tư tưởng, nhận thức,
việc tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại…). Trong đó, là sự chuyển biến về tư tưởng
tiến bộ (coi trọng năng suất lao động, nam nữ bình đẳng, xã hội văn minh dân chủ…)
hình thành một thế hệ Việt Nam mới. Trước đây, người lao động Việt Nam chịu nhiều
ảnh hưởng của tư tưởng cũ nên phụ thuộc khá nhiều vào tự nhiên, tuy nhiên cũng đã
khẳng định sức mạnh của con người. Nhưng đến nay, khi tiếp cận và thông qua những
thành tựu của khoa học công nghệ, Việt Nam đã nắm bắt được những tri thức mới, có
nhận thức và định hướng mới trong việc làm chủ sự phát triển của đất nước. Đã tiếp
thu và học tập những tinh hoa của nhân loại như các quy luật vận động của tự nhiên,
quy luật vận động của xã hội, quy luật vận động của nền kinh tế…
Khoa học và công nghệ đã và đang tăng cường khả năng truyền dẫn, lan toả và
khuyếch tán văn hoá trong quá trình phát triển của người lao động. Công nghệ thông
tin và truyền thông phát triển, làm cho văn hoá nghệ thuật được phổ biến rộng rãi. Ở
Việt Nam, bên cạnh những thể loại nhạc truyền thống nay đã hội nhập những dòng
nhạc mới theo xu thế của thế giới… Văn hoá đã có sự kết hợp giữa truyền thống và
hiện đại. Trong tư tưởng người Việt, phụ nữ vẫn cần quán xuyến việc gia đình nhưng
ngày nay “gánh nặng” này đã được chia sẻ với nam giới, phụ nữ không còn phải quá
ràng buộc trong hệ tư tưởng “tam tòng tứ đức” nữa… Những suy nghĩ đã được đổi
mới, người lao động Việt dám nghĩ dám làm không lệ thuộc quá nhiều vào gia đình
như trước đây. Việc phải lưu trữ những kỷ niệm, những sự kiện quan trọng không cần
phải “sổ lưu bút” mà nay chuyển sang sử dụng “lưu trữ đám mây”, facebook… bằng
những công cụ tiên tiến hiện đại như điện thoại, laptop, ipad…
Thứ tư, nhờ những tiến bộ khoa học – công nghệ đã cải thiện sức khoẻ, mức
sống và đời sống tinh thần của người lao động.
Khoa học công nghệ đặc biệt là công nghệ sinh học, công nghệ gen… ngày
càng phát triển và được ứng dụng rộng rãi vào công tác chăm sóc sức khỏe của người
lao động. Đã có những bước nhảy vọt trong lĩnh vực y tế nhất là trong việc phát minh

12
ra những loại thuốc, vắc – xin, các thiết bị y tế, các phương pháp trị bệnh mới … Đồng
thời việc phát triển những công nghệ sạch đã cải thiện môi trường sống của người lao
động, giảm việc ô nhiễm môi trường… Tất cả những điều này đã góp phần cải thiện
sức khỏe của người lao động, tăng tuổi thọ trung bình.
Khoa học và công nghệ tác động thông qua việc đổi mới sản phẩm và đổi mới
quy trình sản xuất đã tăng quy mô sản xuất, tăng năng suất của máy móc thiết bị. Một
mặt khoa học và công nghệ kích cầu, mặt khác nó tăng năng suất qua đó tăng cung và
từ đó nền kinh tăng trưởng, làm tăng thu nhập bình quân, cải thiện mức sống của
người lao động. Khoa học và công nghệ đặc biệt là công nghệ thông tin góp phần to
lớn đối với công cuộc xóa đói giảm nghèo, thực hiện công bằng, bình đẳng trong xã
hội, tự do dân chủ: giúp cho người lao động dễ dàng tiếp cận với các thông tin hơn, tạo
ra một cơ chế phản ánh tiếng nói của người lao động đặc biệt là của người lao động
nghèo đến chính phủ hiệu quả hơn, góp phần nâng cao chất lượng của dịch vụ công.
Khoa học và công nghệ giúp cho người lao động tiệp cận với các trò chơi thể
thao, tham gia vào các hoạt động văn nghệ… để thư giãn sau giờ làm việc giúp nâng
cao tinh thần của người lao động dẫn đến năng suất lao động tăng.
3. Sự tác động của khoa học công nghệ đến sự phát triển và biến đổi của
công cụ lao động ở Việt Nam
Lực lượng sản xuất gồm có: tư liệu lao động (Tư liệu lao động gồm công cụ lao
động và phương tiện lao động trong đó công cụ lao động giữ vai trò quyết định đến
năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Trình độ của công cụ sản xuất là một tiêu
chí biểu hiện trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội) và người lao động.
Khoa học công nghệ (KHCN) có tác động to lớn tới sự phát triển của lực lượng
sản xuất tại Việt Nam. Ngày nay, khoa học và công nghệ được coi là yếu tố quan
trọng và có ý nghĩa quyết định sự phát triển của kinh tế - xã hội. Trong các văn kiện
quan trọng, đại hội Đảng ta đã nhấn mạnh vai trò của KHCN trong sự phát triển của
đất nước và coi đó là nhiệm vụ trọng tâm của toàn đảng, toàn dân. Tác động của
KHCN đến lực lượng sản xuất ở Việt Nam được thể hiện không chỉ đến sự biến đổi và
phát triển của lao động mà chính là tác động đến sự biến đổi và phát triển của tư liệu

lao động, mà trọng tâm là công cụ lao động.
Công cụ lao động là bộ phận trọng tâm, tích cực nhất trong tư liệu sản xuất. Nó
là biểu hiện cụ thể của tiến bộ khoa học kỹ thuật và cũng là cơ sở để phân biệt thời đại
kinh tế. C.Mac đã khằng định rằng: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở
chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với tư liệu
lao động nào”
13
Sự tác động của KHCN đến tư liệu lao động hay chính là tác động đến công cụ
lao động tại Việt Nam trong thời gian qua được thể hiện ở sự cải tiến và biến đổi của
công cụ lao động qua các thời kỳ (chuyển từ thủ công sang hiện đại, tự động hoá với
năng suất và chất lượng cao).
Sự tác động của KHCN đến tư liệu sản xuất ở Việt Nam được chia thành các
thời kỳ sau (gắn với các điểm mốc lịch sử):
* Từ năm 1975 trở về trước: Tư liệu sản xuất còn rất lạc hậu. Do đặc điểm
kinh tế - chính trị, toàn Đảng toàn dân dồn sức cho cuộc chiến chống Pháp, chống Mỹ
do đó việc sản xuất tuy được đẩy mạnh nhưng chủ yếu để phục vụ cho cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc. Trang bị cho sản xuất lúc bấy giờ ngoài cơ sở vật chất của Việt
Nam thì chủ yếu là do Liên Xô, Trung quốc viện trợ về kinh tế, kỹ thuật và quân sự
(xây dựng các nhà máy điện và hệ thống đường dây điện, trạm biến thế, đài khí
tượng…mở rộng nhiều xí nghiệp và công trình công nghiệp…). Nhờ sự giúp đỡ của
các nước bạn, tư liệu sản xuất Việt Nam đã được cải thiện và đem lại những kết quả
tích cực, góp phần xây dựng hệ thống cơ sở vật chất của Việt Nam. Tuy nhiên, cơ sở
vật chất còn nghèo nàn, tư liệu lao động còn lạc hậu và hạn chế.
* Từ năm 1975 đến 1986: tư liệu sản xuất đã dần chuyển từ kỹ thuật thủ
công sang sử dụng máy móc, thiết bị. Tuy nhiên, kỹ thuật thủ công vẫn là chủ yếu,
công suất sử dụng máy móc thiệt bị còn thấp. Trang bị máy móc thiết bị, kỹ thuật đã
được cải tiến xong sản xuất vẫn còn quy mô còn nhỏ, thiếu cân đối, còn lệ thuộc nhiều
vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu của nước ngoài, tình trạng sử dụng không hết công
suất máy móc thiết bị diễn ra phổ biến.
* Từ 1986 đến 2000: công cụ lao động đã chuyển từ thủ công sang tự động

hoá, đã sử dụng và phát triển nhiều máy móc thiết bị có công suất cao, chất lượng
được cải biến theo xu thế phát triển của cuộc cách mạng khoa học. Tin học, điện tử
đang dần được hình thành và phát triển., nhiều công cụ lao động thủ công đã có cải
tiến đem lại hiệu quả cao hơn trong sản xuất.
* Từ 2001 đến nay: ứng dụng và tiếp thu những thành tựu của KHCN trên
thế giới vào sản xuất kinh doanh để cải tiến công cụ lao động, tăng năng suất.
Nhiều công nghệ kỹ thuật hiện đại được áp dụng trong tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã
hội từ kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế đến quốc phòng an ninh…, đem lại hiệu quả và
những thành tựu quan trọng cho sự phát triển của Việt Nam.
Ở phương diện tổng thể, KHCN đã tác động mạnh mẽ đến sự cải tiến và thay
đổi tư liệu sản xuất tại Việt Nam như sau:
Thứ nhất, cải tiến, phát triển công cụ lao động nhằm nâng cao năng suất lao
động, chất lượng sản phẩm, giải phóng sức lao động: Căn cứ vào quá trình nghiên cứu
và đúc rút kinh nghiệm từ các quốc gia đã đạt được nhiều thành công và thành tựu nhờ
14
sự phát triển của KHCN, Việt Nam đã dựa vào những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã
hội cùng với sự hiểu biết về tri thức khoa học đã tiến hành cải tiến những tiến bộ trong
KHCN của nước ngoài vào áp dụng tại Việt Nam. Công cụ từ thô sơ, nhờ KHCN đã
chuyển thành công cụ được cải tiến làm tăng năng suất lao động. Ví dụ: máy tuốt lúa
khi mới xuất hiện được sử dụng bằng bàn đạp chân, tuy nhiên do yêu cầu thực tế và sự
phát triển của kỹ thuật đã tiến hành cải biến chạy bằng năng lượng điện của máy nổ
chạy bằng xăng, được cải tiến thêm giá đỡ để có thể di chuyển và phù hợp với địa hình
núi, chỗ lầy lội…
Thứ hai, đổi mới và nâng cao hiệu năng của công cụ lao động: Việt Nam đã tiếp
thu tri thức KHCN của các nước phát triển trên thế giới, đồng thời phát triển nghiên
cứu trong nhiều lĩnh vực để đổi mới và nâng cao hiệu năng của công cụ lao động. Việc
phát triển và ứng dụng KHCN đã tạo ra được nhiều công cụ lao động hiện đại, có
nhiều tính năng giúp con người tiết kiệm được thời gian, nâng cao năng suất làm việc
(ví dụ: máy gặt đập liên hợp…). Trong thời đại Công nghệ thông tin càng phát triển,
việc phát triển hệ thống công cụ liên lạc càng được chú trọng. Từ điện thoại chỉ để

nghe gọi để trao đổi, nay thêm nhiều tính năng nói chuyện có hình ảnh, lướt web,
check mail, được hỗ trợ nhiều ứng dụng. Tại Việt Nam ngành công nghệ phần mềm đã
phát triển (phần mềm kế toán ứng dụng, Việt Nam đã mua bản quyền và phát triển hệ
thống phần mềm của oracle tại Việt Nam…); các dây truyền công nghệ được đổi mới
theo cách thức sản xuất hiện đại: chế biến thủy sản, nông sản thông qua dây truyền tự
động từ khâu nguyên liệu đầu vào đến đóng gói sản phẩm…
Thứ ba, tìm hiểu, nghiên cứu và chế tạo ra công cụ lao động hữu ích: theo yêu
cầu của thực tế, cùng với sự hỗ trợ của KHCN việc tìm hiểu và nghiên cứu sáng chế ra
công cụ lao động hữu ích đã được triển khai. Nhiều chương trình đã được triển khai
trong nhiều lĩnh vực như y tế, giáo dục, nông nghiệp… đặc biệt là công nghiệp. Trong
ngành công nghiệp, Việt Nam hiện đang nghiên cứu và phát triển công nghiệp năng
lượng (sử dụng năng lượng nguyên tử), chế tạo nhiều máy tự động hoá: chế tạo robot
trong việc thu thập rác thải nơi sông hồ để giảm gánh nặng cho công nhân môi trường.
Trong sản xuất hàng hoá, CNTT và KHCN đóng vai trò hết sức quan trọng và có tác
động to lớn. Do yêu cầu về quản lý, ngoài hệ thống tiêu chí để sử dụng đánh giá, các
doanh nghiệp hiện đã sử dụng nhiều dây truyền sản xuất hiện đại tiên tiến. Các công ty
chế tạo, lắp ráp công nghiệp đã sử dụng tự động hoá (máy móc) có công nhân điều
khiển. Nhiều phát minh sáng chế được khuyến khích phát huy và đã đạt được nhiều
thành tựu có tính đột biến như dây truyền ép trấu thành gỗ (đã tận dụng được những
nguyên liệu sẵn có, giá rẻ và nguồn cung cấp dồi dào); hay lò đốt rác thải rắn y tế nguy
hại đã đem lại những giải pháp mới cho việc xử lý, bảo vệ môi trường (sáng chế này
15
của Việt Nam khiến các công ty nước ngoài muốn mua bản quyền); Máy công cụ điều
khiển số (CNC) do Việt Nam chế tạo…
Sự phát triển của KHCN đem lại nhiều thành tựu, hỗ trợ và giải phóng sức lao
động của con người. Tuy nhiên, sự phát triển của KHCN cũng có tính hai mặt của nó.
Một mặt nó khuyến khích và tác động tích cực đến sự phát triển và biến đổi của tư liệu
lao động mà trước hết là công cụ lao động. Nhưng một mặt, nó cũng tạo ra những vấn
đề hệ lụy do mục đích và cách vận dụng của con người. Ở Việt Nam, công cụ lao động
được biến đổi và đã có những tác động tích cực, song cũng có những vấn đề cần giải

quyết đó là: vấn đề môi trường (ô nhiễm môi trường khi đưa ứng dụng máy móc công
nghiệp mà chưa đáp ứng được hệ thống xử lý chất thải, khói thải công nghiệp…); vấn
đề về giải quyết việc làm (công cụ phát triển, máy móc được cải tiến nâng cao cả hiệu
năng, tính năng sẽ thay thế được nhiều lao động trong nền sản xuất công nghiệp); vấn
đề văn hóa truyền thống (công cụ hiện đại ra đời, thay thế cho truyền thống, việc lưu
trữ lại làng nghề truyền thống sẽ cần có chính sách bảo tồn, ví dụ như bánh cuốn
truyền thống nay được thay thế bằng công nghệ sản xuất bằng máy…); vấn đề về xã
hội: công cụ lao động tiên tiến phát triển làm cho con người lệ thuộc quá nhiều vào
máy móc, giới trẻ hiện nay sử dụng rất nhiều phần mềm ứng dụng hỗ trợ cho công
việc hàng ngày. Nếu có sự cố mạng xảy ra, họ sẽ không biết phải giải quyết tình huống
như thế nào…
Từ những tác động trên của KHCN, tư liệu sản xuất của Việt Nam được cải
thiện và nâng cao đáng kể, góp phần tích cực trong sự chuyển đổi hình thức sản xuất
thô sơ lạc hậu sang mô hình hiện đại và đạt hiệu quả cao. Nhờ sự cạnh tranh và thúc
đẩy của KHCN toàn thế giới, cũng như những đòi hỏi của yêu cầu thực tế tại Việt
Nam, KHCN tại Việt Nam cũng trên đà phát triển và giữ vị trí quan trọng trong các
lĩnh vực kinh tế-xã hội theo nhưquỹ đạo, quy luật vận động phát triển chung của
KHCN trên thế giới. Tuy nhiên, nhà nước cần có những chính sách quản lý phù hợp để
KHCN luôn phát huy được mặt tích cực và tính chất “cách mạng” của chúng.
Chương III
THÀNH TỰU VÀ NHIỆM VỤ CỦA KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
16
1. Thành tựu
Sau gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn về phát
triển kinh tế- xã hội. Quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đã góp phần quan trọng làm cho
đời sống nhân dân được cải thiện, sức cạnh tranh của nền kinh tế tăng lên đáng kể,
chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ vững, nâng cao tiềm lực và
vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Tuy nhiên, CNH, HĐH phát triển chưa bền
vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH chững lại; những biến động

về kinh tế - xã hội trên thế giới tác động đến quá trình CNH, HĐH khi nước ta hội
nhập ngày càng sâu, rộng với khu vực và thế giới…
Thứ nhất, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng
nhanh:
Giai đoạn 1986-1990: Đây là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Chủ trương
phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế dần dần khắc phục được những yếu kém và có
những bước phát triển. Kết thúc kế hoạch 5 năm (1986 - 1990), công cuộc đổi mới đã
đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng: GDP tăng 4,4%/năm; tổng giá trị
sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 3,8 - 4%/năm; công nghiệp tăng bình quân
7,4%/năm, trong đó sản xuất hàng tiêu dùng tăng 13 -14%/năm; giá trị kim ngạch xuất
khẩu tăng 28%/năm. Việc thực hiện tốt ba chương trình mục tiêu phát triển về lương
thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu đã phục hồi được sản xuất, tăng
trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát,… Đây được đánh giá là thành công bước đầu cụ
thể hóa nội dung của công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường đầu tiên. Điều quan
trọng nhất, đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý
mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống kinh tế - xã hội và bước đầu giải
phóng được lực lượng sản xuất, tạo ra động lực phát triển mới.
Giai đoạn 1991 - 1995: Đất nước dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái.
Nền kinh tế tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng: đã khắc phục được tình
trạng trì trệ, suy thoái, tốc độ tăng trưởng đạt tương đối cao, liên tục và toàn diện, hầu
hết các chỉ tiêu chủ yếu đều vượt mức: GDP bình quân tăng 8,2%/năm; giá trị sản xuất
công nghiệp tăng 13,3%/năm; nông nghiệp tăng 4,5%/năm; lĩnh vực dịch vụ tăng
12%/năm; tổng sản lượng lương thực 5 năm (1991 - 1995) đạt 125,4 triệu tấn, tăng
27% so với giai đoạn 1986 - 1990 . Hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều đạt nhịp độ tăng
trưởng tương đối khá. “Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm
trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã tạo được
tiền đề cần thiết để chuyển sang một thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước” .
17

Giai đoạn 1996 - 2000: Đây là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng
của kinh tế thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặc dù
cùng chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực (giai đoạn 1997 -
1999) và thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp, đặt nền kinh tế nước ta trước những
thử thách khốc liệt, tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá. GDP
bình quân của cả giai đoạn 1996 - 2000 đạt 7%; trong đó, nông, lâm, ngư nghiệp tăng
4,1%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,5%; các ngành dịch vụ tăng 5,2% . “Nếu tính
cả giai đoạn 1991 - 2000 thì nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân là 7,5%. So với năm
1990, GDP năm 2000 tăng hơn hai lần” .
Giai đoạn 2001 - 2005: Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều sâu,
việc triển khai Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế hoạch 5 năm
2001 - 2005 mà Đại hội IX của Đảng thông qua đã đạt được những kết quả nhất định.
Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, theo hướng tích cực, năm sau cao hơn năm
trước. GDP tăng bình quân 7,5%/năm, riêng năm 2005 đạt 8,4%; trong đó, nông
nghiệp tăng 3,8%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%; các ngành dịch vụ tăng 7%.
Riêng quy mô tổng sản phẩm trong nước của nền kinh tế năm 2005 đạt 837,8 nghìn tỷ
đồng, tăng gấp đôi so với năm 1995. GDP bình quân đầu người khoảng 10 triệu đồng
(tương đương 640 USD), vượt mức bình quân của các nước đang phát triển có thu
nhập thấp (500 USD) . Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu từ 50 vạn đến 1
triệu tấn lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm
2005, Việt Nam đứng thứ nhất thế giới về xuất khẩu hạt tiêu; đứng thứ hai về các mặt
hàng gạo, cà phê, hạt điều; thứ 4 về cao su;…
Giai đoạn 2006 - 2010: Nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực
và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, từ nhóm
nước thu thập thấp đã trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp). GDP bình quân 5
năm đạt 7%. Mặc dù bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn
cầu (từ cuối năm 2008), nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn đạt
cao. Tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra.
Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỷ USD, gấp hơn 2,7 lần kế hoạch
đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên

31 tỷ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỷ
USD, vượt 16%. GDP năm 2010 tính theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần
so với năm 2000 .
Trong năm 2011, mặc dù sự phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn
cầu còn rất chậm, song mức tăng trưởng kinh tế bình quân vẫn đạt 7%/năm,tuy thấp
18
hơn kế hoạch (7,5% - 8%), nhưng vẫn được đánh giá cao hơn bình quân các nước
trong khu vực.
Như vậy, trong vòng 20 năm (1991 - 2011), tăng trưởng GDP của Việt Nam
đạt7,34%/năm, thuộc loại cao ở khu vực Đông Nam Á nói riêng, ở châu Á và trên thế
giới nói chung; quy mô kinh tế năm 2011 gấp trên 4,4 lần năm 1990, gấp trên 2,1 lần
năm 2000 (thời kỳ 2001 - 2011 bình quân đạt 7,14%/năm).
Năm 2012, GDP tăng 5,03% so với năm 2011. Mức tăng trưởng tuy thấp hơn
mức tăng 5,89% của năm 2011, nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp khó khăn thì
đây là mức tăng trưởng hợp lý. Về sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản ước tính
tăng 3,4% so với năm 2011; công nghiệp tăng 4,8% so với năm 2011. Chỉ số giá tiêu
dùng năm 2012 tăng 6,81%. Đầu tư phát triển tăng 7% so với năm trước và bằng
33,5% GDP. Xuất, nhập khẩu hàng hóa tăng 18,3%.Kim ngạch xuất khẩu có thể vượt
qua mốc 100 tỷ USD, tỷ lệ kim ngạch xuất, nhập khẩu so với GDP năm 2011 đã đạt
xấp xỉ 170%, đứng thứ 5 thế giới. Vốn FDI tính từ 1988 đến tháng 7-2012 đăng ký đạt
trên 236 tỷ USD, thực hiện đạt trên 96,6 tỷ USD. Vốn ODA từ 1993 đến nay cam kết
đạt gần 80 tỷ USD, giải ngân đạt trên 35 tỷ USD.
Nhìn chung, các ngành,lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá,
trong đó sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực đã
bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng đa
dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng bước nâng cao khả
năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong nước và
mở rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp
mới, công nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn định. Sự phục hồi và
đạt mức tăng trưởng khá này đã tạo cơ sở vững chắc để quá trình thực hiện kế hoạch 5

năm (2011 - 2015) trong những năm sau đạt kết quả vững chắc hơn.
Thứ hai, cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, gắn sản xuất với thị trường
Về cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là 46,3%, năm 2005
còn 20,9%, năm 2010 còn 20,6%; cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo
hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các
sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên
tục với thiết bị, công nghệ ngày càng hiện đại: năm 1988 là 21,6%, năm 2005 lên 41%.
Tỷ trọng khu vực dịch vụ đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1% năm 2005.
Công nghiệp có sự biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất
thấp và thiếu hụt lớn, sang không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu gạo với
khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc tế; xuất
19
khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng thứ hạng cao
trên thế giới.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ
nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý; có bước phát triển
theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
Như vậy nhận thấy quá trình công nghiệp hóa ở nước ta từ khi bắt đầu thực hiện
cho đến nay đã đạt được những thành tựu đáng kể,những thành tựu đó gắn liền với quá
trình phát triển lực lượng sản xuất .Điều đó càng thêm khẳng định chủ trương về
CNH-HDH trong quá trình đổi mới đất nước ta là hoàn toàn đúng đắn. Và thực tế đã
chứng minh rằng việc phát triển lực lượng sản xuất chính là tiền đề nền tảng cho việc
xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật cho quá trình công nghiệp hóa nói chung và
ứng dụng vào quátrình CNH-HDH ở nước ta nói riêng.Như đại hội Đảng IX đã nhận
định rằng “Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát
triển lực lượng sản xuất,phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất cảu chủ nghĩa xã
hội và nâng cao đời sống nhân dân.Phát triển sản xuất gắn liền với xây dựng quan hệ

sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu ,quản lý và phân phối”.
Mặc dù đã đạt được những thành tựu trên tất cả các mặt song vẫn còn tồn tại
nhiều hạn chế,yếu kém và khó khăn và cần phải có những giải pháp nâng cao lực
lượng sản xuất phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
2. Nhiệm vụ trung tâm hiện nay là tiến hành quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước
Đối với đất nước ta hiện nay, vấn đề đặt ra là cần tiến hành Công nghiệp hoá -
hiện đại hoá như thế nào cho thích hợp? Trong bối cảnh mà cuộc cách mạng khoa học
và kỹ thuật hiện đại đang phát triển mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu và xu thế quốc tế
hoá đời sống kinh tế ngày càng sâu rộng, mô hình công nghiệp hoá hỗn hợp (kết hợp
giữa thay thế nhập khẩu với đẩy mạnh xuất khẩu) theo hướng hội nhập quốc tế là xu
hướng có triển vọng rất lớn ở nước ta, về cơ bản Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất
nước cũng vận động theo hướng đó. Nhưng xét theo cụ thể,vớiphương châm "rút ngắn
khoảng cách, vừa có những bước tuần tự vừa có những bước nhảy vọt" công cuộc
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta không những khác các nước khác về nội
dung, hình thức, quy mô, cách thức tiến hành mà khác cả về mục tiêu chiến lược.
Chính sự khác biệt này đã làm nên tính đặc thù của sự nghiệp Công nghiệp hoá - hiện
đại hoá ởnước ta.
Theo Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng XI đã nhấn mạnh việc đổi mới mô
hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, hướng tới
phát triển kinh tế nhanh, bền vững.
20
Thứ nhất, Đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao
chất lượng, hiệu quả, phát triển kinh tế nhanh, bền vững
Đây vừa là yêu cầu đặt ra vừa là mục tiêu của 5 năm tới.
- Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang
phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng
nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững. Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, trọng
tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy cơ cấu lại
và điều chỉnh chiến lược phát triển doanh nghiệp; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia

tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế (đây là nội
dung mới so với Đại hội X).
- Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, áp dụng các hình thức thu
hút đầu tư đa dạng, hấp dẫn để huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của
các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài, phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực
cho phát triển.
- Phát triển đa dạng các ngành, nghề để tạo nhiều việc làm và thu nhập; khuyến
khích, tạo thuận lợi để người lao động học tập, nâng cao trình độ, tay nghề, đồng thời
có cơ chế, chính sách phát hiện, trọng dụng nhân tài. Phát huy tiềm lực khoa học, công
nghệ của đất nước, nâng cao nhanh năng suất lao động xã hội và chất lượng tăng
trưởng của nền kinh tế. Tăng cường liên kết, khai thác, phát huy đúng tiềm năng, thế
mạnh của từng vùng kinh tế; tạo điều kiện cho phát triển và phát huy vai trò đầu tàu
của vùng kinh tế trọng điểm, tạo sức lan toả, lôi cuốn các vùng kinh tế khác.
Thứ hai, phát triển công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, tiếp tục
tạo nền tảng cho một nước công nghiệp và nâng cao khả năng độc lập, tự chủ của
nền kinh tế
- Cơ cấu lại, xây dựng nền công nghiệp theo hướng phát triển mạnh những
ngành có tính nền tảng, có lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát
triển nhanh, hiệu quả, bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế, từng
bước có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào các dây chuyền sản xuất và mạng lưới
phân phối toàn cầu (đây là điểm mới so với Đại hội X).
- Ưu tiên phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt là
công nghiệp sản xuất trang thiết bị, máy móc làm đất, thu hoạch, bảo quản, chế biến
sản phẩm nông - lâm - thuỷ sản, sản phẩm xuất khẩu; sản xuất phân bón, thức ăn cho
chăn nuôi và thuốc bảo vệ động thực vật
- Phát triển mạnh công nghiệp xây dựng và phát triển hợp lý công nghiệp sử
dụng nhiều lao động, góp phần chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động.
- Phát triển năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo các sản phẩm công nghiệp có
công nghệ tiên tiến, giá trị gia tăng cao, nhất là các máy điều khiển kỹ thuật số, hệ
21

thống tự động hoá, có khả năng xuất khẩu, thay thế nhập khẩu, nâng cao tỉ lệ nội địa
hoá sản phẩm
- Bố trí hợp lý công nghiệp trên các vùng; phát huy hiệu quả các khu, cụm công
nghiệp hiện có và đẩy mạnh phát triển công nghiệp theo hình thức cụm, nhóm sản
phẩm tạo thành các tổ hợp công nghiệp quy mô lớn, hiệu quả cao; đẩy mạnh việc xây
dựng các khu công nghệ cao; hình thành và phát triển các khu kinh tế tổng hợp ven
biển và các khu kinh tế cửa khẩu.
- Phấn đấu giá trị gia tăng công nghiệp - xây dựng bình quân 5 năm tăng 7,8 - 8%.
Thứ ba, phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá gắn với giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông thôn
- Phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu
quả và khả năng cạnh tranh cao, thân thiện với môi trường, gắn sản xuất với chế biến
và thị trường, mở rộng xuất khẩu.
- Phát triển lâm nghiệp toàn diện, bền vững, trong đó chú trọng cả rừng sản
xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng.
- Phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ sản đa dạng theo quy hoạch, phát huy lợi thế
từng vùng gắn với thị trường. Đẩy mạnh việc đánh bắt hải sản xa bờ với ứng dụng
công nghệ cao trong các khâu tìm kiếm ngư trường, đánh bắt và hiện đại hoá các cơ sở
chế biến thuỷ sản. Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, cơ sở dịch vụ phục vụ nuôi
trồng, đánh bắt, chế biến, xuất khẩu thuỷ sản.
- Xây dựng nông thôn mới: Quy hoạch phát triển nông thôn và phát triển đô thị
và bố trí các điểm dân cư. Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ và làng nghề gắn với
bảo vệ môi trường. Triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc
điểm từng vùng theo các bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn; giữ gìn và
phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của nông thôn Việt Nam. Đẩy mạnh xây
dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Tạo môi trường thuận lợi để khai thác mọi khả năng
đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn, nhất là đầu tư của các doanh nghiệp nhỏvà vừa,
thu hút nhiều lao động. Triển khai có hiệu quả chương trình đào tạo nghề cho 1 triệu
lao động nông thôn mỗi năm.
Thực hiện tốt các chương trình hỗ trợ nhà ở cho người nghèo và các đối tượng

chính sách, chương trình nhà ở cho đồng bào vùng bão, lũ; bố trí hợp lý dân cư, bảo
đảm an toàn ở những vùng ngập lũ, sạt lở núi, ven sông, ven biển (đây là nội dung mới
so với Đại hội X).
- Phấn đấu giá trị gia tăng nông nghiệp bình quân 5 năm 2,6 - 3%/năm. Tỉ trọng lao
động nông nghiệp năm 2015 chiếm 40 - 41% lao động xã hội. Thu nhập của người dân
nông thôn tăng 1,8 - 2 lần so với năm 2010.
22
Thứ tư, phát triển các ngành dịch vụ, nhất là dịch vụ tài chính, ngân hàng,
thương mại, du lịch và các dịch vụ có giá trị gia tăng cao
- Ưu tiên phát triển và hiện đại hoá các dịch vụ tài chính, ngân hàng, viễn
thông, thương mại, du lịch, vận tải, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, giáo dục, đào tạo,
khoa học, công nghệ.
- Hình thành các trung tâm thương mại - dịch vụ lớn, vừa là trung tâm giao
thương trong nước, vừa là cửa ngõ giao thương với nước ngoài tại Thủ đô Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ. Xây dựng một số trung
tâm du lịch lớn trong nước, gắn kết có hiệu quả với các trung tâm du lịch lớn của các
nước trong khu vực.
Phấn đấu khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng GDP và
gấp ít nhất 1,3 lần tốc độ tăng trưởng của các ngành sản xuất sản phẩm vật chất; tốc
độ tăng trưởng dịch vụ bình quân 5 năm đạt 8 - 8,5%/năm.
Thứ năm, tập trung xây dựng, tạo bước đột phá về hệ thống kết cấu hạ tầng
kinh tế đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước
- Phát triển có trọng tâm, trọng điểm và đầu tư tập trung, dứt điểm, kiên quyết
hoàn thành những công trình kết cấu hạ tầng kinh tế then chốt theo hướng hiện đại và
tương đối đồng bộ ở các vùng động lực phát triển, các khu công nghệ cao, các khu
công nghiệp, khu kinh tế. Hoàn thiện cơ bản mạng lưới giao thông thiết yếu, đường
ven biển, đường vành đai biên giới. Hiện đại hoá một số sân bay, cảng biển quan trọng
và một số tuyến đường bộ trọng yếu nối kết với Trung Quốc, Lào, Campuchia. Tiếp
tục hoàn thiện theo hướng hiện đại hệ thống giao thông đô thị, tập trung giải quyết tình
trạng ách tắc giao thông và ngập úng ở Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

- Phát triển nhanh nguồn điện đảm bảo đủ điện cho công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và nhu cầu sinh hoạt của nhân dân; hoàn chỉnh hệ thống truyền tải điện gắn với
bảo đảm vận hành an toàn, phấn đấu giảm 1/3 mức điện tổn thất so với hiện nay. Phát
triển hệ thống cung cấp đủ nước sạch cho đô thị, khu công nghiệp và dân cư nông
thôn.
- Xây dựng các công trình xử lý chất thải rắn, nước, khí thải và các công trình
bảo vệ môi trường. Sớm hoàn chỉnh hệ thống dự báo khí hậu, thời tiết và cơ sở nghiên
cứu về biến đổi khí hậu toàn cầu để nâng cao năng lực dự báo, phòng, chống, hạn chế
tác hại của thiên tai.
Thứ sáu, phát triển kinh tế - xã hội hài hoà giữa các vùng, đô thị và nông thôn
- Phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng vùng với tầm nhìn dài hạn, tăng cường
liên kết giữa các địa phương trong vùng theo quy hoạch, khắc phục tình trạng đầu tư
trùng lặp, thiếu liên kết giữa các địa phương trong vùng; đồng thời tăng cường sự liên
kết, phối hợp giữa các vùng để các vùng đều phát triển, từng bước giảm bớt chênh lệch
về trình độ phát triển và mức sống dân cư giữa các vùng.
23
- Phát triển hài hoà giữa thành thị và nông thôn. Phát triển đô thị phù hợp với
quá trình phát triển kinh tế, theo quy hoạch dài hạn, không khép kín theo ranh giới
hành chính và xử lý đúng mối quan hệ giữa đô thị hoá và hiện đại hoá nông thôn. Đẩy
mạnh việc đưa công nghiệp và dịch vụ về nông thôn để hạn chế tình trạng nông dân ra
các thành phố, đồng thời không để một khu vực lãnh thổ rộng lớn nào trống vắng đô
thị (đây là điểm mới so với Đại hội X).
Cùng sự phát triển mạnh mẽ của KHCN đã tạo ra rất nhiều thành tựu và sự phát
triển của đất nước. Song sự phát triển đó cũng có tính hai mặt của nó. Ngay từ thế kỷ
XIX, C.Mác đã cảnh báo về tính hai mặt hay nghịch lý của việc áp dụng tiến bộ khoa
học - công nghệ. Ông viết: “Chúng ta thấy rằng, máy móc có một sức mạnh kỳ diệu
trong việc giảm lao động của con người và làm cho lao động của con người có kết quả
hơn, thì lại đem nạn đói và tình trạng kiệt quệ đến cho con người. Những nguồn của
cải mới, từ xưa đến nay chưa ai biết, dường như do một sức mạnh thần kỳ nào đó lại
đang biến thành nguồn gốc của sự nghèo khổ. Những thắng lợi của kỹ thuật dường

như đã được mua bằng cái giá của sự suy đồi về mặt tinh thần. Dường như loài người
càng chinh phục được tự nhiên nhiều hơn thì con người lại càng trở thành nô lệ của
những người khác hoặc nô lệ cho sự đê tiện của chính mình”
Tính hai mặt của sự phát triển KHCN được thể hiện ở nhiều lĩnh vực trong kinh
tế - xã hội tại Việt Nam, tuy nhiên nhóm nghiên cứu xin được đưa ra một số những tác
động như sau:
Thứ nhất, tiến bộ khoa học - công nghệ trong điều kiện kinh tế thị trường lại
đẩy mạnh quá trình cạnh tranh kinh tế. Những người đi tiên phong trong việc đổi mới
công nghệ sẽ thu được nhiều lợi nhuận, lợi nhuận siêu ngạch so với những người khác.
Vì vậy mà mặc dù, tổng thu nhập xã hội tăng lên nhanh chóng, nhưng phân phối lại
không đồng đều. Cùng với tiến bộ khoa học - công nghệ là sự phân cực giàu nghèo,
làm tăng các vấn đề về xã hội cần giải quyết;
Thứ hai, KHCN phát triển hỗ trợ hơn rất nhiều công cụ hữu ích, nhưng cũng
làm thay đổi lối sống của thế hệ mới. Họ tập trung vào những hiệu ứng lan tràn trên
mạng, facebook và thế giới ảo. Việc tận hưởng cuộc sống, thư thái tinh thần được thay
thế bằng nhiều hình thức có thể gây nghiện như chơi điện tử…, rồi công nghệ thay đổi
làm cho con người đua tranh thậm chí là ích kỷ hơn trong việc thể hiện cái “tôi” khi
trang bị cho mình những món đồ công nghệ đăt tiền, thời thượng. Rồi những kiến thức
phổ thông hiện không cần phải nhớ mà đã có “Google” nhớ giúp bạn rồi;
Thứ ba, dẫn đến quá trình phân hóa dân số giữa thành thị và nông thôn. Tốc độ
đô thị hóa càng mạnh thì việc phải giải quyết xáo trộn dân cư phải có hướng để xử lý.
Các thành phố lớn ở Việt Nam như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Bình Dương… là những
24
nơi mà rất nhiều lao động từ các tỉnh, thành khác đổ về. Mật độ dân số ở các thành phố
trở nên đông hơn, dân cư phân bố mất cân bằng. Rồi kéo theo là hàng loạt các vấn đề
về xã hội;
Thứ tư, khi khoa học công nghệ phát triển thì việc du nhập nhiều loại văn hóa
vào Việt Nam diễn ra phổ biến, làm thay đổi nhiều đối với cách suy nghĩ, hệ tư tưởng
của người Việt; CNTT phát triển làm lan truyền nhiều thông tin trái chiều, nhiều văn
hóa phẩm độc hại được lưu truyền…

Thứ năm, trong điều kiện cạnh tranh và phát triển của kinh tế thị trường dưới
tác động của công nghệ đã làm cho các quan hệ kinh tế cũng thay đổi, con người sống
thực dụng hơn, có thể làm ra những loại công nghệ có hại cho sức khỏe con người
(gạo giả, rau bẩn…), hay đi vào nghiên cứu phục vụ cho những nhóm đối tượng có
những khuynh hướng có hại như việc phát triển vũ khí có thể là để phục vụ quốc
phòng an ninh nhưng cũng là mối nguy cơ khi các lực lượng phản động sử dụng để
chống lại chính quyền, dây nguy hại đến an toàn của người dân…
25

×