MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................................. 1
PHẦN NỘI DUNG................................................................................................................... 2
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG................................................................................................ 2
1. Phân công lao động và sử dụng lao động.................................................................... 2
2. Cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức...................................... 3
II. THỰC TRẠNG PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG BỐI
CẢNH CÁCH MẠNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở
VIỆT NAM............................................................................................................................ 8
KẾT LUẬN............................................................................................................................. 22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................... 23
MỞ ĐẦU
Các cuộc cách mạng khoa học công nghệ và sự phát triển của kinh tế tri
thức đã tạo những chuyển biến quan trọng trên phạm vi toàn cầu. Ngày nay,
thế giới đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đó là xu
hướng phát trển mới, dựa trên hệ thống vật lý mạng, là sự kết hợp của công
nghệ mới trong các lĩnh vực vật lý, số hóa, tự động hóa và sinh học, tạo ra
những khả năng hoàn toàn mới và có tác động sâu sắc tới các hệ thống chính
trị, xã hội và kinh tế của thế giới.
Chỉ trong hơn một thập kỷ trở lại đây, thế giới đã chứng kiến những sự
nhảy vọt về công nghệ thông tin, internet và tự động hóa, cách mạng số, phát
triển dựa trên tri thức và trí tuệ nhân tạo.
Bên cạnh những ưu điểm và tác động tích cực, cuộc cách mạng công
nghiệp mới cũng đang đặt ra cho các nước, các chính phủ, doanh nghiệp và
người lao động nhiều vấn đề cần giải quyết và cần chuẩn bị. Trong đó vấn
đề phân công và sử dụng lao động là vấn đề quan trọng hàng đầu. Với mỗi
cuộc cách mạng khoa học công nghệ, việc phân công và sử dụng lao động có
sự khác biệt rõ rệt, trong phạm vi tiểu luận này của học viên trong môn học
Những vấn đề kinh tế chính trị đương đại, học viên nghiên cứu chủ yếu
trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự phát triển của kinh tế tri
thức với Chủ đề tiểu luận: “Đổi mới phân công và sử dụng lao động trong
bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri
thức ở Việt Nam”.
PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
1. Phân công lao động và sử dụng lao động
1.1. Khái niệm
Phân công lao động xã hội là việc chuyên môn hóa người sản xuất, mỗi
người chỉ sản xuất một hoặc một vài sản phẩm nhất định, hay nói cách khác:
Sự phân công lao động xã hội là cách điều chỉnh hạn chế một cách thích ứng
những cá nhân vào những lĩnh vực nghề nghiệp đặc thù.
Trình độ phát triển lực lượng sản xuất của một xã hội biểu hiện rõ nhất
ở trình độ phân công lao động xã hội. Nói cách khác, sự phát triển lực lượng
sản xuất là điều kiện quyết định trình độ phân công lao động xã hội; đặc biệt
là sự phát triển của công cụ lao động. Đồng thời, phân công lao động, bản
thân nó, tác động trở lại đến sự phát triển ngày càng có năng suất cao. Trong
lịch sử, ở thời kỳ công trường thủ công, phân công lao động đóng vai trò đòn
bẩy mạnh mẽ đối với sản xuất và tăng năng suất lao động, mặc dù kỹ thuật
vẫn dựa trên cơ sở thủ công.
Sử dụng lao động: nói đến sử dụng lao động là đề cập đến vấn đề
người lao động và người sử dụng lao động. Theo Luật Lao động 2012, người
lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo
hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người
sử dụng lao động. Người sử dụng lao động là doanh nghiệp, cơ quan, tổ
chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo
hợp đồng lao động; nếu là cá nhân thì phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
1.2. Tác dụng
Sự phân công lao động trong xã hội làm cơ sở chung cho mọi nền sản
xuất hàng hóa, chính sự phân công lao động trong xã hội làm cho sức lao động
trở thành hàng hóa.
Sự phân công lao động đặt cơ sở cho việc hình thành những nghề nghiệp
chuyên môn, những ngành chuyên môn nhằm nâng cao sức sản xuất.
Sự phân công lao động theo vùng với ngành sản xuất chuyên môn hóa
đặc trưng sẽ là yếu tố quyết định sự khai thác có hiệu quả và phát huy thế
mạnh của vùng. Sự phân công lao động trong xã hội khi đã phát triển đến một
trình độ nào đó thì sẽ dẫn đến sự phân công lao động ở tầm vi mô – các xí
nghiệp, các hãng sản xuất – điều này làm cho các giai đoạn sản xuất ra sản
phẩm bị chia nhỏ, sản phẩm được hoàn thiện về chất lượng, dễ dàng ứng
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Sự phân công lao động áp dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật làm việc sản xuất đi vào chuyên môn hóa, nâng cao tay nghề của
người sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội.
1.3. Các hình thức phân công lao động
Có 3 hình thức phân công lao động:
Phân công lao động theo công nghệ: là phân công loại công việc theo tính
chất quy trình công nghệ, ví dụ: ngành dệt, may cơ khí. Hình thức này cho
phép xác định nhu cầu công nhân theo nghề tạo điều kiện nâng cao trình độ
chuyên môn của công nhân.
Phân công lao động theo trình độ: là phân công lao động theo mức độ
phức tạp của công việc, hình thức này phân công thành công việc giản đơn và
phức tạp (chia theo bậc). Hình thức này tạo điều kiện kèm cặp giữa các loại
công nhân trong quá trình sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm, trình độ
lành nghề của công nhân.
Phân công lao động theo chức năng: là phân chia công việc cho mỗi công
nhân viên của doanh nghiệp trong mối quan hệ với chức năng mà họ đảm
nhận. Ví dụ: công nhân chính, công nhân phụ, công nhân viên quản lý kinh tế,
kỹ thuật, hành chính… Hình thức này xác định mối quan hệ giữa lao động
gián tiếp và lao động trực tiếp và tạo điều kiện cho công nhân chính được
chuyên môn hóa cao hơn nhờ không làm công việc phụ.
2. Cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức
2.1. Cách mạng khoa học công nghệ
2.1.1. Khái niệm
Trong nghiên cứu lý luận, hiện nay có nhiều cách quan niệm về cách
mạng khoa học công nghệ (hay công nghiệp), ở đây, theo cách tiếp cận của
kinh tế chính trị Mác – Lênin có thể thấy rằng, khi lực lượng sản xuất phát
triển, tiến bộ khoa học công nghệ trong lĩnh vực sản xuất có những thay đổi
mang tính đột biến, triệt để làm thay đổi cơ bản các điều kiện kinh tế xã
hội, văn hóa và kỹ thuật, tại một thời điểm nhất định thì khi đó xuất hiện một
cuộc cách mạng công nghiệp.
Cách mạng khoa học công nghiệp được hiểu đó là những bước phát triển
nhảy vọt về chất trình độ tư liệu lao động trên cơ sở những phát minh đột
phá về kỹ thuật và công nghệ trong quá trình phát triển của nhân loại kéo theo
sự thay đổi căn bản về trình độ phân công lao động xã hội cũng như tạo bước
phát triển năng suất lao động cao hơn hẳn nhờ áp dụng một cách phổ biến
những tính năng mới trong kỹ thuật – công nghệ đó vào đời sống xã hội.
Cách mạng khoa học công nghiệp theo nghĩa hẹp: là cuộc cách mạng
trong lĩnh vực sản xuất, tạo ra sự thay đổi cơ bản các điều kiện kinh tế xã
hội, văn hóa và kỹ thuật, xuất phát từ nước Anh sau đó lan tỏa ra toàn thế
giới. Cách mạng khoa học công nghiệp theo nghĩa hẹp thường dùng để chỉ
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra ở Anh, vào nửa cuối thế kỷ
XVIII, đầu thế kỷ XIX. Đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp này là
chuyển từ lao động thủ công, quy mô nhỏ lên lao động sử dụng máy móc, quy
mô lớn.
Cách mạng khoa học công nghiệp theo nghĩa rộng: là những cuộc cách
mạng diễn ra ngày càng sâu rộng trong lĩnh vực sản xuất, dẫn đến những thay
đổi cơ bản các điều kiện kinh tế xã hội, văn hóa và kỹ thuật của xã hội loài
người với mức độ ngày càng cao. Như vậy, theo nghĩa rộng thì “Cách mạng
công nghiệp” bao quát tất cả các cuộc cách mạng công nghiệp trong lịch sử
đều được đặc trưng bằng sự thay đổi về chất của sản xuất và sự thay đổi
này được tạo ra bởi các tiến bộ đột phá của khoa học công nghệ.
2.1.2. Khái quát lịch sử các cuộc cách mạng công nghiệp
Về mặt lịch sử, cho đến nay, loài người đã trải qua ba cuộc cách mạng
công nghiệp và đang bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách
mạng công nghiệp 4.0). Cụ thể:
Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất khởi phát từ nước Anh, bắt đầu từ
giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX. Tiền đề của cuộc cách mạng này
xuất phát từ sự trưởng thành về lực lượng sản xuất cho phép tạo ra bước
phát triển đột biến về tư liệu lao động, trước hết trong lĩnh vực dệt vải sau
đó lan tỏa ra các ngành kinh tế khác của nước Anh. Nội dung cơ bản của cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ nhất là chuyển từ lao động thủ công thành lao
động sử dụng máy móc, thực hiện cơ giới hóa sản xuất bằng việc sử dụng
năng lượng nước và hơi nước. Những phát minh quan trọng tạo tiền đề cho
cuộc cách mạng này là: Phát minh máy móc trong ngành dệt như thoi bay của
John Kay (1733), xe kéo sợi Jenny (1764), máy dệt của Edmund Cartwright
(1785)… làm cho ngành công nghiệp dệt phát triển mạnh mẽ. Phát minh máy
động lực, đặc biệt là máy hơi nước của James Watt là mốc mở đầu quá trình
cơ giới hóa sản xuất. Các phát minh trong công nghiệp luyện kim của Henry
Cort, Henry Bessemer về lò luyện gang, công nghệ luyện sắt là những bước
tiến lớn đáp ứng cho nhu cầu chế tạo máy móc. Trong ngành giao thông vận
tải, sự ra đời và phát triển của tàu hỏa, tàu thủy… đã tạo điều kiện cho giao
thông vận tải phát triển mạnh mẽ.
Nghiên cứu về cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, C.Mác đã khái quát
tính quy luật của cách mạng công nghiệp qua ba giai đoạn phát triển là: hiệp
tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp. C.Mác khẳng định đó
là ba giai đoạn tăng năng suất lao động xã hội; ba giai đoạn phát triển của lực
lượng sản xuất gắn với sự củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa; đồng thời cũng là ba giai đoạn xã hội hóa lao động và sản xuất diễn ra
trong quá trình chuyển biến từ sản xuất nhỏ, thủ công, phân tán lên sản xuất
lớn, tập trung, hiện đại.
Cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra vào nửa cuối thế kỷ XIX
đến đầu thế kỷ XX. Nội dung của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai
được thể hiện ở việc sử dụng năng lượng điện và động cơ điện, để tạo ra
các dây chuyền sản xuất có tính chuyên môn hóa cao. Nội dung của cuộc cách
mạng này là chuyển nền sản xuất cơ khí sang nền sản xuất điện – cơ khí và
sang giai đoạn tự động hóa cục bộ trong sản xuất. Cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ hai là sự tiếp nối cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất,
với những phát minh về công nghệ và sản phẩm mới được ra đời và phổ biến
như điện, xăng dầu, động cơ đốt trong. Kỹ thuật phun khí nóng, công nghệ
luyện thép Bessemer trong sản xuất thép đã làm tăng nhanh sản lượng, giảm
chi phí và giá thành sản xuất. Ngành sản xuất giấy phát triển kéo theo sự phát
triển của ngành in ấn và phát hành sách, báo. Ngành chế tạo ô tô, điện thoại,
sản phẩm cao su cũng được phát triển nhanh. Sự ra đời của những phương
pháp quản lý sản xuất tiên tiến của H.For và Taylor như dây chuyền, phân
công lao động chuyên môn hóa được ứng dụng rộng rãi trong các doanh
nghiệp đã thúc đẩy nâng cao năng suất lao động. Cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ hai cũng đã tạo ra những tiến bộ vượt bậc trong giao thông
vận tải và thông tin liên lạc.
Cách mạng công nghiệp lần thứ ba bắt đầu từ khoảng những thập niên
60 của thế kỷ XX đến cuối thế kỷ XX. Đặc trưng cơ bản của cách mạng này
là sử dụng công nghệ thông tin, tự động hóa sản xuất. Cách mạng công
nghiệp lần thứ ba diễn ra khi có các tiến bộ về hạ tầng điện tử, máy tính và
số hóa vi mô được xúc tác bởi sự phát triển của chất bán dẫn, siêu máy tính
(thập niên 1960), máy tính cá nhân (thập niên 1970 và 1980) và Internet (thập
niên 1990). Đến cuối thế kỷ XX, quá trình này cơ bản hoàn thành nhờ những
thành tựu khoa học công nghệ cao. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba
đã chuyển từ công nghiệp điện tử cơ khí, sang công nghệ số. Sản phẩm
được sản xuất hàng loạt với sự chuyên môn hóa cao, cùng với sự phát triển
của cách mạng Internet, máy móc điện tử, điện thoại di động. Những tiến bộ
kỹ thuật công nghệ nổi bật trong giai đoạn này là: hệ thống mạng, máy tính
cá nhân, thiết bị điện tử sử dụng công nghệ số và robot công nghiệp.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được đề cập lần đầu tiên tại Hội
chợ triển lãm công nghệ Hannover (CHLB Đức) năm 2011 và được Chính phủ
Đức đưa vào “Kế hoạch hành động chiến lược công nghệ cao” năm 2012.
Gần đây tại Việt Nam cũng như trên nhiều diễn đàn kinh tế thế giới, việc sử
dụng thuật ngữ cách mạng công nghiệp lần thứ tư với hàm ý có một sự thay
đổi về chất trong lực lượng sản xuất trong nền kinh tế thế giới. Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư được hình thành trên cơ sở cuộc cách mạng số, gắn
với sự phát triển và phổ biến của Internet kết nối vạn vật với nhau (Internet
of Things – IoT). Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được phát triển ở ba lĩnh
vực chính là vật lý, công nghệ số và sinh học. Biểu hiện đặc trưng là sự xuất
hiện các công nghệ mới có tính đột phá về chất so với các công nghệ truyền
thống.
Trong lĩnh vực vật lý thông tin, có nhiều công nghệ mới xuất hiện và
nhanh chóng được áp dụng một cách phổ biến. Công nghệ in 3D, Big Data,
Blockchain… chẳng hạn. Công nghệ in 3D là công nghệ tạo ra một đối tượng
vật lý bằng cách in theo các lớp từ một bản vẽ hay một mô hình 3D có trước.
Cùng với công nghệ in 3D, trong lĩnh vực vật lý còn có sự phát triển của cảm
biến – bộ cảm biến là thiết bị điện tử cảm nhận trạng thái hay quá trình vật
lý, hóa học ở môi trường khảo sát và biến đổi thành tín hiệu điện tử để thu
thập thông tin về trạng thái hay quá trình đó. Thông tin sau đó sẽ được xử lý
để rút ra tham số định tính hoặc định lượng, phục vụ cho các nhu cầu nghiên
cứu, nhu cầu kinh tế xã hội, môi trường và dân sinh. Ngoài ra, trong lĩnh vực
vật lý còn có sự phát triển của công nghệ xe tự hành, hiện đang được thử
nghiệm ở giai đoạn cuối và sẽ được thương mại hóa trong tương lai gần, khi
đó sẽ dẫn đến những thay đổi lớn trong lĩnh vực giao thông vận tải và bảo vệ
môi trường.
Về công nghệ số nhưng công nghệ nổi bật là Internet kết nối vạn vật,
dữ liệu lớn, trí thông minh nhân tạo và chuỗi khối. Internet phát triển giúp kết
nối vạn vật thông qua mạng wifi, mạng viễn thông băng thông rộng (3G, 4G)
Bluetooth, Zigbee, hồng ngoại… sẽ hình thành các hệ thống thông minh và các
hệ thống thông minh này kết nối với nhau, để hình thành hệ thống thông minh
lớn hợp nhất như: nhà thông minh, văn phòng thông minh, thành phố thông
minh, đô thị thông minh, công nghiệp thông minh, nông nghiệp thông minh…
Dữ liệu lớn (Big Data) là một tập hợp dữ liệu rất lớn và phức tạp, được xử
lý để lấy các thông tin thích hợp phục vụ cho các nhu cầu phát triển kinh tế
xã hội, văn hóa hoặc môi trường. Công nghệ Blockchain cho phép một cơ sở
dữ liệu được chia sẻ trực tiếp không thông qua trung gian, trong tương lai
Blockchain sẽ được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như: bầu cử, khai
sinh, kết hôn, xác nhận tài liệu, văn bằng…
Về công nghệ sinh học, nổi bật là các công nghệ về gen và tế bào, công
nghệ phức hợp y sinh – thông tin (kết hợp thông tin với các bộ phận cơ thể
sống). Sự phát triển của công nghệ sinh học tổng hợp trong tương lai sẽ cho
phép các nhà khoa học tạo ra các AND, cấy ghép để tạo ra những bộ phận
thay thế trong cơ thể người, giúp chữa những căn bệnh nan y như ung thư,
huyết áp, tiểu đường… từ đó giúp kéo dài tuổi thọ con người, công nghệ gen
thậm chí có thể tạo ra những giống, loài động, thực vật kể cả con người, có
thể chống chọi được với điều kiện môi trường tự nhiên khắc nghiệt. Công
nghệ gen cũng giúp ngành nông nghiệp gia tăng sản lượng lương thực, thực
phẩm đáp ứng nhu cầu gia tăng dân số nhanh chóng.
Như vậy, mỗi cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện có những nội
dung cốt lõi về tư liệu lao động. Sự phát triển của tư liệu lao động đã thúc
đẩy sự phát triển của văn minh nhân loại. Theo nghĩa đó, vai trò của cách
mạng công nghiệp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong thúc đẩy phát triển.
2.1.3. Vai trò của cách mạng công nghiệp đối với phát triển
Vai trò của các cuộc cách mạng công nghiệp đối với phát triển có thể
được khái quát như sau:
Một là, thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất
Hai là, thúc đẩy hoàn thiện quan hệ sản xuất.
Ba là, thúc đẩy đổi mới phương thức quản trị phát triển
2.2 Kinh tế tri thức
2.2.1. Sự hình thành và bản chất của kinh tế tri thức
Từ những năm cuối của thế kỷ XX, khoa học và công nghệ có bước phát
triển nhảy vọt, đặc biệt là xuất hiện cách mạng thông tin, cách mạng tri thức
và sự bùng nổ của công nghệ cao làm ra đời nền kinh tế tri thức. Nền kinh tế
tri thức đã cuốn mọi quốc gia, dù là nước phát triển hay đang phát triển.
Kinh tế tri thức là lĩnh vực mà ở đó mỗi sản phẩm hay toàn bộ sản phẩm
được tạo bởi nguồn gốc là tri thức chiếm tỷ trọng chủ yếu (70 – 75% trở lên)
Bản chất của nền kinh tế tri thức: là nền kinh tế sử dụng có hiệu quả tri
thức cho phát triển kinh tế và xã hội, bao gồm cả việc khai thác kho tri thức
toàn cầu, cũng như làm chủ, sáng tạo ra tri thức đáp ứng nhu cầu riêng của
mình (UNDP – 2014). Trong nền kinh tế tri thức, hoạt động chủ yếu nhất là
sáng tạo ra tri thức, quảng bá tri thức và sử dụng tri thức, biến tri thức thành
giá trị. Sức lao động trở thành động lực trực tiếp nhất của sự phát triển.
2.2.2. Đặc điểm của nền kinh tế tri thức
Nền kinh tế tri thức bao gồm một số đặc điểm sau:
Một là, hoạt động kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức.
Hai là, sáng tạo và đổi mới là động lực phát triển “phát minh trở thành
một nghề đặc biệt”.
Ba là, hoạt động kinh tế có tính toàn cầu hóa, mạng thông tin là kết cấu
hạ tầng quan trọng nhất.
Bốn là, sự di chuyển cơ cấu lao động theo hướng gia tăng số lao động trí
tuệ và dịch vụ. Sự chuyển đổi về cơ cấu các ngành kinh tế.
Năm là, nền kinh tế dựa trên sự học tập và nhân lực tài năng.
Sáu là, tri thức hóa các quyết sách kinh tế.
II. THỰC TRẠNG PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG LAO
ĐỘNG TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG KHOA HỌC CÔNG
NGHỆ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM
1. Tác động của cách mạng khoa học công nghệ và kinh tế tri thức đến
phân công lao động và sử dụng lao động nói chung
Các cuộc cách mạng công nghiệp có những tác động vô cùng to lớn đến
sự phát triển lực lượng sản xuất của các quốc gia. Và đồng thời, tác động
mạnh mẽ tới quá trình điều chỉnh cấu trúc và vai trò của các nhân tố trong lực
lượng sản xuất xã hội. Về tư liệu lao động, từ chỗ máy móc ra đời thay thế
cho lao động chân tay cho đến sự ra đời của máy tính điện tử, chuyển nền sản
xuất sang giai đoạn tự động hóa, tài sản cố định thường xuyên được đổi mới,
quá trình tập trung hóa sản xuất được đẩy nhanh. Sự phát triển mạnh mẽ của
lực lượng sản xuất dưới tác động của công nghệ thông tin hiện đại đang tạo
ra những biến đổi to lớn trong phân công lao động xã hội, cụ thể là:
Phân công lao động dưới tác động của công nghệ thông tin đang thay đổi
theo hướng tăng lao động trí óc, giảm lao động chân tay, mà điển hình là sự
xuất hiện một dạng lao động mới lao động thông tin. Đây là loại lao động
liên quan trực tiếp đến thông tin, đến các quy trình, như đầu vào, đầu ra, xử lý
thông tin. Những người lao động trong lĩnh vực thông tin rất đa dạng, đa
ngành nghề; họ có thể là những nhân viên văn phòng, người lập trình, chuyên
gia, kỹ sư, nhà nghiên cứu, doanh nhân, nhà phân tích... Nhiệm vụ của họ là
sản xuất, xử lý, trao đổi thông tin, cung cấp những cơ sở cho việc ra quyết
định. Đòi hỏi đối với lao động thông tin là không chỉ nắm vững khả năng thao
tác, mà còn phải có khả năng thích ứng và sáng tạo với những thay đổi liên
tục của công việc, nhằm thu được hiệu quả tối đa. Như vậy, phân công lao
động trong nền kinh tế mới không còn phụ thuộc chủ yếu vào tài nguyên thiên
nhiên, ngành nghề được đào tạo, nguồn lao động dồi dào hay lượng tư bản
lớn như trước đây, mà ngày càng dựa nhiều hơn vào lực lượng lao động có
năng lực sáng tạo, khả năng vận dụng kiến thức, trong đó lao động thông tin
là một loại lao động trực tiếp sản xuất ra tri thức.
Đi kèm với sự xuất hiện của lao động thông tin là sự biến đổi nhanh
chóng trong cơ cấu ngành nghề của nền kinh tế. Việc thu hẹp những ngành
nghề trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và xu hướng mở rộng, phát
triển các loại ngành nghề mới thuộc lĩnh vực hoạt động dịch vụ tất yếu kéo
theo sự thay đổi về cơ cấu lao động. Số lao động trong các lĩnh vực có liên
quan đến thông tin và xử lý thông tin tăng nhanh, đặc biệt là trong các lĩnh vực
phần mềm máy tính, nghiên cứu triển khai, phân tích, đo lường, giáo dục đào
tạo và hàng loạt các ngành khác. Cơ cấu lao động biến đổi theo hướng tăng
đội ngũ lao động chất xám. Vai trò của người điều hành sản xuất ngày càng
trở nên hết sức quan trọng, quyết định sự thành bại của các công ty, các tổ
chức kinh tế. Như vậy, ngoài việc đem lại những lợi ích to lớn, như thúc đẩy
nền kinh tế phát triển vượt bậc, tạo ra của cải vật chất ngày càng nhiều, tạo
những cơ hội có việc làm mới thì nền sản xuất mới, với những đòi hỏi khắt
khe về năng lực và kỹ năng lao động cũng sẽ loại trừ những cá nhân không
đáp ứng được những yêu cầu đó.
Có thể thấy, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nòng cốt
là cách mạng công nghệ thông tin đã góp phần làm biến đổi nội dung và tính
chất của lao động. Về nội dung, lao động đang chuyển dần từ lao động thủ
công, lao động cơ khí sang lao động thông tin, lao động trí tuệ. Về tính chất,
lao động đang biến đổi theo hướng ngày càng mang tính xã hội hoá sâu sắc.
Lao động được xã hội hoá thể hiện ở việc tổ chức sản xuất trực tiếp giữa
các đơn vị sản xuất diễn ra trên một quy mô lớn với sự phân công lao động
vừa đảm bảo khả năng chuyên môn hoá, vừa có khả năng phi chuyên môn hoá
một cách rộng rãi.
Sự biến đổi nội dung và tính chất của lao động dưới tác động của cuộc
cách mạng trong công nghệ thông tin đặt ra một câu hỏi là, phải chăng bản
chất của lao động đang có sự thay đổi? Chúng ta biết rằng, trong các nền sản
xuất dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, lao động là một sự
bắt buộc, bị thúc bách bởi những nhu cầu bên ngoài lao động và trở thành cái
mà C.Mác gọi là “lao động bị tha hoá”. Ngày nay, với sự thay đổi nội dung và
tính chất của lao động, chúng ta có thể hy vọng rằng, lao động không còn là
một thứ nô dịch, lao động đang dần trở về đúng với bản chất đích thực của
nó, tức là lao động đã thực sự trở thành một nhu cầu, là hoạt động tự do và
sáng tạo của con người. Công nghệ thông tin đã và đang tạo tiền đề cho việc
thay đổi vị trí, chức năng của con người trong quá trình sản xuất. Với sự phát
triển của công nghệ thông tin, nhiều chức năng mà con người trực tiếp đảm
nhận trong chu trình sản xuất trước đây được chuyển giao dần cho máy móc.
Điều này đã giúp con người có thể giảm thiểu thời gian cho các hoạt động
vật chất và dành nhiều thời gian hơn cho các hoạt động tinh thần, sáng tạo và
hưởng thụ. Con người không còn bị cột chặt vào guồng máy sản xuất như
trong nền kinh tế công nghiệp, mà họ được tự do hơn trong các hoạt động
của mình. Công nghệ thông tin cùng các công nghệ khác của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ đang góp phần tạo ra một hệ thống "khoa học kỹ
thuật sản xuất" thống nhất. Với hệ thống này, lao động ngày càng mang
nhiều nội dung khoa học, trí tuệ và sáng tạo.
Song, cần phải lưu ý rằng, điều đó không có nghĩa là những tiến bộ của
công nghệ nói chung và công nghệ thông tin nói riêng là nguyên nhân duy nhất
quyết định sự thay đổi bản chất của lao động. Chủ nghĩa Mác đã chỉ ra rằng,
bản chất của lao động là sáng tạo, nhưng dưới chế độ sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất, cái bản chất tốt đẹp đó của lao động đã bị tha hoá. Bởi vậy,
nếu chỉ căn cứ vào sự phát triển của các tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công
nghệ mà khẳng định trong nền kinh tế thông tin, lao động đã trở về với bản
chất sáng tạo ban đầu của nó thì chưa thoả đáng. Ở điểm này, chúng ta cần
phải lưu ý tới quan điểm của thuyết kỹ trị khi thuyết này cho rằng, sự phát
triển của kỹ thuật sẽ quyết định toàn bộ sự phát triển của các lĩnh vực khác
của đời sống xã hội. Trong thực tế, điều đó đã không diễn ra đúng như vậy;
bởi lẽ, trong xã hội vẫn còn tồn tại sự đối kháng về lợi ích giữa người giàu
với người nghèo, giữa các nước phát triển với các nước kém phát triển.
Mâu thuẫn lớn nhất hiện nay của xã hội tư bản, kể cả các nước tư bản
phát triển cao nhờ công nghệ thông tin như nước Mỹ, vẫn là mâu thuẫn giữa
tính chất xã hội hoá cao độ của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất. Mặc dù, chủ nghĩa tư bản đã có những điều chỉnh
nhất định trong phân phối và đa dạng hoá các hình thức sở hữu do sự bắt buộc
của sản xuất, song bản chất của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa vẫn không
hề thay đổi. Dù cho một bộ phận dân cư có sự chuyển dời về địa vị xã hội,
hoặc được cải thiện về mặt đời sống… thì nhìn tổng thể, quyền lực vẫn
thuộc về những nhà tư bản lớn, những nhóm người có khả năng thao túng
kinh tế quốc gia, thậm chí cả nền kinh tế thế giới.
Trong nền kinh tế hiện đại, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất đã phát
triển vượt bậc và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trên bình diện quốc tế
vẫn còn tồn tại khá phổ biến. Mặc dù lực lượng sản xuất đã có bước phát
triển nhảy vọt về chất, song quan hệ sản xuất vẫn chưa có những thay đổi
tương ứng, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất cả ở tầm quốc
gia lẫn quốc tế. Tuy một số cường quốc tư bản hàng đầu đã có những điều
chỉnh trong chính sách phát triển, nhưng đó vẫn chỉ là những cải biến để thích
ứng và mang tính cục bộ. Nhìn tổng thể, chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa đối với tư liệu sản xuất ở những quốc gia này vẫn tiếp tục được duy trì
và đây chính là nguồn gốc của những mâu thuẫn gay gắt trong xã hội tư bản.
Hơn nữa, ngày nay, sự thống trị của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa không
còn bó hẹp trong các nước tư bản chủ nghĩa, mà đã bao trùm trên phạm vi
toàn cầu, thông qua các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia. Người nắm giữ
các công ty này đều là những tập đoàn tư bản lớn của các nước tư bản phát
triển. Họ có đủ tiềm lực để nắm bắt, chiếm lĩnh những thành tựu mới nhất
của khoa học và công nghệ, đặc biệt là những thành tựu của công nghệ thông
tin. Có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng, trong thời đại thông tin, kinh
tế tri thức ngày nay, ai nắm giữ được thông tin người đó sẽ chiến thắng và
giữ quyền thống trị. Các nước tư bản phát triển đang làm được điều đó và do
vậy, mâu thuẫn giữa con người với con người trong thời đại thông tin ngày
nay chưa thể bị triệt tiêu. Bởi vậy, hoàn toàn không nên ảo tưởng rằng, sự
phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại có thể làm thay đổi được bản
chất của chủ nghĩa tư bản. Chính ở đây, những nghiên cứu sâu hơn về tác
động của công nghệ hiện đại, trong đó có công nghệ thông tin, trong tương
quan với các biến đổi xã hội khác là một đòi hỏi cấp thiết.
2. Những cơ hội và thách thức đặt ra cho lao động Việt Nam trong
bối cảnh cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức
Nói đến bối cảnh của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và phát triển
kinh tế tri thức hiện nay đó chính là việc đề cập đến cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư. Đối với Việt Nam, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
tư có những ảnh hưởng to lớn, mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra
không ít thách thức trong vấn đề liên quan đến lao động Việt Nam.
2.1. Cơ hội
Cách mạng công nghiệp 4.0 mở ra rất nhiều cơ hội làm việc mới, hứa
hẹn khả năng gia tăng năng suất và nâng cao thu thập cho người lao động.
Cụ thể:
Thứ nhất, Việt Nam hiện vẫn là quốc gia có lợi thế về số lượng lao
động trẻ và lao động giá rẻ. Cách mạng 4.0 có thể dẫn đến xu hướng
chuyển dịch các ngành công nghiệp truyền thống sử dụng nhiều lao động từ
các nước phát triển sang các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam (
K ergroach, 2017). Nếu như xu hướng chuyển dịch này là rõ ràng thì Việt
Nam thì tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam sẽ không ở mức quá cao. Tuy nhiên
lợi thế về lao động giá rẻ sẽ mất dần đi khi chúng ta dân số dần bị già hoá.
Do vậy về mặt dài hạn, tăng trưởng cần dựa vào sự gia tăng của chất lượng
lao động.
Thứ hai, nhiều nhà phân tích cho rằng những cơ hội việc làm mới sẽ
được tạo ra trong cách mạng 4.0. Đặc biệt nhu cầu đối với những lao động
có khả năng kết hợp giữa máy móc với những kiến thức về kỹ thuật điện
tử, điều khiển và thông tin hay chính là kiến thức STEM (Tomas Volek;
Martina Novotnas, 2017). Cuộc cách mạng này sẽ tạo ra những thay đổi
trong cơ cấu lao động giữa các ngành mà ở đó chúng ta có thể kỳ vọng nhu
cầu sử dụng lao động trong các ngành công nghiệp sản xuất truyền thống sẽ
giảm đi trong khi nhu cầu lao động trong ngành dịch vụ có sự tăng lên. Sự
tăng lên của cầu lao động trong những ngành dịch hứa hẹn sẽ góp phần tăng
thu nhập cho người lao động.
Thứ ba, cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra áp lực và đồng thời là cơ hội
để lao động phải Việt Nam không ngừng nâng cao trình độ, kỹ năng cũng
như tạo áp lực đổi mới lên hệ thống giáo dục đào tạo để có thể đáp ứng nhu
cầu về nhân lực trong thời kỳ mới. Những cơ hội việc làm mới được tạo
ra đòi hỏi người lao động phải có trình độ và kỹ năng tương ứng như các
kỹ năng giải quyết vấn đề, teamwork, giao tiếp, công nghệ thông tin…là
những kỹ năng mà đại bộ phận lao động Việt Nam đang thiếu và yếu. Để
đáp ứng được những yêu cầu công việc mới đòi hỏi sự nỗ lực của bản thân
người lao động và đặc biệt sự đổi mới và phát triển của hệ thống giáo dục
đào tạo.
Thứ tư, năng suất lao động trong cách mạng 4.0 có xu hướng được
cải thiện do việc giảm nhu cầu sử dụng lao động là con người mà thay
bằng máy móc và robots. Với công nghệ phát triển, các nhà máy sản xuất
có thể tránh được những lỗi phát sinh bởi máy móc do có khả năng phân
tích và dự đoán trước các lỗi kỹ thuật. Hiệu quả sản xuất có thể sẽ được
cải thiện nhanh hơn do các dịch vụ kho vận được nâng cấp, giảm tiêu hao
năng lượng và sử dụng nguyên liệu…, từ đó tiết kiệm chi phí sản xuất cho
doanh nghiệp trong khi doanh thu có xu hướng tăng do đáp ứng được tốt hơn
nhu cầu của người tiêu dùng. Người lao động lúc này được sử dụng một
cách hiệu quả hơn và chỉ cho những công việc mà thực sự đòi hỏi sự có
mặt của con người. Năng suất của người lao động tăng lên tạo cơ hội để
Việt Nam tạo ra những đột phá trong cải thiện tiền lương và thu nhập cho
người lao động.
Như vậy nếu Việt Nam có thể tận dụng được những lợi thế này do
cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại thì đó sẽ là cú huých rất lớn giúp
người lao động có được những công việc làm tốt hơn, giúp cải thiện năng
suất và thu nhập của họ
2.2. Thách thức
Cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại rất nhiều thách thức đối với các
quốc gia nói chung và đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển như Việt
Nam nói riêng.
Một là, thiếu hụt lao động có trình độ và kỹ năng phù hợp.
Như đã phân tích ở trên, Việt Nam vẫn là nước có lợi thế về số lượng
lao động, nhưng chất lượng lao động thấp đang là vấn đề báo động đối với
nước ta. Do vậy, thách thức lớn nhất đặt ra cho chúng ta là thiếu hụt nguồn
nhân lực có trình độ. Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, các công ty
sẽ gia gia tăng nhu cầu sử dụng lao động có trình độ và thay thế dần giữa sử
dụng giữa lao động và vốn. Điều đó có nghĩa là việc sử dụng lao động vẫn
là cần thiết nhưng vai trò của người lao động sẽ thay đổi. Các doanh nghiệp
sẽ có nhu cầu nhiều hơn với những lao động có khả năng tích hợp các kiến
thức về công nghệ, tự động hoá, thông tin và những kỹ năng mềm quan trọng
như teamwork, giao tiếp, giải quyết vấn đề, kỹ năng về công nghệ thông tin
trong khi lại cắt giảm nhu cầu đối với các lao động giản đơn.
Hai là, thách thức trong chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng năng suất lao
động và thu nhập cho người lao động.
Hiện có khoảng 40% lao động Việt Nam đang làm việc trong lĩnh vực
nông nghiệp với năng suất lao động cực thấp. Trong cuộc cách mạng 4.0,
một số ngành nghề sử dụng lao động giản đơn sẽ không còn nhưng những
ngành nghề mới đòi hỏi lao động có trình độ sẽ ra đời. Trong nông nghiệp,
việc tăng cường ứng dụng công nghệ trong nông nghiệp sẽ góp phần tăng
suất, sản lượng, giảm số giờ lao động của lao động nông nghiệp. Nhưng để
có thể thực sự tạo ra sự cải thiện đột phá trong lĩnh vực nông nghiệp, một
mặt nó đòi hỏi người nông dân phải có những kỹ năng tay nghề mới,
mặt khác lao động nông nghiệp, nông thôn cần có sự chuẩn bị về trình độ
và kỹ năng để có thể chuyển dịch thành công từ lĩnh vực nông nghiệp sang
công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành sản xuất, lao động giản đơn
trong ngành dệt may, giày da và trong ngành điện tử có khả năng rất lớn sẽ
bị thay thế khi máy móc, công nghệ và tự động hoá diễn ra trên quy mô rộng
(ILO,2018). Do đó, để có thể đáp ứng được với yêu cầu của công việc trong
tình hình mới đòi hỏi nguồn nhân lực phải được trang bị kiến thức, kỹ năng
cần thiết. Tuy nhiên, như đã chỉ ra ở trên, lao động của chúng ta đa phần là
lao động phổ thông, chưa qua đào tạo, các kỹ năng cứng mà mềm cũng
thiếu và yếu, vậy nên bài toán chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng năng
suất và thu nhập trở thành một bài toán không đơn giản.
Ba là, thách thức trong việc gia tăng bất bình đẳng giữa các tầng lớp lao
động.
Bất bình đẳng nổi lên giữa các tầng lớp lao động do cơ cấu lao động
thay đổi và những bộ phận lao động kém thích nghi với công nghệ mới sẽ bị
đào thải. Bất bất bình đẳng vì thế tăng lên giữa các ngành kinh tế, giữa các
vùng miền, giữa thành thị và nông thôn ( Zoltán Rajnai; István Kocsis, 2017).
Những nhóm lao động nghèo sẽ là những người bị ảnh hưởng rất nhiều
trong bối cảnh của công nghệ số. Cách mạng 4.0 cũng có thể khiến bất
bình đẳng về giới tăng lên do phụ nữ vẫn thường được xem là kém thích
ứng với sự thay đổi của công nghệ hơn là nam giới. Với tỷ lệ 48% lao
động là nữ như hiện nay cho thấy nếu không có những chính sách chuẩn bị
và hỗ trợ cho lao động nữ trong bối cảnh công nghệ thì bộ phận lao động
này có khả năng bị tổn thương rất lớn.
Bốn là, thách thức đặt ra đối với hệ thống giáo dục đào tạo.
Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố then chốt để đảm bảo sự thành
công của Việt Nam trong bối cảnh của cách mạng 4.0. Để nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, khâu đột phá là đổi mới và nâng cao giáo dục và đào
tạo. Nhưng vấn đề đặt ra cho Việt Nam là nền giáo dục đào tạo của chúng
ta còn ở trình độ thấp và chậm được đổi mới. Mặc dù công cuộc đổi mới
giáo dục nước nhà đã được tiến hành từ khá lâu nhưng chưa đạt được những
thành tựu khả quan. Hiện vẫn còn rất nhiều khoảng trống và bất cập
trong hệ thống giáo dục và đào tạo của Việt Nam. Bằng chứng là mặc dù
nhu cầu với lao động, đặc biệt là lao động trình độ cao là rất cao nhưng
các doanh nghiệp lại không thể tìm được những người lao động tốt và đáp
ứng được nhu cầu của công việc. Trong khi đó có một thực tế là tỷ lệ thất
nghiệp, đặc biệt là thất nghiệp của đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn
kỹ thuật cao lại ở mức cao (đã phân tích ở trên). Điều này cho thấy khoảng
cách giữa đào tạo, đặc biệt là đào tạo đại học với nhu cầu xã hội là rất
lớn. hông chỉ chất lượng đào tạo thấp, hiện còn tồn tại sự bất hợp lý trong
cơ cấu đào tạo chung, cơ cấu đào tạo theo ngành cũng như sự thiếu hụt lao
động ở một số ngành mà thị trường lao động đang có nhu cầu.
Đặc biệt, một trong những đặc thù của cách mạng 4.0 là kết nối và chia
sẻ dữ liệu. Do vậy việc giảng dạy, đặc biệt là giảng dạy kỹ sư phải có khả
năng tích hợp được nhiều kiến thức bằng phương pháp STEM. Nhưng trong
số 350 trường đại học ở Việt Nam, chỉ có 12 trường có nhóm giảng viên
được trang bị kiến thức giảng dạy bằng phương pháp STEM. Trong bố cảnh
mới đòi hỏi người lao động không chỉ có được năng lực phối hợp, tổ chức
tốt các công việc và còn phải có được những kỹ năng phối hợp với nhau và
có được tư duy đổi mới sáng tạo mới có thể thích ứng tốt với những yêu
cầu của công việc. Điều này đòi hỏi phải có những quan điểm về giáo dục
và đào tạo mới: đó là liên tục, mở và mang tính khai phóng. Cách tiếp cận
của chúng ta đối với quan điểm giáo dục này còn hạn chế.
Năm là, Việt Nam chưa có sự chuẩn bị đáng kể nào trước thời đại của
công nghệ số.
Tại Hội nghị Industry 4.0 Summit and Expo 2018 tổ chức tại Hà Nội vào
ngày 13 tháng 7 năm 2018, Thủ tướng Ng uyễn Xuân Phúc khẳng định Việt
Nam đã sẵn sàng đón nhận những thách thức của cuộc cách mạng 4.0 và
tận dụng những cơ hội mà nó mang lại. Theo số liệu từ cuộc điều tra khảo
sát do Vietnam ICT Summit thực hiện thì có 35,2% các doanh nghiệp Việt đã
sẵn sàng cho cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, trong đó chủ yếu là các doanh
nghiệp, IT và trong lĩnh vực ngân hàng. Tuy nhiên, theo đánh giá của các tổ
chức quốc tế Việt Nam lại chưa có sự chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc cách
mạng này.
Theo báo cáo mới nhất của diễn đàn kinh tế thế giới đánh giá sự sẵn
sàng của các quốc gia trước tương lai của nền sản xuất thế giới thì Việt
Nam nằm trong các quốc gia “Nascent countries”, tức là thuộc nhóm các quốc
gia sơ khai, đứng ở thứ hạng cuối cùng và chưa có chuẩn bị tốt cho cuộc
cách mạng này. Theo đó, trong số 100 quốc gia được đánh giá, Việt Nam
đứng thứ 48 về chỉ số cơ cấu sản xuất và đứng thứ 53 về chỉ số các nhân tố
dẫn dắt sản xuất có khoảng cách rất xa với Malaysia (lần luợt xếp thứ 20 và
22 về hai chỉ số này) và Thái Lan (xếp thứ 12 và 35).
Đánh giá sự sẵn sàng của một số quốc gia đối với
tương lai của nền sản xuất thế giới
Tên quốc gia
Trung Quốc
Malaysia
Singapore
Ấn Độ
Phillipines
Thái Lan
HongKong
Qatar
Việt Nam
Chỉ số cấu trúc
sản xuất
Điểm
Xếp
hạng
8,25
5
6,81
2
0 1
7,28
1 3
5,99
0 2
6,12
8 1
7,13
2 5
4,52
3,89
7
2 4
4,96
8
Chỉ số các yếu tố
dẫn dắt sản xuất
Điểm
Xếp
hạng
6,14
2
5
6,51
2
1 2
7,96
5,24
4
4
4,51
6
6
5,45
3
5 8
7,45
5,96
2
9
4,93
5
3
Nguồn: (WEF, 2018)
Đáng chú ý là trong các tiêu chí để đánh giá các nhân tố dẫn dắt sản
xuất, các yếu tố liên quan đến đổi mới sáng tạo và công nghệ sáng tạo chiếm
một tỷ trọng lớn cho thấy năng lực đổi mới sáng tạo của Việt Nam còn ở
mức thấp (WEF, 2018). Điều này là một trở ngại không nhỏ cho chúng ta khi
bước vào cuộc cách mạng 4.0. Tuy vậy, cũng có thể thấy rằng tuy Việt Nam
nằm trong các nhóm nước được xếp hạng ở vị trí cuối cùng về mức độ sẵn
sàng nhưng vị trí của chúng ta đang khá gần với nhóm nước tiềm năng. Do
vậy, trong thời gian tới nếu Việt Nam có những chiến lược đúng đắn, chúng
ta có nhiều cơ hội cải thiện năng lực đổi mới và sẵn sàng hơn trước kỷ
nguyên số.
3. Đổi mới phân công và sử dụng lao động trong bối cảnh cách mạng
khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự phát triển
kinh tế trí thức hiện nay, vấn đề phân công lao động và sử dụng lao động ở
Việt Nam có sự thay đổi theo xu thế chung của khu vực và thế giới.
Việt Nam hiện là quốc gia sở hữu lực lượng lao động dồi dào với gần
55 triệu lao động. Đại bộ phận lao động của chúng ta là lao động trẻ.
Lực lượng lao động Việt Nam qua các năm phân theo nhóm tuổi
Cơ cấu(%)
2000
Tổng số
(nghìn
người) 15 24 25 49
38.545,4 8.289,1 25.474,1
50+
15 24 25 49
4.782,2 21,5
66,1
50+
12,4
2002
40.716,0 8.776,8 26.783,9
5.155,3
21,6
65,7
12,7
2004
43.008,9 9.060,6 27.236,0
6.712,3
21,1
63,3
15,6
2006
46.238,7 9.727,4 29.447,7
7.063,6
21,0
63,7
15,3
2008
48.209,6 8.734,3 29.973,4
9.501,9
18,1
62,2
19,7
2010
50.392,9 9.245,4 30.939,2 10.208,3
18,3
61,4
20,3
2012
52.348,0 7.887,8 32.014,5 12.445,7
15,1
61,1
23,8
2014
53.748,0 7.585,2 32.081,0 14.081,8
14,1
59,7
26,2
2016
54.445,3 7.510,6 32.418,3 14.516,4
13,8
59,5
26,7
Năm
Sơ bộ
2017
59,5
54.823,8 7.581,1 32.599,2 14.643,5
13,8
26,7
Nguồn: GSO
Lực lượng lao động nằm trong độ tuổi từ 15 đến 49 hiện chiếm trên
73% lực lượng lao động, trong đó lao động từ 15 đến 24 tuổi chiếm gần
14% và lao động từ 25 đến 49 tuổi chiếm 60%. Cơ cấu lao động Việt Nam
hiện vẫn đang ở trong thời kỳ dân số vàng và chúng ta vẫn được xem là
quốc gia đang có lợi thế về số lượng lao động. Tuy nhiên chúng ta đang mất
dần đi lợi thế này khi chuẩn bị bước vào thời kỳ già hoá dân số. Lao động từ
50 tuổi trở lên đang bắt đầu tăng nhanh từ mức 12,4% vào năm 2000 lên gấp
hơn 2 lần, 26,7% vào năm 2017. Theo dự báo của các tổ chức quốc tế, Việt
Nam sẽ bước vào thời kỳ già hoá dân số trong khoảng 15 đến 20 năm nữa.
Khi không có lợi thế về số lượng lao động nữa, chúng ta phải dựa vào chất
lượng của lao động.
Lực lượng lao động Việt Nam phân theo giới tính và
phân theo thành thị và nông thôn
Thành
thị
Nông
thôn
Tổng số
Nam
Nữ
2005
42.774,9
21.926,4
20.848,5
10.689,1 32.085,8
2010
49.048,5
25.305,9
23.742,6
13.531,4 35.517,1
2015
52.840,0
27.216,7
25.623,3
16.374,8 36.465,2
2016
53.302,8
27.442,8
25.860,0
16.923,6 36.379,2
Sơ bộ
2017
53.703,4
27.813,7
25.889,7
17.116,7 36.586,7
Tỷ lệ
(%)
Tổng số
Nam
Nữ
Thành
thị
Nông
thôn
2005
100
51,3
48,7
25,0
75,0
2010
100
51,6
48,4
27,6
72,4
2015
100
51,5
48,5
31,0
69,0
2016
100
51,5
48,5
31,7
68,3
Sơ bộ
2017
100
51,8
48,2
31,9
68,1
Nguồn: GSO
Cơ cấu lao động về giới của Việt Nam hiện nay khá cân bằng với
khoảng 48% lao động nữ và 52% lao động là nam giới. Lao động làm việc ở
khu vực nông thôn có giảm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ cao trên tổng số lao
động, từ 75% trên tổng số lao động vào năm 2005 xuống còn 68,1% vào năm
2017
Có thể thấy đại bộ phận lao động Việt Nam làm việc trong ngành nông,
lâm nghiệp và thuỷ sản. Cơ cấu chuyển dịch lao động theo ngành diễn ra rất
chậm. Cụ thể là năm 2005, tỷ lệ lao động làm việc trong lĩnh vực nông
nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản; công nghiệp và xây dựng, dịch vụ lần
lượt là 55,1%, 17,6% và 27,1%. Tính đến năm 2017, tức là sau 12 năm; mặc
dù đã có sự chuyển dịch lao động lao động sang khu vực công nghiệp và xây
dựng và dịch vụ (lao động trong hai ngành này tăng lên tương ứng 25,7% và
34,1% trên tổng số lao động Việt Nam) nhưng lao động trong lĩnh vực nông
nghiệp vẫn ở mức cao 40,2%.
Tỷ lệ (%) lao động đã qua đào tạo và chưa qua đào tạo của Việt Nam
Nguồn: GSO
Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của chúng ta đạt thấp và chậm được cải
thiện theo thời gian. Năm 2009, tỷ lệ lao động đã qua đào tào chiếm 14,8%
trên tổng số lao động. Tính đến thời điểm năm 2016, ước tính cũng mới chỉ
có trên 20% lao động đã qua đào tạo. Bên cạnh đó có sự mất cân đối nhất
định trong cơ cấu đào tạo, trong đó tỷ lệ lao động được đào tạo trình độ đại
học trở lên tăng nhanh hơn so với các loại hình đạo khác (lao động qua đào
tạo có trình độ đại học trở lên tăng nhanh từ 5,5% vào năm 2009 lên 9% vào
năm 2016) trong khi số lao động được đào tào dưới hình thức dạy nghề, trung
cấp chuyên nghiệp và cao đẳng tăng chậm hoặc tăng không đáng kể (lao
động được đào tạo trình độ cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề
tương ứng từ 1,5%, 2,7% và 4,8% vào năm 2009 lên 2,7%, 3,9% và 5% vào
năm 2006). Sự mất cân đối không những xảy ra đối với cơ cấu đào tạo mà
còn tồn tại sự mất cân đối trong hệ thống các trường đào tạo, mất cân đối
về ngành nghề. Nguồn nhân lực không được đào tạo tốt và bố trí hợp lý
khiến cho lao động không thể phát huy được hết vai trò và tiềm năng của nó
phục vụ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Việt Nam hiện đang ở trong cảnh
vừa thừa vừa thiếu lao động, thừa lao động có tay nghề thấp nhưng lại thiếu
lao động lành nghề. Trong một báo cáo của mình, World Bank đã chỉ ra, hiện
các doanh nghiệp gặp phải khó khăn rất lớn trong việc tuyển dụng lao động
do lao động không có đủ những kiến thức và kỹ năng cần thiết và do sự
thiếu hụt lao động ở một số ngành nghề (WB, 2013). Các doanh nghiệp cũng
đồng thuận về nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự yếu kém của lao động Việt
Nam là do hệ thống giáo dục và đào tạo. Hiện nay cũng như trong thời gian
tới, doanh nghiệp có nhu cầu cao đối với người lao động có những kỹ năng
tổng hợp về cả tay nghề, nhận thức và hành vi, đặc biệt là các kỹ năng như
giao tiếp, teamwork, giải quyết vấn đề nhưng những kỹ năng hiện lao động
Việt Nam đang rất yếu.
Vì lao động chủ yếu làm trong lĩnh vực nông nghiệp và ở nông thôn nên
tỉ lệ thất nghiệp ở Việt Nam thuộc hàng thấp nhất Đông Nam Á và thế giới
nhưng tỷ lệ thiếu việc làm lại khá cao do tính chất mùa vụ của nghề nông.
Đây cũng là lí do khiến tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị cao hơn so với
ở nông thôn nhưng tỷ lệ thiếu việc làm ở khu vực nông thôn lại cao hơn so
với thành thị (xem bảng 5). Tuy nhiên cũng có thể thấy rằng tỷ lệ thất nghiệp
và tỷ lệ thiếu việc làm đã giảm theo thời gian. Trong đó tỷ lệ thất nghiệp
chung và tỷ lệ thiếu việc làm chung giảm tương ứng từ mức 2,38% và 4,65%
năm 2008 xuống còn 2,24 % và 3,18%.
Thất nghiệp của Việt Nam qua các năm phân theo
thành thị và nông thôn
Tỷ lệ thất nghiệp
Chung Thành thị Nông thôn
Sơ bộ
2017
2016
2014
2012
2010
2008
2,24
2,30
2,10
1,96
2,88
2,38
3,18
3,23
3,40
3,21
4,29
4,65
Tỷ lệ thiếu việc làm
Chung Thành thị Nông thôn
1,78
1,84
1,49
1,39
2,30
1,53
1,62
1,66
2,35
2,74
3,57
5,10
0,82
0,73
1,20
1,56
1,82
2,34
2,03
2,12
2,90
3,27
4,26
6,10
Nguồn: GSO
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỔI MỚI PHÂN CÔNG VÀ SỬ DỤNG LAO
ĐỘNG TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM
Trên cơ sở phân tích thực trạng phân công và sử dụng lao động ở Việt
Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế
tri thức, những cơ hội và thách thức của cách mạng 4.0 đối với lao động, tác
giả đề xuất một số khuyến nghị giúp lao động nước ta tận dụng được
những cơ hội và vượt qua những thách thức đặt ra như sau:
1. Đối với chính phủ
Cần xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực sáng tạo, với sự hợp
tác chặt chẽ giữa các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp. Chiến lược cần đảm
bảo tăng cường sự tham gia của lao động nữ. Cần có kế hoạch để vượt qua
các rào cản về nhận thức, tầm nhìn nhằm huy động nguồn lực cho đào tạo
nhân lực, coi đó là sự sống còn của doanh nghiệp, tương lai của quốc gia.
Cần tăng cường các yếu tố sáng tạo trong xây dựng các chính sách về
giáo dục đào tạo và các chính sách lao động, việc làm đáp ứng các yêu cầu
mới về kỹ năng, tạo ra môi trường đào tạo tốt hơn. Cần có các chính sách thị
trường lao động tích cực với các mục tiêu xác định rõ ràng và các chương trình
hỗ trợ lao động tìm việc. Thị trường lao động và các chính sách xã hội cần
được xây dựng phù hợp với các hình thức việc làm mới.
Cần có những quy định luật pháp rõ ràng và tạo sân chơi bình đẳng cho
mọi doanh nghiệp và có các chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào
R&D, đổi mới công nghệ để tận dụng cơ hội từ cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ 4.
Nghiên cứu chính sách đào tạo lao động cho khu vực nông nghiệp, nông
thôn, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn để
chuyển dịch cơ cấu lao động thành công và cải thiện thu nhập cho lao động
nông nghiệp, nông thôn.
Khuyến khích đổi mới sáng tạo thông qua xây dựng các trung tâm đổi
mới sáng tạo trực thuộc các trường đại học gắn chặt chặt với môi trường
kinh doanh, hỗ trợ các ý tưởng khởi nghiệp và nghiên cứu triển khai. Cần có
chính sách huy động nguồn vốn từ nhà đầu tư thiên thần và mạo hiểm để
đầu tư vào các hoạt động khởi nghiệp sáng tạo.
Cần hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội bảo đảm cho mọi người dân có
thu nhập tối thiểu, có khả năng phòng ngừa, khắc phục và giảm thiểu rủi ro;
hoàn thiện các dịch vụ công để cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản về y tế,
giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin cho người dân.
2. Đối với hệ thống đào tạo và dạy nghề
Cuộc cách mạng công nghiệp mới mới đặt ra yêu cầu phải kết hợp các
kiến thức về công nghệ thông tin (IT) với các kiến thức về công nghệ điều
hành (OT) trong các chương trình đào tạo và các khóa học nghề. Do vậy, cần
tập trung vào đào tạo nghề và có những chính sách thu hút sinh viên theo học
các ngành khoa học công nghệ kỹ thuật.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua đổi mới giáo dục và
nâng cao chất lượng đào tạo là khâu then chốt. Để làm tốt nội dung này cần
tập trung vào một số điểm sau:
Cần cơ cấu lại hệ thống đào tạo để đảm bảo cân đối giữa các hình
thức đào tạo (như đào tạo đại học, cao đẳng, trung cấp, đào tạo nghề), các
ngành nghề đào tạo, chú trọng vào đào tạo những ngành nghề mà xã hội, các
doanh nghiệp đang có nhu cầu. Giáo dục nghề nghiệp cần tăng cường năng
lực của hệ thống, mở rộng thu hút người học, tăng cường đào tạo năng lực
thực hành, tập trung vào những kỹ năng cơ bản cốt lõi (sáng tạo, phân tích
phê phán, trình bày, công nghệ thông tin, ngoại ngữ….), kỹ năng kỹ thuật và
kỹ năng hành vi xã hội để làm việc trong môi trường công nghệ hiện đại.
Đổi mới nội dung và chương trình đào tạo trong đó chú trọng cập
nhật những chương trình đào tạo về STEM, công nghệ thông tin, khoa học
dữ liệu, an ninh, an toàn thông tin...Việt Nam là quốc gia có thế mạnh về
lĩnh vực khoa học tự nhiên và công nghệ thông tin nên đào tạo về STEM là
một hướng đi tốt để chúng ta tận dụng những lợi thế của mình.
Tiếp cận và thay đổi quan điểm giáo dục từ truyền thống sang hệ
thống giáo dục mở và mang tính khai phóng. Đào tạo cần linh hoạt, có tính
liên ngành, trú trọng trang bị cho sinh viên không chỉ kiến thức mà còn trang
bị năng lực nhận thức, tư duy và các kỹ năng cần thiết như kỹ năng giao
tiếp trong đó có giao tiếp bằng tiếng anh, teamwork, giải quyết vấn đề.
Đào tạo cần gắn với nhu cầu xã hội, tạo ra kết nối giữa các cơ sở
giáo dục đào tạo với các doanh nghiệp. Để liên kết thành công, trước hết
cần nâng cao nhận thức của các trường đại học và các doanh nghiệp để họ
thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng của quá trình liên kết, từ đó chủ động
liên kết với nhau. Nhờ có liên kết, sinh viên được học tập ở môi trường
mang tính thực tiễn cao hơn, các doanh nghiệp có thể bộc lộ rõ nhu cầu của
mình đối với các sản phẩm đào tạo để đặt hàng nhà trường cũng như tham
gia đóng góp trực tiếp quá trình đào tạo. Có như vậy thì nguồn nhân lực
tương lai mới phù hợp với nhu cầu của các doanh nghiệp, doanh nghiệp
không phải mất nhiều chi phí để đào tạo lại.
3. Đối với Doanh nghiệp
Cần thực sự coi nhân lực là nguồn vốn quan trọng nhất và đặt con người
ở vị trí trung tâm trong quá trình cạnh tranh, phát triển. Để có thể thích nghi
được với sự thay đổi trong cuộc cách mạng công nghiệp này, doanh nghiệp
cần tập trung vào đào tạo nguồn nhân lực, và tăng cường hợp tác với các viện
nghiên cứu, trường đại học, các cơ sở dạy nghề để nâng cao trình độ công
nghệ. Đào tạo lại cho lực lượng lao động cần được coi là nhiệm vụ thường
xuyên.
Nhiều nội dung mới trong quản lý lao động cần được cập nhật như
quản lý các đột phá kỹ năng, quản lý tài năng, ứng dụng các hình thức việc
làm linh hoạt, số hóa các nguồn tài năng.
4. Đối với người lao động
Mỗi người cần xác định rõ năng lực sở trường của mình và lựa chọn
nghề nghiệp phù hợp. Người lao động cần có được các kỹ năng phù hợp với
những công việc mới và luôn thay đổi. Người lao động cần linh hoạt hơn,
chuẩn bị cho các tình huống việc làm "phi tiêu chuẩn". Theo Frey và Osborne,
để chiến thắng trong cuộc chạy đua với quá trình tự động hóa và vi tính hóa,
người lao động cần làm chủ được các "kỹ năng sáng tạo và kỹ năng xã hội".
Phương châm "Học tập suốt đời" có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, mỗi
người lao động phải luôn nhận thức về yêu cầu nâng cao năng lực và thay đổi
kỹ năng thích nghi với công nghệ mới, đáp ứng yêu cầu công việc thông qua
rèn luyện học tập suốt đời. Chính phủ và các doanh nghiệp cần tạo ra nhiều
cơ hội hơn để đảm bảo rằng người lao động có thời gian, động lực và
phương tiện để họ tìm kiếm cơ hội được đào tạo lại.
KẾT LUẬN
Cuộc cách mạng công nghệ 4.0 và sự phát triển không ngừng của nền
kinh tế tri thức là một xu thế tất yếu của nhân loại. Bên cạnh những cơ
hội rất lớn mà cuộc cách mạng 4.0 mang lại thì nó cũng đặt ra không ít
những thách thức cho thị trường lao động các quốc gia nói chung và Việt Nam
nói riêng. Thiết nghĩ, cách tốt nhất để ứng phó với những biến đổi trong thời
đại mới đó là mỗi lao động, mỗi doanh nghiệp, mỗi cơ sở đào tạo và Chính
phủ Việt Nam cần chủ động chuẩn bị và nỗ lực hết mình nhằm đón nhận
những thời cơ và vượt qua những thách thức. Đổi mới phân công và sử dụng
lao động trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ và phát triển
kinh tế tri thức là xu thế và yêu cầu hết sức cần thiết. Nếu không chúng ta có
thể sẽ đứng nguy cơ tụt hậu nhanh hơn và xa hơn bao giờ hết.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] C.Mác – Ănghen, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995,
tập 4, tr.602
[2] C.Mác – Ănghen, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995,
tập 4, tr.598
[3] C.Mác – Ănghen, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995,
tập 46, phần II, tr.368369
[4] C.Mác – Ănghen, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995,
tập 46, phần II, tr.372
[5] Klaus Schwab: “The Fourth Industrial Revolution” – Cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư, 2016, tr.5
[6] Nguyễn Thị Lan Hương, Tác động của cuộc cách mạng trong công
nghệ thông tin đến lực lượng sản xuất – nhìn từ góc độ triết học, tạp chí
Triết học, số 9 (184), tháng 9/2006
[7] Website: />
Tiểu luận Những vấn đề KTCT đương đại
Văn Công Vũ