Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

LUẬN VĂN: QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC VIÊN TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.81 KB, 108 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


NGUYỄN THẾ VINH

QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC VIÊN TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH
TRỊ HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ:
60 14 05

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS PHẠM MINH THỤ

HÀ NỘI - 2012
MỤC LỤC
Trang


MỞ ĐẦU

Chương 1

3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUẢN LÝ
QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC
VIÊN TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ


1.1.
1.2.
1.3.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Một số khái niệm cơ bản
Nội dung quản lý và các nhân tố tác động đến quản lý

8
8
14

quá trình giáo dục đạo đức cho học viên Trường Sĩ
1.4.

quan Chính trị
Thực trạng quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho
học viên Trường Sĩ quan Chính trị

Chương 2

21
31

YÊU CẦU VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC VIÊN TRƯỜNG
SĨ QUAN CHÍNH TRỊ HIỆN NAY

2.1.


44

Yêu cầu trong xây dựng và thực hiện quản lý quá
trình giáo dục đạo đức cho học viên Trường Sĩ quan

2.2.

Chính trị hiện nay
Biện pháp quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học

viên Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay
2.3.
Khảo sát sự cần thiết, tính khả thi của các biện pháp
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

44
46
74
78
80
84


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đạo đức là cái gốc, là nền tảng của người cán bộ cách mạng. Nâng cao
đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là vấn đề có ý nghĩa

chiến lược, là yêu cầu thường xuyên của công tác xây dựng Đảng. Văn kiện
Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam toàn quốc lần thứ XI chỉ rõ: “Tình
trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu,
những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục
diễn biến phức tạp...” [12, tr.173]. Một trong những giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục - đào tạo được Đại hội chỉ ra là: “... nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống
lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống...” [12, tr.216]. Đây là vấn đề cấp thiết,
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong điều kiện thế giới có nhiều biến động
phức tạp như hiện nay.
Từ khi ra đời đến nay, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn xác định hoạt
động giáo dục phẩm chất nhân cách người quân nhân cách mạng giữ vai trò
trọng yếu, để nâng cao chất lượng nhân tố con người và sức mạnh chiến đấu
của quân đội, nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục cán bộ, chiến sĩ phát triển
toàn diện, trở thành những con người mới xã hội chủ nghĩa. Trong hệ thống
phẩm chất nhân cách của người quân nhân cách mạng thì đạo đức có vai trò to
lớn trong định hướng giá trị cuộc sống, là phương thức cơ bản để điều chỉnh
thái độ, hành vi, là chất keo gắn kết các quân nhân giữa các tập thể và giữa
quân đội với nhân dân, tạo thành khối thống nhất về ý chí và hành động để
thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ được giao.


4
Trường Sĩ quan Chính trị là trung tâm đào tạo cán bộ chính trị cấp phân
đội, giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trình độ đại học, cao đẳng cho
toàn quân. Thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ “đối với bộ đội, chính trị viên
phải: thân thiết như người chị; công bình như người anh; hiểu biết như người
bạn”, trải qua 36 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành Nhà trường luôn
quán triệt sâu sắc lời huấn thị đó. Vì vậy, trong quá trình đào tạo không những

trang bị cho học viên một hệ thống tri thức, kỹ năng nghề nghiệp quân sự, mà
còn xây dựng cho họ thành những đảng viên ưu tú, tuyệt đối trung thành với
Đảng Cộng sản Việt Nam, có niềm tin vững chắc vào con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội; có kiến thức sâu sắc về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước; có
phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng; có bản lĩnh chính trị kiên định vững
vàng, có kỹ năng tự hoàn thiện bản thân đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo.
Tuy nhiên, trong công tác tổ chức và quản lý quá trình giáo dục vẫn còn
biểu hiện chưa thường xuyên và chưa được chú trọng đúng mức. Văn kiện
Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ VIII Trường Sĩ quan Chính trị đã chỉ rõ:
“Công tác giáo dục chính trị, xây dựng động cơ, ý thức trách nhiệm cho cán
bộ, giảng viên, học viên, nhân viên, chiến sĩ ở một số đơn vị chưa thường
xuyên; còn có biểu hiện chủ quan, đơn giản trong quản lý tư tưởng” [45,
tr.22]; một bộ phận học viên có biểu hiện trung bình chủ nghĩa, thiếu yên tâm
công tác ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả thực hiện nhiệm vụ giáo dục - đào
tạo, rèn luyện kỷ luật, xây dựng nếp sống chính quy, vi phạm điều lệnh, điều
lệ, chế độ quy định của quân đội, của Nhà trường phải xử lý kỷ luật bằng
nhiều hình thức, cá biệt có trường hợp mắc vào các tệ nạn xã hội như cờ bạc,
bất lương phải thải loại. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng
trên là do công tác giáo dục và quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học
viên của Nhà trường có mặt còn hạn chế, nhận thức về quản lý quá trình giáo


5
dục đạo đức cho học viên ở một bộ phận giảng viên, cán bộ quản lý và học
viên còn yếu kém nhất định, kế hoạch quản lý còn chung chung chưa sát với
thực tế, đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục có đồng chí năng lực, phẩm chất đạo
đức lối sống và tính tiền phong gương mẫu chưa cao, môi trường giáo dục và
những điều kiện đảm bảo còn nhiều bất cập... những hạn chế trên có nhiều
nguyên nhân, song nguyên nhân cơ bản là chưa có biện pháp hiệu quả để

quản lý quá trình giáo dục phẩm chất nhân cách toàn diện.
Từ trước đến nay đã có nhiều nhà lãnh đạo, chỉ huy, quản lý; nhiều nhà
khoa học đi sâu nghiên cứu các vấn đề có liên quan, dưới các góc độ tiếp cận
và chuyên ngành khoa học khác nhau nhằm không ngừng nâng cao phẩm chất
nhân cách cho quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam; tuy nhiên, cho
đến nay chưa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống về
quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học viên Trường Sĩ quan Chính trị.
Từ lý do trên, tác giả chọn vấn đề: “Quản lý quá trình giáo dục đạo
đức cho học viên Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay” làm đề tài nghiên
cứu, nhằm làm sáng tỏ về lý luận, thực tiễn dưới góc độ khoa học quản lý
giáo dục.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn quản lý quá trình giáo dục đạo đức
cho học viên; đề xuất các biện pháp đồng bộ, khả thi nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý trình giáo dục đạo đức cho học viên Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu: quá trình giáo dục phẩm chất nhân cách cho
học viên Trường Sĩ quan Chính trị.
* Đối tượng nghiên cứu: quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học
viên Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay.
4. Giả thuyết khoa học


6
Quá trình giáo dục đạo đức cho học viên Trường Sĩ quan Chính trị hiện
nay phụ thuộc vào sự tác động tổng hợp của nhiều yếu tố. Nếu thực hiện tốt
việc: tổ chức một cách khoa học quá trình giáo dục nâng cao nhận thức cho
học viên về nhiệm vụ, nội dung giáo dục đạo đức; kế hoạch hoá quản lý quá
trình giáo dục đạo đức cho học viên; phát huy vai trò của các tổ chức, các lực
lượng trong quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học viên; tổ chức tốt việc

xây dựng môi trường giáo dục của Nhà trường; thường xuyên kiểm tra, đánh
giá kết quả quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học viên, thì chất lượng
quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học viên có thể được nâng cao, góp
phần thực hiện tốt mục tiêu, yêu cầu đào tạo.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học
viên Trường Sĩ quan Chính trị.
Nghiên cứu thực trạng quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học viên
Trường Sĩ quan Chính trị.
Đề xuất các biện pháp quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học viên
Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay.
6. Phạm vi, giới hạn nghiên cứu
Nghiên cứu các biện pháp quản lý quá trình giáo dục đạo đức của các
đối tượng học viên đào tạo tại Trường Sĩ quan Chính trị.
Các số liệu điều tra, khảo sát tính từ năm 2008 - 2012.
7. Đóng góp mới của đề tài
Xây dựng và hoàn thiện các khái niệm: giáo dục đạo đức, quá trình
giáo dục đạo đức cho học viên, quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học
viên; đề xuất các biện pháp quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học viên
Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay.
8. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận


7
Đề tài được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, quán triệt tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục - đào tạo; về giáo
dục phẩm chất, nhân cách con người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Đồng thời, dựa trên các quan điểm, phương pháp

luận hệ thống - cấu trúc, lịch sử - lôgíc, thực tiễn trong nghiên cứu khoa học,
từ đó định hướng cho việc tiếp cận đối tượng nghiên cứu, để xem xét, luận
giải những vấn đề liên quan .
* Phương pháp nghiên cứu
Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận
Thực hiện đọc tài liệu, thu thập thông tin, phân tích, tổng hợp, hệ thống
hoá, mô hình hoá, khái quát hoá một số tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các văn kiện, nghị quyết của Đảng, của
Bộ Giáo dục và Đào tạo, của Bộ Quốc phòng về giáo dục - đào tạo, các tài
liệu chuyên ngành khoa học quản lý, quản lý giáo dục, các giáo trình, sách
chuyên khảo, các công trình, đề tài khoa học, báo khoa học có liên quan đến
đề tài đã được công bố và đăng trên các tạp chí, kỷ yếu hội thảo khoa học...
Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra: điều tra xã hội học đối với học viên, cán bộ quản
lý giáo dục, giảng viên để làm cơ sở đánh giá thực trạng, tìm ra nguyên nhân
và đề xuất biện pháp quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học viên.
Phương pháp quan sát: quan sát hoạt động lãnh đạo, tác phong chỉ huy,
quản lý của đội ngũ cán bộ; hoạt động dạy học của giảng viên; hoạt động học
tập, rèn luyện thói quen, hành vi đạo đức ở các môi trường khác nhau của học
viên để rút ra những kết luận về nội dung nghiên cứu.
Phương pháp toạ đàm, trao đổi: toạ đàm, trao đổi với cán bộ quản lý,
giảng viên và học viên từ đó rút ra những kết luận cần thiết.


8
Phương pháp nghiên cứu từ các công cụ quản lý; chương trình, quy
trình đào tạo; một số bài giảng của giảng viên; hệ thống sổ sách của cán bộ
quản lý và kế hoạch học tập công tác của học viên, trong đó chú trọng đến kế
hoạch công tác của cán bộ và kế hoạch tự học của học viên.
Phương pháp chuyên gia: xin ý kiến các nhà khoa học, nhà quản lý về

một số vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan tới việc nghiên cứu đề tài.
Phương pháp toán thống kê: xử lý các số liệu của kết quả nghiên cứu.
9. Kết cấu của đề tài
Đề tài được kết cấu gồm: Mở đầu, 2 chương (7 tiết), kết luận và kiến
nghị, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục.


9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUẢN LÝ
QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC VIÊN
TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Lịch sử nhân loại đã chứng minh, đạo đức luôn có vai trò tích cực trong
đời sống xã hội và trong giáo dục, được thể hiện ở các chức năng xã hội cơ
bản của nó, đó là: chức năng giáo dục; chức năng nhận thức; chức năng điều
chỉnh hành vi, cả ba chức năng trên đều tham gia vào quá trình phát triển,
hoàn thiện nhân cách ở mỗi con người. Do đó, đạo đức là nhu cầu khách quan
vốn có trong đời sống, sự phát triển xã hội và giáo dục.
Tiếp cận dưới góc độ hình thái kinh tế xã hội, trong lịch sử giáo dục thế
giới và Việt Nam có một số quan điểm, tư tưởng tiêu biểu bàn về giáo dục,
quản lý giáo dục gắn liền với phẩm chất, nhân cách của các danh nhân, các
nhà sư phạm nổi tiếng như sau:
Khổng Tử (551 - 479 tr.CN), không chỉ là nhà triết học, nhà giáo dục
nổi tiếng mà còn là nhà quản lý tài giỏi, người đầu tiên trên thế giới mở
trường tư để dạy các tầng lớp người trong xã hội, không phân biệt sang, hèn
được thể hiện trong tư tưởng “hữu giáo vô loại”. Bàn về xã hội, Ông đã chủ
trương quản lý xã hội bằng đức trị, người trên nêu gương, kẻ dưới noi theo,
các quan cai trị phải lấy nhân làm đức tính cơ bản. Bàn về giáo dục và quản lý
giáo dục Ông cho rằng giáo dục là một quá trình và đề cao việc quản lý phải

sát đối tượng, đánh giá người theo phẩm chất, chứ không phải từ thành phần
xuất thân và số tài sản mà họ có. Đây là những kiến giải và tư tưởng tiến bộ,
khoa học về quản lý giáo dục còn giá trị cho tới ngày nay.
Hàn Phi Tử (280 - 233 tr.CN), quan niệm bản chất con người là vì tư
lợi, cho nên phải dùng hình phạt, ông đề cao tư tưởng pháp trị, cổ vũ cho sự
độc tài của vua, Ông quan tâm đến quyền lực, đến khoảng cách địa vị giữa


10
người cai trị và người bị cai trị, đề cao chính sách dùng người, coi trọng tài
năng và xem đây là nhân tố quyết định sự thành bại của quản lý, tài năng của
người quản lý thể hiện ở việc dùng sức và dùng trí của người khác, trong lý
thuyết cai trị Ông đề cập và chú ý ba yếu tố là: Pháp - Thế - Thuật, cai trị phải
biến đổi phù hợp với thời thế, quản lý cần cả đức trị và pháp trị.
Tuy nhiên, do những hạn chế lịch sử, giai cấp nên những tư tưởng nội
dung giáo dục, quản lý của các ông chứa đựng những yếu tố siêu hình, mang
mầu sắc tôn giáo, duy tâm thần bí, độc đoán, chuyên quyền, mất dân chủ, tự
mâu thuẫn với chính mình, như tư tưởng trong thuyết quản lý của Hàn Phi Tử,
trong khi đề cao nhân tố con người thì lại coi con người là công cụ nhắm mắt
phục tùng mù quáng sự cai trị của các quan lại đương thời.
J.A. Cômenxky (1592 - 1670), nhà giáo dục nổi tiếng thế giới người
Cộng hoà Séc trong tác phẩm Khoa sư phạm vĩ đại của mình, Ông cho rằng
giáo dục trẻ em tốt nhất cần cải tạo môi trường giáo dục và phải được giáo
dục bằng tấm gương của mọi người xung quanh nhằm đạt được những ấn tượng ban đầu tốt đẹp lên trẻ em. Theo Ông, nhà trường là “xưởng rèn nhân
cách”, quản lý quá trình giáo dục phải tuân theo quy luật phát triển tự nhiên
“như sinh hoạt của cỏ, cây, hoa, lá, của cuộc sống xem có phù hợp không, nếu
không phù hợp sẽ trái quy luật và dẫn tới đổ vỡ trong giáo dục” [39, tr.87].
J.J. Rútxô (1712 - 1778), nhà triết học đồng thời là nhà giáo dục người
Pháp đã chủ trương đưa trẻ em về nông thôn để giáo dục, cải tạo tính nết của
các em. Ông quan niệm, nông thôn không có những tệ nạn xấu, đó là nơi có

môi trường giáo dục đạo đức tốt hơn thành thị. Mặc dù quan niệm của Ông có
sai lầm về phương pháp luận nhưng yếu tố hợp lý của Ông là ở chỗ coi trọng
vai trò của môi trường xã hội trong giáo dục đạo đức.
Quan điểm của J.A. Cômenxky và J.J. Rútxô đã chỉ cho chúng ta rằng,
không thể giáo dục và quản lý giáo dục đạo đức thành công, nếu không theo
quy luật và kết hợp giữa nhà trường với xã hội và các lực lượng giáo dục.


11
Chu Văn An (1292 - 1370), là ông tổ của nền giáo dục Việt Nam đã đề
cao tinh thần quản lý xã hội, đấu tranh chống các tệ nạn xã hội (thất trảm sớ);
lịch sử giáo dục Việt Nam đã ghi nhận Ông là nhà sư phạm lỗi lạc, đã từng là
nhà quản lý đứng đầu Quốc Tử Giám dưới triều Trần, trong quá trình giáo dục
Ông không chỉ nêu gương sáng cho kẻ sĩ học tập mà còn kêu gọi, động viên
và khuyên bảo học trò về ý thức và sự trau dồi đạo đức với tự quản lý mình
trong quá trình giáo dục nhân cách, tư tưởng quản lý quá trình giáo dục nói
chung, quản lý quá trình giáo dục phẩm chất, nhân cách nói riêng, đã được
Ông đề cập khá toàn diện và sâu sắc, ngày nay vẫn còn giá trị về lý luận và
thực tiễn to lớn đối với công tác quản lý giáo dục.
Lê Quý Đôn (1726 - 1784), đã nêu ý kiến tiến bộ về quản lý quá trình
giáo dục nhân cách và quản lý xã hội được thể hiện ở các mệnh đề: “Tứ tôn”
và “Ngũ quy”; trong đó, Ông hướng học trò với cách quản lý của riêng mình
thông qua đọc sách, nghị luận, trước tác để học tập trở thành người hiền tài,
Ông đề cao hiền tài, đề cao giáo dục và quản lý giáo dục trong xã hội. Đây là
những kiến giải quan trọng cho quản lý xã hội nói chung, quản lý giáo dục và
quản lý quá trình giáo dục nói riêng.
Tuy nhiên, do hạn chế về lịch sử và giai cấp, cho nên những quan điểm,
tư tưởng quản lý và giáo dục của các ông có mặt còn mang nặng tính đẳng
cấp, thiếu tính chất dân chủ, thiếu cơ sở khoa học trong cách thức tác động
giáo dục con người và quản lý quá trình giáo dục.

Trong dòng chảy của lịch sử tư tưởng nhân loại, khi nghiên cứu về sự
phát triển của xã hội loài người, trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử C. Mác (1818 - 1883) và Ph. Ăngghen (1820 - 1895), đã
đánh giá lại toàn bộ những tư tưởng đạo đức đã có từ xưa đến nay, tổng kết và
đưa ra những luận điểm khoa học của mình về đạo đức. Hai ông đã chỉ ra sự
tất yếu xuất hiện của một kiểu đạo đức mới trong lịch sử - đạo đức cách mạng


12
của giai cấp công nhân. Theo Ph. Ăngghen, đây là nền đạo đức “đang tiêu
biểu cho sự lật đổ hiện tại, biểu hiện cho lợi ích của tương lai, tức là đạo đức
vô sản, là thứ đạo đức có một số lượng nhiều nhất những nhân tố hứa hẹn một
sự tồn tại lâu dài” [33, tr.136]. Luận điểm này đã đặt cơ sở phương pháp luận
cho việc nghiên cứu quản lý quá trình giáo dục phẩm chất nhân cách nhằm
đảm bảo cho con nguời phát triển một cách toàn diện.
V.I. Lênin (1870 - 1924), vừa là nhà lý luận cách mạng vừa là nhà tổ
chức thực tiễn về quản lý kinh tế, quản lý xã hội - xã hội chủ nghĩa hiện thực.
Ông cho rằng, chức năng quan trọng của Nhà nước Xô Viết là quản lý xã hội,
quản lý và điều hành nền kinh tế, phát triển văn hóa, giáo dục, nâng cao đời
sống các tầng lớp nhân dân. V.I. Lênin cũng đã đưa ra các nguyên tắc về quản
lý xã hội chủ nghĩa, về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Tiếp tục tư
tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen, trong quá trình đấu tranh chống lại các
học thuyết đạo đức duy tâm, phản động đang đầu độc giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, V.I. Lênin đã khẳng định sự tất yếu ra đời của “luân lý
cộng sản” và “đạo đức cộng sản” [29, tr.366]. Trong đó, V.I. Lênin đã chỉ ra
thực chất cách mạng của nội dung đạo đức mới đó là: “Những gì góp phần
phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người
lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những
người cộng sản” [29, tr.369]. Đây là cơ sở khoa học để xây dựng, phát triển
và quản lý nền giáo dục mới - nền giáo dục xã hội chủ nghĩa.

Hồ Chí Minh (1890 - 1969), vừa là nhà giáo dục vừa là nhà tổ chức
thực tiễn về quản lý giáo dục và coi giáo dục là một nhiệm vụ trọng tâm của
cách mạng. Bàn về đạo đức và giáo dục đạo đức Người nhấn mạnh đến đạo
đức trong nhân cách mỗi người. Người coi trọng cả đức và tài, nhưng trong
đó đức phải là gốc, đức phải có trước tài. Người nói: “Cũng như sông phải có
nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có


13
gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đức, không có đức thì dù tài giỏi
mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [34, tr.467]. Bàn về quản lý giáo
dục Người rất coi trọng nguyên tắc khoa học trong quá trình kế hoạch hóa.
Người căn dặn, khi lập kế hoạch giảng dạy, học tập đều cần phải tuân theo
nhu cầu của dân tộc, của Nhà nước; chớ đặt những chương trình kế hoạch
mênh mông, đọc nghe sướng tai nhưng không thực hiện được. Người nhấn
mạnh, một chương trình nhỏ mà thực hiện được hẳn hoi, hơn là một trăm chương trình to tát mà làm không được. Như vậy, theo Người, tính thiết thực và
công tác quản lý phải xuyên suốt trong tất cả các khâu, các bước của quá trình
giáo dục.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức; về quản lý; về giáo dục và quản lý giáo dục là cơ sở lý luận khoa học, là
những luận điểm sư phạm cho Đảng Cộng sản Việt Nam và ngành giáo dục
Việt Nam đề ra các chủ trương, chính sách quản lý để phát triển giáo dục; coi
giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho
phát triển... theo đó, những năm gần đây có nhiều công trình nghiên cứu về
quản lý giáo dục và đạo đức dưới nhiều góc độ khác nhau.
Về quản lý giáo dục có các công trình như: “Một số khái niệm về quản
lý giáo dục” của Đặng Quốc Bảo (1997); “Khoa học quản lý giáo dục - một
số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Trần Kiểm (2004); “Quản lý Nhà nước về
giáo dục, lý luận và thực tiễn” của Đặng Bá Lãm (2005).
Tuy tiếp cận vấn đề quản lý giáo dục và quản lý quá trình giáo dục

trong các giai đoạn lịch sử ở nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau nhưng nhìn
chung các tác giả đều đi đến thống nhất nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan
trọng của quản lý, quản lý giáo dục và xem đây là một quá trình, một khâu
quan trọng quyết định đến việc nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo.


14
Về đạo đức, văn hoá đạo đức có các công trình:“Sự biến đổi của thang
giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới
cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Chí Mỳ (1999); “Văn
hoá đạo đức, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Thành Duy
(2004).
Tác giả của các công trình trên tìm hiểu tác động của cơ chế thị trường
đến đời sống văn hoá đạo đức và đều thống nhất cho rằng, sự biến đổi của hệ
thống giá trị đạo đức, văn hoá đạo đức ở nước ta hiện nay là một tất yếu; đề
cập đến thực trạng đạo đức và đưa ra một số giải pháp khắc phục tình trạng
xuống cấp về đạo đức ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước.
Trong quân đội, nghiên cứu về quản lý giáo dục có các đề tài: “Nâng
cao chất lượng quản lý giáo dục - đào tạo trong các học viện, trường sĩ quan
quân đội đáp ứng yêu cầu mới” của Vũ Quang Lộc (2005); “Quản lý giáo
dục đại học quân sự” của Đặng Đức Thắng (2008). Các đề tài trên đã khái
quát bản chất, chức năng, nguyên tắc, phương pháp quản lý giáo dục và công
cụ quản lý giáo dục, quản lý trường học trong các nhà trường quân sự.
Về đạo đức cách mạng và chuẩn mực đạo đức quân nhân có các đề
tài:“Nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ cấp phân đội trong
giai đoạn hiện nay” của Học viện Chính trị quân sự (2001); “Chuẩn mực đạo
đức quân nhân của Quân đội nhân dân Việt Nam” của Viện khoa học xã hội
nhân văn quân sự (2007). Các đề tài trên đã khái quát vị trí, vai trò, tầm quan
trọng của đạo đức trong nhân cách quân nhân, đề xuất các giải pháp giáo dục
nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ cấp phân đội trong giai đoạn

hiện nay, nhằm góp phần vào thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng quân đội
theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại.
Về giáo dục đạo đức có các đề tài: “Những giải pháp giáo dục đạo đức
cho sĩ quan Biên phòng ở đơn vị cơ sở trong tình hình hiện nay”, Luận án tiến


15
sĩ Giáo dục học của Trần Ngọc Tuân (2001); “Giáo dục đạo đức nghề nghiệp
cho học viên sư phạm trong nhà trường quân sự hiện nay”, Luận án tiến sĩ
Giáo dục học của Nguyễn Bá Hùng (2010); “Tổ chức phối hợp các lực lượng
giáo dục đạo đức cho học viên cấp phân đội ở Học viện Chính trị quân sự”,
Luận văn thạc sĩ Quản lý giáo dục của Lê Quang Thà (2008). Các tác giả trên
tiếp cận ở các góc độ khác nhau về giáo dục đạo đức và đưa ra các vấn đề có
ý nghĩa phương pháp luận quan trọng để xây dựng đạo đức người cán bộ quân
sự trong giai đoạn cách mạng hiện nay, nhưng chưa có công trình đề cập đến
quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học viên.
Về giáo dục kỷ luật và quản lý quá trình giáo dục kỷ luật cho học viên
có các đề tài: “Sử dụng tổng hợp các phương pháp giáo dục thói quen hành
vi kỷ luật cho học viên sĩ quan ở các trường đại học quân sự”, Luận án tiến sĩ
Giáo dục học của Phạm Minh Thụ (2003); “Quản lý quá trình giáo dục kỷ
luật cho học viên ở Trường Sĩ quan Tăng, thiết giáp”, Luận văn thạc sĩ Quản
lý giáo dục của Phạm Đình Dũng (2008); Các tác giả trên đã khái quát vấn đề
giáo dục thói quen, hành vi kỷ luật, luận giải những vấn đề về kỷ luật và quản
lý quá trình giáo dục kỷ luật, đề xuất hệ thống các biện pháp quản lý quá trình
giáo dục kỷ luật cho học viên, nhưng chưa tiếp cận đến vấn đề quản lý quá
trình giáo dục đạo đức cho học viên.
Như vậy, cần có những nghiên cứu về vấn đề quản lý quá trình giáo dục
đạo đức cho học viên, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn đang chuyển biến
mạnh mẽ cùng với xu hướng đổi mới của giáo dục đại học Việt Nam hiện nay.
1.2. Một số khái niệm cơ bản

1.2.1. Khái niệm giáo dục đạo đức
Giáo dục được hiểu một cách khái quát là quá trình chuyển giao hệ
thống tri thức, các giá trị, thái độ và kinh nghiệm hoạt động của thế hệ trước cho
thế hệ sau nhằm phát triển và hoàn thiện nhân cách cá nhân - xã hội đảm bảo sự


16
tồn tại và phát triển xã hội. Mặt khác, trong lý luận giáo dục hiện đại cũng chỉ ra
rằng: giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát
triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó làm cho đối tượng ấy dần dần
có được những phẩm chất nhân cách, năng lực như yêu cầu đề ra.
Xét theo quan điểm của các nhà giáo dục học quân sự, thì giáo dục là một
quá trình tổng thể của các hoạt động dạy học, giáo dục, phát triển nhân cách và
là quá trình chuẩn bị tâm lý cho học viên được tổ chức một cách có mục đích, có
kế hoạch, dựa trên những cơ sở của khoa học giáo dục nhằm hình thành phẩm
chất nhân cách và năng lực theo yêu cầu của xã hội, của quân đội.
Về khái niệm “đạo đức” tiếp cận từ nhiều góc độ, khái niệm này được
diễn đạt bằng những thuật ngữ khác nhau có thể khái quát như sau:
Đạo đức, theo quan điểm của Nho giáo được bắt đầu từ khái niệm
“Đạo”. “Đạo” là đạo của trời đất, đạo của muôn vật về mệnh trời và bản tính
tự nhiên của con người. Đức gắn liền với đạo, trong đó đạo là cái phải noi
theo, đức là cái do noi theo mà có. Do vậy, đức là cái gốc, là trung tâm của xã
hội và của vũ trụ, bao trùm mọi lĩnh vực đời sống con người từ chính trị, kinh
tế đến văn hóa, xã hội; từ tổ chức quản lý của Nhà nước đến từng cá nhân.
Đạo đức, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin “là một hình thái ý
thức xã hội có nguồn gốc từ lao động sản xuất và đời sống cộng đồng xã hội.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh và chịu sự chi phối của tồn
tại xã hội. Vì vậy tồn tại xã hội thay đổi thì ý thức xã hội (đạo đức) cũng thay
đổi theo. Và như vậy đạo đức xã hội luôn mang tính lịch sử, tính giai cấp và
tính dân tộc” [6, tr.13].

Đạo đức, theo từ điển Tiếng Việt “là những tiêu chuẩn, những nguyên
tắc quy định hành vi quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội.
Đạo đức là những phẩm chất tốt đẹp của con người theo những tiêu chuẩn đạo
đức của một giai cấp nhất định” [48, tr.211].


17
Đạo đức, theo quan điểm Giáo dục học, tác giả Phạm Minh Hạc quan
niệm theo nghĩa hẹp là luân lý, những quy định, những chuẩn mực ứng xử của
con người với con người, với công việc và với bản thân, kể cả với thiên nhiên
và môi trường sống.
Đạo đức, theo tác giả Trần Hậu Kiểm “là tổng hợp những nguyên tắc,
quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của
mình vì lợi ích xã hội, hạnh phúc của con người trong mối quan hệ giữa con
người với con người, giữa cá nhân với tập thể hay toàn xã hội” [26, tr.31].
Như vậy, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về đạo đức, nhưng tựu chung
lại các khái niệm đều thống nhất nhận thức về bản chất và tính cách mạng của
đạo đức là những quy tắc, chuẩn mực trong quan hệ xã hội, được hình thành và
phát triển trong cuộc sống, được cả xã hội thừa nhận và tự giác thực hiện, phản
ánh những quan hệ xã hội hiện thực, được dựa trên cơ sở kinh tế, chính trị - xã
hội nhất định. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội ở mỗi giai đoạn lịch sử đều có
những nguyên tắc hay chuẩn mực đạo đức tương ứng gắn liền với hành vi, thói
quen, tập quán sống, nên đạo đức thường xuyên biến đổi theo tiến trình phát
triển của nhân loại; nghĩa là, có những giá trị đạo đức của ngày hôm qua, nhưng
hôm nay không còn phù hợp; hay có những giá trị đạo đức của dân tộc này, nhưng ở dân tộc khác, giai cấp khác lại không được thừa nhận. Do đó, đạo đức mang
tính giai cấp, tính dân tộc và tính thời đại sâu sắc. Theo đó, quá trình giáo dục
đạo đức cho học viên Trường Sĩ quan Chính trị cũng phải được thực hiện và tuân
theo quy luật khách quan trong tất cả các giai đoạn, các khâu, các bước, các mối
quan hệ hữu cơ với hoạt động quân sự và đời sống xã hội, chịu sự chi phối của
những tác động khách quan và chủ quan, như nền tảng chính trị, tinh thần, phong

tục tập quán, đạo đức xã hội, quân đội. Để hiểu và diễn đạt khái niệm “giáo dục
đạo đức” với tư cách là bộ phận của quá trình sư phạm, mà trong đó nhà giáo


18
dục đóng vai trò định hướng những tác động giáo dục, còn đối tượng giáo dục
đóng vai trò quyết định sự thành công của quá trình giáo dục, chúng ta cần thống
nhất về mặt nhận thức khái niệm “đạo đức” như sau: “Là một hình thái ý thức xã
hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh
đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã
hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh
của dư luận xã hội” [22, tr.8]. Đó là hệ thống những quan điểm, quan niệm về
cái thiện, cái ác trong các mối quan hệ của con người với con người. Giáo dục
đạo đức cho học viên xét về bản chất, là quá trình biến hệ thống các chuẩn
mực đạo đức từ đòi hỏi của xã hội, quân đội, Nhà trường thành những đòi hỏi
bên trong của mỗi cá nhân và trở thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của người
học viên.
Từ cách tiếp cận trên, tác giả quan niệm: Giáo dục đạo đức cho học
viên Trường Sĩ quan Chính trị là hoạt động có mục đích, có tổ chức của các
chủ thể giáo dục trong Nhà trường đối với học viên nhằm hình thành ý thức,
tình cảm, niềm tin đạo đức và thói quen hành vi đạo đức phù hợp với mục
tiêu, yêu cầu đào tạo của Nhà trường.
Theo đó, giáo dục đạo đức cho học viên có quan hệ chặt chẽ với giáo
dục chính trị, tư tưởng, bởi chính giáo dục chính trị, tư tưởng là nhằm xây
dựng cho người học viên có nhận thức đầy đủ về thế giới quan Mác - Lênin
và định hướng chính trị - xã hội theo quan điểm đường lối của Đảng trong sự
nghiệp đổi mới của đất nước. Ngoài ra, giáo dục đạo đức cho học viên còn
gắn bó chặt chẽ với giáo dục pháp luật, giáo dục pháp luật có nhiệm vụ giới
thiệu cho mọi học viên các nội dung về pháp luật Nhà nước, các quyền lợi,
nghĩa vụ của công dân Việt Nam nói chung, của người quân nhân Quân đội

nhân dân Việt Nam nói riêng. Vì vậy, các nội dung giáo dục nêu trên có tác


19
dụng củng cố các luận cứ cho chuẩn mực đạo đức và thúc đẩy người học viên
hành động theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Nhà trường.
1.2.2. Khái niệm quá trình giáo dục đạo đức cho học viên Trường Sĩ
quan Chính trị
Quá trình giáo dục đạo đức cho học viên là bộ phận của quá trình sư
phạm quân sự, cùng quá trình huấn luyện thực hiện mục tiêu giáo dục toàn
diện nhân cách cho học viên đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Nhà
trường. Quá trình giáo dục đạo đức có mục đích, chức năng trội là giúp học
viên nhận thức đúng các yêu cầu, chuẩn mực, các giá trị quân sự - xã hội và
rèn luyện các thói quen, hành vi đạo đức tương ứng. Dưới tác động của các
lực lượng giáo dục, học viên tiếp nhận các yêu cầu, chuẩn mực, giá trị tư
tưởng, đạo đức, luật pháp... của quân đội, xã hội và chuyển hoá thành ý thức,
thái độ, hành vi cá nhân. Trong quá trình giáo dục nhà giáo dục và đối tượng
giáo dục có quan hệ tương tác; những tác động của nhà giáo dục đóng vai trò
định hướng, sự tiếp nhận và chuyển hoá có ý thức các giá trị của đối tượng
giáo dục đóng vai trò quyết định sự thành công của quá trình giáo dục.
Theo cách tiếp cận đó, tác giả quan niệm: Quá trình giáo dục đạo đức
cho học viên Trường Sĩ quan Chính trị là hệ thống các tác động của chủ thể
giáo dục đến đối tượng giáo dục, nhằm nâng cao nhận thức, xây dựng niềm
tin và thói quen hành vi đạo đức, góp phần hình thành phẩm chất nhân cách
toàn diện đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo.
Như vậy, trong các nhà trường quân sự nói chung, Trường Sĩ quan
Chính trị nói riêng thì quá trình giáo dục đạo đức là một khâu, là một nhiệm
vụ, là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, của các cơ quan, đơn vị, các khoa
giáo viên, các lực lượng quản lý để nhằm hình thành cho học viên những tri
thức đạo đức, chuẩn mực đạo đức, quy tắc đạo đức, tình cảm đạo đức, sự

đánh giá về đạo đức, từ đó góp phần hình thành ở học viên các quan hệ đạo


20
đức và hành vi đạo đức đúng đắn, tạo nên nền tảng vững chắc cho sự phát
triển nhân cách.
1.2.3. Khái niệm quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học viên
Trường Sĩ quan Chính trị
Quản lý giáo dục là một quá trình. Sở dĩ nói quản lý giáo dục là một
quá trình vì quản lý là hoạt động mang tính hướng đích, là sự vận động, sự
nối tiếp các trạng thái, có độ dài về thời gian, chịu tác động của các nhân tố
bên trong và bên ngoài, tuân theo những quy luật khách quan, là hoạt động
của các chủ thể và đối tượng quản lý thống nhất với nhau trong một cơ cấu
nhất định nhằm đạt mục đích đề ra. Theo đó, quản lý quá trình giáo dục đạo
đức cho học viên Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay là một nội dung bộ phận
của khoa học quản lý giáo dục, một khâu quan trọng trong quy trình quản lý
giáo dục - đào tạo, là sự tác động có ý thức nhằm điều khiển, hướng dẫn
những thói quen, hành vi đạo đức, phù hợp với quy luật khách quan và làm
cho tổ chức vận hành đạt hiệu quả mong muốn.
Theo từ điển Tiếng Việt của nhà xuất bản giáo dục định nghĩa: “Quản
lý là trông coi, giữ gìn theo những yêu cầu nhất định”, “quản lý là tổ chức và
điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định” [48, tr.772].
Theo tác giả Trần Kiểm, khi bàn về quản lý và quản lý giáo dục, đã đưa
ra hai khái niệm: Khái niệm “quản lý” là khái niệm rất chung, tổng quát. Nó
dùng cho cả quá trình quản lý xã hội (xí nghiệp, trường học, đoàn thể, v.v...),
quản lý giới vô sinh (hầm mỏ, máy móc, v.v...) và rất nhiều quan niệm về
quản lý tuỳ góc độ tiếp cận; tương tự, khái niệm “quản lý giáo dục” theo
nghĩa chung nhất “là hoạt động có ý thức của con người nhằm theo đuổi
những mục đích của mình. Chỉ có con người mới có khả năng khách thể hoá
mục đích, nghĩa là thể hiện cái nguyên mẫu lý tưởng của tương lai được biểu



21
hiện trong mục đích đang ở trạng thái khả năng sang trạng thái hiện thực” [25,
tr.35].
Từ sự luận giải các khái niệm “quản lý”, “quản lý giáo dục” và “giáo
dục đạo đức”, “quá trình giáo dục đạo đức cho học viên Trường Sĩ quan
Chính trị”, theo tác giả: Quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học viên
Trường Sĩ quan Chính trị là sự tổ chức, điều khiển của chủ thể quản lý đối
với toàn bộ quá trình giáo dục đạo đức cho học viên, nhằm đảm bảo cho quá
trình giáo dục đạo đức diễn ra theo đúng yêu cầu nội dung và đạt được hiệu
quả đáp ứng mục tiêu, yêu cầu giáo dục của Nhà trường.
Thực chất, quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học viên là những
tác động quản lý có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý đến đối tượng
quản lý nhằm phát huy tính chủ động, tích cực, tự giác, sáng tạo, tìm tòi,
nghiên cứu, lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ năng, các thói quen, hành vi đạo
đức để hình thành, phát triển, hoàn thiện phẩm chất nhân cách theo mục tiêu
yêu cầu đào tạo của Nhà trường. Theo đó, quản lý quá trình giáo dục đạo đức
cho học viên Trường Sĩ quan Chính trị có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, quản lý quá trình giáo dục đạo đức được tiến hành trong một tập
thể nhất định, không tách rời quá trình tự quản lý, tự giáo dục của học viên; trong
đó học viên không chỉ là đối tượng chịu sự tác động của chủ thể quản lý mà học
viên còn là chủ thể tự quản lý quá trình giáo dục đạo đức thông qua các hoạt động
xây dựng, thực hiện kế hoạch tự học tập, rèn luyện, tự kiểm tra đánh giá kết quả
giáo dục, rèn luyện thói quen, hành vi đạo đức của bản thân.
Thứ hai, quản lý quá trình giáo dục đạo đức là những tác động có tính
hướng đích, không bó hẹp trong phạm vi chương trình đào tạo, mà là tổng
hợp các hoạt động sư phạm, đồng thời quản lý quá trình giáo dục đạo đức
cũng không tách rời quản lý các nội dung học tập khác như văn hoá, chính trị,



22
pháp luật, kỷ luật... mà chúng đan xen vào nhau, quy định lẫn nhau, bổ sung
cho nhau nhằm giáo dục phẩm chất nhân cách toàn diện cho học viên.
Thứ ba, quản lý quá trình giáo dục đạo đức là những tác động phối hợp
nỗ lực của chủ thể với các đối tượng quản lý nhằm thực hiện mục tiêu của tổ
chức. Nói một cách khác, quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học viên
gồm 4 yếu tố: Chủ thể quản lý giáo dục đạo đức; đối tượng bị quản lý; khách
thể quản lý và mục tiêu quản lý giáo dục đạo đức.
Như vậy, quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học viên Trường Sĩ
quan Chính trị vừa là một quá trình, vừa là hoạt động diễn ra các tác động
quản lý đan xen, liên tục, được tiến hành trong quá trình đào tạo với quy trình
tổ chức chặt chẽ. Vì vậy, nhất thiết phải đề cập và xác định các biện pháp
quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học viên một cách khoa học, khả thi,
phù hợp. Theo đó, biện pháp quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học viên
Trường Sĩ quan Chính trị là tổng hợp cách thức quản lý, của chủ thể quản lý
tác động tới quá trình giáo dục nhằm đảm bảo cho học viên lĩnh hội các nhân
tố của quá trình giáo dục đạo đức, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của
Nhà trường, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo.
Biện pháp quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học viên có vai trò
rất quan trọng nhằm xây dựng, củng cố các căn cứ khoa học, công cụ quản lý;
giúp nâng cao nhận thức, bồi dưỡng kỹ năng quản lý; phát huy tốt vai trò của
các tổ chức, lực lượng giáo dục trong Nhà trường.
Đối tượng tác động của biện pháp quản lý quá trình giáo dục đạo đức
cho học viên là nội dung giáo dục và quá trình nhận thức của học viên, thông
qua sự tác động này các biện pháp quản lý quá trình giáo dục đạo đức chuyển
tải những nội dung giáo dục đạo đức vốn tồn tại khách quan ngoài ý thức của
người học vào trong ý thức của từng người học nhằm trang bị cho người học
hệ thống giá trị chuẩn mực, các kỹ năng, kỹ xảo và thói quen hành vi đạo đức.



23
Việc xác định các biện pháp quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học
viên được tiến hành theo nhiều cách thức tiếp cận khác nhau như: tiếp cận
theo phương pháp quản lý; tiếp cận theo quy trình, chức năng quản lý; tiếp
cận theo nguyên tắc quản lý giáo dục. Kế thừa và tích hợp các cách thức tiếp
cận nêu trên, cùng với sự luận giải khái niệm trung tâm của đề tài là cơ sở lý
luận quan trọng để tác giả đề xuất các biện pháp quản lý quá trình giáo dục
đạo đức cho học viên Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay.
1.3. Nội dung quản lý và các nhân tố tác động đến quản lý quá
trình giáo dục đạo đức cho học viên Trường Sĩ quan Chính trị
1.3.1. Nội dung quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học viên
Trường Sĩ quan Chính trị
Theo cách tiếp cận hệ thống cấu trúc, quá trình giáo dục nói chung, quá
trình giáo dục đạo đức nói riêng bao gồm các nhân tố cơ bản hợp thành như:
mục tiêu giáo dục; nhà giáo dục; đối tượng giáo dục; nội dung giáo dục;
phương pháp, hình thức, phương tiện giáo dục; kết quả giáo dục.
Quản lý mục tiêu giáo dục đạo đức cho học viên, quản lý mục tiêu giáo
dục đạo đức chính là việc thiết kế mục tiêu, quán triệt mục tiêu đến toàn bộ
các lực lượng giáo dục trong Nhà trường và tổ chức quản lý có hiệu quả quá
trình giáo dục đạo đức, làm cho kết quả cuối cùng đạt được mục tiêu đề ra.
Theo lý luận quản lý giáo dục thì, mục tiêu giáo dục đạo đức cho học viên là
một bộ phận của mục tiêu quản lý giáo dục, là trạng thái tương lai hay là kết
quả cuối cùng mà tổ chức và các lực lượng giáo dục đạo đức trong toàn trường mong muốn đạt tới. Vì vậy, trong quản lý quá trình giáo dục đạo đức
cho học viên, việc xây dựng và quản lý mục tiêu ngay từ khi bắt đầu là một
yếu tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến tính khả thi của kế hoạch quản
lý. Vì mục tiêu quản lý không những định hướng cho hành động của nhà quản
lý, mà còn chỉ dẫn nhà quản lý giáo dục trong toàn trường ra các quyết định



24
quản lý chính xác, phù hợp yêu cầu của Nhà trường và yêu cầu quân sự - xã
hội.
Để quản lý tốt mục tiêu giáo dục đạo đức cho học viên Trường Sĩ quan
chính trị, chủ thể quản lý giáo dục phải dựa trên cơ sở pháp lý quy định trong
Luật Giáo dục, Điều lệ công tác nhà trường quân đội, Điều lệ quản lý học
viên của Bộ Tổng tham mưu, quy chế giáo dục - đào tạo của Nhà trường và
các văn bản pháp quy khác; phải quản lý tốt từ khâu thiết kế mục tiêu đến quá
trình tổ chức thực hiện mục tiêu và phải phát huy tốt vai trò của hệ thống quản
lý giáo dục Nhà trường trong quản lý mục tiêu, biến mục tiêu thành hiện thực.
Quản lý chủ thể giáo dục đạo đức cho học viên, chủ thể lãnh đạo, chỉ
đạo quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học viên là: Đảng uỷ, Ban Giám
hiệu Nhà trường; Đảng uỷ, chỉ huy hệ - tiểu đoàn; chi uỷ, chi bộ lớp - đại đội.
Trong đó đảng uỷ, chỉ huy hệ - tiểu đoàn; chi uỷ, chi bộ, chỉ huy lớp - đại đội
là chủ thể trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quản lý quá trình
giáo dục đạo đức cho học viên.
Chủ thể hướng dẫn chỉ đạo quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học
viên gồm các cơ quan chức năng, các khoa giáo viên; đặc biệt là Phòng Chính
trị, Phòng Đào tạo, Văn phòng đây là những cơ quan tham mưu cho Đảng uỷ,
Ban Giám hiệu Nhà trường và trực tiếp chỉ đạo các hoạt động quản lý quá
trình giáo dục đạo đức cho học viên.
Chủ thể trực tiếp quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học viên là đội
ngũ cán bộ khung ở các lớp - đại đội, hệ - tiểu đoàn học viên. Đội ngũ cán bộ
khung trực tiếp tổ chức giáo dục đạo đức, quản lý rèn luyện học viên về mọi
mặt. Do đó đội ngũ cán bộ khung ở đơn vị quản lý học viên có vai trò rất lớn
đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách người học.
Ngoài ra, còn có đội ngũ giảng viên, các tổ chức quần chúng như:
Đoàn thanh niên; Công đoàn, Phụ nữ; Hội đồng quân nhân... quá trình giáo
dục đạo đức, đội ngũ cán bộ khung phải phối hợp chặt chẽ với các bộ phận,



25
các lực lượng trong Nhà trường để quản lý, giáo dục, rèn luyện thói quen,
hành vi đạo đức cho học viên. Mặt khác, học viên vừa là chủ thể, vừa là đối
tượng quản lý; cho nên, chỉ có thể nâng cao chất lượng quản lý quá trình
giáo dục đạo đức khi học viên ý thức đầy đủ về vai trò của tự quản lý, giáo
dục và rèn luyện thói quen, hành vi đạo đức.
Quản lý đối tượng giáo dục đạo đức, đối tượng giáo dục đạo đức là đội
ngũ học viên. Quản lý đối tượng giáo dục đạo đức, thực chất là quản lý việc thực
hiện các nhiệm vụ của họ trong quá trình học tập và rèn luyện thói quen, hành vi
đạo đức. Theo đó, quản lý đối tượng giáo dục đạo đức là những học viên, tập
thể học viên và những biện pháp quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học
viên. Như vậy, học viên và tập thể học viên vừa là khách thể tiếp nhận các tác
động sư phạm chịu sự điều khiển chi phối bởi mục tiêu, phương pháp, hình
thức và các tác động khác của nhà giáo dục vừa là chủ thể tự tổ chức, tự chỉ
đạo quá trình lĩnh hội, rèn luyện nhân cách của mình.
Để quản lý tốt đối tượng giáo dục đạo đức, đòi hỏi các nhà quản lý giáo
dục phải sâu sát nắm chắc số lượng, chất lượng, đặc trưng văn hoá của từng
học viên, đặc điểm tâm lý, lứa tuổi, thành phần xuất thân để phân loại và có
những hình thức, biện pháp quản lý, giáo dục linh hoạt, mềm dẻo cụ thể và ra
các quyết định quản lý phù hợp; hướng dẫn họ lập kế hoạch rèn luyện thói
quen, hành vi đạo đức; tổ chức chỉ đạo thực hiện kế hoạch; thường xuyên theo
dõi, tìm hiểu những biểu hiện tích cực và tiêu cực trong quá trình học tập và
rèn luyên thói quen, hành vi đạo đức để có sự điều chỉnh kịp thời nhằm thực
hiện thống nhất mục tiêu quản lý đã xác định, đồng thời tiến hành có nề nếp
các hoạt động hành chính quân sự; tổ chức tốt các hoạt động tự quản lý và
phối hợp chặt chẽ các lực lượng giáo dục tạo điều kiện cho học viên phát
triển, hoàn thiện nhân cách. Hơn ai hết và không ai khác, học viên phải là
người biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục của mỗi người.



×