Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Thực trạng bệnh vùng quanh răng và kiến thức, thái độ, hành vi chăm sóc răng miệng của người cao tuổi ở tỉnh thừa thiên huế, năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.69 MB, 112 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh quanh răng là một bệnh rất phổ biến. Theo điều tra sức khỏe răng
miệng toàn quốc năm 2001, tỷ lệ người có bệnh quanh răng ở nước ta rất cao,
lên tới 96,7% [1]. Đặc biệt bệnh có tỷ lệ mắc tăng dần theo tuổi: số người trên 45
tuổi có ít nhất 3 vùng lục phân lành mạnh chỉ chiếm 5% [1]. Đối với một nước
có xu hướng già hóa dân số một cách nhanh chóng như Việt Nam thì tình trạng
về bệnh này ở đối tượng người cao tuổi thật sự là vấn đề đáng quan tâm.
Theo quy ước chung của Liên Hợp Quốc và theo luật Người cao tuổi của
nước ta: Người cao tuổi (NCT) là người từ 60 tuổi trở lên [2]. Dân số NCT đã
trở thành một trong những vấn đề được coi là quan trọng ở nhiều nước trong
những thập niên qua [3]. Tính tới cuối năm 2010, Việt Nam đã có hơn 8 triệu
NCT (chiếm 9,4% dân số). Thời gian để Việt Nam chuyển từ giai đoạn “lão
hóa” sang một cơ cấu dân số “già” sẽ ngắn hơn và nhanh hơn nhiều so với
nhiều nước phát triển: giai đoạn này khoảng 85 năm ở Thụy Điển, 22 năm ở
Thái Lan, trong khi dự kiến có chỉ 20 năm cho Việt Nam, từ năm 2011 Việt
Nam đã chính thức bước vào giai đoạn già hóa dân số [4]. Cùng với cả nước,
xu hướng già hóa dân số tỉnh Thừa Thiên Huế đang diễn ra với tốc độ khá
nhanh. Theo kết quả Tổng điều tra Dân Số và nhà ở ngày 1/4/2013, tỉnh Thừa
Thiên Huế có số người 60 tuổi trở lên là 111.631 NCT chiếm 10,3% trong tổng
dân số của tỉnh [5]. Như vậy cùng với việc kiểm soát tăng dân số thì vấn đề già
hóa dân số gắn liền với chăm sóc sức khỏe người cao tuổi cần phải được quan
tâm đúng mức. Trong đó, công tác chăm sóc sức khoẻ răng miệng cho người
cao tuổi của ngành Răng Hàm Mặt là một nhiệm vụ rất quan trọng. Mặc dù có
nhiều nỗ lực trong phòng chống bệnh tật và nâng cao sức khỏe răng miệng,
bệnh răng miệng hiện vẫn có xu hướng gia tăng ở mọi lứa tuổi trong đó có
người cao tuổi. Một số nghiên cứu cho thấy thực trạng mắc bệnh răng miệng ở
người cao tuổi tại các vùng miền của Việt Nam đang ở mức đáng lo ngại, nhu
cầu điều trị bệnh là rất lớn trong khi thực trạng bệnh răng miệng được điều trị



2

lại rất thấp [6], [7]. Theo kết quả điều tra sức khoẻ răng miệng toàn quốc năm
2000 có tới 55% người trên 45 tuổi chưa đi khám răng miệng lần nào. Theo
Phạm Văn Việt và cộng sự (2004) tỷ lệ sâu răng của người cao tuổi tại Hà Nội
là 55,1%, tỷ lệ mắc bệnh quanh răng là 96,1% [6]. Theo điều tra sức khỏe răng
miệng toàn quốc của Võ Thế Quang (1990), Trần Văn Trường và Lâm Ngọc
Ấn (2000), tỷ lệ viêm lợi và viêm nha chu chiếm 97% [1], [8]. Tại thành phố
Huế, theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Phận, Nguyễn Toại và cộng sự (1989)
viêm lợi và nha chu chiếm 87,3% [9], các địa phương của tỉnh Thừa Thiên Huế
cũng có tình trạng bệnh nha chu rất phổ biến [10]. Nhu cầu dự phòng và chăm
sóc răng miệng rất lớn, cần phải nắm vững đặc điểm và dịch tễ bệnh nha chu để
làm cơ sở cho việc lập kế hoạch một cách chính xác, giúp xây dựng mạng lưới
nha khoa cộng đồng từ nay đến năm 2020.
Bệnh quanh răng là nguyên nhân chính gây mất răng ở người cao tuổi,
bệnh có liên quan đến vệ sinh, thực hành chăm sóc răng miệng cá nhân cũng
như mức sống, mức độ hiểu biết. Tại Thừa Thiên Huế trước đây đã có những
cuộc điều tra nhưng chưa phản ánh đầy đủ tình hình thực tế. Tháng 10/1989,
phương pháp điều tra cơ bản sức khỏe răng theo mẫu WHO 1987 lần đầu
được sử dụng tại Huế, sau đó cũng có một số nghiên cứu tại một số địa
phương trong tỉnh. Năm 2008, đã có cuộc điều tra về bệnh sâu răng, bệnh nha
chu nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế theo định hướng của WHO 1997 [11]. Tuy
nhiên, đến nay vẫn chưa có số liệu về tình hình bệnh nha chu của tỉnh theo
mẫu điều tra mới nhất. Xuất phát từ những vấn đề đó, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Thực trạng bệnh vùng quanh răng và kiến thức, thái
độ, hành vi chăm sóc răng miệng của người cao tuổi ở tỉnh Thừa Thiên
Huế, năm 2015”, với các mục tiêu sau đây:
1.


Mô tả thực trạng bệnh vùng quanh răng của người cao tuổi ở tỉnh
Thừa Thiên Huế, năm 2015.


3

2.

Phân tích một số yếu tố liên quan kiến thức, thái độ, hành vi chăm
sóc răng miệng với thực trạng bệnh vùng quanh răng ở đối tượng nghiên
cứu trên.

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đặc điểm giải phẫu và mô học vùng quanh răng
1.1.1. Giải phẫu vùng quanh răng

Hình 1.1: Giải phẫu răng và vùng quanh răng [12]
Gồm có 4 phần:
 Lợi.
 Dây chằng quanh răng.


4

 Xương ổ răng.
 Xương răng.
1.1.1.1. Lợi
Lợi là vùng đặc biệt của niêm mạc miệng, được giới hạn ở phía cổ răng
bởi bờ lợi và phía cuống răng bởi niêm mạc miệng. Ở phía ngoài của cả hai

hàm và phía trong của hàm dưới, lợi liên tục với niêm mạc miệng bởi vùng
tiếp nối niêm mạc di động, ở phía khẩu cái lợi liên tục với niêm mạc khẩu cái
cứng. Lợi được chia thành 2 phần: lợi dính và lợi tự do [13]:
* Lợi tự do: Gồm nhú lợi và đường viền lợi.
Nhú lợi là phần lợi che kín các kẽ răng. Có một nhú phía ngoài, một
nhú phía trong, giữa hai nhú là một vùng lõm.
Đường viền lợi ôm sát cổ răng, và cùng với cổ răng tạo nên một khe
sâu khoảng 0,5-3 mm, gọi là rãnh lợi.
Hình thể của nhú lợi và đường viền lợi phụ thuộc hình thể của chân
răng và xương ổ răng, nó còn phụ thuộc vào sự liên quan giữa các răng và vị
trí của răng trên xương hàm.
* Lợi dính: là phần lợi bám dính vào chân răng và xương ổ răng. Bề
rộng của lợi dính có ý nghĩa quan trọng đối với việc giữ cho vùng quanh răng
bình thường.
- Tổ chức lợi: bao gồm biểu mô và tổ chức đệm.
Phủ bề mặt lợi dính và mặt ngoài viền lợi là lớp biểu bì sừng hoá. Từ sâu
ra nông gồm 4 lớp tế bào: tế bào đáy, tế bào gai, tế bào hạt và tế bào sừng hoá.
Phủ mặt trong rãnh lợi là biểu mô không sừng hoá, liên tiếp với phía
trên bởi biểu mô sừng hoá của lợi tự do và phía dưới bởi biểu mô bám dính.
Biểu mô bám dính là biểu mô ở đáy rãnh lợi bám dính vào răng. Lớp biểu mô
này không sừng hoá, không có các lồi ăn sâu vào tổ chức đệm ở dưới, và bám


5

vào men răng, xương răng bởi các bán Desmosom. Tổ chức đệm: là tổ chức
liên kết nhiều sợi keo ít sợi chun. Những sợi keo xếp thành những bó sợi lớn
tạo nên hệ thống sợi của lợi, trong đó đáng chú ý là các nhóm sợi răng - lợi,
xương ổ răng - lợi và nhóm sợi vòng.


Hình 1.2: Các bó sợi ở lợi [13]
A. Sợi răng lợi; B. Sợi mào xương ổ răng; C. Sợi vòng;
D. Sợi răng màng xương; E. Sợi ngang vách
1.1.1.2. Dây chằng quanh răng
Dây chằng quanh răng là mô liên kết có cấu trúc đặc biệt, nối liền răng
với xương ổ răng. Dây chằng quanh răng bao gồm các tế bào, sợi liên kết,
chất căn bản và mạch máu, thần kinh [15].
Nó giữ răng trong ổ răng và đảm bảo sự liên quan sinh lý giữa răng và
ổ răng nhờ những tế bào liên kết đặc biệt trong tổ chức dây chằng. Bề rộng
của dây chằng quanh răng khoảng 0,15 - 0,21 mm. Tuỳ theo sự sắp xếp và
hướng đi của các bó sợi mà người ta phân ra thành 5 nhóm sau: Nhóm cổ
răng (hay nhóm mào ổ răng): Gồm những bó sợi đi từ mào xương ổ răng đến
xương răng gần cổ răng.
* Nhóm ngang: Gồm những sợi đi từ xương răng ở chân răng thẳng góc
với trục của răng đến xương ổ răng.
* Nhóm chéo: Gồm những bó sợi đi từ xương ổ răng chếch xuống dưới
phía chân răng, bám vào xương răng. Nhóm này chiếm số lượng nhiều nhất
trong dây chằng quanh răng.


6

* Nhóm cuống răng: Gồm những bó sợi đi từ xương răng ở cuống răng,
toả hình nan quạt để đến bám vào xương ổ răng vùng cuống răng.
* Nhóm giữa các chân răng: Đối với răng nhiều chân còn có các bó sợi
đi từ kẽ giữa 2 hay 3 chân răng đến bám vào vách xương ổ răng. Giữa các bó
sợi trên là tổ chức liên kết lỏng lẻo, trong đó người ta thấy có tế bào tạo
xương răng, tế bào xơ non, tế bào xơ già, tế bào liên kết dạng bào thai, những
đám biểu bì Mallassez. Ngoài ra còn có mạng lưới rất giàu các mạch máu,
bạch mạch, thần kinh. Theo Weski, những lưới này có tác dụng như một cái

hãm nước. Trong tổ chức liên kết của dây chằng thường thấy có 3 thành
phần là: tế bào chất tựa, sợi, chất nền. Dây chằng quanh răng cấu tạo bởi những
sợi collagen, những sợi đó lồng vào trong xương răng, trùm lên chân răng giải
phẫu và từ đó chạy vào lá đáy của túi lợi, màng xương phủ huyệt răng và
xương ổ răng, xương răng của răng bên cạnh, quan trọng nhất là trực tiếp vào
trong xương ổ răng riêng biệt.
1.1.1.3. Xương ổ răng
Xương ổ răng là một bộ phận của xương hàm gồm có:
* Bản xương: có cấu tạo là xương đặc. Bản xương ngoài là xương vỏ ở
mặt ngoài và mặt trong của xương ổ răng, được màng xương che phủ. Còn
bản xương trong (gọi là lá sàng) nằm liền kề với chân răng, có nhiều lỗ thủng
(lỗ sàng).
* Xương xốp: nằm giữa hai bản xương trên và giữa các lá sàng [13].
Hoạt động chuyển hoá của xương ổ răng rất mạnh. Quá trình tạo xương
liên tục, nếu xương khoẻ, chiều cao của mào xương ổ răng phát triển liên tục
phù hợp với sự mòn sinh lý của răng, tức là khớp cắn không bị giảm, kể cả ở
lứa tuổi cao. Canxi xương ở trong xương, giữa các sợi là những tinh thể
apatit, ngoài việc đảm bảo độ cứng của xương nó còn là nguồn dự trữ mức
canxi trong máu. Thành phần hữu cơ của xương là chất keo và những tế bào


7

như tạo cốt bào, tế bào xương đa nhân. Xương ổ răng cũng có quá trình tiêu
và phục hồi luôn cân bằng thì xương luôn chắc và đảm bảo chức năng. Nếu
mất cân bằng, quá trình tiêu xương lớn hơn phục hồi thì dẫn đến tiêu xương
(gặp ở quá trình bệnh lý quanh răng, sang chấn khớp cắn…).
1.1.1.4. Xương răng
Xương răng bọc phần ngà răng ở chân răng. Là một dạng đặc biệt của
xương, trong đó thành phần vô cơ và hữu cơ chiếm tỷ lệ ngang nhau, nhưng

không có hệ thống Havers và mạch máu [13].
Xương răng bao phủ chân răng và đi qua phần men răng, phủ trên bề
mặt men ở cổ răng. Bề dày của xương răng thay đổi theo tuổi, tuỳ vùng và
chức năng, dày nhất là vùng cuống răng, mỏng nhất là vùng cổ răng. Zander
nghiên cứu và đo bề dày xương răng giữa các vùng khác nhau của chân răng,
giữa người già và người trẻ cho thấy: sự đắp dày thêm của xương răng xảy ra
từ từ và đều đặn theo tuổi. Ngoài ra còn do các yếu tố khác như: kích thích
của quá trình viêm, hoá chất vùng cuống răng và do chuyển hoá.
Về cấu trúc, xương răng gồm 2 loại: Xương răng không có tế bào và
xương răng có tế bào. Xương răng không có tế bào là lớp đầu tiên được tạo ra
trong quá trình tạo ngà ở chân răng, phủ lên chân răng bởi xương răng thứ phát
(hay xương răng có tế bào). Quá trình tạo xương răng có tế bào nhanh, những
tế bào tạo xương răng non bám chắc và giữ lại tới lúc phát sinh lớp xương răng
mới và tế bào xương răng được trưởng thành. Sự bồi đắp xương răng liên tục,
suốt đời, ở cuống răng thì nhanh hơn ở cổ răng, những lớp được bồi đắp tạo
điều kiện cho sự bám chắc của những dây chằng mới giữ cho bề rộng vùng
quanh răng, xương răng không bị tiêu sinh lý và thay đổi cấu trúc như xương.
Về mặt chức phận, xương răng tham gia vào sự hình thành hệ thống cơ học nối
liền răng với xương răng, cùng với xương ổ răng giữ bề rộng cần thiết cho


8

vùng quanh răng, bảo vệ ngà răng và tham gia sửa chữa ở một số trường hợp
tổn thương ngà chân răng.
1.1.2. Tuần hoàn quanh răng
Răng, dây chằng quanh răng và xương ổ răng thường có một mạch máu
nuôi dưỡng. Mỗi răng và khe quanh răng được nuôi dưỡng bởi một động
mạch nhỏ là một nhánh của động mạch chính trong xương tới lỗ cuống răng,
trước khi vào lỗ cuống răng nó tách ra các nhánh vào trong xương ổ răng, một

nhánh vào khe nuôi các dây chằng quanh răng. Nhánh chính đi vào tuỷ răng
qua lỗ cuống răng, động mạch tuỷ răng không có nhánh nối với bên ngoài.
Còn trong xương ổ răng thì có nhiều mạng nối chằng chịt với nhau, ở vùng
dây chằng cũng vậy, có những nhánh xuyên qua bản xương thành trong huyệt
răng nối với mạng lưới tuần hoàn trong khe quanh răng. Tĩnh mạch đi song
song với động mạch và đặc biệt là mạng lưới nối tĩnh mạch ở vùng quanh
răng tập trung quanh lỗ cuống răng.
1.1.3. Thần kinh vùng quanh răng: Có hai loại:
- Các sợi giao cảm chạy song song với mạch máu, điều hoà máu chảy
trong các mao mạch.
- Các sợi cảm giác hầu hết là các nhánh có Myelin của nhánh II hoặc
nhánh III của dây thần kinh tam thoa. Vùng dây chằng quanh răng giàu mạng
lưới mạch máu và cũng giàu các sợi cảm giác. Người ta tìm thấy có hai loại
thần kinh tận cùng: là có vỏ bọc và không có vỏ bọc ở đầu tận cùng. Nhánh
tận đầu tự do đáp ứng với cảm giác đau, trong khi đó đầu có vỏ bọc đáp ứng
với thay đổi áp lực; ở những đầu có vỏ bọc cấu trúc phức tạp hơn nhiều so với
ở da và niêm mạc miệng, hơn nữa phần lớn nó đáp ứng với khả năng nhạy
cảm của dây chằng quanh răng.
1.2. Một số đặc điểm biến đổi sinh lý, bệnh lý vùng
quanh răng ở người cao tuổi
1.2.1. Biến đổi sinh lý chung


9

Lão hóa đưa đến những thoái triển biến đổi dần và không phục hồi về
hình thái và chức năng ở các cơ quan, khả năng thích nghi với những biến đổi
của môi trường xung quanh ngày càng bị rối loạn [14], [15], [16].
Lão hóa bắt đầu từ da: Da cứng và nhăn nheo, tăng lớp mỡ dưới da ở
bụng, ngực, đùi, mông.

Tóc chuyển bạc, trước ít và chậm sau nhiều và nhanh hơn.
Mắt điều tiết kém đi gây lão hóa và thị lực giảm. Thính lực kém đi.
Hoạt động chức năng các cơ quan, phủ tạng giảm dần, bài tiết dịch vị
kém, ăn uống kém ngon và chậm tiêu, hoạt động chức năng gan, thận cũng
giảm dần, hệ thống nội tiết yếu đi.
Sự thích ứng với những thay đổi ngoại cảnh kém dần như thời tiết
nóng, lạnh. Chức năng hô hấp giảm, chức năng tim mạch kém thích ứng với
lao động nặng.
Giảm khả năng làm việc trí óc, nhanh mệt, tư duy nghèo dần, liên
tưởng kém, trí nhớ giảm hay quên, kém nhạy bén, chậm chạp.
Thời gian phục hồi vết thương kéo dài, xương dễ gãy do chứng loãng
xương. Khả năng đáp ứng của cơ thể trước các kháng nguyên ngoại lai, vi khuẩn
giảm dễ dẫn đến nhiễm trùng và nổi lên là hiện tượng tự miễn [15].
Tất cả những lão hóa đó là nguyên nhân làm cho sức khỏe người cao
tuổi giảm sút và hay mắc các bệnh mãn tính và cấp tính.
Sau đây là các tỷ lệ bệnh thường gặp ở người cao tuổi so với người trẻ tuổi:
Bảng 1.1: Các bệnh thường gặp ở người cao tuổi và người trẻ tuổi [46]
Các loại bệnh
Bệnh cơ xương khớp
Bệnh hô hấp
Bệnh tiêu hóa
Bệnh tim mạch
Bệnh thận - tiết niệu

Người cao tuổi
47,69
19,63
18,25
13,52
1,64


1.2.2. Biến đổi ở mô niêm mạc miệng

Người trẻ tuổi (15-59)
29,05
7,27
17,65
---


10

* Niêm mạc miệng:
Biểu mô phủ và mô liên kết ở khoang miệng teo và mỏng, giảm mối
liên kết giữa các protein và mucoprotein theo tuổi. Tăng số lượng tương bào
và hậu quả là giảm tính đàn hồi và tăng sự nhạy cảm của mô đối với sang
chấn. Tổ chức niêm mạc phủ khoang miệng ở người cao tuổi có những biến
đổi dạng phù nề, các nhú biểu mô mất dần làm cho vùng tiếp giáp giữa biểu
mô và mô liên kết bị xẹp xuống làm cho lớp biểu mô dễ bị bong trước. Thời
gian thay thế tế bào biểu mô kéo dài số lượng tế bào Langerhans ít đi. Vì các
biến đổi nêu trên, nên bề mặt của niêm mạc miệng kém chịu đựng trước các
kích thích như nóng, lạnh, sức đề kháng với nhiễm trùng giảm đi, niêm mạc
dễ bị tổn thương và khi bị tổn thương thì cũng lâu lành.
* Niêm mạc lưỡi:
Các nghiên cứu cho thấy các gai lưỡi có hiện tượng giảm và teo. Số gai
hình dây của lưỡi giảm làm cho lưỡi có vẻ trơn láng, gai lưỡi hình đài bị teo
nhiều nhất với số lượng giảm hoặc mất dần các nụ vị giác gây ra những rối loạn
vị giác với các chất ngọt, chua, mặn… Nói chung, niêm mạc lưỡi miệng nhợt
nhạt, teo mỏng do giảm chất gian bào, giảm khả năng tăng sinh tế bào và giảm
đáp ứng miễn dịch tại chỗ cũng như toàn thân thường thấy ở người cao tuổi.

1.2.3. Biến đổi ở khớp thái dương hàm và xương hàm
* Khớp thái dương hàm:
Ở khớp thái dương hàm thường gặp sự xơ hóa và thoái hóa khớp, thể
tích lồi cầu xương hàm giảm, diện khớp trở lên phẳng, các dây chằng dão.
Cùng với sự thoái triển nêu trên, trương lực của các cơ nâng hàm và hạ hàm
mất dần làm cho khớp mất tính ổn định, vận động của hàm bị ảnh hưởng,
khớp cắn mất cân bằng dẫn đến khả năng nhai, nghiền thức ăn kém, dễ gây
đau, mỏi và có tiếng kêu ổ khớp.
*Xương hàm


11

Xương hàm cũng có những biến đổi thoái triển chung theo hệ xương
của cơ thể. Trước hết, xương hàm giảm khối lượng do độ đậm đặc bởi hiện
tượng loãng xương sinh lý. Trên phim X-quang xương, người già ít cản
quang, có những vạch sáng chiều rộng vài mm. Xương hàm người cao tuổi
yếu và dễ gãy, khi bị gãy thường can xương xấu và chậm. Sống hàm trên tiêu
nhiều hơn theo chiều hướng tâm, sống hàm dưới ít tiêu hơn theo chiều ly tâm.
Như vậy, sau khi mất răng, hình thái các xương hàm trên và dưới sẽ có những
biến đổi sâu sắc.
1.2.4. Biến đổi trên các chức năng vùng miệng
* Chức năng nhai:
Tốc độ và biên độ chuyển động của hàm dưới giảm trong quá trình vận
động há, ngậm và độ rộng lên xuống trong khi chiều sang bên thì vẫn giữ
nguyên. Vì vậy, thời gian của chu kì nhai không có khác nhiều so với thời kỳ
trung niên. Tuy nhiên, hiệu quả của nhai bị giảm sút do răng suy yếu, hệ
thống môi, má, lưỡi và các cơ giảm sự khéo léo, khả năng phối hợp.
* Chức năng nuốt:
Chức năng nuốt liên quan nhiều tới hoạt động của lưỡi. Lưỡi giảm sự

khéo léo làm cho việc đưa thức ăn chuyển động giảm hơn nữa việc nuốt cũng
bị ảnh hưởng do những thoái triển về vận động cơ và thần kinh.
* Chức năng phát âm:
Có những sự thay đổi nhất định về giọng điệu và khả năng nói theo tuổi.
Nhưng nếu không có các bệnh lý liên quan thì đặc điểm này ít được chú ý.
* Chức năng tạo dáng khuôn mặt:
Các biến đổi nét mặt là do mất răng và do giảm hoặc mất trương lực
các cơ ở mặt. Thường có sự thấp tầng mặt dưới, những thay đổi này không chỉ
là thẩm mỹ mà còn là sự trở ngại tới chức năng nhai, nuốt.
* Chức năng tiết nước bọt:


12

Nhu mô tuyến nước bọt suy thoái dẫn đến giảm tiết về số lượng nước
bọt kể cả chức năng tổng hợp các protein nước bọt, IgA giảm 2/3. Trên thực tế
tình trạng khô miệng còn do 1 số bệnh lý ở tuyến, đặc biệt do hậu quả một số
thuốc điều trị cao huyết áp, tâm thần….
1.2.5. Ảnh hưởng của lão hóa trên cấu tạo mô nha chu
1.2.5.1. Biểu mô lợi
Nhiều nghiên cứu cho thấy sự mỏng đi và giảm sừng hóa của biểu mô lợi
theo tuổi, vì vậy làm tính thấm của biểu mô với kháng nguyên vi khuẩn và
giảm sức đề kháng với các sang chấn chức năng có thể ảnh hưởng lâu dài đến
vùng quanh răng. Ngoài ra, còn có một số thay đổi khác liên quan đến lão hóa
như các gai biểu bì phẳng hơn và thay đổi mật độ tế bào biểu mô.
Tác động của quá trình lão hóa lên vị trí của biểu mô nối là chủ đề
được nghiên cứu nhiều nhất. Một số nghiên cứu cho thấy sự di chuyển về
phía chóp của biểu mô nối trên bề mặt chân răng ở người có men răng bình
thường đi kèm với sự tụt lợi. Cùng với sự tụt lợi, chiều rộng của lợi dính sẽ
giảm theo tuổi. Ngoài ra, sự di chuyển của biểu mô nối về phía chóp có thể

là hậu quả của sự mọc răng liên tục qua biểu mô lợi trong nỗ lực duy trì mặt
phẳng cắn với răng đối diện để thích nghi với sự mòn răng (sự mọc răng thụ
động). Tuy nhiên, tụt lợi không phải là một quá trình sinh lý không thể tránh
khỏi của người già mà do hậu quả tích lũy của quá trình viêm hoặc chấn
thương mô nha chu [13].
1.2.5.2. Mô liên kết lợi
Mô liên kết lợi ngày càng thô hơn và dày đặc hơn theo tuổi, ngoài ra còn
có sự thay đổi về số lượng và chất lượng sợi collagen. Những thay đổi này bao
gồm sự tăng tỷ lệ chuyển đổi từ collagen hoàn toàn đến collagen không hoàn
toàn, tăng sức mạnh cơ học và tăng nhiệt độ làm biến tính collagen. Như vậy, có
sự tăng tính ổn định của collagen do những thay đổi trong cấu trúc phân tử.


13

Tuy nhiên, tỷ lệ collagen được tổng hợp lại giảm đi theo tuổi.
1.2.5.3. Dây chằng nha chu
Những thay đổi trong dây chằng nha chu do lão hóa bao gồm giảm số
lượng nguyên bào sợi và tăng bất thường cấu trúc. Ngoài ra, có sự giảm sản
xuất các chất hữu cơ căn bản, ngừng hoạt động các tế bào biểu mô và tăng số
lượng sợi đàn hồi. Nhiều kết quả trái chiều đã được ghi nhận về sự thay đổi
chiều rộng của dây chằng nha chu theo tuổi trong các mẫu vật của người và
động vật. Một điều chắc chắn là chiều rộng của khoảng quanh răng sẽ giảm
nếu răng không được nhai đến (giảm chức năng) hoặc chịu lực nhai quá mức.
Cả hai tình huống trên đều dẫn đến sự mất răng sớm.
1.2.5.4. Xương răng
Có sự gia tăng chiều dày xương răng theo tuổi do sự bồi đắp liên tục sau
khi mọc răng. Sự gia tăng chiều dày này nhiều hơn ở vùng chóp và mặt lưỡi.
Khả năng sửa chữa xương răng là hạn chế, những bất thường trên bề mặt xương
răng như những hõm tiêu xương răng xuất hiện ngày càng nhiều theo tuổi.

1.2.5.5. Xương ổ răng
Hình thái lá cứng xương ổ răng thay đổi liên quan với tuổi, có ngày
càng nhiều bất thường trên bề mặt xương ổ răng và giảm số lượng kết nối bất
thường với sợi collagen. Ngoài ra, có sự giảm mạch máu trong xương, giảm
trao đổi chất và khả năng tự sửa chữa, tăng quá trình hủy xương và giảm tái
tạo xương. Trong ghép xương đồng loại đông khô khử khoáng, nếu sử dụng
vật liệu ghép từ người cho trên 50 tuổi thì khả năng tạo mô xương ít hơn so
với vật liệu lấy từ người cho trẻ hơn.
Tuy nhiên, tỷ lệ lành xương (can xương) của xương vùng ổ răng đã nhổ
không liên quan tới tuổi tác. Thật vậy, những thành công trong tích hợp xương
trong cấy ghép nha khoa dựa trên đáp ứng lành thương ở mọi mô xương lành,
không liên quan với tuổi tác.
1.2.5.6. Mảng bám vi khuẩn


14

Sự tích tụ mảng bám ở lợi - răng được cho là tụt lợi làm tăng diện tích bề
mặt mô cứng lộ ra và đặc điểm bề mặt chân răng bị lộ khác so với men răng.
Đối với mảng bám trên lợi, không có sự khác biệt thực sự về chất lượng
các thành phần mảng bám. Đối với mảng bám dưới lợi, một số nghiên cứu cho
thấy có sự gia tăng số lượng trực khuẩn đường ruột và Pseudomonas ở người
lớn tuổi. Tuy nhiên, cần thận trọng trong việc giải thích kết quả này do sự gia
tăng của những chủng loại vi khuẩn trên trong miệng của những người lớn tuổi.
Có sự thay đổi một số tác nhân gây bệnh nha chu với tuổi tác, đặc biệt là
vai trò ngày càng tăng của Porphyromonas gingivalis và vai trò ngày càng giảm
của Actinobacillus actinomycetemcomitans. Tuy nhiên, tác động của lão hóa lên
sự thay đổi sinh thái học vi khuẩn quanh răng vẫn còn chưa thực sự rõ ràng.
1.2.5.7. Đáp ứng miễn dịch
Những tiến bộ mới đây trong sự nghiên cứu về tác động của quá trình

lão hóa trên các phản ứng miễn dịch cho thấy yếu tố tuổi có ảnh hưởng lên
đáp ứng miễn dịch của vật chủ ít hơn so với suy nghĩ trước đây.
Ở người lớn tuổi có sự giảm đáp ứng miễn dịch của tế bào T và B, các
cytokine và tế bào diệt tự nhiên nhưng không có sự khác biệt về đáp ứng miễn
dịch của tế bào đa nhân và đại thực bào hoạt động. Nếu có sự hiện diện của
mảng bám, phản ứng viêm của vùng quanh răng của người lớn tuổi sẽ diễn ra
nhanh hơn và mạnh hơn.
1.2.6. Ảnh hưởng quá trình lão hóa lên sự tiến triển của bệnh nha chu
Sự nhạy cảm của bệnh nha chu tăng theo tuổi. Trong một nghiên cứu
thực nghiệm kinh điển về viêm lợi, đối tượng nghiên cứu được loại trừ hoàn
toàn mảng bám và viêm bằng các phương pháp làm sạch và điều trị chuyên
biệt. Sau đó đối tượng không thực hiện bất kỳ biện pháp vệ sinh răng miệng
nào trong thời gian 3 tuần để tạo điều kiện cho viêm lợi phát triển. So sánh sự
phát triển viêm lợi giữa các cá thể trẻ tuổi và lớn tuổi đã được chứng minh


15

phản ứng viêm mạnh hơn ở những đối tượng nghiên cứu lớn tuổi hơn, kể cả
người và chó. Trong nhóm người lớn tuổi hơn (từ 65 đến 80 tuổi), người ta
nhận thấy khoảng mô liên kết bị thâm nhiễm lớn hơn, gia tăng dịch rỉ viêm và
tăng chỉ số lợi. Ngay cả khi các đối tượng đều có tình trạng lợi hoàn toàn bình
thường trước thử nghiệm, sự khác biệt vẫn có thể tồn tại giữa các nhóm tuổi
trong đó những người càng lớn tuổi thì tình trạng viêm càng nhiều. Ở người
cao tuổi, bệnh viêm lợi thường tiến triển thầm lặng dẫn tới viêm quanh răng
và hậu quả là tiêu xương và mất răng [13].
Rõ ràng khi tuổi cao sẽ không tránh khỏi việc gia tăng sự mất mô liên
kết bám dính. Tuy nhiên điều này còn phụ thuộc vào sự phơi nhiễm với một
số yếu tố gây phá hủy tổ chức quanh răng như: mảng bám, sang chấn cơ học
mạn tính do đánh răng, những tác động không mong muốn do thầy thuốc

gây ra trong phục hình răng, lấy cao răng, kiểm soát bề mặt chân răng. Ảnh
hưởng của những phơi nhiễm này đi theo một hướng duy nhất là làm gia
tăng mất bám dính.
Một số nghiên cứu đã được thiết kế để loại bỏ những yếu tố nhiễu và
hướng tới làm rõ câu hỏi tuổi cao có phải là yếu tố nguy cơ của bệnh nha chu
(yếu tố nguy cơ được định nghĩa là một phơi nhiễm hoặc tác nhân làm tăng
xác suất xảy ra bệnh). Những nghiên cứu này đều cho thấy tác động của tuổi
tác là không tồn tại hoặc ít có ý nghĩa lâm sàng làm gia tăng sự mất bảo vệ
vùng nha chu: tỷ suất chênh của tình trạng vệ sinh răng miệng kém đối với
viêm quanh răng là 20,52 trong khi tỷ suất chênh của tuổi tác chỉ là 1,24 [13].
Như vậy, có thể nói tuổi cao không phải là một yêu tố nguy cơ thực sự nhưng
là nền tảng hoặc một yếu tố kết hợp của sự phát triển viêm quanh răng.
1.3. Một số về đặc điểm về bệnh lý vùng quanh răng
1.3.1. Định nghĩa và cơ chế bệnh sinh


16

Bệnh quanh răng là bệnh của tổ chức quanh răng, bao gồm: lợi, dây
chằng quanh răng, xương ổ răng và xương răng.
Từ lâu người ta đã nhận thấy các ảnh hưởng qua lại phức tạp của yếu tố
toàn thân, tại chỗ cũng như ngoại cảnh đối với sự hình thành và phát triển của
bệnh quanh răng. Ngày nay người ta nhấn mạnh vai trò của vi khuẩn trong
mảng bám răng và sự đáp ứng miễn dịch của từng cá thể, đây là hai yếu tố
chính khởi phát bệnh quanh răng. Ngoài ra người ta còn thấy yếu tố làm bệnh
nặng thêm như sang chấn khớp cắn hoặc những bệnh toàn thân khác trong
một số hội chứng.
Các yếu tố toàn thân liên quan tới BQR: bệnh đái tháo đường, xơ gan,
bệnh nội tiết, bệnh tim mạch và cả những điều kiện khác như hình thể, vị trí
răng, bất bình thường của cung răng, những sai sót trong điều trị trong đó

bệnh đái tháo đường có liên quan rất mật thiết đến bệnh BQR.
1.3.2. Phân loại bệnh quanh răng
Việc phân loại bệnh quanh răng có ý nghĩa quan trọng trong việc chẩn
đoán, tiên lượng và làm kế hoạch điều trị. Có rất nhiều cách phân loại bệnh
quanh răng. Nhưng theo các xu hướng chung và các quan điểm hiện đại,
người ta chia bệnh quanh răng thành ra làm 2 loại chính là: bệnh của lợi và
các bệnh của cấu trúc chống đỡ răng [13].
* Các bệnh lợi bao gồm các bệnh mà chỉ có tổn thương ở lợi.
* Các bệnh của cấu trúc chống đỡ bao gồm các bệnh liên quan tới cấu trúc
chống đỡ răng như: dây chằng quanh răng, xương ổ răng và xương răng.
Sau đây là phân loại bệnh quanh răng theo hội nghị quốc tế năm 1999,
bao gồm 8 nhóm bệnh dưới đây:
 Các bệnh lợi.
 Viêm quanh răng mạn.
 Viêm quanh răng phá hủy.


17

 Viêm quanh răng là biểu lộ các bệnh toàn thân.
 Các bệnh quanh răng hoại tử.
 Các apxe vùng quanh răng.
 Viêm quanh răng do các tổn thương nội nha.
 Các biến dạng và tình trạng mắc phải hay trong quá trình phát triển.
* Dấu hiệu lâm sàng điển hình của các bệnh viêm quanh răng là túi quanh
răng hay túi lợi.
- Túi lợi là sự sâu xuống của rãnh lợi do các bệnh viêm quanh răng gây
tiêu xương ổ và dây chằng làm mào xương ổ răng và biểu mô kết nối và di
chuyển về phía cuống chân răng, khi chiều sâu thăm khám lớn hơn 3mm thì
gọi là túi lợi

- Phân biệt trên lâm sàng:
+ Túi lợi giả: loại túi hình thành do sự phì đại của lợi mà không có sự
phá hủy xương ổ răng, dẫn đến rãnh lợi sâu.
+ Túi lợi: loại túi có sự phá hủy mô nha chu. Quá trình tiêu xương và
mất bám dính trên bề mặt chân răng dần dần làm lung lay răng.
Để xác định độ sâu của túi quanh răng, người ta dùng sonde nha chu
có chia vạch để đo, độ sâu túi lợi được tính từ bờ viền lợi tới đáy túi
lợi. Trên lâm sàng, các dạng tổn thương nha chu rất phong phú, vì
vậy ta có thể gặp nhiều hình thái quanh răng khác nhau.
- Phân loại túi lợi:
+ Túi lợi trên xương: khi đáy túi lợi nằm ngang mức hoặc cao hơn mào
xương ổ răng. Thường gặp ở những vùng tiêu xương ngang. Túi có
một thành chân răng và thành đối diện là mô lợi
+ Túi lợi trong xương: khi đáy túi nằm thấp hơn mào xương ổ răng.
 Một số dạng viêm lợi điển hình ở người cao tuổi:


18

- Viêm lợi tróc màng mãn tính (ở người mãn kinh).
- Lợi quá sản phối hợp phì đại do viêm làm gai lợi to, lan rộng, tạo túi
giả (do dùng thuốc).
- Lợi quá sản, cứng chắc, màu nhạt tái, không đau, không viêm (bệnh máu).
Rãnh lợi

Men răng

Biểu mô nối

Ngà răng

Ranh giới men-xương răng

Xương ổ răng
Xương răng

Dây chằng quanh răng

Hình 1.3: Mô quanh răng lành mạnh [13]

Men răng

Mảng bám và cao răng trong rãnh lợi

Ngà răng
Ranh giới men-xương răng

Mô liên kết sưng nề
Phần còn lại biểu mô nối
Xương ổ răng

Xương răng
Dây chằng quanh răng

Hình 1.4: Viêm lợi [17]


19

 Dạng phổ biến nhất của viêm quanh răng là viêm quanh răng tiến triển
chậm hay viêm quanh răng mạn tính ở người lớn [13].

Cao răng & mảng bám
Túi lợi

Ngà răng
Ranh giới men-xương răng

Biểu mô liên kết sưng nề
Biểu mô nối còn lại
Xương ổ răng
Xương răng

Dây chằng quanh răng

Hình 1.5: Viêm quanh răng [17]
Ở người cao tuổi, bệnh thường mạn tính hoặc bán cấp, tiến triển từ
chậm đến trung bình, từng đợt nhưng có giai đoạn tiến triển nhanh (gặp ở
những người có sức khỏe yếu, bệnh toàn thân phức hợp). Do biểu hiện
không rầm rộ nên bệnh nhân thường chỉ đến khám khi bệnh đã có biểu hiện
viêm cuống, cấu trúc mô quanh răng đã bị phá hủy, vì thế viêm quanh răng
ở người cao tuổi thường đặc trưng bởi: răng lung lay, răng di lệch, răng
rụng và lộ chân răng.
1.4. Hành vi chăm sóc sức khỏe răng miệng
1.4.1. Hành vi sức khỏe


20

Hành vi sức khỏe là một trong nhiều khái niệm liên quan tới hành vi con
người. Hành vi sức khỏe có một vai trò vô cùng quan trọng để tạo lập cho sức
khỏe mỗi cá nhân và cộng đồng [39].

Người ta cho rằng hành vi người là một phức hợp của nhiều hành động
chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố như di truyền, môi trường kinh tế - xã hội
và chính trị.
Các yếu tố quyết định nên hành vi con người có thể tóm tắt như sau:
Kiến thức

Thái độ

Hành vi

K

A

P


Knowledge
Sự hiểu biết phụ


Attitude
Tư duy, lập trường,


Practice
Các hoạt động của

thuộc vào yếu tố văn


quan điểm.

con người.

hóa, xã hội, kinh tế.
Hình 1.6: Sơ đồ K.A.P [39]
1.4.2. Kiến thức (Knowledge)
Kiến thức bao gồm những hiểu biết của con người thường khác nhau và
thường bắt nguồn từ kinh nghiệm, vốn sống hoặc của người khác truyền lại.
Hiểu biết nhiều khi không tương đông với kiến thức, hiểu biết rất khó thay đổi
khi hiểu biết sai và trở thành định kiến. Kiến thức phòng bệnh răng rất cần
thiết trong phòng tránh bệnh răng miệng.
1.4.3. Thái độ (Attitude)
Là tư duy, lập trường, quan điểm của đối tượng đối với một vấn đề. Nó
có thể bị ảnh hưởng bởi trình độ văn hóa, điều kiện kinh tế, xã hội, gia đình,
khu vực sinh sống ...
1.4.4. Hành vi (Practice)


21

Xuất phát từ những hiểu biết, có kiến thức và thái độ dẫn đến những
hành động của đối tượng. Kiến thức và thái độ đúng sẽ có hành động đúng và
ngược lại.
1.5. Vấn đề kiến thức, thái độ và hành vi sức khỏe răng
miệng ở người cao tuổi
Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi đã được đặc biệt quan tâm ở nước ta
cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, song với việc chăm sóc sức khỏe răng
miệng nói riêng ở người cao tuổi còn ít được quan tâm và triển khai một cách
hệ thống. Những người cao tuổi thường thiếu những thông tin cần thiết để tự

chăm sóc bảo vệ sức khỏe răng miệng, bản thân họ cũng không tích cực trong
việc thực hiện các biện pháp vệ sinh răng miệng như: ít chải răng, hay thực
hiện các thói quen không tốt cho răng miệng như xỉa tăm, đánh cau khô, ăn
trầu, hút thuốc…[17], [18].
Khi gặp các vấn đề về răng miệng họ cũng ít đi khám nha sĩ hơn những
người trẻ, họ mặc nhiên chấp nhận và chịu đựng đau, hay khó chịu ở vùng
răng miệng…Cũng vì vậy, nguyện vọng của họ thường rất thấp so với nhu
cầu thực tế cần được chăm sóc, điều trị. Đối với một bộ phận những người có
sức khỏe yếu hay khuyết tật không độc lập trong sinh hoạt cá nhân thì các vấn
đề trên càng trở nên nặng nề [19], [20].
1.5.1. Đặc điểm chung
Sức khỏe là biểu hiện của nhiều yếu tố tác động, trong đó vấn đề kiến
thức, thái độ và thực hành sức khỏe đóng vai trò cực kì quan trọng, nó có thể
thúc đẩy tình trạng sức khỏe tốt lên hay xấu đi.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Kiến thức về chăm sóc sức khỏe răng
miệng ở người cao tuổi chủ yếu là kinh nghiệm tích lũy của bản thân hoặc do
người khác truyền lại, mà trên thực tế theo quan điểm y học hiện đại thì các kinh
nghiệm đó đôi khi đi ngược lại và có thể làm cho tình trạng sức khỏe răng miệng


22

xấu đi. Hơn nữa, kiến thức chăm sóc răng miệng ở người cao tuổi cũng phụ
thuộc nhiều yếu tố như: Trình độ văn hóa, nghề nghiệp, mức sống, khu vực sinh
sống, sự tự tìm hiểu của từng cá nhân…Thông thường ý niệm về bệnh tật chỉ
được quan tâm khi có cảm giác đau, thẩm mỹ bị ảnh hưởng, giao tiếp xã hội bị
hạn chế. Đây là những nhận biết có thể có ở hầu hết người cao tuổi. Nhưng nếu
để hiểu nguyên nhân, hậu quả và các biện pháp phòng chống bệnh thì đa số tỏ ra
không biết hoặc hiểu sai các kiến thức cơ bản, thông thường. Thực tiễn này đặt
ra trách nhiệm cho vấn đề giáo dục nha khoa trong chương trình nâng cao hiểu

biết đối với sức khỏe răng miệng cho người cao tuổi [19], [20].
Trên cơ sở nhận thức và thái độ có nhiều hạn chế nên thực hành chăm
sóc sức khỏe răng miệng của người cao tuổi đã thể hiện nhiều yếu tố tiêu
cực: Cách thức vệ sinh răng miệng không tốt, biểu hiện bằng việc ít chải
răng và kỹ thuật chải răng không tốt. Họ sử dụng nhiều biện pháp vệ sinh
răng miệng không cơ bản và có nhiều thói quen không tốt cho sức khỏe răng
miệng. Rất ít người có thói quen đi khám răng miệng định kì để phát hiện và
điều trị sớm [23].
1.5.2. Các yếu tố tác động đến kiến thức, thái độ và hành vi chăm sóc sức
khỏe răng miệng ở người cao tuổi
Sức khỏe răng miệng người cao tuổi chịu sự tác động của nhiều yếu tố.
Sức khỏe kém có thể bắt nguồn từ những nguy cơ nội tại do sự ngấm vôi kém
ở men răng, răng mọc lệch lạc, chen chúc… Nguy cơ cũng đến từ các thói
quen có hại: Hút thuốc, uống rượu, ăn trầu… Các yếu tố ảnh hưởng khác có
thể do trình độ học vấn, mức thu nhập không cao, sức khỏe chung yếu, tập
quán văn hóa và nhất là yếu tố không được chăm sóc bởi các dịch vụ nha
khoa. Các yếu tố này liên quan chặt chẽ với nhau và cần được tìm hiểu để đưa
ra giải pháp can thiệp hợp lý. Nhằm tăng cường nhận thức, thay đổi thái độ,
hành vi sức khỏe người cao tuổi, chúng ta cần giúp họ loại bỏ những thói


23

quen có hại, giáo dục các đối tượng tự chăm sóc sức khỏe răng miệng có khoa
học và có ý thức thăm khám răng định kì tại các cơ sở nha khoa. Đây là một
quá trình cần có sự tác động nhiều mặt, nhưng ý thức bản thân luôn luôn là
một yếu tố quyết định quan trọng nhất [24].
1.6. Nghiên cứu về bệnh quanh răng ở người cao tuổi
trên Thế Giới và Việt Nam
* Ở Việt Nam:

Tại Việt Nam, từ năm 1960 đến nay đã có nhiều công trình điều tra về
bệnh quanh răng ở một số địa phương. Các kết quả điều tra đều cho thấy bệnh
quanh răng chiếm tỷ lệ cao và ở mức báo động [20], [25], [26], [27]. Trần Văn
Trường và Lâm Ngọc Ấn đã tiến hành điều tra sức khỏe răng miệng toàn quốc
qua 2 đợt thì nhận thấy rằng qua 2 lần tỷ lệ bệnh quanh răng của nhóm tuổi
>45 tuổi không biến đổi nhiều, đều trên 90% [1].
Về tình hình bệnh tổ chức quanh răng, theo điều tra cơ bản tại khu vực
Hà Nội của Nguyễn Đức Thắng [28] với lứa tuổi 45-64 và cỡ mẫu (n=150) thì
có CPITN 1 tỉ lệ là 1,33% và CPITN 2 chiếm tỷ lệ cao nhất 64,67%. Nguyễn
Văn Cát, Renneberg T và cộng sự (1992) khám 181 người từ 44 đến 64 tuổi
không thấy người nào có mô quanh răng lành mạnh, chỉ số CPITN 1 tỉ lệ là
1,2 cao nhất là chỉ số 3 có tỉ lệ 45,8. Theo tác giả Dương Thị Hoài Giang năm
2009 khám trên 303 người từ 60 tuổi trở lên tại Hoàng Mai – Hà Nội thấy tỷ
lệ người mắc bệnh quanh răng là 93,1% [19].
* Trên thế giới:
Bảng 1.2: Tình trạng túi lợi ở người cao tuổi của các
nghiên cứu trên thế giới
Quốc gia, tác giả

Năm

Tuổi Người

Túi lợi

Túi lợi

nông (%) sâu (%)

Trung


Trung

bình cao bình túi
răng

lợi


24

Galan D. và cộng sự,
Canada [56]
Miyazaky H. và
cộng sự, Japan [22]
Trần Văn Trường,
Việt Nam [1]

1993

≥ 60

1994

65-74

2000

≥ 45


54

999

37,0

49,0

60,0

10,0

2,70

1,10

35,7

10,5

2,86

1,83

Một số điều tra khác như: theo điều tra sức khỏe quốc gia 1971-1974
của Mỹ, tình hình bệnh nha chu theo độ tuổi [31] như sau: với độ tuổi 55-64
(có nam bệnh nha chu chiếm 46,9%, còn nữ chiếm 35,8%). Theo điều tra của
P.D.Barnard năm 1988 ở Astraulia [32] thì số trung bình lục phân có số
CPITN cao nhất ở lứa tuổi từ 65 tuổi trở lên thì thấy tỷ lệ CPITN 3 chiếm tới
70%. Theo Kendelman D. và cộng sự 1981 ở Mỹ 65% người lứa tuổi từ 1965 có túi lợi sâu ≥ 3mm, 28% có túi lợi sâu 4-6mm và 8% có túi lợi sâu

> 6mm [33].
1.7. Nghiên cứu về kiến thức, thái độ và hành vi chăm
sóc sức khỏe răng miệng ở người cao tuổi
Qua một số nghiên cứu trong và ngoài nước đã chỉ ra rằng: Những
người cao tuổi thường không có hiểu biết nhiều về răng miệng. Vì vậy, mà
việc tự chăm sóc sức khỏe răng miệng ở họ cũng có rất nhiều hạn chế.
Schwarz E và Lo E.C (1994) phỏng vấn 559 đối tượng tuổi 65-74 ở Hồng
Kông cho thấy có tỉ lệ rất cao về số người không hiểu rõ về sâu răng, viêm
lợi [34]. Smith J.M và cộng sự điều tra tại Anh năm 1980 cho thấy 22%
người cao tuổi có từ 1-5 năm và 26% có từ 6-20 năm không đi khám răng
miệng [57]. Theo Strayer M.S (1993) tại Mỹ đã có 60% các bang có chương
trình giáo dục sức khỏe răng miệng cho người cao tuổi. Hầu hết các nghiên
cứu đều cho nhận xét là bệnh răng miệng ở người cao tuổi thường cao hơn
các lứa tuổi khác và kiến thức, thái độ và thực hành của họ cũng rất hạn chế.
Theo điều tra của Rademakers L (tại Hà Lan năm 2008), Carter G và cộng


25

sự (tại Christchurch năm 2004) và Sweeney MP và cộng sự (tại Glasgow
năm 2007) cho kết quả tương tự là người cao tuổi ít quan tâm tới việc chăm
sóc răng miệng [59], [60]. Thêm vào đó, số lần chăm sóc răng miệng của
người cao tuổi lại không phụ thuộc vào tuổi mà phụ thuộc vào số răng hiện
có (theo nghiên cứu của Niessen LC tại Mỹ năm 2002) [21]. Bệnh răng
miệng của người cao tuổi không phải do cảm nhiễm (susceptibility) mà do
quá trình tích lũy bệnh tật theo thời gian sống của họ [20]. Người cao tuổi ở
vùng nông thôn và từ 70 tuổi trở lên thường ít quan tâm tới nhu cầu chăm
sóc răng miệng so với nhu cầu thực tế [8].
Ở Việt Nam, theo điều tra của Phạm Văn Việt (1999) tại Hà Nội, trong
556 người ≥ 60 tuổi có gần 90% không hiểu hoặc chỉ biết một phần về vai trò,

chức năng răng miệng cũng như bệnh sâu răng và viêm quanh răng, chỉ có
một tỉ lệ rất nhỏ biết về nguy cơ lây nhiễm HIV khi nhổ răng. Khi răng miệng
có vấn đề, chỉ có 26,7% tìm đến nha sĩ, chỉ có 20,2% người mất răng có
nguyện vọng làm răng giả để thay thế [6].
Tại Việt Nam, theo điều tra sức khỏe răng miệng toàn quốc năm 2000
thì tỷ lệ sâu răng ở người trên 45 tuổi là 89,7%, cao nhất trong tất cả các lứa
tuổi [1]. Kết quả một số nghiên cứu trước đó cho thấy người cao tuổi có hiểu
biết hạn chế và ít quan tâm tới việc chăm sóc răng miệng. Ví dụ như nghiên
cứu của Phạm Văn Việt tại Hà Nội cho kết quả 90% người cao tuổi (từ 60 trở
lên) trong diện nghiên cứu không hiểu biết hoặc chỉ hiểu biết một phần về vai
trò, chức năng răng miệng cũng như bệnh sâu răng và viêm quanh răng [6].
Kết quả điều tra SKRM toàn quốc năm 2000 trên 999 người độ tuổi từ 45 trở
lên có tới 55% chưa đi khám răng miệng lần nào và 12,7% đi khám răng lần
cuối cùng trước đó 5 năm [1].


×