Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

lý thuyết và ý nghĩa thực tiễn bảo hiểm tín dụng xuất khẩu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (521.74 KB, 99 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài:
Việt Nam cũng như đa số các quốc gia đang phát triển khác có nền kinh tế
với tỉ trọng xuất khẩu rất lớn. Trong những năm qua, tỉ trọng đóng góp của xuất
khẩu vào GDP ngày càng tăng. Có được kết quả trên là nhờ sự tích cực lao động
sáng tạo của tất cả các ngành. Tuy nhiên không thể phủ nhận trong đó có rất
nhiều sự hỗ trợ của nhà nước từ các biện pháp thưởng thành tích xuất khẩu hay
trợ giá xuất khẩu. Nhưng kể từ khi chúng ta là thành viên chính thức của WTO,
các biện pháp trên không còn được phép áp dụng. Để duy trì vị thế của xuất
khẩu, chúng ta phải tìm ra các giải pháp mới, các giải pháp tiên tiến, hiện đại
theo kịp các nước phát triển trong xu thế hội nhập. Một trong các giải pháp đó là
Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, một công cụ bảo hiểm về tài chính giúp các doanh
nghiệp tránh các rủi ro thanh toán trong thương mại quốc tế và tiếp cận nguồn
vốn hiệu quả. Đây là một lĩnh vực mới mẻ có rất nhiều cơ hội nhưng cũng nhiều
thử thách.
Vì thế, người viết quyết định chọn đề tài: “Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu: lý
thuyết và ý nghĩa thực tiễn với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam” cho
bài khóa luận tốt nghiệp.
Hướng nghiên cứu của đề tài:
Trong phạm vi nghiên cứu của bài khóa luận, người viết tập trung nghiên cứu
bảo hiểm tín dụng xuất khẩu với cơ sở lý thuyết lấy từ nguồn của các hiệp hội, tổ
chức kinh tế và tín dụng xuất khẩu lớn trên thế giới (như hiệp hội Bern, tổ chức
hợp tác và phát triển kinh tế OECD, tổ chức kinh tế thế giới WTO…) kết

1


hợp với các tài liệu hội thảo sưu tập được về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu để làm
rõ các vấn đề lý luận.
Ý nghĩa thực tiễn với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam sẽ được xem xét
trên cơ sở lợi ích mà bảo hiểm tín dụng xuất khẩu của các tổ chức bảo hiểm lớn


trên thế giới đã mang lại cho xuất khẩu (phạm vi bài khóa luận sẽ tập trung
nghiên cứu 2 mô hình củ thể của Mỹ và Pháp).
Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là một lĩnh vực mới và có rất nhiều nhánh nhỏ
nhưng trong phạm vi bài khóa luận này, người viết chỉ tập trung vào các sản
phẩm Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu phục vụ trực tiếp cho các doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu (không bao gồm các doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực tài chính ngân hàng và đầu tư chứng khoán)
Kết cầu đề tài
Bài khóa luận ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và danh mục
biểu bảng sẽ trình bày các vấn đề sau:
 Chương 1: Lý thuyết khái quát nhất về Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
 Chương 2: Thực trạng áp dụng trên thế giới và ở Việt Nam
 Chương 3: Các giải pháp đề xuất nhằm thúc đẩy hoạt động Bảo hiểm tín
dụng xuất khẩu cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam

3


Chương 1:

LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM TÍN DỤNG
XUẤT KHẨU
I. Tín dụng xuất khẩu (export credit)
1. Khái niệm
Trước khi tìm hiểu khái niệm về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, ta cần hiểu rõ, thế
nào là “tín dụng xuất khẩu”.
Theo hiệp hội Bern1, “Tín dụng xuất khẩu” được hiểu là khoản tín dụng
người xuất khẩu cấp cho người nhập khẩu (còn được coi là tín dụng thương mại)
hoặc khoản cho vay trung và dài hạn, dùng để tài trợ cho các dự án và cung cấp
vốn cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá. Tín dụng xuất khẩu bao gồm tín dụng

cấp trong thời gian trước khi gửi hàng hoặc hoàn thành dự án và thời gian sau khi
giao hàng, nhận hàng hoặc khi hoàn thành dự án.
2. Các rủi ro trong tín dụng xuất khẩu
2.1. Rủi ro về kinh tế
a. Sự bất tín chấp của người nhập khẩu
Trong thương mại quốc tế tín chấp là hành động phổ biến nhằm thúc đẩy việc
thực hiện các hợp đồng xuất nhập khẩu. Tín chấp trong thương mại quốc tế
1 Hiệp hội Berne viết tắt là BU, là Hiệp hội quốc tế của các công ty bảo hiểm tín dụng và đầu tư và là
tổ chức quốc tế hàng đầu trong lĩnh vực bảo hiểm tín dụng xuất khẩu và đầu tư
4


là việc người nhập khẩu thông qua uy tín của mình thực hiện các khoản tín dụng
xuất khẩu. Tuy nhiên, hoạt động này bản thân nó đã tiềm ẩn nhiều rủi ro và hiện
tượng bất tín chấp của người nhập khẩu là không ít. Trên thế giới đã xảy ra rất
nhiều vụ lừa đảo liên quan đến hành vi bất tín chấp trong thanh toán của người
nhập khẩu với các khoản tín dụng thương mại, và đương nhiên người gánh chịu
hậu quả nặng nề và trực tiếp nhất là các doanh nghiệp xuất khẩu. Tiếp theo đó, sự
bất tín chấp trong thanh toán này cũng ảnh hưởng đến kim ngạch xuất nhập khẩu
của các quốc gia.
Tuy nhiên, để thúc đẩy xuất khẩu và mở rộng thị trường, nhiều doanh nghiệp
xuất khẩu vẫn mạo hiểm cấp tín dụng xuất khẩu và chấp nhận rủi ro như là một
sự đánh đổi. Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu bảo hiểm cho rủi ro trên làm cho các
doanh nghiệp xuất khẩu yên tâm hơn khi cấp các khoản tín dụng thương mại này.

b. Người nhập khẩu không có khả năng thanh toán
Trước tình hình kinh tế thế giới luôn tiềm ẩn những bất ổn, việc một doanh
nghiệp phải đối mặt với các khó khăn về tài chính là phổ biến. Khi kí kết hợp
đồng xuất nhập khẩu, người xuất khẩu không thể tính toán hết được rủi ro tài
chính vói người nhập khẩu. Bị cuốn vào vòng xoáy chung của sự khủng hoảng

hoặc do một sai lầm trong chiến lược kinh doanh dẫn đến thua lỗ, doanh nghiệp
nhập khẩu hoàn toàn có thể rơi vào tình trạng phá sản hoặc mất khả năng thanh
toán. Khi đó tất nhiên các khoản tín dụng xuất khẩu cấp cho các doanh nghiệp
này trở thành nợ khó đòi, nếu may mắn có đòi được thì cũng mất rất nhiều thời
gian và chi phí. Trong tình hình kinh tế không ngừng biến đổi, cạnh tranh trong
kinh doanh ngày càng khôc liệt, một sự luân chuyển chậm của vốn hoàn toàn có
thể lấy mất các cơ hội làm ăn tốt của các doanh nghiệp xuất khẩu. Vì vậy, để bảo
5


vệ quyền lợi cho người xuất khẩu, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu bảo hiểm cho rủi
ro người nhập khẩu mất khả năng thanh toán.
2.2. Rủi ro về chính trị
Rủi ro về chính trị bao gồm: các rủi ro về chiến tranh,hậu quả chiến tranh,
nổi loạn hoặc cách mạng; các rủi ro về chuyển đổi chính sách, pháp luật và cấm
thanh toán. Trong đó, rủi ro về thay đổi chế độ chinh trị dẫn đến các thay đổi
trong chính sách xuất nhập khẩu của nước nhập khẩu là quan trong hơn cả.
Không phải quốc gia nào cũng có chế độ chính trị ổn định. Trên thế giới các cuộc
đình công, bạo loạn xảy ra thương xuyên, những sự kiện này làm trì hoãn khả
năng sản xuất của các doanh nghiệp. Sự thay đổi chính quyền lãnh đạo đột ngột
luôn đi kèm các chính sách mới, mà đôi khi các chính sách này gây bất lợi cho
thương vụ làm ăn tưởng chừng tốt đẹp trong chế độ cũ. Các doanh nghiệp xuất
khẩu khi cấp tín dụng thương mại cho người nhập khẩu không thể lường trước
hết được các rủi ro về chính trị kể trên.
Ngoài ra bảo hiểm tín dụng xuất khẩu còn bảo hiểm các rủi ro bất khả kháng
khác liên quan đến tín dụng xuất khẩu, các rủi ro này được qui định cụ thê tuỳ
vào từng công ty, từng quốc gia.

II. Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu (ECI-export credit insurance)
1. Khái niệm

Vậy bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là gì? Theo tổng hợp các định nghĩa của một số
tổ chức tín dụng xuất khẩu lớn trên thế giới2:

2Bern union, US Eximbank, Coface, Sinosure, KECI

6


Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu (ECI) là dịch vụ chủ yếu được cung cấp bởi tổ
chức tín dụng xuất khẩu (ECA – Export Credit Agency). Nó đề cập đến việc bảo
vệ và bồi thường cho người xuất khẩu khi họ cấp tín dụng thương mại hoặc bảo
vệ và bồi thường cho các ngân hàng khi ngân hàng cho vay trung – dài hạn.
Phạm vi bảo hiểm của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu bao gồm các khiếu nại tổn
thất do không thanh toán những khoản phải thu ngắn hạn, phát sinh từ hoạt động
buôn bán hoặc những khoản cho vay trung – dài hạn vì lý do chính trị, thương
mại.
Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu được triển khai nhằm cải thiện cán cân thanh
toán, tạo thêm việc làm, phát triển kỹ năng tài chính của người xuất khẩu, nâng
cao nhận thức của các ngân hàng về tín dụng xuất khẩu, hỗ trợ hoạt động xuất
khẩu vì lợi ích quốc gia cũng như tăng cường hoạt động hối đoái nhờ có sự hỗ
trợ của các khoản đầu tư nước ngoài.
Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là hình thức bảo đảm tài chính cho nhà xuất
khẩu trong các hợp đồng xuất nhập khẩu có điều kiện thanh toán theo hình thức
tín dụng mở (open account) –những hình thức tín dụng với thủ tục đơn giản dựa
trên uy tín của đối tác, trước rủi ro nợ xấu, mất khả năng thanh toán của nhà nhập
khẩu do mất khả năng thanh toán, phá sản hoặc vì bất ổn chính trị tại quốc gia
nhập khẩu. Với sự hỗ trợ này của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, các doanh nghiệp
xuất khẩu có thể tự tin vào việc lựa chọn giải pháp thanh toán là sử dụng các
hình thức tín dụng mở kèm theo đó là hợp đồng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
thay vì hình thức thanh toán bằng L/C.


ECI

Open L/C account
7


Theo quy định của WTO hay OECD, các sản phẩm Bảo hiểm tín dụng xuất
khẩu trung và dài hạn được phép có sự hỗ trợ trực tiếp của chính phủ, còn các
sản phẩm ngắn hạn, về cơ bản là sản phẩm bảo hiểm thương mại (trừ bảo hiểm
cho rủi ro chính trị).
2. Nguyên lý cơ bản
Nguyên lý cơ bản của Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu được thể hiện qua các
điểm: hòa vốn (dài hạn); chỉ hỗ trợ những đối tượng có khả năng đảm bảo hoàn
trả hợp lý; chia sẻ rủi ro; hỗ trợ tài chính cho khối doanh nghiệp tư nhân; hình
thành tập quán kinh doanh tốt (trên cơ sở môi trường kinh doanh thân thiện, lành
mạnh); quá trình giải quyết khiếu nại minh bạch, công bằng; hạn chế rủi ro thông
qua hoạt động tái bảo hiểm và /hoặc đồng bảo hiểm. Và tất nhiên phải có yếu tố
đủ vốn /tiền mặt.
Cũng như các loại hình bảo hiểm khác, đối với đa số các công ty bảo hiểm và
các tổ chức tín dụng tư nhân, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cũng hoạt động theo
qui luật số lớn, theo đó các nhà Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu sẽ tính toán xác
suất rủi ro và đề ra mức bảo hiểm và phí bảo hiểm hợp lý từ đó tìm ra điểm hòa
vốn dài hạn. Tuy nhiên với các tổ chức tín dụng nhà nước, bảo hiểm tín dụng
xuất khẩu được triển khai với mục đích phi lợi nhuận, nhằm hỗ trợ xuất khẩu.
Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu chỉ hỗ trợ các đối tượng có khả năng đảm bảo
hoàn trả hợp lý. Người được bảo hiểm phải đóng đủ phí bảo hiểm cho người bảo
hiểm và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về thông tin, bảo mật thông tin theo yêu
cầu của người bảo hiểm. Nếu vi phạm các quy tắc trên, người bảo hiểm có thể từ
chối bồi thường hoặc chấm dứt hợp đồng bảo hiểm trước thời hạn. Các điều


8


khoản này sẽ được thỏa thuận cụ thể trong đơn bảo hiểm và đảm bảo thực hiện
bằng các nguồn luật điều chỉnh.
3. Các điều khoản chính của hợp đồng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
Dưới đây sẽ trình bày nội dung các diều khoản chính của một hợp đồng bảo
hiểm tín dụng xuất khẩu theo quy định của công ty Bảo hiểm dầu khí Việt NamPVI. Các điều khoản này mang tính khái quát , (có thể thay đổi nội dung chi tiết
tùy theo từng công ty, tổ chức cung cấp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu) cho chúng
ta cái nhìn chung nhất về một hợp đồng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.
3.1. Phạm vi bảo hiểm
Bảo hiểm này bảo hiểm cho những tổn thất được bảo hiểm phát sinh trong
trường hợp hàng hóa được giao hoặc các công việc hoặc dịch vụ được thực hiện
bởi người được bảo hiểm đối với người mua hàng trong thời hạn bảo hiểm.
Bảo hiểm này chỉ bảo hiểm cho hàng hóa được gửi hoặc các công việc hoặc
dịch vụ được thực hiện trong thời hạn bảo hiểm và thuộc một trong các trường
hợp sau:
Người được bảo hiểm tự đặt ra hạn mức tín dụng cho người mua hàng trước
khi gửi hàng hóa, hoặc thực hiện các công việc hoặc dịch vụ hoặc người mua
hàng đã được công ty bảo hiểm chấp thuận một hạn mức tín dụng.
Bảo hiểm này chỉ áp dụng đối với người mua hàng ở các quốc gia tùy theo
người cấp bảo hiểm và theo PVI.vn thì bảo hiểm này chỉ áp dụng trong trường
hợp bên bán hàng gửi hóa đơn trong vòng 30 ngày sau ngày giao hàng hóa hoặc
ngày bắt đầu công việc hoặc dịch vụ đối với hàng hóa hoặc công việc hoặc dịch
vụ đó. Không bảo hiểm cho người mua hàng theo đơn bảo hiểm này trong trường

9



hợp người được bảo hiểm tự đặt ra hạn mức tín dụng cho người mua hàng khi
hối phiếu quá hạn thanh toán hay người được bảo hiểm đã nhận được thông tín
xấu về khả năng thanh toán của người mua hàng xảy ra trong thời hạn 12 (mười
hai) tháng trước ngày gửi hàng hóa hoặc thực hiện công việc hoặc dịch vụ, hoặc
người mua hàng mất khả năng thanh toán.
3.2. Hạn mức tín dụng
Dù cho là sản phẩm ngắn hạn hay trung, dài hạn, quy trình cung cấp bảo hiểm
tín dụng xuất khẩu tương đối phức tạp do phát sinh yêu cầu đánh giá và thẩm
định năng lực trả nợ của đối tác nước ngoài cũng như các yếu tố kinh tế chính trị
xã hội của quốc gia nhập khẩu. Doanh nghiệp xuất khẩu có thể lựa chọn tham gia
bảo hiểm cho toàn bộ kim ngạch hay một nhóm người mua hoặc một hợp đồng
cụ thể (thường có giá trị lớn hơn 2 triệu USD) nhưng trong từng trường hợp, mức
độ đánh giá năng lực tài chính và khả năng trả nợ của người mua, môi trường
kinh doanh vẫn là yếu tố quyết định để ECA có nhận bảo hiểm hay không, nếu
nhận thì với hạn mức tín dụng thế nào và phí bảo hiểm bao nhiêu. Bên cạnh phí
bảo hiểm, nhà xuất khẩu cũng phải chi trả thêm khoản lệ phí đánh giá và xác lập
hạn mức tín dụng đối với nhà nhập khẩu yêu cầu (thường từ 10-15% phí bảo
hiểm).
Người được bảo hiểm có thể tự đưa ra một hạn mức tín dụng tới một giới hạn
cho phép (nếu có) cho người mua hàng tại quốc gia được bảo hiểm tương ứng
của người được bảo hiểm với điều kiện phải tuân thủ các quy trình quản lý tín
dụng được quy định cụ thể trong điều kiện đặc biệt.
Việc ủy quyền đối với bất kỳ hạn mức tín dụng nào trên giới hạn cho phép
quy định tại phải được công ty bảo hiểm chấp thuận bằng văn bản hoặc email.

10


Bất kỳ hạn mức tín dụng nào được công ty bảo hiểm phê chuẩn cho người mua
hàng sẽ tự động thay thế bất kỳ hạn mức tín dụng nào do người được bảo hiểm tự

đặt ra cho cùng người mua hàng đó.
Nếu không có quy định cụ thể khác trong thông báo hạn mức tín dụng thì:
Trường hợp Người mua hàng trước đó chưa được cấp hạn mức tín dụng, thì
các hạn mức tín dụng được phê chuẩn sẽ có hiệu lực hồi tố kể từ ngày bắt đầu
đơn bảo hiểm này nếu không vi phạm ngày đến hanh thanh toán gốc của hóa đơn
sau ngày nhận được đơn yêu cầu hạn mức tín dụng của người được bảo hiểm và
không vượt quá các điều khoản thanh toán đặc biệt (được quy định củ thể trong
phần phụ lục, tùy thuộc vào từng công ty bảo hiểm).
Trường hợp người mua hàng tuân thủ một quyết định trước đó của công ty
bảo hiểm, các hạn mức tín dụng được chấp thuận sẽ có hiệu lực từ ngày có thông
báo hạn mức tín dụng mới.
3.3. Tỷ lệ được bảo hiểm
Trừ khi một tỷ lệ khác được quy định trong hạn mức tín dụng do công ty bảo
hiểm phê chuẩn, trách nhiệm của công ty bảo hiểm đối với mỗi tổn thất được bảo
hiểm được xác tùy theo sự kiện được bảo hiểm và xác suất rủi ro với các sự kiện
đó.
Thông thường, các rủi ro trong thanh toán có xác suất cao hơn các rủi ro
chính trị. Nói chung những thay đổi trong kinh tế xảy ra thường xuyên hơn.
Chính vì thế trong bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, tỉ lệ bảo hiểm đối với các rủi ro
kinh tế thường ở mức 80-85% giá trị hợp đồng, còn tỉ lệ này đổi với các rủi ro
chính trị thì cao hơn, nó thường ở mức 90-95%. Tỉ lệ bảo hiểm của phụ thuộc
vào người cấp bảo hiểm, người được bảo hiểm và thương vụ cụ thể. Đối với các
11


doanh nghiệp xuất khẩu thường xuyên, có nhiều kinh nghiệp trong lĩnh vực xuất
khẩu, họ sẽ có khả năng đánh giá các rủi ro tốt hơn các doanh nghiệp khác. Vì
thế mà độ an toàn trong các thương vụ của họ là cao hơn, các nhà cung cấp bảo
hiểm có thể xem xét tỉ lệ bảo hiểm cao hơn.
3.4. Phí bảo hiểm

Phí bảo hiểm là chi phí bù đáp cho xác suất mà nhà bảo hiểm gánh chịu khi
chấp nhận bảo hiểm cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Phí bảo hiểm thường được
tính theo một tỉ lệ % trên giá trị hợp đồng. Tỷ lệ phí bảo hiểm và tỉ lệ bảo hiểm
có quan hệ đồng biến. Một tỉ lệ bảo hiểm cao đi kèm với tỉ lệ phí bảo hiểm cao.
Chi tiết về tỷ lệ phí bảo hiểm và phương pháp tính phí bảo hiểm tùy thuộc và
người cung cấp dịch vụ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Người được bảo hiểm có
nghĩa vụ thông báo cho công ty bảo hiểm những thông tin chi tiết cần thiết cho
việc tính phí bảo hiểm tại thời điểm thỏa thuận. Phí bảo hiểm phụ thuộc nhiều
vào mức độ rủi ro của sự kiện được bảo hiểm và tỉ lệ bảo hiểm.
Người được bảo hiểm phải thanh toán ngay phí bảo hiểm cho công ty bảo
hiểm vào ngày đầu tiên của thời hạn hợp đồng và vào các kỳ thanh toán sau đó
theo quy định người cung cấp bảo hiểm hoặc thanh toán ngay sau khi nhận được
hóa đơn, tùy thuộc vào điều kiện nào đến sau.
Cuối thời hạn bảo hiểm, công ty bảo hiểm sẽ tính toán phí bảo hiểm mà người
được bảo hiểm phải trả hoặc thu đòi trong năm bảo hiểm đó (hoặc thời hạn bảo
hiểm nếu thích hợp) sau khi xem xét phí bảo hiểm tối thiểu hàng năm và bất kỳ
thông tin hoặc các chi tiết nào được cung cấp theo yêu cầu của công ty bảo hiểm.
Nếu việc thanh toán bất kỳ khoản phí bảo hiểm nào hoặc các phần phí được
thanh toán định kỳ theo quy định không được thực hiện kịp thời, công ty bảo
12


hiểm có quyền chấm dứt hợp đồng bảo hiểm. Người được bảo hiểm vẫn có nghĩa
vụ phải thanh toán phí bảo hiểm tối thiểu hàng năm còn lại cho dù hợp đồng bảo
hiểm bị chấm dứt.
3.5. Nghĩa vụ của Người được bảo hiểm
Người được bảo hiểm phải cẩn trọng trong việc cấp và từ chối cấp tín dụng,
về số lượng cũng như thời hạn tín dụng, và phải quản lý tất cả hoạt động kinh
doanh được bảo hiểm với sự cẩn trọng tối đa nhằm tránh hoặc giảm thiểu tổn
thất. Người được bảo hiểm phải thường xuyên có biện pháp cần thiết để đảm bảo

duy trì tất cả các quyền lợi chống lại người mua hàng hoặc các bên thứ ba liên
quan đến hàng hóa được gửi hoặc công việc hoặc dịch vụ được thực hiện.
Người được bảo hiểm phải thực hiện các bước cần thiết có thể theo yêu cầu
của công ty bảo hiểm nhằm tránh hoặc giảm thiểu mức độ tổn thất thực tế hoặc
tiềm tàng có thể xảy ra, bao gồm nhưng không giới hạn đối với thủ tục pháp lý
và có sự tham gia của công ty bảo hiểm hoặc một bên thứ ba do công ty bảo
hiểm chỉ định hoặc chấp nhận để thực hiện các hoạt động thu nợ.
Trong trường hợp công ty bảo hiểm hoặc một bên thứ ba do công ty bảo hiểm
chỉ định hoặc chấp thuận làm đại diện tham gia thực hiện các hoạt động thu nợ,
người được bảo hiểm không phải thực hiện các biện pháp thu nợ hoặc tham gia
đàm phán với người mua hàng nếu không có sự đồng ý trước bằng văn bản của
công ty bảo hiểm.
Người được bảo hiểm phải được sự đồng ý của công ty bảo hiểm bằng văn
bản trước khi thực hiện một thỏa thuận với người mua hàng liên quan đến thời
hạn thanh toán.

13


Nếu được công ty bảo hiểm yêu cầu, dù trước hoặc sau khi có một khiếu nại
về đơn bảo hiểm này, người được bảo hiểm phải chuyển cho công ty bảo hiểm tất
cả các quyền mà mình có đối với người mua hàng hoặc một bên thứ ba liên quan
đến những hàng hóa được gửi hoặc công việc hoặc dịch vụ được thực hiện để
công ty bảo hiểm có thể thực hiện hoặc tiếp tục các quyền liên quan đến những
hàng hóa hoặc công việc hoặc dịch vụ đó. Công ty bảo hiểm bảo lưu các quyền
tham gia giải quyết, thỏa hiệp hoặc thỏa thuận liên quan đến những hàng hóa
hoặc công việc hoặc dịch vụ đó. Trách nhiệm của công ty bảo hiểm trong việc
thực thi các quyền được chuyển giao liên quan đến việc thu nợ được giới hạn đối
với trường hợp cố ý mất khả năng thanh toán và sơ xuất quá mức.
Nếu được công ty bảo hiểm yêu cầu, Người được bảo hiểm phải cung cấp

ngay lập tức cho công ty bảo hiểm tất cả thông tin và tài liệu mà mình sở hữu
hoặc kiểm soát mà công ty bảo hiểm cho là cần thiết về những vấn đề như đánh
giá rủi ro tín dụng, giám định tổn thất, xác định mức độ tổn thất hoặc cho những
mục đích thu nợ, và người được bảo hiểm đồng ý để công ty bảo hiểm kiểm tra
và sao chép các tài liệu đó. Nếu được công ty bảo hiểm yêu cầu, người được bảo
hiểm phải có những biện pháp hợp lý nhằm có được những tài liệu và thông tin
mà một bên thứ ba sở hữu liên quan đến hoặc được liên kết với đơn bảo hiểm
hoặc bất cứ giao dịch nào giữa người được bảo hiểm và người mua hàng.
Người được bảo hiểm phải ngay lập tức thông báo cho công ty bảo hiểm về
bất kỳ khoản thu hồi nào làm giảm khoản nợ tới hạn thanh toán trong bất kỳ
trường hợp nào.

14


3.6. Thanh toán bồi thường/Xác định tổn thất
Người được bảo hiểm phải gửi yêu cầu đòi bồi thường theo đơn bảo hiểm về
bất kỳ khoản nợ nào chưa được thanh toán sau khi sự kiện được bảo hiểm xảy ra
trong thời hạn 3 (ba) tháng kể từ khi xảy ra sự kiện được bảo hiểm đó.
Công ty bảo hiểm sẽ thanh toán cho người được bảo hiểm tỷ lệ phần trăm bảo
hiểm của tổn thất được bảo hiểm trong thời hạn 30 (ba mươi) ngày sau khi nhận
được tất cả các tài liệu chứng minh và các bằng chứng khác mà công ty bảo hiểm
có thể yêu cầu. Thời hạn 30 ngày sẽ không có hiệu lực khi Người mua hàng từ
chối một cách hợp pháp việc thanh toán khoản nợ đó hoặc khi Người mua hàng
khiếu nại rằng họ có lý do chính đáng trong việc ngưng thanh toán và công ty
bảo hiểm đồng ý rằng một tranh chấp giữa người được bảo hiểm và người mua
hàng vẫn chưa được họ hoặc một cơ quan trọng tài hoặc thủ tục tố tụng nào giải
quyết.
Trong quá trình tính toán tổn thất, bất kỳ khoản bồi thường nào mà người
mua hàng nhận được trước khi hợp đồng kết thúc hoặc phạm vi bảo hiểm bị hủy

bỏ hoặc tạm dừng bảo hiểm sẽ được phân bổ vào các khoản dư nợ đối với cùng
người mua hàng đó theo thứ tự thời gian của ngày tới hạn thanh toán hoặc bất kỳ
ngày gia hạn thanh toán nào theo đó. Các khoản bồi thường nhận được sau khi
hủy bỏ hoặc chấm dứt hoặc tạm dừng bảo hiểm hoặc một khi sự kiện được bảo
hiểm xảy ra sẽ được phân bổ trên cơ sở tỷ lệ với các tài khoản được bảo hiểm và
chưa được bảo hiểm chưa thanh toán vào ngày hủy bỏ, chấm dứt hoặc tạm dừng
bảo hiểm hoặc khi sự kiện được bảo hiểm xảy ra cho dù sự việc nào xảy ra trước
và cho dù có bất kỳ thỏa thuận nào tồn tại giữa người được bảo hiểm và người
mua hàng.

15


Nếu tỷ lệ tổn thất vẫn chưa được xác định một cách cụ thể trong khoảng thời
gian được quy định thì công ty bảo hiểm sẽ tính toán tổn thất sơ bộ, ước tính các
khoản được khấu trừ ở mức độ những khoản này vẫn chưa được xác lập.
Nếu bất cứ khoản bồi thường được quy định vẫn chưa được tính toán theo
cách tính tổn thất sơ bộ thì người được bảo hiểm phải thông báo cho công ty bảo
hiểm về khoản bồi thường này ngay lập tức, và công ty bảo hiểm sẽ tính toán bổ
sung sau.
Người được bảo hiểm đồng ý gửi cho công ty bảo hiểm ngay lập tức qua
đường bưu điện hóa đơn Số tiền bồi thường mà họ nhận được liên quan đến một
khoản nợ mà công ty bảo hiểm đã bồi thường.
Nếu người được bảo hiểm không thanh toán bất cứ khoản nào cho công ty
bảo hiểm theo đơn bảo hiểm này (dù theo điều này hoặc các điều khác) khi
những khoản đó đáo hạn thì công ty bảo hiểm có thể (không giới hạn đối với
những quyền phát sinh khác của họ theo đơn bảo hiểm này hoặc đơn bảo hiểm
khác) bù trừ cho khoản nợ đó ngoài nghĩa vụ của công ty bảo hiểm để thanh toán
cho người được bảo hiểm.
3.7. Thế quyền

Sau khi bồi thường theo tỷ lệ bảo hiểm quy định trong hợp đồng, theo nguyên
tắc thế quyền, công ty bảo hiểm có toàn quyền thế quyền đối với bất kỳ các
quyền, lợi ích và các khoản bồi thường mà người được bảo hiểm có đối với
người mua hàng hoặc một bên thứ ba lên tới toàn bộ số tiền do công ty bảo hiểm
đã trả liên quan đến người mua đó.
Người được bảo hiểm cam kết theo đề nghị của công ty bảo hiểm sẽ thực hiện
tất cả những biện pháp cần thiết nhằm chuyển giao cho công ty bảo hiểm tất cả
16


các quyền, lợi ích. Theo đó, người được bảo hiểm phải chuyển giao tất cả các
chứng từ liên quan đến tổn thất cho người bảo hiểm và thực hiện các nghĩa vụ
khác nhằm đảm bảo quyền lợi được chuyển giao cho người bảo hiểm.
Sau khi đã chuyển tất cả các quyền, đặc quyền và đối sách cho công ty bảo
hiểm, người được bảo hiểm vẫn phải có nghĩa vụ bảo mật và cung cấp thông tin
nhằm đảm bảo quyền lợi cho công ty bảo hiểm khi các công ty này thế quyền đòi
bồi thường tổn thất từ phía người nhập khẩu.
3.8. Chuyển nhượng quyền thanh toán bồi thường
Người được bảo hiểm sẽ không thể chuyển giao hoặc chuyển nhượng đơn bảo
hiểm này hoặc bất kỳ quyền lợi của mình mà không có sự đồng ý trước bằng văn
bản của công ty bảo hiểm.
Sự chuyển nhượng quyền thanh toán bồi thường theo đơn bảo hiểm này chỉ
được thực hiện khi có sự đồng ý trước bằng văn bản của công ty bảo hiểm. Bất
kỳ sự chuyển nhượng nào phải quy định tất cả các quyền, đặc quyền và đối sách
mà công ty bảo hiểm cấp cho Người được bảo hiểm cũng sẽ có hiệu lực đối với
người nhận chuyển nhượng. Công ty bảo hiểm sẽ không bắt buộc phải thông báo
hoặc liên lạc với bất kỳ người nào ngoại trừ người được bảo hiểm khi thực hiện
việc chuyển giao, và nghĩa vụ của người được bảo hiểm theo Đơn bảo hiểm cũng
sẽ tiếp tục mặc dù có sự chuyển nhượng.
3.9. Tiền tệ trong đơn bảo hiểm

Tiền tệ trong đơn bảo hiểm phải được quy định rõ và sẽ được sử dụng để
công bố doanh thu, để thanh toán phí bảo hiểm và các phí khác, tính toán tổn thất
được bảo hiểm, thanh toán các khoản bồi thường và bất kỳ khoản tiền bồi thường
nào khác.
17


Hóa đơn phục vụ cho việc thanh toán được thực hiện bằng các loại tiền tệ
khác loại tiền tệ quy định trong đơn bảo hiểm sẽ được quy đổi sang loại tiền tệ
trong đơn bảo hiểm theo tỷ giá ngoại hối giao ngay do ngân hàng niêm yết cho
tháng gửi hóa đơn. Tỷ giá ngoại hối giao ngay được niêm yết sẽ được sử dụng,
nếu cần thiết, cho việc tính toán số tiền bồi thường phải trả theo đơn bảo hiểm.
Những khoản thu hồi nhận được từ người mua hàng sẽ được quy đổi theo tỷ giá
ngoại hối giao ngay được niêm yết vào ngày nhận được khoản thu hồi đó.
3.10. Yêu cầu bảo hiểm và bản câu hỏi quản lý tín dụng
Yêu cầu bảo hiểm và bản câu hỏi quản lý tín dụng do người được bảo hiểm
lập, được người được bảo hiểm và công ty bảo hiểm công nhận như cơ sở của
hợp đồng trong đơn bảo hiểm và là bộ phận cấu thành của đơn bảo hiểm.
Người được bảo hiểm bảo đảm thông tin khai trong giấy yêu cầu bảo hiểm và
bảng câu hỏi quản lý tín dụng phải chính xác, trung thực tại ngày yêu cầu bảo
hiểm và bản câu hỏi quản lý tín dụng và tại ngày công ty bảo hiểm đồng ý cấp
đơn bảo hiểm.
Người được bảo hiểm bảo đảm họ sẽ thông báo ngay lập tức cho công ty bảo
hiểm bất kỳ thay đổi quan trọng nào liên quan tới thông tin trong giấy Yêu cầu
bảo hiểm và bản câu hỏi quản lý tín dụng hoặc của bất kỳ sự kiện quan trọng nào
khác ảnh hưởng đến đơn bảo hiểm bao gồm nhưng không hạn chế đối với bất kỳ
sự thay đổi nào trong hình thức kinh doanh được thực hiện, các điều khoản thanh
toán, các điều kiện bán hàng hoặc quản lý tín dụng hoặc các thủ tục thương mại
được nêu trong giấy yêu cầu bảo hiểm và bản câu hỏi quản lý tín dụng.


18


Sự đảm bảo nêu trên không giới hạn nghĩa vụ hoặc trách nhiệm pháp lý thông
báo cho công ty bảo hiểm tất cả các sự việc và tình huống quan trọng và luôn
luôn hành động với sự trung thực tuyệt đối của người được bảo hiểm.
Khi có bất kỳ sự bổ sung hoặc sửa đổi nào đối với đơn bảo hiểm, người được
bảo hiểm phải thông báo cho công ty bảo hiểm tất cả các thông tin, tình hình thay
đổi. Nếu những yêu cầu này không được thực hiện theo đúng quy định, các bổ
sung, sửa đổi sẽ không có hiệu lực và đơn bảo hiểm sẽ tiếp tục có hiệu lực với
các điều khoản bảo hiểm trước khi có bổ sung hoặc sửa đổi.
4. So sánh với các loại hình bảo hiểm thương mại khác
Nếu như các loại hình bảo hiểm thương mại khác chủ yếu tập trung bảo hiểm
hàng hóa và có một lịch sử phát triển lâu dài cùng sự phát triển của thương mại
quốc tế thì Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là lĩnh vực ra đời sau với sự phát triển
của tín dụng thương mại.
Bảo hiểm hàng hóa đã có một khung pháp lý tương đối hoàn chỉnh ở các quốc
gia, và một sự nhất quán nhất định trong các loại hình bảo hiểm, các rủi ro thì
bảo hiểm tín dụng xuất khẩu còn nhiều sự khác biệt và chưa thống nhất ở các
quốc gia. Đối với đa phần các quốc gia đang phát triển thì bảo hiểm tín dụng xuất
khẩu là một lĩnh vực rất mới mẻ. Những quốc gia này thiếu cả về kiến thức, kinh
nghiệm đến sự sẵn sàng tiếp nhận với loại hình bảo hiểm này.
Các rủi ro trong bảo hiểm hàng hóa hay bảo hiểm hàng hải được quy định rõ
ràng và có hạn mức bảo hiểm cụ thể theo từng loại bảo hiểm (ví dụ như A, B, C
trong bảo hiểm hàng hóa), bảo hiểm tín dụng xuất khẩu chưa quy định được
thống nhất như trên do các rủi ro của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là rất đa dạng
và chưa thông nhất ở mỗi quốc gia, mỗi nhà cung cấp bảo hiểm.
19



Bảng 1: so sánh bảo hiểm tín dụng xuất khẩu với bảo hiểm hàng hóa
Tiêu thức phân loại

Bảo hiểm tín dụng xuất

Bảo hiểm hàng hóa

khẩu
Loại rủi ro được bảo

Rủi ro về thương mại

Rủi ro tổn thất về hàng

hiểm

hoặc chính trị ở nước

hóa

người nhập khẩu
Cơ quan bảo hiểm

Thường là các tổ chức tín Công ty bảo hiểm thương
dụng xuất khẩu (cơ quan

mại

trực thuộc chính phủ)
Khả năng sinh lợi


Thường mang tính phi lợi Bảo hiểm thương mại vì
nhuận

Bên đưa ra chính sách
bảo hiểm

mục đích lợi nhuận

3
Người xuất khẩu, tổ chức Chủ hàng
tài chính

(nguồn: tài liệu hội thảo bảo hiểm tín dụng xuất khẩu Hàn Quốc tại Việt Nam tháng 12/2008)

5. Người cấp Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
5.1. Các công ty bảo hiểm
Các công ty bảo hiểm là người cấp Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu như một mặt
hàng mới trong danh mục các mặt hàng bảo hiểm của công ty. Điểm mạnh của
các công ty bảo hiểm khi phát triển loại hình Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là khả
năng chuyên môn cao trong lĩnh vực bảo hiểm. Nhờ khả năng chuyên môn và
kinh nghiệm làm bảo hiểm mà họ có khả năng tính toán chính xác hơn mức độ
rủi ro trong các hoạt động thương mại. Các công ty này sẽ xây dựng một hệ
3FOB: người nhập khẩu có thể tự ký hợp đồng bảo hiểm, CIF người xuất khẩu ký hợp đồng bảo hiểm.

20


thống chỉ tiêu và thực hiện các cuộc điều tra nhằm tìm ra các điều khoản hợp lý
nhất cho các mặt hàng về Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.

Tuy nhiên, Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là một ngành mới, những rủi ro trong
việc phát triển là rất lớn. Vì vậy, theo quy luật số lớn, để đạt đến điểm hòa vốn
cần một thời gian dài, điều này đồng nghĩa với việc cần một số vốn rất lớn nếu
muốn phát triển loại hình bảo hiểm này. Đây là một trở ngại cho các công ty bảo
hiểm khi tham gia vào thị trường mới mẻ này.
Để giải quyết vấn đề này, rất nhiều công ty bảo hiểm đã có ý định thành lập
các ngân hàng của riêng mình nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong việc huy động
vốn. Lợi thế của các công ty bảo hiểm có ý định thành lập ngân hàng thương mại
là:
 Kinh nghiệm thị trường, mạng lưới đại lý rộng khắp.
 Năng lực tài chính đủ mạnh.
 Lượng khách hàng tiềm năng lớn từ các đối tượng tham gia bảo hiểm
hiện có.
5.2. Các ngân hàng
Trên thế giới, các ngân hàng thương mại cũng là một nguồn cung cấp bảo
hiểm tín dụng xuất khẩu lớn. Các ngân hàng thương mại không có được nghiệp
vụ sâu về bảo hiểm như các công ty bảo hiểm nhưng trên khía cạnh thanh toán,
bao thanh toán họ lại tỏ ra vượt trội. Thường xuyên làm việc với các doanh
nghiệp, các ngân hàng thương mại có hiểu biết sâu sắc về các doanh nghiệp, nhất
là các doanh nghiệp xuất khẩu. Cũng qua hệ thống ngân hàng toàn cầu của các
ngân hàng lớn, các ngân hàng thương mại có đầy đủ thông tin hơn về các doanh
21


nghiệp nhập khẩu. Đây chính là cơ sở để các ngân hàng thương mại phát triển
bảo hiểm tín dụng xuất khẩu như một nghiệp vụ thúc đẩy hoạt động tín dụng
xuất khẩu.
Một lợi thế nữa của các ngân hàng thương mại so với các công ty bảo hiểm là
nguồn vốn. Các ngân hàng thương mại có nguồn vốn lớn hơn, nhất là các ngân
hàng quốc tế về xuất nhập khẩu. Bán bảo hiểm qua ngân hàng (Bancassurance)

chắc chắn sẽ là một trong những kênh phân phối hiệu quả để thúc đẩy bán hàng,
tăng doanh thu phí bảo hiểm.
Tại hầu hết các quốc gia, các nhà kinh doanh bảo hiểm đều xác định kênh
phân phối truyền thống chiếm tỷ trọng lớn trong việc cung cấp sản phẩm ra thị
trường là hệ thống đại lý. Thế nhưng, nằm trong chiến lược đa dạng hóa kênh
phân phối, giảm áp lực bị ảnh hưởng từ một kênh phân phối duy nhất từ đó giảm
thiểu rủi ro trong kinh doanh do cạnh tranh và do biến động của thị trường, các
công ty bảo hiểm đều tổ chức thêm các kênh phân phối khác ngoài hệ thống đại
lý.
Một thực tế khác nữa là việc đa dạng hóa kênh phân phối còn nhằm tạo động lực
và áp lực cạnh tranh giữa các kênh phân phối, mục đích đưa ra nhiều sản phẩm
trên thị trường. Việc tổ chức thành công kênh phân phối “Bán bảo hiểm qua ngân
hàng” không chỉ làm tăng doanh thu cho các công ty bảo hiểm mà ngay cả ngân
hàng và khách hàng cũng đạt được những mục tiêu lợi ích nhất định:
Về phía khách hàng, có thể tiếp cận và mua bảo hiểm dễ dàng hơn với chi
phí thấp hơn, việc chi trả phí bảo hiểm định kỳ cũng thuận tiện hơn.
Đối với ngân hàng việc cung cấp dịch vụ bảo hiểm sẽ tạo ra nguồn thu nhập
mới, hơn thế nữa ngân hàng còn mở rộng danh mục sản phẩm của mình.
22


Như vậy, có thể thấy mỗi loại hình đều muốn tham gia thêm một dịch vụ tài
chính mới. Tuy nhiên, sự “giao thoa” giữa công ty bảo hiểm và ngân hàng không
dễ dàng khi mà việc xúc tiến vẫn đang nằm trong dự tính của các nhà hoạch định
chính sách. Nhưng, sự “giao thoa” đó sẽ có những phát triển nhanh trong tương
lai gần nhờ tính hữu dụng của nó.
5.3. Các tổ chức tín dụng xuất khẩu
Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu chịu sự điều chỉnh theo các quy định trong lĩnh
vực bảo hiểm biệt lập với hoạt động ngân hàng và chứng khóan/cổ phần. Các tổ
chức tín dụng xuất khẩu (ECA) có chức năng: chuyển giao rủi ro - ngăn ngừa tổn

thất, quay vòng tiền mặt - bồi thường, hỗ trợ tài chính cho các hoạt động thương
mại hoặc các dự án; marketing các điều kiện thương mại linh hoạt, hỗ trợ thông
tin mang tính cạnh tranh và hợp tác.
Sản phẩm chủ yếu của ECA bao gồm: Bảo hiểm tín dụng ngắn hạn, bảo hiểm
tín dụng trung và dài hạn, bảo hiểm đầu tư nước ngoài, kỳ phiếu và bảo lãnh.
ECA cũng cung cấp các dịch vụ: cung cấp thông tin tín dụng, xếp hạng tín dụng;
thu hồi nợ hay quản lý những khoản phải thu, v.v…Theo đó, ECA sẽ thực hiện
các công việc kiểm soát rủi ro về hạn mức quốc gia, hạn mức tín dụng cấp cho
người mua, giám sát rủi ro, đa dạng hóa các hạng mục tín dụng và các công cụ
quản lý rủi ro khác.
ECA có mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với các công ty bảo hiểm thương mại,
công ty tái bảo hiểm, các tổ chức tín dụng xuất khẩu chính thức khác thông qua
việc: trao đổi cơ sở dữ liệu từ Hiệp hội Berne, trao đổi công nghệ, đồng bảo hiểm
hoặc tái bảo hiểm trong những dự án cụ thể. Cung cấp dịch vụ bổ sung, không
cạnh tranh với các công ty bảo hiểm thương mại, cung cấp dịch vụ hiện thị
23


trường còn đang thiếu. Chuyển giao rủi ro với các công ty tái bảo hiểm qua việc
nâng cao năng lực, cân đối cơ cấu rủi ro.
ECA cũng đóng vai trò cộng tác giữa các tổ chức tín dụng xuất khẩu chính
thức và các ngân hàng thương mại, là chỗ dựa của các ngân hàng chính sách, trao
đổi thông tin và chia sẻ kinh nghiệm hoặc bổ sung, không cạnh tranh với các
công cụ quản lý tín dụng.
Trong khi hoạt động tín dụng xuất khẩu của Việt Nam ngày càng phát triển
(theo đánh giá của OECD4), nhất là khi Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương
mại thế giới WTO, thì bảo hiểm tín dụng xuất khẩu sẽ trở thành một yêu cầu và
đòi hỏi tất yếu của các tổ chức tín dụng, ngân hàng và các doanh nghiệp xuất
khẩu.
5.4. Bảo hiểm tín dụng Nhà nước và bảo hiểm tín dụng thương mại

Sự khác nhau giữa bảo hiểm tín dụng xuất khẩu có Nhà nước bảo trợ và
thương mại thể hiện ở nhiều mặt. Trước hết, cơ quan bảo hiểm tín dụng xuất
khẩu được Nhà nước bảo trợ (ECA) có phạm vi hoạt động ở tầm quốc gia và
mang tính bổ trợ. Nhà nước chỉ bảo hiểm khi các công ty bảo hiểm với trách
nhiệm của mình không thể hoặc không muốn cấp loại bảo hiểm đó.
Trong khi đó, cơ quan bảo hiểm tín dụng xuất khẩu thương mại trong thập
niên qua chủ yếu là các tập đoàn quốc tế Euler Hermes, Coface, Atradius. Loại
hình này cung cấp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cho bất kỳ rủi ro nào được cho là
sẽ thu lợi nhuận trong thời gian dài.

4 Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

24


Trên thế giới, các nước thuộc OECD có thoả thuận những nguyên tắc hướng
dẫn về phạm vi bảo hiểm tín dụng xuất khẩu được Nhà nước bảo trợ với thời hạn
tín dụng từ 2 năm trở lên. Các nguyên tắc này nhằm tạo môi trường bình đẳng
trong cạnh tranh quốc tế.
Ví dụ, tỷ lệ phí bảo hiểm khác biệt dựa trên tiêu chí loại quốc gia và thời gian
cấp tín dụng tối đa với những sản phẩm nhất định. Còn nhà bảo hiểm tín dụng
xuất khẩu thương mại không thực hiện nhiều hoạt động kinh doanh theo tiêu chí
thời gian cấp tín dụng vượt quá 2 năm. Họ cũng không bị ảnh hưởng bởi sự đồng
thuận của tổ chức OECD và không có thoả thuận tương tự giữa các nhà bảo hiểm
tín dụng xuất khẩu thương mại.
Đối với mô hình hoạt động của Euler Hermes (EH), trong lịch sử, năm 1926,
chính phủ Đức đã muốn khuyến khích xuất khẩu. Tuy nhiên, các nhà bảo hiểm
tín dụng tư nhân chưa thể đối phó với những rủi ro về chính trị có thể ảnh hưởng
đến xuất khẩu sang các nước kém phát triển. Trước tình hình này, Hermes được
giao nhiệm vụ bảo hiểm xuất khẩu trên toàn lãnh thổ Đức với tư cách là nhà tái

bảo hiểm 100% đối với các rủi ro chính trị và thảm hoạ.
Từ 1949, EH đã và đang quản lý cơ chế đảm bảo xuất khẩu chính thức thay
mặt và bảo đảm lợi ích cho Cộng hoà liên bang Đức. Hiện, EH quản lý và bảo
hiểm rủi ro tín dụng đối với các khoản phải thu thương mại, các giao dịch từ
doanh nghiệp-doanh nghiệp, bảo hiểm rủi ro tín dụng ngắn hạn."
Các mô hình tổ chức và lịch sử phát triển của các tổ chức bảo hiểm tín dụng
xuất khẩu trên thế giới cho thấy, sự bảo trợ của nhà nước trong việc thành lập các
tổ chức tín dụng xuất khẩu là yếu tố quyết định. Lúc đầu, tổ chức bảo hiểm

25


tín dụng cần phải được nhà nước đầu tư về công nghệ thông tin, nguồn nhân lực
và khả năng tài chính. Sau một thời gian dài tích lũy tài chính, các tổ chức này
mới từng bước có thể tự kinh doanh. Tuy nhiên, để bảo đảm hoạt động bảo hiểm
tín dụng xuất khẩu phù hợp với nguyên tắc WTO (không được coi là trợ cấp xuất
khẩu), tổ chức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cho dù là thuộc sở hữu nhà nước
(phục vụ mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu) thì cũng phải thực hiện kinh doanh theo
nguyên tắc thị trường, bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh và chịu sự điều chỉnh
của luật pháp về bảo hiểm và thương mại.
Tổng kết chương 1:
Trên đây là những cái nhìn chung nhất về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu: các
khái niệm, đặc điểm cũng như các điều khoản cơ bản trong một hợp đồng bảo
hiểm tín dụng xuất khẩu, các tổ chức cung cấp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, lợi
ích khi sử dụng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu kết hợp với tín dụng mở trong thanh
toán.
Chương sau sẽ là nhưng vấn đề có tính thực tiễn về bảo hiểm tín dụng xuất
khẩu qua các mô hình cụ thể và rút ra kinh nghiệm cho Việt Nam.

26



×