Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình qua thực tiễn tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (916.57 KB, 100 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

TRN èNH HềA

áP DụNG PHáP LUậT TRONG HOạT ĐộNG XéT Xử
CáC Vụ áN HÔN NHÂN Và GIA ĐìNH QUA THựC TIễN TỉNH PHú THọ

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2020


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

TRN èNH HềA

áP DụNG PHáP LUậT TRONG HOạT ĐộNG XéT Xử
CáC Vụ áN HÔN NHÂN Và GIA ĐìNH QUA THựC TIễN TỉNH PHú THọ
Chuyờn ngnh: Lớ lun v lch s nh nc v phỏp lut
Mó s: 8380101.01

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: GS.TS HONG TH KIM QU

H NI - 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Trần Đình Hòa


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục các bảng, sơ đồ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG
HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH ....... 7
1.1.

Khái niệm và đặc điểm áp dụng pháp luật trong hoạt động
xét xử các vụ án Hôn nhân và gia đình ............................................ 7

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm áp dụng pháp luật ............................................... 7

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử
các vụ án Hôn nhân và gia đình ......................................................... 14
1.2.

Quy trình và nội dung áp dụng pháp luật trong hoạt động
xét xử các vụ án Hôn nhân và gia đình .......................................... 17

1.2.1. Quy trình và nội dung áp dụng pháp luật trong giai đoạn chuẩn
bị xét xử các vụ án Hôn nhân và gia đình của Tòa án nhân dân ........ 18
1.2.2. Quy trình và nội dung áp dụng pháp luật trong giai đoạn xét xử
các vụ án Hôn nhân và gia đình của Tòa án nhân dân ....................... 23
1.3.

Các yếu tố tác động đến chất lƣợng, hiệu quả áp dụng pháp
luật trong hoạt động xét xử các vụ án Hôn nhân và gia đình ...... 34

1.3.1. Yếu tố pháp luật ................................................................................. 34
1.3.2. Ý thức pháp luật của cán bộ áp dụng pháp luật trong hoạt động
xét xử vụ án Hôn nhân và gia đình .................................................... 34
1.3.3. Yếu tố đạo đức nghề nghiệp của của cán bộ áp dụng pháp luật
trong hoạt động xét xử vụ án Hôn nhân và gia đình .......................... 34
1.3.4. Yếu tố ý thức pháp luật của người dân .............................................. 35


1.3.5. Các yếu tố tác động khác về kiểm tra, giám sát, áp dụng công
nghệ, kỹ thuật, tài chính, chế độ tiền lương, xử lý vi phạm............... 36
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 37
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG HOẠT
ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
TẠI TỈNH PHÚ THỌ ....................................................................... 38

2.1.

Đặc điểm tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh Phú
Thọ và cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ ......... 38

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh Phú Thọ ......... 38
2.1.2. Cơ cấu tổ chức Tòa án nhân dân ở tỉnh Phú Thọ ............................... 39
2.1.3. Cơ sở pháp lý áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử các vụ
án Hôn nhân và gia đình..................................................................... 42
2.2.

Thực trạng hoạt động xét xử các vụ án Hôn nhân và gia đình
tại tỉnh Phú Thọ ................................................................................ 45

2.2.1. Những kết quả trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia
đình tại tỉnh Phú Thọ .......................................................................... 45
2.2.2. Những hạn chế về áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử các
vụ án hôn nhân và gia đình tại tỉnh Phú Thọ ..................................... 56
2.2.3.

Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế về áp dụng pháp luật trong
hoạt động xét xử các vụ án Hôn nhân và gia đình tại tỉnh Phú Thọ ......... 60

Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 67
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO CHẤT LƢỢNG, HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC
VỤ ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI TỈNH PHÚ THỌ............ 68
3.1.

Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật trong hoạt

động xét xử các vụ án Hôn nhân và gia đình ................................. 68

3.2.

Thực hiện các chƣơng trình bồi dƣỡng, tập huấn nghiệp vụ,
xây dựng đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ Toà án về áp dụng
pháp luật trong hoạt động xét xử các vụ án Hôn nhân và gia
đình tại tỉnh Phú Thọ ....................................................................... 71


3.3.

Nâng cao chất lƣợng bản án, quyết định của Tòa án ................... 74

3.4.

Sử dụng có hiệu quả nguồn “Án lệ” ............................................... 77

3.5.

Thực hiện đối thoại, hòa giải trong giải quyết các vụ án Hôn
nhân và gia đình ............................................................................... 78

3.6.

Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Tòa án........ 78

3.7.

Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xét xử

các vụ án Hôn nhân và gia đình ...................................................... 79

3.8.

Thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật cho ngƣời dân về
pháp luật Hôn nhân và gia đình...................................................... 80

Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 82
KẾT LUẬN .................................................................................................... 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 85
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 88


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

ADPL:

Áp dụng pháp luật

BLDS:

Bộ luật dân sự

BLTTDS:

Bộ luật tố tụng dân sự

HĐXX:

Hội đồng xét xử


HN&GĐ:

Hôn nhân và gia đình

HTND:

Hội thẩm nhân dân

PBGDPL:

Phổ biến giáo dục pháp luật

TAND:

Toà án nhân dân

TANDTC:

Toà án nhân dân tối cao

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN:


Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ

Số hiệu
Bảng 2.1

Bảng 2.2
Sơ đồ 2.1

Tên bảng
Kết quả thụ lý và giải quyết các vụ án hôn nhân gia đình
sơ thẩm của tỉnh Phú Thọ trong 3 năm (2016 – 2018)
Kết quả thụ lý và giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình
phúc thẩm của tỉnh Phú Thọ trong 3 năm (2016 – 2018)
Cơ cấu tổ chức TAND tỉnh Phú Thọ

Trang
48

51
40


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm trở lại đây, tình hình kinh tế - xã hội không ngừng
biến động, từ những biến động ấy dẫn đến các mối quan hệ trong xã hội cũng

biến đổi theo, quan hệ giữa con người với con người trong đó có quan hệ Hôn
nhân và gia đình (HN&GĐ) cũng bị tác động mạnh mẽ. Ngoài những ảnh
hưởng tích cực thì có một mặt mà quan hệ HN&GĐ bị tác động theo chiều
hướng xấu nghĩa là tình trạng ly hôn đang ngày một gia tăng. Theo số liệu
thống kê năm 2018 thì trong cả nước, số lượng các vụ án về HN&GĐ mà Toà
án phải thụ lý giải quyết khoảng 262.906 vụ việc, tăng khoảng 2.830 vụ so
với cùng kì năm trước [36].
Khái niệm “gia đình” đã được hình thành từ rất lâu, và nó phát triển
theo sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử phát triển của
loài người. Khi viết về gia đình, về hôn nhân và tình yêu nam nữ, Ăngghen
tán thành quan điểm của Moóc gan cho rằng: “Gia đình là một yếu tố năng
động; nó không nao giờ đứng nguyên ở một chỗ, mà chuyển từ một hình thức
thấp lên một hình thức cao, khi xã hội phát triển từ một giai đoạn thấp lên
một giai đoạn cao” [14, tr.59].
Xét trên bình diện xã hội, ly hôn là tình trạng không mong muốn.
Nếu kết hôn là sự tự nguyện thì ly hôn đôi khi không phải là sự tự nguyện
của cả hai bên mà chỉ có một bên đơn phương xin ly hôn cũng vẫn được
pháp luật bảo vệ, Tòa án sẽ xem xét giải quyết. Ăngghen từng nói “Hôn
nhân có thể bị hủy bỏ tùy ý mỗi bên trong cặp vợ chồng ấy” [14, tr.59]. Hệ
lụy của việc ly hôn đầu tiên là nó phá vỡ một chính thể gia đình, sau đó nó
sẽ có những tác động đến tâm lý của con cái theo chiều hướng không tích
cực. Ly hôn là một biện pháp chấm dứt tình trạng mâu thuẫn trầm trọng

1


giữa vợ và chồng khi mà đời sống chung không thể kéo dài, vợ chồng chia
tay đường ai nấy đi bằng một phán quyết của Toà án. Chính vì thế, ly hôn
hiện nay không chỉ là vấn đề riêng của mỗi gia đình, mỗi cá nhân mà còn là
vấn đề được cả xã hội quan tâm.

Trong hoạt động tư pháp thì hoạt động của Toà án là trung tâm, kết quả
hoạt động của Toà án là thước đo cho sự công bằng và mức độ bảo đảm dân
chủ, quyền con người. Bên cạnh đó, Toà án là cơ quan duy nhất nhân danh
Nhà nước tiến hành hoạt động xét xử các loại án nói chung và HN&GĐ nói
riêng, việc xét xử các vụ án HN&GĐ đã giải quyết được những mâu thuẫn bất
hoà trong gia đình, đã bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên
trong gia đình. Bên cạnh những mặt đã đạt được, trong quá trình giải quyết án
HN&GĐ vẫn còn tồn tại những thiếu sót, như có vụ án trong quá trình giải
quyết còn để tồn đọng, dây dưa kéo dài, có vụ án còn bị sửa, huỷ gây ảnh
hưởng đến quyền lợi của các bên đương sự.
Trước yêu cầu thực tế bảo đảm dân chủ, bình đẳng, khách quan, chính
xác trong hoạt động tố tụng dân sự, tác giả chọn đề tài “Áp dụng pháp luật
trong hoạt động xét xử các vụ án Hôn nhân và gia đình - Qua thực tiễn
tỉnh Phú Thọ” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lý luận và lịch sử, Nhà
nước và pháp luật với mong muốn nâng cao nhận thức lý luận về ADPL trong
hoạt động xét xử các vụ án HN&GĐ, góp tiếng nói, suy nghĩ của mình vào
việc làm sáng tỏ hơn về lý luận, tìm ra những nguyên nhân hạn chế trong việc
ra các quyết định, các bản án. Đề xuất những quan điểm đổi mới dưới góc độ
lý luận chung, góp phần bảo đảm ADPL trong hoạt động xét xử các vụ án
HN&GĐ của TAND ở tỉnh Phú Thọ.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Ở Việt Nam, vấn đề ADPL trên tất cả các lĩnh vực nói chung và ADPL
trong hoạt động xét xử các vụ án HN&GĐ nói riêng của ngành Tòa án luôn

2


luôn là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu khoa học pháp lý
và họ đã cho ra đời nhiều công trình nghiên cứu mang giá trị thực tiễn cao. Nó
giúp làm sáng tỏ mối liên hệ giữa lý luận với thực tiễn, làm sao để gắn lý luận

với thực tiễn và mang lại nhiều kết quả cho hoạt động xét xử các vụ án nói
chung và án HN&GĐ nói riêng.
Một số công trình khoa học có liên quan đến đề tài nghiên cứu ở cấp độ
luận văn như:
Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thu Hường (2014), ADPL trong
giải quyết án HNGĐ ở tỉnh Thái Nguyên, Luận văn thạc sỹ Luật học, Khoa
Luật - Đại học quốc gia Hà Nội.
Bài báo khoa học của tác giả Nguyễn Minh Hằng (2019), Công nhận
hay không công nhận quan hệ vợ chồng" (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 4 (1));
Giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Luật
HN&GĐ Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
Sách chuyên khảo dưới sự chủ biên của GS. TSKH. Đào Trí Úc (chủ
biên) (2002), Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, Nxb
Khoa học Xã hội.
Tác giả Lưu Tiến Dũng với bài “Bàn về áp dụng pháp luật trong công
tác xét xử”, Tạp chí Toà án nhân dân số tháng 5/2005.
Tác giả Thuỷ Nguyên với bài “Áp dụng luật hôn nhân gia đình khi giải
quyết vụ án có yếu tố nước ngoài”, Tạp chí Toà án nhân dân số 17 tháng 9/2005.
Một số bài viết của Giáo sư Hoàng Thị Kim Quế như: Quan niệm về
pháp luật - một vài suy nghĩ. Tạp chí NN và PL. Số 6 – 2006; Bàn về hiệu quả
phổ biến, giáo dục pháp luật ở nước ta hiện nay. Tạp chí Khoa học pháp lý.
Số 3/2011; Bảo vệ quyền lợi phụ n trong Luật Hồng Đức Lê triều hình luật
- Tính tiến bộ, nhân văn và giá trị đương đại, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN,
Luật học 28 (2012).

3


3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và mục đích của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Là ADPL trong hoạt động xét xử các vụ án

HN&GĐ, qua thực tiễn ở tỉnh Phú Thọ.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi về nội dung: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ
bản và thực trạng, giải pháp về ADPL trong hoạt động xét xử các vụ án
HN&GĐ của TAND.
+ Phạm vi về thời gian: trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến năm 2018.
+ Phạm vi về không gian: ở tỉnh Phú Thọ.
- Mục đích luận văn:
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận về ADPL của TAND trong hoạt
động xét xử các vụ án HN&GĐ.
+ Nghiên cứu thực trạng ADPL của TAND trong hoạt động xét xử các
vụ án HN&GĐ ở tỉnh Phú Thọ.
+ Đề ra những giải pháp, kiến nghị để đảm bảo ADPL của TAND trong
hoạt động xét xử các vụ án HN&GĐ ở tỉnh Phú Thọ.
4. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện được mục đích trên luận văn có nhiệm vụ cụ thể sau đây:
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về áp dụng pháp luật của
TAND trong hoạt động xét xử các vụ án HN&GĐ.
+ Nghiên cứu, đánh giá những ưu điểm và hạn chế của hoạt động ADPL
trong hoạt động xét xử các vụ án HN&GĐ ở tỉnh Phú Thọ, chỉ ra những
nguyên nhân của hạn chế.
+ Đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả ADPL của
TAND trong hoạt động xét xử các vụ án HN&GĐ ở tỉnh Phú Thọ.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận

4


Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về

Nhà nước và pháp luật, những quan điểm cơ bản của lý luận ADPL trong nhà
nước pháp quyền.
- Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu như: phương pháp
phân tích, tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh, điều
tra xã hội học vv..
6. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn ADPL của
TAND trong hoạt động xét xử các vụ án HN&GĐ, làm rõ những đặc thù của
loại án này tại TAND ở tỉnh Phú Thọ.
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng, chỉ ra những bất cập trong quá trình
ADPL của TAND trong hoạt động xét xử các vụ án HN&GĐ, luận văn đề
xuất một số phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm góp phần nâng cao chất
lượng xét xử các vụ án HN&GĐ của TAND, đáp ứng nhu cầu công cuộc cải
cách Tư pháp hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn là công trình nghiên cứu cơ bản là mới nhất về ADPL
trong hoạt động xét xử các vụ án HN&GĐ, về bản chất thì chính là ADPL
trong hoạt động xét xử của TAND trong hoạt động giải quyết án HN&GĐ
ở tỉnh Phú Thọ.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần đáng kể cung cấp cơ sở lý
luận và cơ sở thực tiễn cho những người trực tiếp làm công tác giải quyết án
HN&GĐ, nhằm thực hiện thống nhất luật HN&GĐ, và góp phần nào đó để
giúp các cơ quan lập pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật để xây dựng Nhà
nước pháp quyền trong tình hình thực tế.

5


- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên

cứu giảng dạy, học tập trong các cơ sở đào tạo, cơ quan nghiên cứu về ADPL
trong hoạt động xét xử các vụ án HN&GĐ tại TAND.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương lớn và các mục, tiểu mục nhỏ.
Chương 1. Cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử
các vụ án Hôn nhân và gia đình.
Chương 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử các vụ
án Hôn nhân và gia đình tại tỉnh Phú Thọ.
Chương 3. Giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
trong hoạt động xét xử các vụ án Hôn nhân và gia đình tại tỉnh Phú Thọ.

6


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG
XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
1.1. Khái niệm và đặc điểm áp dụng pháp luật trong hoạt động xét
xử các vụ án Hôn nhân và gia đình
Theo quy định của pháp luật về HN&GĐ, cũng chính là luật hiện hành
và trực tiếp điều chỉnh các chế định liên quan đến HN&GĐ thì:
Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn. Kết hôn là
việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của
của luật HN&GĐ về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn, Ly hôn
là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật của Tòa án [31].
Từ đó, có thể hiểu hôn nhân là sự gắn kết giữa một người nam và một
người nữ tạo thành mối quan hệ vợ chồng, tạo lập nên gia đình đó chính là “tế
bào” của xã hội.

Quan hệ này được pháp luật công nhận và bảo vệ dựa trên nguyên tắc
hoàn toàn tự nguyện và bình đẳng, không trái với đạo đức xã hội, không trái
với các quy định của pháp luật. Hôn nhân được xác định bởi hai sự kiện pháp
lý đó là: kết hôn và chấm dứt hôn nhân (ly hôn).
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm áp dụng pháp luật
Áp dụng pháp luật chính là một hình thức thực hiện pháp luật. Do vậy,
trước tiên cần đưa ra khái niệm thực hiện pháp luật là gì?
- Khái niệm và vai trò của thực hiện pháp luật
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin: Pháp luật XHCN là hệ
thống các quy phạm pháp luật (các quy tắc) có tính chất bắt buộc chung do
nhà nước XHCN ban hành (hoặc thừa nhận) theo một trình tự nhất định, và

7


bảo đảm bằng sức mạnh của mình, trong đó đặc biệt là sức mạnh cưỡng chế,
trực tiếp thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động; là công cụ có hiệu lực nhất để điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản,
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh [4].
Pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng, không chỉ là công cụ quản lý
xã hội cần thiết mà còn là vũ khí chính trị để chống lại thế lực thù địch. Pháp
luật XHCN được thể chế hoá từ đường lối, chủ trương của Đảng cộng sản, là
phương tiện cho Đảng cộng sản lãnh đạo xã hội. Pháp luật là cơ sở pháp lý để
Nhà nước tổ chức và hoạt động, là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, bảo
vệ quyền công dân, quyền con người, là phương tiện để nhân dân thực hiện
quyền làm chủ, phát huy dân chủ và thiết lập quan hệ xã hội mới.
Pháp luật chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó được thực hiện và thực hiện có
hiệu quả trong đời sống hằng ngày. Nếu pháp luật không thực hiện được trong
đời sống hằng ngày thì sẽ làm giảm hoặc mất ý nghĩa, giá trị của pháp luật.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh rất đề cao vai trò của pháp luật, Người từng

nhận định rằng: “Một nhà nước v ng mạnh, có hiệu lực phải là một nhà nước
làm cho mọi người dân biết sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” [9].
Tư tưởng của Người cũng cho thấy rõ quan điểm Pháp luật phải dân chủ,
nhân văn và vì con người. Kế thừa tư tưởng ấy, Hiến Pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật” [28, Điều 16]. Nhà nước pháp quyền chỉ phát huy hiệu lực của mình khi
biết kết hợp giáo dục đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội và nhà nước,
nghĩa là phải hài hòa và cân bằng giữa “đức trị” và pháp trị”. Chủ tịch Hồ Chí
Minh là người nhân hậu, giản dị, có tình yêu thương con người bao la nhưng
không phải là người nhu nhược mà trái lại Người rất nghiêm khắc, không bao
che sai phạm khuyết điểm cho một ai. Người yêu cầu những cán bộ mà làm
công vụ về thi hành pháp luật phải công tâm, minh bạch, nghiêm minh. Người

8


đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, đức thanh liêm của con người cách mạng
nói chung và của cán bộ tư pháp nói riêng, không vì cái lợi trước mắt của bản
thân mà quên đi lợi ích cao cả của Quốc gia, dân tộc.
Trong lý luận nhà nước và pháp luật, khái niệm thực hiện pháp luật đã
được quan tâm nghiên cứu và có sự thống nhất về cơ bản.
Thực hiện pháp luật là hoạt động đưa pháp luật vào cuộc sống, với
những quá trình, cách thức làm cho các qui phạm pháp luật trở thành hành vi,
xử sự thực tế của các chủ thể pháp luật.
Vai trò của thực hiện pháp luật được thể hiện qua 4 hình thức như sau:
+ Tuân thủ pháp luật, còn gọi là tuân theo pháp luật, là một hình thức
thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành
nh ng hành vi mà pháp luật ngăn cấm.
Các chủ thể pháp luật phải có nghĩa vụ mang tính chất pháp lý là phải
tuân thủ pháp luật, không được thực hiện những hành vi mà pháp luật cấm. Khi

mà nghĩa vụ ấy không được thực hiện thì họ chắc chắn sẽ bị xử lý bởi các chế
tài trong quy phạm pháp luật hoặc chịu hậu quả bằng một hình phạt cụ thể.
Ví dụ: Một người phạm tội “Trộm cắp tài sản” thì tùy từng trường hợp,
tùy mức độ vi phạm mà bị xử lý theo các quy định trong Bộ luật Hình sự hiện
hành. Các chế tài đó mang tính bắt buộc chung nghĩa là buộc các chủ thể phải
thực hiện từ đó mà việc tuân thủ pháp luật sẽ có tính răn đe cũng như giáo dục
phòng ngừa chung trong xã hội, từ đó mỗi chủ thể sẽ nhận thức được và sẽ
không vi phạm những điều mà pháp luật đã cấm. Tuy vậy, cũng có trường
hợp, cá nhân hay tổ chức tuy đã nhận biết được các quy định cấm của pháp
luật nhưng vẫn cố tình vi phạm do động cơ nào đó hoặc để đạt được mục đích
mà thấy rằng có lợi cho bản thân.
Cũng tương tự ví dụ vừa nêu, khi Pháp luật cấm hành vi “mua, bán trái
phép chất ma túy”. Do đó, Chủ thể “không được thực hiện hành vi mua, bán

9


chất ma túy” được xem là tuân thủ pháp luật. Và chủ thể thực hiện hành vi
mua, bán chất ma túy được xem là không tuân thủ pháp luật, như vậy chủ thể
đó sẽ phải chịu trách nhiệm về hình sự và bị xử phạt bằng chế tài được quy
định trong bộ luật hình sự hiện hành.
+ Thi hành pháp luật, còn gọi là chấp hành pháp luật là hình thức
trong đó các chủ thể quan hệ pháp luật thực hiện nh ng hành vi mà pháp luật
quy định được thực hiện trong nh ng hoàn cảnh, nh ng quan hệ pháp luật
mà pháp luật đã dự liệu cụ thể.
Đây là hình thức thực hiện pháp luật chủ động và tích cực bằng các
hành vi cụ thể của các chủ thể quan hệ pháp luật. Chủ thể thực hiện hình thức
thi hành pháp luật này là tất cả các cơ quan Nhà nước, nhân viên Nhà nước,
các cá nhân, tổ chức và mọi công dân trong xã hội.
Ví dụ: Pháp luật quy định về nghĩa vụ đóng thuế thu nhập cá nhân/ thuế

thu nhập doanh nghiệp. Do đó, nếu không thuộc trường hợp miễn thuế/đối
tượng không chịu thuế thì chủ thể đóng thuế được xem là “thi hành pháp luật”.
+ Sử dụng pháp luật, là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó
các chủ thể pháp luật thực hiện nh ng hành vi mà pháp luật cho phép.
Trong công cuộc xây dựng và đảm bảo Nhà nước pháp quyền, thì sử
dụng pháp luật mang tính xã hội vô cùng to lớn, nó thể hiện tính tích cực pháp
lý của cá nhân, tổ chức, đặc biệt là đối với công dân trong việc sử dụng một
cách có văn hóa pháp luật các quyền hiến định và luật định của mình.
Bằng ý chí của mình, các chủ thể tự cân nhắc xem có nên dùng các
quyền chủ thể mà đã được pháp luật bảo vệ hay không, nghĩa là không bị ép
buộc bởi một quy định hay một tác nhân nào khác. Điều này cho thấy rằng,
mỗi chủ thể đều được pháp luật trao cho các quyền nhất định, nhưng các chủ
thể này có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền đó, đây chính là đặc
điểm để so sánh giữa hình thức sử dụng pháp luật so với các hình thức thực
hiện pháp luật khác.

10


Ví dụ: Khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị B xâm phạm,
A có quyền khởi kiện B ra tòa án vì pháp luật trao cho A quyền được khởi kiện
B ra tòa án có thẩm quyền. Khi đó, A được xem là đang “sử dụng pháp luật”.
+ Áp dụng pháp luật, là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền
lực nhà nước, được thực hiện thông qua nh ng cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền, nhà chức trách hoặc các tổ chức xã hội khi được Nhà nước trao
quyền, nhằm cá biệt hóa nh ng quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ
thể đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể.
Ví dụ: Khi A khởi kiện B ra tòa, Tòa án đó có trách nhiệm xem xét và
thụ lý đơn khởi kiện của A. Theo đó, Tòa án được xem là cơ quan “áp dụng
pháp luật”

Hiện nay, về góc độ học thuật thì các học giả Việt Nam có những quan
niệm về “áp dụng pháp luật” và có những cách tiếp cận khác nhau. Nhưng dù
có suy nghĩ như thế nào thì vẫn tồn tại một khái niệm chung thừa nhận rằng:
Áp dụng pháp luật là hình thức hoạt động mang tính tổ chức quyền lực của Nhà nước được thực hiện thông qua những cơ quan
nhà nước, cá nhân có thẩm quyền (được nhà nước trao quyền) theo
thủ tục, trình tự do pháp luật quy định nhằm cá biệt hoá những qui
phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, cơ
quan và tổ chức cụ thể [4, tr.283].
- Đặc điểm áp dụng pháp luật
+ ADPL là hoạt động mang tính tổ chức - quyền lực nhà nước. Vì vậy,
hoạt động này chỉ do những cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền tiến hành.
Hoạt động ADPL chỉ do những cơ quan Nhà nước hay nhà chức trách
có thẩm quyền tiến hành. Cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền được
thay mặt nhà nước thực hiện hoạt động ADPL theo đúng nhiệm vụ và chức
năng của họ mà pháp luật đã quy định.

11


ADPL có tính chất bắt buộc đối với chủ thể bị áp dụng và các chủ thể
có liên quan. Hoạt động ADPL có mang tính quyền lực nhà nước nên nó được
nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các hình thức cưỡng chế, giáo dục và
thuyết phục. Các cá nhân, tổ chức có thẩm quyền, được nhà nước trao quyền
thực thi quyền lực nhà nước sẽ căn cứ quy định pháp luật để đưa ra quyết định
ADPL có giá trị pháp luật thi hành đối với các cá nhân, tổ chức có liên quan.
GS,TS Hoàng Thị Kim Quế cho rằng “Trong tương quan với nhà nước, pháp
luật được xác định là phương tiện giới hạn quyền lực nhà nước, là công cụ
chủ yếu của quản lý xã hội v.v” [17, tr. 9]
+ ADPL là hoạt động được thực hiện theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy
định chặt chẽ. Các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền và các bên liên quan

trong quá trình ADPL phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định có tính thủ tục.
Hoạt động ADPL phải thực hiện theo đúng những quy trình, thủ tục mà
pháp luật đã quy định. Ví dụ, việc giải quyết một vụ án HN&GĐ phải tiến
hành theo những quy trình được quy định cụ thể trong Bộ luật Tố tụng dân sự
(BLTTDS); hoặc việc xử phạt hành chính được điều chỉnh bởi những quy
phạm, thủ tục xử phạt hành chính. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và
các bên có liên quan trong quá trình ADPL phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy
định về thủ tục luật định để đảm bảo quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức, đảm
bảo nguyên tắc pháp chế.
Trong từng trường hợp cụ thể, chủ thể áp dụng pháp luật phải thực hiện
hoạt động ADPL theo đúng những quy trình, thủ tục mà pháp luật đã quy
định. Tương ứng với từng lĩnh vực mà hoạt động ADPL có thể gây bất lợi
hoặc có lợi cho các đối tượng chịu sự điều chỉnh của luật. Từ đó, việc ADPL
phải thật chính xác đầy đủ để tránh tình trạng áp dụng không đúng quy định
của pháp luật dẫn đến hậu quả là làm thiệt hại cho đương sự, hoặc bản án bị
hủy, sửa nhiều lần.

12


+ ADPL là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã
hội. Bằng hoạt động ADPL, những quy phạm pháp luật chung được cá biệt
hóa, cụ thể hóa đối với những các nhân, cơ quan, tổ chức cụ thể.
Trong từng trường hợp cụ thể xảy ra trong đời sống xã hội, những
quy phạm pháp luật nhất định được cá biệt hóa thông qua hoạt động ADPL.
Mỗi điều luật cụ thể đã dự liệu được sẵn tình huống này xảy ra trên thực tế,
chủ thể ADPL áp dụng một cách chính xác điều luật ấy ứng vào tình huống
xảy ra trong thực tế. Sau khi phân tích tình huống thực tế và xem xét các
quy định của pháp luật tương ứng phù hợp, các cơ quan nhà nước, cá nhân
có thẩm quyền sẽ đưa ra những “mệnh lệnh cá biệt” để đưa những quy

phạm pháp luật đó áp dụng vào trường hợp đang diễn ra trong đời sống một
cách chính xác nhất.
+ ADPL là hoạt động có tính sáng tạo. Khi ADPL, cơ quan nhà nước,
người có thẩm quyền phải phân tích vụ việc, làm sáng tỏ nội dung của vụ
việc, từ đó lựa chọn quy phạm, ra văn bản ADPL và tổ chức thi hành.
Thực tiễn cuộc sống diễn ra vô cùng đa dạng, phong phú và phức tạp,
chính vì thế các quy định pháp luật phải cô đọng, như là một công thức chung
để có thể áp dụng vào những tình huống khác nhau trong thực tiễn. Do vậy,
hoạt động ADPL luôn đòi hỏi tính sáng tạo, linh hoạt của những người thực thi
nhiệm vụ, bên cạnh đó phải đảm bảo được những nguyên tắc của pháp luật.
Để ADPL đáp ứng được tình hình thực tiễn cụ thể từng giai đoạn thì
yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải nghiên cứu kỹ lưỡng vụ
việc, làm sáng tỏ cấu thành pháp lý của nó để từ đó lựa chọn quy phạm, ra
văn bản ADPL và tổ chức thi hành. Trong trường hợp pháp luật chưa quy
định hoặc quy định chưa rõ thì phải vận dụng một cách sáng tạo bằng cách
ADPL tương tự, hoặc sử dụng án lệ. Điều đó đòi hỏi các Cơ quan Nhà nước
là những chủ thể của hoạt động áp dụng phải có kiến thức, kỹ năng và bản

13


lĩnh nghề nghiệp, có đạo đức nghề nghiệp thì mới có thể phân tích, đánh giá
tình huống một cách chặt chẽ, khoa học, khách quan và linh động để đưa ra
một cách giải quyết đúng pháp luật. Có như vậy, quyết định ADPL mới có
tính khả thi cũng như được người dân thừa nhận, từ đó sẽ tin tưởng vào cơ
quan ADPL và tin tưởng vào chủ trương đường lối của Đảng cũng như chính
sách pháp luật của Nhà nước. Các văn bản ADPL được ban hành chính là kết
quả của việc ADPL.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử
các vụ án Hôn nhân và gia đình

1.1.2.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong luật hoạt động xét xử các
vụ án Hôn nhân và gia đình
Hoạt động ADPL để xét xử các vụ án về HN&GĐ thực chất chính là
ADPL về HN&GĐ của TAND. Trước hết là nó một hoạt động ADPL, nên nó
có đầy đủ những đặc điểm chung của hoạt động ADPL nói chung, đồng thời
có tính đặc thù riêng của hoạt động ADPL về HN&GĐ do Tòa án áp dụng.
Tòa án áp dụng Luật HN&GĐ là ADPL nội dung, áp dụng BLTTDS là ADPL
hình thức của hoạt động giải quyết án HN&GĐ. Hoạt động đó bao gồm
những bước đi theo trình tự tố tụng chặt chẽ, là tiền đề quan trọng để quyết
định chính xác các vấn đề cần giải quyết đảm bảo hợp tình hợp lý, vừa phù hợp
ý chí nguyện vọng của đương sự mà cũng phải đảm bảo đúng quy định của
pháp luật. ADPL về HN&GĐ của Tòa án là một hình thức ADPL do Tòa án
tiến hành, áp dụng quy phạm pháp luật để giải quyết các vụ án về HN&GĐ.
Luật Hôn nhân và gia đình điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh
vực hôn nhân, gia đình, cụ thể là các quan hệ về nhân thân và quan hệ về tài
sản phát sinh giữa vợ và chồng trong thời kỳ hôn nhân, giữa cha mẹ và các
con hoặc những thành viên khác trong gia đình. Như vậy, đối tượng điều
chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình là quan hệ về nhân thân và về tài sản
phát sinh giữa các thành viên trong gia đình:

14


- Quan hệ nhân thân thuộc đối tượng điều chỉnh của nhiều ngành luật
khác nhau. Khi nói tới quan hệ nhân thân, chúng ta có thể hiểu các quan hệ
này xuất phát từ các giá trị tinh thần của chủ thể, giá trị tinh thần này có thể
gắn liền với lợi ích về kinh tế hoặc có thể không gắn liền với lợi ích về kinh
tế. Quan hệ nhân thân là một trong hai đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự.
Quan hệ nhân thân phát sinh vì lợi ích tinh thần, luôn gắn liền với chủ thể nó
không mang tính hàng hóa - tiền tệ và không thể tính được bằng trị giá. Nếu

như ở quan hệ tài sản, có thể có sự dịch chuyển tài sản từ chủ thể này sang
chủ thể khác thì trong quan hệ nhân thân, việc dịch chuyển các giá trị tinh
thần là không thể thực hiện được.
- Quan hệ tài sản là những lợi ích về tài sản phát sinh giữa vợ và chồng,
giữa cha mẹ và con và giữa những người thân thích khác. Quan hệ tài sản
luôn mang nội dung kinh tế, là tiền bạc, tài sản… Đó là quan hệ cấp dưỡng,
thừa kế giữa cha mẹ và con, giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà và cháu,
giữa vợ và chồng, giữa các thành viên khác trong gia đình; là các quan hệ về
sở hữu tài sản giữa vợ và chồng…
1.1.2.2. ADPL trong hoạt động xét xử án HN&GĐ có các đặc điểm sau
- ADPL trong hoạt động xét xử án HN&GĐ chỉ do các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền tiến hành, đó là các TAND. Toà án là cơ quan có thẩm
quyền duy nhất có quyền ADPL để giải xét xử án HN&GĐ.
- ADPL trong xét xử án HN&GĐ được tiến hành theo một thủ tục chặt
chẽ do pháp luật tố tụng dân sự quy định nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp
của các bên đương sự.
- ADPL trong xét xử án HN&GĐ là một hoạt động mang tính quyền
lực nhà nước, Nhà nước trao quyền cho Tòa án, Tòa án nhân danh Nhà nước
để lựa chọn các quy phạm pháp luật và ADPL trong xét xử án HN&GĐ.
- ADPL trong xét xử án HN&GĐ là một hoạt động mang tính khoa học

15


và sáng tạo do Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân thực hiện. Chỉ có Thẩm phán
và Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án HN&GĐ mới được áp dụng các
quy phạm pháp luật, sao cho phù hợp và khoa học để giải quyết vụ án HN&GĐ.
- ADPL trong xét xử án HN&GĐ diễn ra trên phạm vi rộng với nhiều
vụ án đa dạng, phức tạp. Tuy cùng một loại án về HN&GĐ nhưng tính chất
từng vụ án cũng khác nhau, tình tiết, chứng cứ trong các vụ án cũng khác

nhau. ADPL của TAND trong giải quyết án HN&GĐ được thực hiện trong
các trường hợp sau:
Thứ nhất, khi cần truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi
phạm pháp luật về HN&GĐ hoặc áp dụng các biện pháp tác động khác. Ví dụ
như có trường hợp trong phần quyết định của bản án về HN&GĐ Tòa án buộc
một bên phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nhưng họ không thực hiện sau
đó phía bên kia làm đơn yêu cầu thi hành án, thì cơ quan Thi hành án buộc
người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo đúng như phần
quyết định của bản án đã có hiệu lực pháp luật mà Tòa án đã tuyên.
Thứ hai, khi quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không đương nhiên
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu không có sự can thiệp của Nhà nước. Ví
dụ như khi nam nữ muốn xác lập quan hệ vợ chồng thì phải đăng ký kết hôn ở
Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền, muốn chấm dứt quan hệ vợ chồng thì
phải có quyết định hoặc bản án ly hôn của Tòa án, cha mẹ nếu không muốn
nhận con thì phải có chứng cứ chứng minh và được Tòa án chấp nhận…
Thứ ba, khi xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên tham
gia quan hệ pháp luật mà các bên không thống nhất được với nhau. Chẳng hạn
hai bên đương sự không thống nhất được vấn đề chia tài sản khi ly hôn, hay
vấn đề nuôi con và cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn....
Thứ tư, trong một số quan hệ pháp luật mà Nhà nước thấy cần thiết
phải tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia vào quan hệ

16


đó hoặc Nhà nước xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại của một số sự việc,
sự kiện thực tế. Chẳng hạn như: Tòa án tuyên bố một người đã chết hoặc mất
tích và lấy đó làm căn cứ để giải quyết việc ly hôn cho các bên; hoặc việc Tòa
án tiến hành xác minh địa chỉ của các bên đương sự hoặc xác minh tình trạng
hôn nhân để lấy đó làm căn cứ giải quyết vụ án.....

Đối với các vụ án HN&GĐ, Tòa án phải ADPL để giải quyết từ giai
đoạn chuẩn bị xét xử đến khi xét xử vụ án, tùy từng vụ án cụ thể mà phân loại
giải quyết khác nhau. Về thủ tục tố tụng thì áp dụng BLTTDS hiện hành của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tức là BTTDS năm 2015. Về nội
dung thì ngoài việc áp dụng Bộ luật dân sự (BLDS) hiện hành mà tùy từng vụ
án Tòa án áp dụng các luật nội dung có liên quan như Luật Hôn nhân và gia
đình, Luật đất đai... Theo quy định, khi đương sự nộp đơn đề nghị giải quyết
vụ án HN&GĐ đến TAND cấp có thẩm quyền, sau khi tiếp nhận đơn Tòa án
tiến hành phân loại và thụ lý giải quyết theo trình tự tố tụng, như điều tra thu
thập chứng cứ vụ án, lựa chọn quy phạm pháp luật áp dụng, ra các quyết định
hoặc ra bản án buộc các đương sự phải thực hiện.
1.2. Quy trình và nội dung áp dụng pháp luật trong hoạt động xét
xử các vụ án Hôn nhân và gia đình
Quá trình giải quyết một vụ án HN&GĐ bắt đầu từ khi Tòa án nhận
được khởi kiện của người khởi kiện và kết thúc khi Tòa án ra một phán quyết
bằng một quyết định hoặc bản án có hiệu lực pháp luật. Kể từ khi nhận được
đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án cấp có thẩm quyền giải quyết việc ly hôn. Tòa
án phải tiến hành xem xét đơn khởi kiện và tiến hành các bước theo quy định
của BLTTDS. Từ khâu tiếp nhận đơn, xem xét đơn, thụ lý đơn, tiến hành thu
thập chứng cứ, thủ tục hòa giải và sau đó ra quyết định công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự hoặc ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Thủ tục hòa giải được tiến hành theo BLTTDS hiện hành. Các bên
đương sự được quyền trao đổi thỏa thuận với nhau về các vấn đề để giải quyết

17


×