ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYÊ
̃
N HOÀI PHƢƠNG
B¶o ®¶m quyÒn c«ng d©n trong ho¹t ®éng xÐt xö
c¸c vô ¸n h«n nh©n vµ gia ®×nh - Qua thùc tiÔn
Tßa ¸n nh©n d©n thµnh phè Hµ Néi
Chuyên ngành: L lun v lch sử nh nƣc v php lut
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG MINH TUẤN
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Hoi Phƣơng
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CÔNG DÂN
TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÔN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH 7
1.1. Những vấn đề cơ bản về quyền công dân 7
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của quyền công dân 7
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm quyền công dân 11
1.1.3. Phân loại quyền công dân 15
1.2. Những vấn đề cơ bản trong hoạt động xét xử cc vụ n hôn
nhân v gia đình 17
1.2.1. Khái niệm xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình 17
1.2.2. Trình tự xét xử vụ án hôn nhân và gia đình tại TAND cấp thành phố
trực thuộc trung ƣơng 19
1.3. Nhƣ
̃
ng vâ
́
n đê
̀
ly
́
luâ
̣
n chung vê
̀
b ảo đảm quyền công dân trong
hoạt động xét xử cc vụ n hôn nhân v gia đình 22
1.3.1. Khái niệm và đặc điểm bảo đảm quyền công dân trong hoạt động
xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình 22
1.3.2. Nội dung bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án
hôn nhân và gia đình 24
1.3.3. Các yếu tố bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ
án hôn nhân và gia đình 32
1.3.4. Ý nghĩa, vai trò bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các
vụ án hôn nhân và gia đình 35
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 37
Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CÔNG DÂN
TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÔN
NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI 38
2.1. Khi qut chung về đặc điểm chính tr, kinh tế - xã hội v
TAND thnh phố H Nội 38
2.1.1. Đặc điểm chính trị, kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội 38
2.1.2. Vị trí, vai trò của TAND thành phố Hà Nội 41
2.2. Những ƣu điểm về bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét
xử cc vụ n hôn nhân v gia đình của TAND thnh phố H Nội 44
2.2.1. Tình hình giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình của TAND
thành phố Hà Nội 44
2.2.2. Công tác chỉ đạo, triển khai tổ chức và kiểm tra 52
2.2.3. Những kết quả đạt đƣợc về bảo đảm quyền công dân trong hoạt
động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình của TAND thành phố
Hà Nội 55
2.3. Những hạn chế về bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét
xử cc vụ n hôn nhân v gia đình của TAND thnh phố H Nội 74
2.4. Nguyên nhân hạn chế về bảo đảm quyền công dân trong hoạt
động xét xử cc vụ n hôn nhân v gia đình của TAND thnh
phố H Nội 79
KẾT LUẬT CHƢƠNG 2 84
Chương 3: YÊU CẦU, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ TĂNG CƢỜNG
BẢO ĐẢM QUYỀN CÔNG DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT
XỬ CÁC VỤ ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 85
3.1. Yêu cầu tăng cƣờng bảo đảm quyền công dân trong hoạt động
xét xử cc vụ n hôn nhân v gia đình 85
3.1.1. Yêu cầu bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng 85
3.1.2. Yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân 87
3.1.3. Yêu cầu cải cách tƣ pháp 88
3.2. Giải php tăng cƣờng bảo đảm quyền công dân trong hoạt động
xét xử cc vụ n hôn nhân v gia đình 89
3.2.1. Giải pháp chung 89
3.2.2. Giải pháp riêng 101
3.3. Kiến ngh vi cơ quan Nh nƣc có thẩm quyền nhằm tạo điều
kiện bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử cc vụ n
hôn nhân v gia đình 108
KẾT LUẬN 111
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 113
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHXHCN
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
HĐND
Hội đồng nhân dân
TAND
Tòa án nhân dân
UBND
Ủy ban nhân dân
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1:
Kết quả giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình của
TAND thành phố Hà Nội (từ năm 2011 - 2013)
45
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề ti
Quyền công dân là một trong những vấn đề thiêng liêng, cơ bản của bất cứ
quốc gia nào. Quyền công dân phải đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật của
mà bất cứ quốc gia nào cũng phải thực hiện.
Xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì
dân là chủ trƣơng lớn của Đảng và Nhà nƣớc ta, điều đó đã đƣợc thể
chế tại Hiến pháp nƣớc CHXHCN Việt Nam năm 1992 (sửa đổi năm
2013): “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân
dân” [2518, Điều 2].
Một trong những tiêu chí rất quan trọng của Nhà nƣớc pháp quyền là bảo
đảm cao nhất quyền công dân trong mọi hoạt động của Nhà nƣớc trong đó có hoạt
động xét xử của Tòa án. Trong những năm qua, cùng với những thành tựu to lớn
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền
XHCN, Việt Nam đã đạt đƣợc nhiều thành tựu quan trọng trong việc bảo đảm
quyền công dân trên tất cả mọi mặt nói chung và bảo đảm quyền công dân trong
hoạt động xét xử của Tòa án trong đó có hoạt động xét xử án hôn nhân và gia đình.
Thực tế hoạt động xét xử của ngành TAND trong những năm gần đây đã
cho thấy các vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình ngày càng phức tạp, do vậy
việc nhận thức và vận dụng pháp luật để giải quyết loại tranh chấp này cũng nhƣ
đảm bảo quyền công dân trong hoạt động xét xử cũng gặp không ít khó khăn. Tuy
nhiên, với sự cố gắng của các Thẩm phán và cán bộ ngành Tòa án, việc áp dụng
pháp luật về hôn nhân và gia đình cũng nhƣ pháp luật về tố tụng dân sự và đảm
bảo quyền công dân trong việc giải quyết các vụ án tranh chấp về hôn nhân gia
đình đã đạt đƣợc những kết quả đáng khích lệ góp phần giải quyết kịp thời các
mâu thuẫn bất hòa trong quan hệ hôn nhân, bảo vệ đƣợc các quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên đƣơng sự, đồng thời góp phần làm ổn định chính trị, trật tự an
2
toàn xã hội, tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa. Không những vậy, thông qua
hoạt động xét xử đối với các vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình đã tăng
cƣờng việc phổ biến tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân để họ
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
Bên cạnh những mặt đã đạt đƣợc, thông qua hoạt động xét xử phúc thẩm,
giám đốc thẩm của ngành TAND đã phát hiện đƣợc những thiếu sót, hạn chế nhất
định: để quá thời hạn chuẩn bị xét xử, đánh giá chứng cứ chƣa toàn diện, bản án
tuyên không rõ ràng gây khó khăn cho công tác thi hành án dân sự, thiếu ngƣời tham
gia tố tụng, xác định tài sản chung, tài sản riêng để phân chia chƣa đúng hoặc chƣa
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đƣơng sự dẫn đến Tòa án cấp trên phải
sửa, hủy bản án của Tòa án cấp dƣới. Đặc biệt còn có một số vụ án tranh chấp về hôn
nhân và gia đình có tính chất phức tạp, có liên quan đến nhiều tài sản chung của gia
đình, vợ chồng nên bị kéo dài nhiều năm, qua nhiều cấp xét xử ảnh hƣởng đến quyền
và lợi ích của công dân. Đội ngũ Thẩm phán còn hạn chế về chuyên môn và thiếu
kinh nghiệm xét xử đã làm giảm lòng tin của các đƣơng sự, cũng nhƣ các chủ thể
khác vào phán quyết của Tòa án. Do đó, trong hoạt động xét xử các vụ án nói chung
và các vụ án hôn nhân và gia đình nói riêng phải bảo đảm cho các đƣơng sự tìm thấy
lẽ công bằng, tính nhân đạo, tin tƣởng vào cơ quan Tòa án.
Thành phố Hà Nội là thủ đô của Việt Nam đƣợc coi là trung tâm kinh tế,
chính trị và văn hóa. Nền kinh tế càng phát triển thì các mâu thuẫn phát sinh ngày
càng đa dạng và phức tạp đặc biệt những mâu thuẫn phát sinh trong mối quan hệ
hôn nhân và gia đình. Trong những năm qua số vụ án về hôn nhân và gia đình mà
toàn ngành Tòa án nói chung và TAND thành phố Hà Nội nói riêng thụ lý đã tăng
vƣợt bậc. Ngoài bảo đảm xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình đúng với các quy
định của pháp luật thì bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án
hôn nhân và gia đình luôn đƣợc lãnh đạo TAND thành phố Hà Nội quan tâm chỉ
đạo. Bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử của Toà án nói chung và bảo
đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử vụ án hôn nhân và gia đình nói riêng đã
đạt đƣợc nhiều thành tựu vƣợt bậc làm tấm gƣơng cho toàn ngành Tòa án. Tuy
3
nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt đƣợc thì vấn đề bảo đảm quyền công dân
trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình của TAND Thành phố Hà
Nội còn nhiều bất cập gây ảnh hƣởng đến uy tín cũng nhƣ chất lƣợng xét xử của
TAND Thành phố Hà Nội.
Trong bối cảnh Thành phố Hà Nội đang tiếp tục thực hiện Chƣơng trình cải
cách Tƣ pháp theo Nghị quyết số 48/NQ – TW ngày 24/05/2005 của Ban chấp hành
Trung Ƣơng về chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hƣớng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49/NQ – TW ngày
02/6/2005 của Ban chấp hành Trung Ƣơng về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm
2020 và thực hiện các Nghị quyết, chỉ đạo của Thành ủy, HĐND, UBND thành phố
thì tăng cƣờng bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử nói chung và trong
hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình nói riêng là yêu cầu bức thiết.
Xuất phát từ lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Bảo đảm quyền công dân trong
hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình - Qua thực tiễn TAND thành
phố Hà Nội ” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề ti
Nghiên cứu về hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình ở Việt Nam
đã đƣợc các nhà nghiên cứu dƣới nhiều góc độ khác nhau. Cụ thể gồm một số các
đề tài của các tác giả nhƣ: Hoàng Văn Hạnh “Áp dụng pháp luật trong việc giải
quyết án hôn nhân và gia đình của TAND ở tỉnh Thái Nguyên” Luận văn thạc sỹ
luật học, năm 2006; “Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn của
Tòa án nhân dân ở tỉnh Thừa Thiên Huế” Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả
Đào Thị Mai Hƣờng năm 2010; “Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật hôn nhân
và gia đình Việt Nam” Luận án tiến sỹ của tác giả Nguyễn Văn Cừ năm 2005; Vũ
Thanh Tuấn “Một số vấn đề khi giải quyết việc hôn nhân và gia đình” Tạp chí Tòa
án số 14 tháng 7/2007; Thủy Nguyên “Áp dụng Luật hôn nhân, gia đình khi giải
quyết vụ án có yếu tố nước ngoài” Tạp chí Tòa án số 17 năm 2005; Đỗ Văn
Chỉnh, Ly hôn có yếu tố nƣớc ngoài. Pháp luật và thực tiễn. Tạp chí Tòa án nhân
dân số 10 tháng 5/2007 Các nghiên cứu của các học giả trên đã đề cập đến vấn đề
4
giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình dƣới góc độ về áp dụng pháp luật, giải
quyết các vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài.
Các nghiên cứu của các học giả trên đã đề cập đến vấn đề giải quyết các vụ
án hôn nhân và gia đình dƣới góc độ về áp dụng pháp luật, giải quyết các vụ án hôn
nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài.
Vấn đề bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử nói chung và các vụ
án hôn nhân và gia đình của các chuyên gia pháp lý và đặc biệt là những ngƣời làm
công tác xét xử của ngành Tòa án nghiên cứu ở nhiều mức độ và khía cạnh khác
nhau. Các bài viết trên các tạp chí khác nhƣ: Tạp chí Tòa án, Tạp chí Luật học; Tạp
chí Kiểm sát; Tạp chí Dân chủ; Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật… cũng có nghiên
cứu về một số khía cạnh lý luận và thực tiễn liên quan đến việc bảo đảm quyền công
dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình. Đó là những tiền đề tƣ
liệu quan trọng cho việc nghiên cứu đề tài. Tuy nhiên, các bài viết trên hoặc nghiên
cứu chung về vấn đề bảo đảm quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử của TAND
hoặc nghiên cứu về một khía cạnh nào đó của hoạt động xét xử các tranh chấp về
hôn nhân và gia đình. Song đến nay, chƣa có một công trình khoa học nào phân tích
một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống dƣới góc độ lý luận và thực tiễn về bảo
đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình đặc biệt
là tại TAND thành phố Hà Nội. Vì vậy đó chính là lý do để tôi chọn chủ đề này làm
đề tài luận văn Cao học Luật của mình.
3. Nhiệm vụ v nghĩa của lun văn
Nhiệm vụ của luận văn:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về quyền công dân, về hoạt động xét xử các
vụ án hôn nhân và gia đình, bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ
án hôn nhân và gia đình.
- Phân tích thực trạng hoạt động bảo đảm quyền công dân trong hoạt động
xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình, phân tích nguyên nhân của những tồn tại,
hạn chế của bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và
gia đình tại TAND thành phố Hà Nội;
5
- Từ đó đƣa ra một số yêu cầu tăng cƣờng bảo đảm quyền công dân trong
hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình ở Việt Nam; đƣa ra một số giải
pháp chung và riêng, một số kiến nghị nhằm tăng cƣờng bảo đảm quyền công dân
trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình.
Ý nghĩa luận văn:
- Có ý nghĩa thực tiễn góp phần tăng cƣờng bảo đảm quyền công dân trong
hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình của Việt Nam nói chung và tại
TAND thành phố Hà Nội nói riêng.
- Đóng góp cho công tác tăng cƣờng chất lƣợng, hiệu quả xét xử các vụ án hôn
nhân và gia đình của Việt Nam nói chung và TAND thành phố Hà Nội nói riêng.
- Đóng góp một phần vào thành quả của chƣơng trình cải cách tƣ pháp theo
tinh thần Nghị quyết số 48/NQ-TW, Nghị quyết số 49/NQ-TW tại Việt Nam nói
chung và thành phố Hà Nội nói riêng.
- Đồng thời, luận văn cung cấp cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, là tài liệu tham
khảo cho những ngƣời trực tiếp làm công tác giải quyết các tranh chấp các vụ án
hôn nhân và gia đình trong ngành TAND, công tác giảng dạy, học tập trong các
trƣờng Đại học chuyên Luật và không chuyên Luật.
4. Phạm vi nghiên cứu
Với phạm vi là một luận văn thạc sỹ Luật học thuộc chuyên ngành Lý luận
và Lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật, luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề lý luận về
bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình
đồng thời nghiên cứu thực tiễn vấn đề trên tại TAND thành phố Hà Nội từ năm
2011 đến nay.
5. Phƣơng php nghiên cứu của lun văn
Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên việc vận dụng phƣơng pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phép biện chứng của Chủ
nghĩa Mác - Lê Nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật.
Bên cạnh đó luận văn còn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể là phân
tích, đối chiếu, so sánh, thống kê và tổng hợp; phƣơng pháp phân tích quy phạm cũng
đƣợc tác giả vận dụng để phân tích, bình luận nội dung của một số chế định.
6
6. Điểm mi của lun văn
Luận văn đề cập khá toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn của bảo đảm
quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình tại TAND
thành phố Hà Nội trong bối cảnh thành phố Hà Nội đang tiếp tục phát huy hiệu quả
của chƣơng trình cải cách tƣ pháp theo Nghị quyết số 48/NQ – TW và Nghị quyết số
49/NQ- TW. Với những kết quả mà luận văn đạt đƣợc, tác giả hy vọng sẽ góp một
phần nhỏ vào việc bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn
nhân và gia đình của Việt Nam nói chung và của TAND thành phố Hà Nội nói riêng.
7. Kết cấu của lun văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử
các vụ án hôn nhân và gia đình.
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các
vụ án hôn nhân và gia đình của TAND thành phố Hà Nội.
Chương 3: Yêu cầu, giải pháp và kiến nghị tăng cƣờng bảo đảm quyền công
dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CÔNG DÂN TRONG
HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
1.1 . Những vấn đề cơ bản về quyền công dân
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của quyền công dân
Mặc dù vấn đề công dân đã manh nha trong tƣ tƣởng của Aritstốt nhƣng phải
đến thời điểm ra đời Nhà nƣớc Cộng hòa Quý tộc chủ nô trong xã hội cổ đại La Mã
vấn đề công dân mới xuất hiện rõ nét. Vấn đề quyền công dân chỉ đƣợc bàn đến
rộng rãi và phổ biến trong xã hội tƣ sản đặc biệt là qua các cuộc Cách mạng Tƣ sản
và sự xuất hiện các Nhà nƣớc Tƣ sản ở châu Âu thế kỷ XVII, XVIII, sau các cuộc
Cách mạng Vô sản và sự xuất hiện Nhà nƣớc XHCN thế kỷ XX.
Trải qua thời gian, vấn đề quyền công dân ngày càng đƣợc hoàn thiện cùng
với sự phát triển của xã hội, của khoa học pháp lý. Tại Châu Âu đến cuối thế kỷ thứ
XIX vấn đề quyền công dân bắt đầu đƣợc bàn đến rộng rãi và đƣợc ghi nhận trong
các bản Hiến pháp. Điển hình là tại Đức, quyền công dân bắt đầu đƣợc ghi nhận trong
Hiến pháp từ năm 1818 - 1819 (Hiến pháp Baria và Bađen năm 1818, Nurtemberg
năm 1819). Khi đó, nƣớc Đức còn đang ở trong thời kỳ quân chủ lập hiến. Đây là
thời kỳ chuyển giao giữa chế độ phong kiến và chế độ tƣ bản chủ nghĩa nên thời kỳ
này đã có một sự dung hòa, thích nghi giữa trật tự pháp luật quân chủ tuyệt đối với
những đòi hỏi về kinh tế và chính trị của giai cấp tƣ sản mà trong đó, cái ảnh hƣởng
to lớn là những tƣ tƣởng của chủ nghĩa tự do kinh tế. Vào những năm 50 của thế kỷ
XX, quyền công dân đƣợc tiếp cận ở góc độ quyền bình đẳng với tƣ cách là nền tảng
của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới - với sự ra đời của Tuyên ngôn toàn thế
giới về nhân quyền và sự thể hiện tuyên ngôn này trong pháp luật quốc gia. Những
năm 70, 80 của thế kỷ XX, quyền công dân đƣợc ghi nhận trong pháp luật quốc gia
với tƣ cách là sự thể hiện các nội dung và quyền con ngƣời về quyền dân sự và chính
trị, kinh tế, xã hội và văn hóa theo các Công ƣớc về quyền dân sự và chính trị, Công
ƣớc về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, 1976.
8
Tới thời điểm hiện nay, tùy theo mỗi quốc gia, mỗi chế độ chính trị khác
nhau mà hệ thống các quyền công dân đƣợc thể hiện ở những mức độ khác nhau.
Tuy nhiên xã hội càng phát triển vấn đề quyền công dân càng đƣợc coi trọng và bảo
vệ. Đặc biệt với các nƣớc hiện nay đang tiến hành xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền
và xã hội công dân, thì vấn đề bảo đảm quyền công dân rất đƣợc coi trọng.
Tại Việt Nam, vấn đề quyền công dân lần đầu tiên đƣợc ghi nhận một cách cụ
thể nhất tại Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của Nhà nƣớc ta đã đƣợc Quốc
hội thông qua. Với Hiến pháp năm 1946, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, những
ngƣời dân nô lệ trƣớc đây thực sự trở thành ngƣời chủ của đất nƣớc, đƣợc bảo đảm
các quyền tự do, dân chủ trên nhiều phƣơng diện. Hiến pháp năm 1946, lần đầu tiên
trong lịch sử Việt Nam, nhân dân Việt Nam đƣợc bảo đảm các quyền tự do, dân chủ.
Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam quyền bình đẳng của công dân trƣớc pháp luật
đƣợc ghi nhận trong đạo luật cơ bản của Nhà nƣớc. Và cũng là lần đầu tiên trong lịch
sử dân tộc, phụ nữ đƣợc ngang quyền với nam giới về mọi phƣơng diện.
Kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1946 về quyền tự do dân chủ và
tự do cá nhân của công dân, Hiến pháp năm 1959 đã có những bƣớc phát triển mới
trong việc quy định cụ thể hơn các quyền công dân đồng thời bổ sung thêm một số
quyền công dân mới. Các quyền của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân
trong Hiến pháp 1959 bao gồm: quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội
họp, tự do lập hội, tự do biểu tình, quyền tự do tín ngƣỡng, quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, quyền bất khả xâm phạm về nhà ở, quyền tự do đi lại cƣ trú. Hiến
pháp 1959 đã ghi nhận những thành tựu mới của Nhà nƣớc dân chủ nhân dân trong
việc hình thành và phát triển quan hệ lao động mới. Đạo luật cơ bản của Nhà nƣớc
không những quy định lao động là cơ sở phát triển kinh tế của đất nƣớc, cơ sở nâng
cao đời sống văn hóa của nhân dân mà còn quy định đó là nghĩa vụ và danh dự của
công dân (Điều 21 và Điều 32). Bằng quan điểm đó Hiến pháp 1959 đã xác định
một quan điểm mới về lao động, với quan điểm này nhân dân Việt Nam vốn dĩ cần
cù, sáng tạo phát triển, thêm tƣ chất đạo đức tốt đẹp của mình, coi lao động không
những là nguồn gốc của cải xã hội, mà còn là nhu cầu của đời sống tinh thần của
9
nhân dân. Ngoài những quyền mà Hiến pháp 1946 quy định, Hiến pháp năm 1959
quy định thêm nhiều quyền mới nhƣ quyền của ngƣời lao động đƣợc giúp đỡ về vật
chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động (Điều 32); quyền tự do nghiên cứu
khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật và tiến hành các hoạt động văn hóa khác
(Điều 34); quyền khiếu nại tố cáo với bất cứ cơ quan Nhà nƣớc nào về những hành
vi phạm pháp của nhân viên cơ quan Nhà nƣớc (Điều 29).
Với sự ra đời Hiến pháp 1980 - bản Hiến pháp thứ ba và là Hiến pháp xã hội
chủ nghĩa thứ hai của nƣớc ta, các quy định về các quyền tự do dân chủ và tự do cá
nhân cùng với các bảo đảm pháp lí từng bƣớc cải thiện đáng kể. So với Hiến pháp
năm 1959, Hiến pháp năm 1980 đã quy định thêm một số quyền mới của công dân
nhƣ quyền tham gia quản lý các công việc của Nhà nƣớc và xã hội (Điều 56);
Quyền khám và chữa bệnh không phải trả tiền (Điều 61); Quyền có nhà ở (Điều
62); Quyền đƣợc học tập không phải trả tiền (Điều 60); Quyền của xã viên hợp tác
xã đƣợc hƣởng phụ cấp khi sinh đẻ (Điều 63)… Mặc dù, có những hạn chế nhƣng
so với Hiến pháp năm 1946 và 1959 nhƣng quyền cơ bản của công dân trong Hiến
pháp 1980 vẫn là một bƣớc phát triển mới phong phú hơn, cụ thể hơn, rõ nét hơn.
Tại bản Hiến pháp 1992 (đã đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2001) thì phần lớn
các quy định về tự do dân chủ và tự do cá nhân của công dân đƣợc ghi nhận ở Hiến
pháp 1980 đã đƣợc sửa đổi, mở rộng và quy định cụ thể hơn, đồng thời ghi nhận
thêm những quyền mới nhằm đáp ứng nhu cầu của việc mở rộng hơn nữa nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phù hợp với sự vận
động của nền kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Có thể nói so với
các bản Hiến pháp trƣớc, nhóm các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và
tự do cá nhân trong Hiến pháp 1992 đó có bƣớc phát triển đáng kể và tƣơng đối
hoàn thiện, thể hiện một quá trình phát triển liên tục về phƣơng diện chính trị, pháp
lí cũng nhƣ về phƣơng diện kĩ thuật lập hiến Việt Nam.
Hiến pháp nƣớc CHXHCN Việt Nam năm 2013 đƣợc Quốc hội (khóa XIII)
thông qua tại kỳ họp thứ 6, gồm 11 chƣơng, 120 điều có hiệu lực từ ngày
01/01/2014, giảm 01 chƣơng và 27 điều so với Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp
10
năm 2013 đã quy định bao quát hầu hết các quyền cơ bản về chính trị, dân sự, kinh
tế, xã hội, văn hóa của con ngƣời. Nếu nhƣ Hiến pháp năm 1992 quy định quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân đƣợc tại chƣơng V thì ở Hiến pháp năm 2013 chƣơng
về quyền con ngƣời, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là chƣơng II, chỉ xếp
sau chƣơng về chế độ chính trị. Đây không phải là sự ngẫu nhiên hoặc cơ học mà
đây là một điểm mới, thể hiện tầm quan trọng của quyền con ngƣời trong Hiến
pháp. Hiến pháp đã làm rõ hơn các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân và trách
nhiệm của Nhà nƣớc trong việc bảo đảm thực hiện quyền con ngƣời, quyền công
dân; thể hiện rõ bản chất dân chủ của Nhà nƣớc ta.
Về tên chƣơng cũng có sự thay đổi, nếu nhƣ ở Hiến pháp năm 1992 là
"Quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân", đến Hiến pháp năm 2013 chƣơng này có tên
là "Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân". Qua đó để khẳng định
quyền con ngƣời đƣợc Nhà nƣớc thừa nhận, tôn trọng và cam kết bảo vệ theo Công
ƣớc quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. So với Hiến pháp năm 1992 thì
Hiến pháp năm 2013 quy định rõ quyền con ngƣời, quyền công dân chỉ sẽ hạn chế
trong một số trƣờng hợp nhất định, tránh tình trạng xâm phạm quyền con ngƣời,
quyền công dân. Ngoài một số nội dung cơ bản trên, Hiến pháp năm 2013 quy định
về quyền con ngƣời, quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân đã quy định rõ ràng, cụ thể
và bổ sung đầy đủ hơn so với Hiến pháp năm 1992 nhƣ gộp các Điều 65, 66, 67 và
bổ sung thêm một số nội dung thành Điều 37 Hiến pháp năm 2013; tách Điều 53
Hiến pháp năm 1992 quy định về công dân có quyền biểu quyết khi Nhà nƣớc trƣng
cầu ý dân thành Điều 29 Hiến pháp năm 2013: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên
có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”
Về cách thức thể hiện, Hiến pháp năm 2013 có sự đổi mới quan trọng theo
hƣớng ghi nhận mọi ngƣời có quyền, công dân có quyền và quyền con ngƣời là
quyền tự nhiên, bất cứ ai cũng cũng có quyền đó; quyền công dân là quyền của
ngƣời có quốc tịch Việt Nam… Để mọi ngƣời, công dân thực hiện quyền của mình
thì Hiến pháp năm 2013 quy định trách nhiệm của Nhà nƣớc là phải ban hành văn
bản pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi cho mọi ngƣời và công dân thực hiện đầy
11
đủ các quyền của mình. Hiến pháp năm 2013 quy định về quyền con ngƣời, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân là sự kế thừa tinh hoa tƣ tƣởng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong Hiến pháp năm 1946, đồng thời, đã thể chế hóa chủ trƣơng, đƣờng
lối, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về quyền con ngƣời, coi con ngƣời là chủ
thể, là động lực quan trọng của sự phát triển đất nƣớc trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, nhằm hƣớng đến mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm quyền công dân
Quyền công dân về nguồn gốc lịch sử, nó là một khái niệm xuất hiện cùng
với cách mạng tƣ sản và chỉ tồn tại trong xã hội công dân. Cách mạng tƣ sản đã biến
con ngƣời (giai cấp thống trị trong xã hội) từ địa vị thần dân trong Nhà nƣớc quân
chủ sang địa vị công dân trong Nhà nƣớc cộng hòa. Nghĩa là, khi đề cập đến khái
niệm công dân là đề cập tới một bộ phận con ngƣời, theo quy định của pháp luật với
tƣ cách là những thành viên bình đẳng trong Nhà nƣớc, từ đó mà quyền con ngƣời
đƣợc thừa nhận một cách rộng rãi và bình đẳng với ý nghĩa là quyền công dân.
Nhƣng quyền công dân không phải và không bao giờ trở thành hình thức cuối cùng
của quyền con ngƣời, nó chỉ thể hiện mối quan hệ giữa công dân với Nhà nƣớc và
mối quan hệ đó đƣợc xác định thông qua một chế định pháp luật đặc biệt là chế định
quốc tịch.
Nếu xét về phƣơng diện ngữ nghĩa của từ thì thuật ngữ “quyền công dân”
đƣợc phân tích cụ thể nhƣ sau:
"Quyền" theo định nghĩa của từ điển Tiếng Việt, là: "1. Điều mà pháp luật hoặc
xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi (quyền công dân, quyền bầu
cử và quyền ứng cử); 2. Những điều do địa vị hay chức vụ mà được làm (nói tổng quát.
Có chức có quyền. lạm dụng quyền” [51, tr.815].
Tuy nhiên, dù với cách giải thích thứ hai, "quyền" vẫn là những gì "mà pháp
luật hoặc xã hội công nhận cho đƣợc hƣởng, đƣợc làm, đƣợc đòi hỏi", là khả năng
xử sự nhất định của cá nhân, tổ chức đƣợc hƣởng, đƣợc làm, đƣợc đòi hỏi từ cộng
đồng xung quanh. "Công dân" theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt, là "người
dân, trong mối quan hệ về mặt quyền lợi và nghĩa vụ với Nhà nước" [51, tr.207].
12
Khi con ngƣời đƣợc coi là công dân, quyền công dân chính là quyền con
ngƣời trong một xã hội cụ thể, trong một chế độ xã hội - chính trị cụ thể.
Nhƣ vậy trên bình diện phân tích về ngữ nghĩa của câu từ chúng ta có thể
hiểu quyền công dân là những quyền của những con ngƣời đƣợc hiến pháp và pháp
luật của một quốc gia nhất định ghi nhận và bảo vệ.
Về khái niệm quyền công dân C. Mác cho rằng: "Quyền công dân là những
quyền chính trị, những quyền cá nhân con người, với tư cách là thành viên "xã hội
công dân" [1, tr.14].
Tại Việt Nam hiện vẫn tồn tại một số khái niệm khác nhau về quyền công
dân nhƣ theo tiến sĩ Nguyễn Đình Lộc:
Quyền công dân - đó là sự thể chế hóa về mặt Nhà nƣớc bằng
pháp luật địa vị con ngƣời trong khuôn khổ Nhà nƣớc, là sự thừa nhận,
trong chừng mực mà Nhà nƣớc chấp nhận, địa vị con ngƣời của cá nhân
trong Nhà nƣớc [2027, tr.75].
Tiến sỹ Vũ Công Giao cho rằng: "Quyền công dân là tập hợp
những quyền tự nhiên đƣợc pháp luật của một nƣớc quy định, mà tất cả
những ngƣời có chung quốc tịch của nƣớc đó đƣợc hƣởng một cách bình
đẳng” [17, tr.21].
Thực ra, khái niệm quyền công dân không phải dùng để chỉ các quyền cụ thể
của công dân là quyền nào mà là khái niệm có tính chất là tiêu chí đánh giá, hàm ý
chỉ rằng Nhà nƣớc đã ghi nhận và bảo đảm cho công dân, quyền con ngƣời nhƣ thế
nào trong các quyền và trong các nghĩa vụ cụ thể của công dân. Tính cụ thể của khái
niệm chỉ là chỗ nó không tồn tại độc lập nhƣ khái niệm quyền con ngƣời mà phải
gắn với các quy định của pháp luật, phải qua việc xem các quy định cụ thể về quyền
và nghĩa vụ của một hệ thống pháp luật nhƣ thế đã phản ánh quyền công dân nhƣ
thế nào. Thông qua quyền công dân trong một hệ thống pháp luật, ngƣời ta có thể
biết nó đã thể hiện quyền con ngƣời nhƣ thế nào. Quyền công dân khác với khái
niệm “quyền cơ bản” của công dân đƣợc ghi nhận trong các bản hiến pháp, nó mang
tính chất cụ thể chỉ các lợi ích cơ bản mà pháp luật ghi nhận cho công dân. Cần
nhấn mạnh rằng quyền cơ bản của công dân là quyền đƣợc thể hiện trong các quy
định cụ thể cho cả quyền và cả nghĩa vụ cơ bản cho đối với công dân.
13
Từ những phân tích trên chúng ta có thể hiểu thuật ngữ quyền công dân dƣới
hai phƣơng diện theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp nhƣ sau:
Theo nghĩa rộng: Quyền công dân đƣợc hiểu là quyền con ngƣời giới hạn
trong phạm vi các đặc tính xã hội của con ngƣời và trong phạm vi một quốc gia,
một chế độ chính trị trong đó con ngƣời tồn tại.
Theo nghĩa hẹp: Quyền công dân là các quyền cụ thể của con ngƣời đƣợc
pháp luật của một quốc gia ghi nhận và bảo đảm thực hiện.
Quyền công dân có những đặc điểm sau:
Một là quyền công dân là một bộ phận của quyền con người
Quyền con ngƣời xét về nguồn gốc tự nhiên là quyền của tất cả các cá nhân,
không liên quan đến việc nó có đƣợc ghi nhận trong pháp luật một Nhà nƣớc cụ thể
nào không. Quyền công dân lại là các quyền đƣợc thể hiện trong pháp luật của một
nƣớc ghi nhận (dƣới dạng là các quyền và nghĩa vụ cụ thể) và bảo đảm thực hiện
trong một Nhà nƣớc cụ thể. Nội hàm của khái niệm “quyền con ngƣời” rộng hơn
khái niệm “quyền công dân”, hay nói cách khác, “quyền công dân” là một bộ phận
của “quyền con ngƣời”. So với khái niệm quyền con ngƣời, khái niệm quyền công
dân mang tính xác định hơn, gắn liền với mỗi quốc gia, đƣợc pháp luật của mỗi
quốc gia quy định. Và do gắn với đặc thù của mỗi quốc gia mà nội dung, số lƣợng,
chất lƣợng của quyền công dân ở mỗi quốc gia thƣờng không giống nhau. Tuy
nhiên, không có sự đối lập giữa quyền con ngƣời và quyền công dân trong quy định
của các nƣớc.
Trong mỗi quốc gia, quyền công dân trong nội dung là sự thể hiện cụ thể của
quyền con ngƣời, khó có thể phân định một cách thật sự rạch ròi quyền con ngƣời,
quyền công dân theo quan điểm quyền con ngƣời là quyền tự nhiên, quyền công dân
là do pháp luật quy định; hay quyền con ngƣời là do luật quốc tế quy định, quyền
công dân là do pháp luật quốc gia quy định. Việc nhận thức giá trị và bản chất của
quyền con ngƣời có vai trò quyết định trực tiếp trong việc xây dựng các quy chế
pháp lý về quyền công dân trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Việc ghi
nhận và bảo đảm thực hiện các quyền công dân chính là đã thực hiện nội dung cơ
bản của quyền con ngƣời.
14
Trong văn kiện quốc tế đặc biệt quan trọng là Tuyên ngôn thế giới về quyền
con ngƣời và các Công ƣớc quốc tế về quyền con ngƣời, theo đó, quyền con ngƣời
là nhân phẩm, các nhu cầu (về vật chất và tinh thần), lợi ích cùng với nghĩa vụ của
con ngƣời đƣợc thể chế hoá trong các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật
quốc gia. Còn quyền công dân phản ánh, thể hiện là quyền con ngƣời, là những giá
trị gắn liền với một Nhà nƣớc nhất định và đƣợc Nhà nƣớc đó bảo đảm thực hiện
bằng pháp luật dựa trên mối liên hệ pháp lý cơ bản giữa mỗi cá nhân công dân với
một Nhà nƣớc cụ thể.
Hai là quyền công dân được ghi nhận trong hệ thống pháp luật và được bảo
đảm thực hiện
Sự xác lập các quyền nghĩa vụ này tạo thành một chế định quan trọng của
Luật Hiến pháp - chế định quan hệ giữa Nhà nƣớc và cá nhân. Ở nhiều nƣớc chế
định này gọi là quyền và nghĩa vụ của công dân (Nhật Bản), quyền và nghĩa vụ
của con ngƣời và công dân (Nga). Nhƣng với đặc trƣng đƣợc ghi nhận trong Hiến
pháp, tức đƣợc điều chỉnh bằng Hiến pháp, mà Hiến pháp là đạo Luật cơ bản nên
các quyền và nghĩa vụ này ở nhiều nƣớc thƣờng gọi là quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân. Trong Hiến pháp Việt Nam hiện hành sử dụng cách gọi quyền và
nghĩa vụ cơ bản của nhân dân. Với sự ghi nhận bằng pháp luật các cơ quan Nhà
nƣớc có trách nhiệm bảo đảm quyền công dân đƣợc thực hiện và có cơ chế xử lý
đối với hành vi vi phạm quyền công dân của bất cứ đối tƣợng nào kể cả cơ quan
quyền lực Nhà nƣớc.
Ba là quyền công dân gắn liền với vấn đề về quốc tịch
Trong một quốc gia thì không chỉ có công dân của quốc gia đó mà còn có thể
có công dân nƣớc ngoài hoặc ngƣời không quốc tịch, thậm chí có ngƣời mang nhiều
quốc tịch. Hay nói cách khác không phải mọi cá nhân sinh sống trên lãnh thổ của
một quốc gia đều đƣợc coi là công dân của quốc gia đó. Một cá nhân muốn trở
thành công dân thì cần những điều kiện nhất định. Những điều kiện đó có thể giống
hoặc khác nhau tùy thuộc vào pháp luật của từng quốc gia nhất định.
Để trở thành công dân của một nƣớc, các cá nhân bao giờ cũng phải có quốc
15
tịch của nƣớc đó. Tƣ cách công dân mang đến cho cá nhân một địa vị pháp lý đặc
biệt trong quan hệ với nƣớc mà họ mang quốc tịch. Đó chính là tất cả các quyền và
nghĩa vụ của công dân. Các quyền và nghĩa vụ này tồn tại đối với công dân trong
quan hệ với Nhà nƣớc mà họ mang quốc tịch, ngay cả trong trƣờng hợp họ sống ở
nƣớc ngoài. Những ngƣời không phải là công dân (ngƣời không có quốc tịch, ngƣời
nƣớc ngoài) có thể sẽ không có đƣợc hoặc chỉ có các quyền, nghĩa vụ của nƣớc sở
tại ở mức độ hạn chế. Một số quyền, nghĩa vụ mà họ sẽ không đƣợc hƣởng nhƣ:
quyền tham gia quản lý Nhà nƣớc và xã hội, quyền bầu cử, ứng cử, tham gia nghĩa
vụ quân sự và xây dựng quốc phòng toàn dân Dựa trên những điều kiện cụ thể của
mình mà Nhà nƣớc quy định cho công dân những quyền và phải thực hiện những
nghĩa vụ nhất định. Nhƣng bất luận thế nào thì các quyền và nghĩa vụ này cũng nói
lên một điều rằng, quyền công dân cũng nhƣ quyền con ngƣời đã đƣợc ghi nhận và
bảo đảm nhƣ thế nào, tiến bộ hay lạc hậu.
Có thể nói, việc đặt ra khái niệm công dân có một ý nghĩa rất quan trọng. Điều
này thể hiện, nếu là công dân của một Nhà nƣớc thì ngƣời đó đƣợc hƣởng đầy đủ các
quyền và phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ mà Nhà nƣớc đó quy định. Còn những
ngƣời không phải là công dân của nƣớc sở tại thì quyền và nghĩa vụ của họ bị hạn chế
trong một số lĩnh vực nhƣ: họ không có quyền tham gia quản lý Nhà nƣớc và xã hội;
không có quyền bầu cử; ứng cử; họ cũng không phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham
gia xây dựng quốc phòng toàn dân,… Mặt khác, khái niệm công dân thể hiện mối quan
hệ pháp lý có tính chất đặc biệt, tồn tại trong cả trƣờng hợp công dân nƣớc đó đã ra nƣớc
ngoài sinh sống nhƣng vẫn còn mang quốc tịch. Việc sinh sống ở trong hay ngoài nƣớc
sẽ không ảnh hƣởng đến tƣ cách công dân khi họ vẫn mang quốc tịch nƣớc đó.
1.1.3. Phân loại quyền công dân
Tới thời điểm hiện nay, tùy theo mỗi quốc gia, mỗi chế độ chính trị khác
nhau mà hệ thống các quyền công dân đƣợc thể hiện ở những mức độ khác nhau
nhƣng tựu chung lại vẫn có những cách phân loại cơ bản sau:
Căn cứ vào nhu cầu bảo đảm sự tồn tại và phát triển của con ngƣời thì quyền
công dân đƣợc chia thành 02 nhóm sau:
16
Nhóm quyền được bảo đảm những điều kiện xã hội để con người tồn tại bao
gồm: quyền có công ăn việc làm; quyền cƣ trú, đi lại; quyền bất khả xâm phạm về
thân thể; quyền đƣợc bảo đảm chỗ ở; quyền an ninh chính trị; quyền tự do kết hôn;
quyền sở hữu và thừa kế tài sản;
Nhóm quyền tự do lựa chọn các hoạt động sáng tạo, quyền được sáng tạo để
tự biểu hiện mình như một nhân cách bao gồm: quyền đƣợc học hành và nâng cao
học vấn; quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp; quyền đƣợc xã hội đào tạo nghề
nghiệp; quyền tự do ngôn luận; quyền tự do bầu cử và ứng cử; quyền tự do tín
ngƣỡng, tôn giáo; quyền đấu tranh bảo vệ lẽ phải, chân lý;
Căn cứ vào các lĩnh vực đời sống xã hội, các phƣơng diện hoạt động của cá
nhân thì quyền công dân bao gồm:
Nhóm quyền trong lĩnh vực chính trị: Gồm các quyền nhƣ quyền tham gia
quản lý Nhà nƣớc; quyền bầu cử và ứng cử vào các cơ quan quyền lực Nhà nƣớc;
quyền tự do ngôn luận, tự do báo trí, hội họp, lập hội biểu tình theo quy định của
pháp luật đây; quyền khiếu nại, tố cáo
Nhóm quyền trong lĩnh vực kinh tế: Gồm các quyền nhƣ quyền lao động; quyền
tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật; quyền sở hữu tƣ liệu sản xuất
Nhóm quyền trong lĩnh vực văn hóa - xã hội: Quyền học tập; quyền nghiên
cứu khoa học; quyền đƣợc bảo vệ sức khỏe; quyền bình đẳng nam - nữ; quyền đƣợc
bảo hộ về hôn nhân và gia đình; quyền đƣợc hƣởng ƣu đãi và chăm sóc; quyền đƣợc
thông tin
Nhóm quyền trong lĩnh vực tự do cá nhân: Gồm các quyền nhƣ quyền tự do
tín ngƣỡng; quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền đƣợc bồi thƣờng thiệt hại
về vật chất và phục hồi danh dự; quyền bí mật thƣ tín, điện thoại; quyền tự do đi lại
và cƣ trú…
Căn cứ theo phƣơng pháp tiếp cận của khoa học pháp lý thì quyền công dân
đƣợc phân chia thành các nhóm sau:
Nhóm các quyền và tự do dân chủ về chính trị: Gồm có các quyền nhƣ quyền
tham gia quản lý Nhà nƣớc và xã hội; quyền bầu cử, ứng cử; quyền bình đẳng nam nữ;
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; quyền đƣợc thông tin; quyền tự do tín ngƣỡng;
17
Nhóm các quyền về dân sự bao gồm: Gồm các quyền nhƣ quyền tự do đi lại
cƣ trú trong nƣớc; quyền ra nƣớc ngoài và từ nƣớc ngoài về nƣớc; quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, đƣợc pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và
nhân phẩm; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền khiếu nại, tố cáo;
Các quyền về kinh tế - xã hội: Gồm các quyền nhƣ quyền lao động;
quyền tự do kinh doanh; quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế; quyền
học tập;
Mặc dù có nhiều các phân loại thành nhiều nhóm quyền dựa vào các căn cứ
khác nhau nhƣng sự phân định giữa các nhóm quyền này chỉ mang tính chất tƣơng đối.
1.2. Những vấn đề cơ bản trong hoạt động xét xử cc vụ n hôn nhân v
gia đình
1.2.1. Khái niệm xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: "Gia đình là tập hợp những người
gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng làm
phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau" [24, Điều 8].
Nhƣ vậy, gia đình có thể gồm vợ chồng, con cái, anh chị em, cha mẹ, ông bà…
cùng chung sống với nhau, có quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dƣỡng. Trong
quá trình chung sống phát sinh các quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Hôn nhân là cơ sở
của gia đình, còn gia đình là tế bào của xã hội, mà trong đó kết hợp chặt chẽ, hài hòa
lợi ích của mỗi công dân, Nhà nƣớc và xã hội.
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam quy định việc kết hôn, để đƣợc công
nhận hôn nhân hợp pháp; việc đăng ký kết hôn phải tuân theo các quy định của
pháp luật và việc ly hôn cũng nhƣ giải quyết các quan hệ liên quan đến hôn nhân
cũng đƣợc tiến hành theo trình tự pháp luật nhất định, các bƣớc phải đƣợc tuân thủ theo
Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 (đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2011) (sau đây gọi tắt là Bộ
luật Tố tụng dân sự 2004) khi giải quyết một vấn đề cụ thể thì đƣợc áp dụng theo Luật
Hôn nhân và gia đình. Bộ luật tố tụng dân sự 2004 đã quy định hai loại trình tự thủ
tục tố tụng hoàn toàn khác nhau, đó là trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hôn nhân và
gia đình và trình tự giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình. Căn cứ quan trọng để
18
phân biệt vụ án hôn nhân và gia đình và vụ việc hôn nhân và gia đình là giữa các
bên có tranh chấp với nhau hay không? Nếu giữa hai bên đƣơng sự có tranh chấp
với nhau thì đƣợc xác định là vụ án hôn nhân và gia đình; nếu không có tranh chấp
đƣợc xác định là vụ việc hôn nhân và gia đình.
Nhƣ vậy, chúng ta cũng có thể hiểu vụ án hôn nhân và gia đình là việc
nguyên đơn và bị đơn tranh chấp với nhau về quyền và nghĩa vụ, trong đó nguyên
đơn là người yêu cầu Tòa án buộc bên bị đơn phải thực hiện một số nghĩa vụ phát
sinh từ quan hệ về hôn nhân và gia đình.
Theo quy định của Điều 27 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 thì các vụ án hôn
nhân và gia đình gồm các loại tranh chấp sau:
Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn:
Tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân:
Tranh chấp về thay đổi ngƣời trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn:
Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha mẹ:
Tranh chấp về cấp dƣỡng:
Các tranh chấp khác về hôn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.
Thực tiễn thông qua hoạt động xét xử tại Tòa án cho thấy, việc giải quyết các
vụ án hôn nhân và gia đình thông qua hoạt động xét xử rất đa dạng và phức tạp, các
đƣơng sự khởi kiện có tính cách, trình độ, sự nhận thức xã hội, nghề nghiệp khác
nhau, có các lý do xin ly hôn khác nhau, cũng nhƣ những yêu cầu giải quyết các
tranh chấp về hôn nhân và gia đình cũng khác nhau. Tuy nhiên, để bảo đảm quyền
công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình tại Tòa án có thể
nhận thấy chủ yếu tập trung vào các nguyên nhân, tranh chấp sau:
+ Mâu thuẫn gia đình;
+ Bị đánh đập, ngƣợc đãi;
+ Ngoại tình;
+ Bệnh tật, không có con;
+ Do nghiện ma túy, rƣợu chè, cờ bạc;