Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong hoạt động xét xử các vụ án hành chính ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 111 trang )



1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN HỒNG BÁCH






MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG HOẠT
ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY




LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC










HÀ NỘI - NĂM 2006

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




4
Mục lục
Lời cam kết
Mục lục
Bảng chữ viết tắt
Phần mở đầu 1
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN
HÀNH CHÍNH.
1.1 Hoạt động xét xử các vụ án hành chính ở Việt nam
một tất yếu lịch sử 7
1.2. Khái niệm về hoạt động xét xử các vụ án hành chính 17
1.3. Đối tượng của hoạt động xét xử các vụ án hành chính 21
1.4. Những nguyên tắc trong hoạt động xét xử các vụ án hành chính 24
1.5. Đặc điểm của hoạt động xét xử các vụ án hành chính 28
1.6. Lược sử về hoạt động xét xử các vụ án đối với các quyết định hành
chính, hành vi hành chính trong lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam 31
1.7. Một số kinh nghiệm giải quyết các khiếu kiện hành chính
trên thế giới 35
Chương 2
THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH.

2.1. Quy định của pháp luật về hoạt động xét xử các vụ án hành chính 45
2.1.1. Xem xét việc khởi kiện, khởi tố và thụ lý vụ án hành chính 45
2.1.2. Xét xử vụ án hành chính 66


5
2.2. Thực tiễn xét xử các vụ án hành chính 80
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ
ÁN HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM .
3.1. Quan điểm về hoàn thiện hoạt động xét xử các vụ án hành chính 87
3.2. Phương hướng hoàn thiện 89
Kết luận 97


6






BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

 TW
Trung ương
 UBND
Uỷ ban nhân dân
 CHXHCN
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa

 GQKN
Giải quyết khiếu nại
 GS, PGS.
Giáo sư, Phó giáo sư
 LKNTC
Luật Khiếu nại, tố cáo đã được sửa đổi bổ sung
năm 2004, năm 2005
 PLTTGQCVAHC
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
đã được sửa đổi bổ sung năm 1998, năm 2006
 TAND
Toà án nhân dân
 TANDTC
Toà án nhân dân tối cao
 TCN
Trước Công nguyên
 Tp.
Thành phố
 tr.
Trang
 TS.
Tiến sỹ
 PLXPVPHC
Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính
 XHCN
Xã hội chủ nghĩa






7
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề
Quyền khiếu nại là một trong những nội dung cơ bản của quyền công
dân trong các Nhà nước đương đại. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát huy nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân thì quyền khiếu nại
của công dân càng được nhà nước, xã hội quan tâm và tạo điều kiện cho
người dân thực hiện quyền này.
Đảm bảo quyền khiếu nại của công dân là nhiệm vụ quan trọng của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Yêu cầu này được thể hiện ở nhiều mặt, nhưng
cơ bản và quan trọng nhất là cơ chế pháp lý và hệ thống cơ quan nhà nước
tham gia vào quá trình thực hiện yêu cầu này.
Lịch sử hình thành và phát triển Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
đến nay là Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện sự quan
tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước đối với việc thực hiện quyền khiếu nại của
công dân.
Xét xử các vụ án hành chính tại Toà án nhân dân đánh dấu một bước
phát triển, thay đổi mạnh mẽ trong việc đảm bảo quyền khiếu nại, đảm bảo sự
tham gia vào quá trình quản lý nhà nước của nhân dân. Đây cũng là đặc trưng
cơ bản của Nhà nước Việt nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Hoạt động xét xử các vụ án hành chính tại Toà án trong 10 năm qua đã
có nhiều đóng góp tích cực vào công cuộc cải cách nền hành chính quốc gia,
cải cách tư pháp, công cuộc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, pháp chế
xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh những kết quả đạt được cũng nẩy sinh nhiều
hạn chế, bất hợp lý ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả giải quyết khiếu kiện
hành chính của Toà án.



8
Cải cách hành chính quốc gia, cải cách nền tư pháp, hoàn thiện pháp
luật trong là những nội dung quan trọng trong quá trình hoàn thiện Nhà nước
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong bối cảnh đất nước thay đổi mạnh
mẽ trên tất cả các lĩnh vực, tích cực tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế, đánh giá đúng thực tiễn hoạt động xét xử và các nhân tố tác động tới
hoạt động này của Toà án từ đó có những định hướng cụ thể phát huy được
vai trò tích cực của quyền tư pháp đối với công cuộc xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền là những vấn đề cần phải được
quan tâm nghiên cứu. Với những lí do đó, chúng tôi lựa chọn "Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn trong hoạt động xét xử các vụ án hành chính ở nước ta
hiện nay” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn.
Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng một Nhà nước pháp
quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã đặt ra nhiều vấn đề cần phải được nghiên
cứu giải quyết. Trong đó, việc nghiên cứu các quy định, cơ chế giải quyết
khiếu nại, tố các công dân đối với nhà nước đã thu hút được sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, luật gia trong và ngoài nước.
Một số công trình khoa học liên quan đến tổ chức hoạt động xét xử của
Toà án hành chính đã được công bố như:
- Thanh tra nhà nước: Đề tài khoa học (cấp nhà nước) "Toà án hành
chính, những vấn đề lý luận và thực tiễn" mã số 95 - 98 - 406/ DT năm 1997.
- Học viện hành chính quốc gia "Thiết lập tư pháp hành chính ở nước
ta" NXB giáo dục 1995.
- Đinh Văn Minh "Tài phán hành chính so sánh" Nhà xuất bản chính trị
quốc gia H. 1995.
- Nguyễn Thanh Bình "Tìm hiểu pháp luật tố tụng hành chính" Nhà
xuất bản thành phố Hồ Chí Minh 1997.



9
Tuy nhiên, mỗi công trình khoa học nghiên cứu, đề cập đến hoạt động
xét xử các vụ án hành chính của Toà án nhân dân ở các khía cạnh, góc độ
khác nhau.
Xuất phát từ công tác thực tiễn trong hoạt động xét xử các vụ án hành
chính, tác giả lựa chọn nội dung trên làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học mong
muốn nghiên cứu một cách hệ thống từ góc độ lý luận và thực tiễn phong phú
để từ đó có những kiến nghị mang tính khoa học, góp phần nâng cao chất
lượng của hoạt động xét xử các vụ án hành chính tại Toà án nhân dân.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu luận văn.
Qua 10 năm Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính được
thực hiện, hoạt động xét xử các vụ án hành chính đã có những tác dụng cụ thể
nhất là có tác động mạnh mẽ đến ý thức của các cán bộ, công chức trong các
cơ quan nhà nước, góp phần tích cực đáp ứng với những đòi hỏi của xã hội,
với những mục tiêu được đặt ra khi thành lập Toà án hành chính.
Xu thế hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đòi hỏi về xây dựng một xã
hội, một nhà nước thực sự dân chủ đang đặt ra nhiều câu hỏi về tính thực tiễn
của mô hình Toà án hành chính Việt Nam hiện nay.
Từ tình hình thực tiễn như vậy, luận văn với đề tài “Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn trong hoạt động xét xử các vụ án hành chính ở nước ta hiện
nay” nhằm các mục đích sau:
Một là, làm rõ về cơ sở lý luận về hoạt động xét xử các vụ án hành
chính.
Hai là, nghiên cứu làm sáng tỏ nội dung hoạt động xét xử các vụ án
hành chính và tính ưu việt của nó với các cơ chế giải quyết khiếu nại khác.
Đồng thời, qua đó chỉ ra những mặt còn hạn chế đến hiệu quả cũng như chất
lượng của hoạt động xét xử các vụ án hành chính tại Toà án.



10
Ba là, đề xuất các phương hướng nhằm nâng cao chất lượng giải quyết
những khó khăn vướng mắc trong hoạt động xét xử các vụ án hành chính hiện
nay.
Để thực hiện các mục đích nêu trên, phạm vi nghiên cứu của luận văn
tập trung nghiên cứu hệ thống cơ sở lý luận, các quan điểm khoa học, nhận
thức chung về hoạt động xét xử của Toà án đối với các vụ án hành chính
trong các giai đoạn xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Từ đó đối chiếu với thực
tiễn hoạt động xét xử các vụ án hành chính trong 10 năm qua tại Toà án nhân
dân các cấp trong cả nước, đặc biệt tập trung vào hoạt động xét xử các vụ án
hành chính tại Toà án nhân dân thành phố Hà nội, một trong những Toà án
tiêu biểu về xét xử các vụ án hành chính ở nước ta hiện nay, để thấy được
những vướng mắc, khó khăn về mặt pháp lý cũng như các yếu tố khác trực
tiếp tác động đến hoạt động xét xử của Toà án. Tuy nhiên, do năng lực còn
hạn chế, nội dung hoạt động xét xử các vụ án hành chính là nội dung lớn gồm
nhiều vấn đề khác nhau, tác giả lựa chọn những nội dung có tính chất cơ bản
nhất, quan trọng nhất để nghiên cứu trong luận văn của mình bao gồm: hoạt
động thụ lý vụ án hành chính; xét xử vụ án hành chính.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
-Phương pháp luận.
Tác giả sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của
Triết học Mác - Lê Nin, các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin về nhà
nước và pháp luật liên quan đến vai trò của nhà nước, pháp luật đến quyền
con người, bảo vệ quyền con người, về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Đặc biệt, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin về Toà án nhân dân
với việc bảo đảm quyền con người, dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà
nước pháp quyền để thực hiện luận văn.


11

Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu bổ trợ
sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
Đây là phương pháp được áp dụng phổ biến trong các phần, các nội
dung của luận văn như nêu và phân tích các quan điểm, quan niệm về một số
vấn đề. Rút ra các yếu tố, các bộ phận có mối liên hệ mật thiết với nhau để
xác lập một quan điểm, một vấn đề gồm các yếu tố cần và đủ cho một kết
luận, một quan niệm mới đầy đủ hơn.
- Phương pháp so sánh.
Phương pháp này được sử dụng để nhằm tìm ra các điểm chung, các
nét đặc trưng của các vấn đề, các hiện tượng hoặc cùng một hiện tượng nhưng
cần phải so sánh trong các giai đoạn (thời gian) khác nhau hay trong những
không gian khác nhau để rút ra các điểm tích cực tiến bộ.
- Phương pháp lịch sử.
Là phương pháp nghiên cứu một vấn đề trong quá trình phát sinh, tồn
tại và phát triển gắn các giai đoạn, các mốc thời gian.
- Phương pháp thống kê.
Là ghi chép, cập nhật các số liệu, các thông tin, sự kiện. Phương pháp
này, được áp dụng cho những vấn đề cần được chứng minh, minh hoạ từ các
số liệu, sự kiện có độ chính xác tin cậy cao.
5. Những nội dung cơ bản của luận văn
Luận văn nêu lên những hệ luận quan trọng của việc cần thiết và tất yếu
trong việc xác lập hoạt động xét xử của Toà án đối với các vụ án hành chính;
qua đó chứng minh quan điểm đúng đắn của Đảng và Nhà nước về việc thiết
lập một cơ chế đảm bảo quyền khiếu nại, đảm bảo quyền lợi ích, hợp pháp
của công dân nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước trong giai đoạn mới.


12
Luận văn bước đầu trình bầy, đánh giá thực trạng của hoạt động xét xử

của Toà án đối với các vụ án hành chính qua đó khẳng định những nội dung
tích cực cũng như chỉ ra được những khó khăn bất cập, thiếu tính hợp lý đặc
biệt trong vấn đề về pháp luật, áp dụng pháp luật của Toà án khi tiến hành
hoạt động xét xử. Luận văn cũng đưa ra những kiến nghị giải pháp nhằm hoàn
thiện hoạt động xét xử của Toà án, hoàn thiện các quy định của pháp luật về
vấn đề này, hoàn thiện môi trường pháp luật nói chung để nhằm đảm bảo cho
Toà án thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ, chức năng của mình trong bộ máy nhà
nước.
6. Bố cục của luận văn.
Luận văn được trình bày thành các phần theo bố cục sau:
- Lời cam kết.
- Mục lục.
- Bảng chữ viết tắt
- Phần mở đầu.
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về hoạt động xét xử các vụ án
hành chính.
- Chương 2: Thực tiễn hoạt động xét xử các vụ án hành chính.
- Chương 3: Phương hướng hoàn thiện hoạt động xét xử các vụ án hành
chính ở Việt Nam
- Kết luận.
- Danh mục tài liệu tham khảo.










13







Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH

1.1 Hoạt động xét xử các vụ án hành chính ở Việt nam - một tất
yếu lịch sử.
Mong muốn xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, tự do, bác ái
thể hiện sự khao khát về một xã hội tốt đẹp của con người là mục tiêu, động
lực của người dân lao động chân chính trong suốt chặng đường lịch sử hình
thành, tồn tại và phát triển của nhà nước và pháp luật.
Con người và quyền con người là những giá trị cao quý nhất, là mục
tiêu của các cuộc cách mạng và những tư tưởng tiến bộ vì con người. Cùng
với việc đấu tranh đòi quyền con người thì bảo vệ quyền con người đã đạt
được cũng là những nhiệm vụ to lớn của xã hội tiến bộ. Đó là những dấu hiệu
đặc trưng thể hiện bản chất của các nhà nước tiến bộ. Do vậy, "sự không hiểu
biết, sự lãng quên hay coi thường quyền con người, là những nguyên nhân
duy nhất của những nỗi bất hạnh chung của tệ hủ bại của các chính phủ".[40,
tr.13]
Các tư tưởng về quyền con người, bảo vệ quyền con người được hình
thành từ rất sớm trong lịch sử phát triển của loài người. Các quyền tự nhiên là
tài sản của tất cả mọi người và ở mọi thời đại. Thời kỳ cổ đại, thị dân ở một

số thành phố Ai Cập đã được có các quyền như quyền tự do ngôn luận, quyền


14
bình đẳng của tất cả mọi người trước pháp luật. Những quyền này ngày nay
được gọi là các quyền cơ bản của con người. Montesquieu lập luận "quyền"
đồng nhất với "tự do", đồng nhất ý niệm "quyền của nhân dân" với "tự do của
nhân dân". Ông cho rằng "Trong một nước có luật pháp, tự do chỉ có thể được
làm những cái nên làm và không bị ép buộc điều không nên làm" và “tự do”
là quyền được làm tất cả những gì luật cho phép"[30, tr.105]. Từ quan niệm
chung về quyền, về tự do như vậy, Montesquieu đã đưa ra khái niệm tự do
của người công dân và sự cần thiết bảo đảm cho tự do là "Tự do, với ý nghĩa
triết học là thực hiện ý chí của mình, hoặc ít ra là được nói lên quan niệm về
thực hiện ý chí ấy”. “Tự do chính trị bao hàm trong sự an ninh, hoặc ít ra
quan niệm về sự an ninh" [ 30, tr.127]. Do vậy, “khi người công dân vô tội
không được đảm bảo an ninh thì không còn tự do nữa”. [30, tr.128]
Các tư tưởng về quyền con người ngày càng được hoàn thiện và được
long trọng ghi nhận trong các bản tuyên ngôn, Hiến pháp của các Quốc gia
trên thế giới: "Tuyên ngôn độc lập Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (1776); Tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp (1789); Tuyên ngôn độc lập của
nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà (1945); Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền
(1948) và Tuyên bố về nhân quyền Teheran (1968).
Quyền con người là giá trị nhân văn cao quý mà phải trải qua đấu tranh
cách mạng lâu dài mới có thể đạt được, đó là tài sản chung vô giá của nhân
loại và mỗi quốc gia. Do vậy, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân là nhiệm vụ chung của xã hội, quốc gia, nhà nước hiện đại và tiến bộ.
Nội dung tiến bộ, mang tính nhân văn sâu sắc trên đã trở thành một
trong những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền.
Bảo vệ quyền con người, bảo đảm cho các quyền đó được thực hiện,
được tôn trọng không chỉ là việc nhà nước xây dựng các thiết chế để xử lý các



15
vi phạm pháp luật xâm phạm đến quyền con người của cá nhân, tổ chức trong
xã hội mà còn bao hàm cả việc xem xét đánh giá tính hợp pháp của các hành
vi, quyết định của các thể chế nhà nước.
Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân luôn giữ một vị trí quan trọng
trong chế định quyền lợi cơ bản của công dân, được nhìn nhận như là một
trong cơ sở, biểu hiện để thực hiện hoá quyền và nghĩa vụ khác của công dân.
Mở rộng và bảo đảm quyền, khiếu nại của công dân chính là mở rộng và củng
cố các điều kiện cần thiết, bảo đảm cho công dân thực hiện trọn vẹn quyền và
nghĩa vụ của mình trong đời sống xã hội. Đó là sự phản ánh một cách khách
quan, đầy đủ và hiện thực về một nền dân chủ. Theo cách hiểu khác, đây
chính là thước đo giá trị nền dân chủ của nhà nước. Công dân thực hiện quyền
khiếu nại, tố cáo trong đời sống chính trị là một trong biểu hiện cụ thể của dân
chủ trực tiếp, thông qua đó nhân dân trực tiếp giám sát và tham gia vào hoạt
động quản lý của Bộ máy nhà nước.
Thông qua quyền khiếu nại, tố cáo công dân có thể bảo vệ những quyền
và lợi ích hợp pháp của mình khỏi bị xâm hại với các hành vi quản lý trái
pháp luật. Quyền khiếu nại, tố cáo là quyền rất quan trọng, nó là phương tiện
đấu tranh bảo đảm cho các quyền khác của công dân được thực hiện không có
quyền khiếu nại, không có quyền tố cáo thì quyền khác cứ thế trở thành vô
nghĩa.
Đồng thời với việc ghi nhận về mặt pháp lý, quyền khiếu nại, tố cáo
của công dân cũng cần phải có hệ thống các bảo đảm cần thiết để các quyền
này có thể hiện thực hoá trong cuộc sống là những nội dung quan trọng của
quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội nói chung và dân chủ xã hội chủ nghĩa
nói riêng.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì quyền công dân không
thể cao hơn thực trạng kinh tế và trình độ văn minh xã hội. Vì vậy, khi xem



16
xét về quyền khiếu nại của công dân nhất thiết phải xem xét trong mối quan
hệ với hạ tầng cơ sở của nhà nước đó. Một nền kinh tế phát triển sẽ làm triệt
tiêu những nguyên nhân dẫn đến vi phạm - lý do để công dân khiếu nại, tố
cáo. Mặt khác, nền kinh tế đó sẽ tạo ra điều kiện cần và đủ để thành lập cơ
chế, thủ tục, bộ máy, trang thiết bị vật chất để xem xét một cách triệt để đối
với mọi khiếu nại, tố cáo của công dân.
Nhà nước dân chủ và công dân của một xã hội công dân có mối quan
hệ biện chứng, nhân dân là nguồn gốc của mọi quyền lực, lợi ích và ý chí của
nhân dân là tối cao, Nhà nước là tổ chức quyền lực từ nhân dân mà ra, đại
diện cho lợi ích và ý chí của nhân dân. Dân tổ chức ra Nhà nước để Nhà nước
cai trị dân, Nhà nước cai trị dân nhưng lại bị nhân dân giám sát. Giữa nhà
nước và pháp quyền cũng có mối quan hệ biện chứng. Nhà nước tất yếu mang
tính pháp quyền, là hiện thân của pháp quyền. Một nhà nước là Nhà nước
pháp quyền chỉ khi nào nhà nước đó tự đặt dưới hiến pháp và hoạt động theo
pháp luật. Vì quản lý xã hội bằng pháp luật, cho nên nhà nước là chủ thể, vừa
là đối tượng của pháp luật. Một nhà nước như vậy chỉ có thể là một nhà nước
dân chủ. Để xây dựng một xã hội công dân, một nhà nước dân chủ một Nhà
nước pháp quyền nhất thiết phải có yếu tố quyền của công dân đối với nhà
nước xét dưới góc độ pháp luật.
Đứng trong mối quan hệ về hạn chế quyền lực nhà nước, tư pháp được
đặt vào vị trí độc nhất để hỗ trợ cho sự phát triển lâu bền bằng cách giữ cho
các nhánh quyền lực phải chịu trách nhiệm về những hoạt động của họ.
Montesquieu cho rằng " Cũng không có gì là tự do nếu quyền tư pháp
không tách khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền tư pháp
nhập lại với quyền lập pháp thì người ta sẽ độc đoán đối với quyền sống và
quyền tự do của công dân, quan toà sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư



17
pháp nhập lại với quyền hành pháp thì ông quan toà có sức mạnh của kẻ đàn
áp”. [30, tr.106].
Trong Nhà nước pháp quyền đòi hỏi đầu tiên đối với cơ chế phân
quyền của các cơ quan nhà nước phải đảm bảo Quốc hội có quyền lập pháp,
Chính phủ có quyền hành pháp. Quốc hội và Chính phủ phải hoạt động trong
phạm vi khuôn khổ của Hiến pháp. “Vấn đề đặt ra là phải có sự kiểm tra,
giám sát việc tuân thủ Hiến pháp của cơ quan hành pháp” [32, tr.622]. Trong
việc kiểm soát tính hợp pháp của hành pháp ban đầu người ta giao cho ngành
lập pháp. "Song chẳng bao lâu sau đó người ta phát hiện ra rằng ngành tư
pháp có thể thực hiện có thể thực hiện nhiệm vụ này tốt hơn nhiều [32,
tr.126]. Ngày nay, Nhà nước pháp quyền không còn đặc trưng ở chức năng
lập pháp như trước, mà ở sự phát triển các thủ tục pháp lý nhằm bảo vệ pháp
luật trước sự tuỳ tiện của lập pháp và hành pháp. Theo A.Bleckmann - GS.
luật công của Đại học tổng hợp Tubingen - Cộng hoà liên bang Đức thì: Toà
án là công cụ đặc thù của Nhà nước pháp quyền, được sử dụng để bảo vệ lợi
ích chung. Trong hoạt động của cơ quan tư pháp, nguyên tắc dân chủ được coi
trọng. Theo ông, điều đó có nghĩa là, nếu như trong quá trình dân chủ thấy rõ
không có sự đánh giá công bằng về các lợi ích của cá nhân được bảo vệ bằng
các quyền cơ bản về giai cấp và xã hội thì Thẩm phán cần phải tuân thủ
nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền cho dù điều đó trái với ý chí chính trị
của đa số. [49, tr.64]
Để có một sự phán xử vô tư công bằng, Toà án trước hết phải độc lập ở
mọi phương diện. Trong tất cả các yếu tố khiến cho tư pháp có thể duy trì
được tính độc lập và tính cương quyết của mình, nhiệm kỳ thuận tiện cho các
Thẩm phán là một yếu tố quan trọng, và chúng ta có thể coi yếu tố đó là một
trong những thành trì bảo vệ công lý và an ninh cho công chúng. [32, tr.217].
Chính những hoạt động độc lập chỉ tuân theo pháp luật của các Thẩm phán



18
nhằm mục đích bảo đảm quyền con người của mọi công dân, quyền bình đẳng
của con người trước pháp luật. Trong hoạt động xét xử của mình, các Thẩm
phán phải tuân theo các nguyên tắc nhất định được gọi là nguyên tắc xét xử.
Sự tuân thủ quy tắc xét xử cũng là nhằm để bảo vệ quyền con người của công
dân, tránh mọi sự lợi dụng quyền lực của chính các Thẩm phán cũng như để
cho chính các Thẩm phán tránh được mọi áp lực từ phía các cơ quan chức
năng của nhà nước.
Định chế Toà án là một cơ cấu đặc biệt trong hệ thống các cơ quan nhà
nước. Đó vừa là cơ quan được hưởng quy chế phân quyền, vừa có tính độc lập
tương đối so với cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp. Tính độc lập xuất
phát từ nhu cầu thực hiện chức năng xét xử trong Nhà nước pháp quyền. Tuỳ
thuộc nhiều vào niềm tin của người dân vào hệ thống tư pháp, định chế Toà
án cung cấp cho xã hội một phương pháp xác định sự thật và sự công bằng
trong các hành động của nhà nước. Chỉ có Toà án mới có quyền chính thức
phán quyết sự hợp pháp của những hoạt động của các cơ quan thực hiện chức
năng hành pháp và lập pháp. Việc quyết định cho tư pháp có quyền xét xử lại
hành vi, quyết định của chính bộ phận các cơ quan nhà nước là bước tiến vượt
bậc của dân chủ và văn minh nhân loại.
Toà án xét xử tranh chấp hành chính giữa cá nhân, tổ chức với người có
thẩm quyền, cơ quan nhà nước được gọi là tư pháp hành chính. Đó là loại thủ
tục phức tạp nhưng có khả năng bảo đảm pháp chế, bảo đảm dân chủ cao hơn
so với các hình thức khác. Đây cũng được coi là một trong những đặc trưng
cơ bản của Nhà nước pháp quyền. Tính pháp lý phức tạp thể hiện ở chỗ phải
do cơ quan lập pháp đặt ra quy định những việc mà Toà án phải thực hiện có
tích chất pháp lý chặt chẽ. Chỉ có cơ quan lập pháp mới có quyền bãi bỏ, sửa
đổi những quy định thủ tục trên. Tính phức tạp của thủ tục pháp lý được đặt
ra là nhằm buộc Toà án khi xét xử tranh chấp hành chính phải tuân theo



19
nhằm khắc phục hạn chế của hoạt động giải quyết khiếu nại theo cấp hành
chính - hoạt động mang tích chất của một hoạt động quản lý với một trình tự
gần như thủ tục hành chính, trong đó chứa đựng tính bất bình đẳng giữa người
khiếu nại và người bị khiếu nại trong quá trình giải quyết vụ việc, thể hiện sự
áp đặt đơn phương một chiều ngay trong các quyết định giải quyết khiếu nại.
Thủ tục pháp lý chặt chẽ và phức tạp này được gọi là trình tự tố tụng tại Toà
án. Tính chặt chẽ và phức tạp của trình tự tố tụng đảm bảo sự cân bằng và
bình đẳng giữa các công dân và các cơ quan hành chính nhà nước trong quá
trình giải quyết vụ kiện, bảo đảm cho các bên có thể đưa ra tất cả những
chứng cứ, lý lẽ mà họ cho là cần thiết, phản bác lại lý lẽ của bên kia để bảo vệ
cho các yêu cầu đòi hỏi của mình. Mặt khác, thực hiện trình tự tố tụng này
cũng tạo ra một quá trình nghiên cứu xem xét kỹ lưỡng, khẩn trương nhưng
hết sức thận trọng của Toà án nhằm đưa ra được các bản án, quyết định đúng
đắn và có tính thuyết phục cao. Thủ tục tố tụng chính là cơ sở tạo ra các điều
kiện đảm bảo tính hiệu quả cho hoạt động xét xử của Toà án đồng thời là sự
bảo đảm quan trọng về mặt thực tiễn cho mục đích và ý nghĩa của sự hiện hữu
hệ thống Toà án hành chính. Với cách lập luận như vậy, có thể khẳng định
chắc rằng giải quyết khiếu nại của cá nhân tổ chức theo con đường Toà án là
cách thức bảo đảm pháp chế ở mức độ cao nhất, có khả năng bảo vệ cao nhất
quyền cá nhân, tổ chức. Nó là cách thức giải quyết khiếu nại, tố cáo cao hơn
cách thức giải quyết khiếu nại theo con đường hành chính nhà nước.
Quan niệm không có bất cứ hành vi xâm phạm đến quyền con người
không bị xem xét thể hiện một sự phát triển vượt bậc trong tư tưởng về quyền
và bảo vệ quyền con người.
Với những luận điểm tiến bộ đó, ở các nước Tư bản chủ nghĩa, hệ
thống Toà án được hình thành, vận động phần nào đã đáp ứng với đòi hỏi về
bảo đảm, bảo vệ quyền con người.



20
Kế thừa và phát triển các giá trị tư tưởng của loài người về tự do, về
nhân quyền, về vai trò của Nhà nước trong đó Toà án là một thiết chế quan
trọng, tiêu biểu về bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền tự do, quyền tài
sản của công dân, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã xác định vị
trí trung tâm của con người, coi con người vừa là mục đích vừa là trung tâm
của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sứ mệnh vinh quang và cao cả của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa là giải phóng con người khỏi chế độ người bóc lột
người, xây dựng một xã hội con người vì con người, bình đẳng, bác ái. Tự do
của mỗi người là điều kiện cho tự do của xã hội.
Trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản, Mác-Ăngen chỉ rõ "Thay cho xã hội
tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một
liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người sẽ là điều kiện cho sự
phát triển tự do của tất cả mọi người" [44, tr.628].
Lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật xã hội chủ
nghĩa cũng luôn đề cao giá trị tự do, bình đẳng, các giá trị cao quý về quyền
con người, lấy quyền con người, tự do, bình đẳng là mục đích phục vụ của
nhà nước xã hội chủ nghĩa. Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, nhà nước là kết quả
tự tổ chức lấy của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Vì vậy, quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân, của nhân dân và vì nhân
dân. Quyền lực đó phải tập trung, thống nhất và không phân chia. Đây là
nguyên tắc cơ bản, định hướng chủ yếu cho tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình hoạt động của mình, các cơ quan nhà nước phải tuân
thủ các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa.


21

Mục đích tối cao của sự tồn tại và phát triển của Nhà nước XHCN, nhà
nước của dân, do dân, vì dân là nhằm xây dựng một xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Để thực hiện được mục tiêu đó, một trong những biện pháp cơ
bản là thực hiện chế độ giám sát, kiểm tra các hoạt động của các cơ quan
quyền lực nhà nước dưới nhiều hình thức khác nhau như chất vấn, khiếu nại,
tố cáo của công dân đối với các cơ quan nhà nước, tổ chức hệ thống cơ quan
kiểm tra bên trong bộ máy nhà nước. Đặc biệt trong hệ thống cơ quan hành
chính, hệ thống kiểm tra giám sát lại càng đặc biệt được quan tâm.
Trong bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa, quyền tư pháp - quyền xét xử
được giao cho Toà án. Theo Lênin, Toà án là cơ quan quyền lực nhà nước,
hoạt động của Toà án là một hoạt động của nhà nước. Toà án sử dụng quyền
lực nhà nước để thực hiện chức năng xét xử. Toà án là giải pháp phán xử
tranh chấp một cách hoà bình trong đó có sự kiện được phân tích kỹ lưỡng và
việc tự biện hộ cho mình cũng được xem xét và cân nhắc. Đây là một nhiệm
vụ quan trọng có tác dụng thiết lập nên trật tự lâu dài.
Cũng như các chế độ chính trị khác đã đang tồn tại trong lịch sử, trong
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam cũng không tránh khỏi các
hiện tượng vi phạm pháp luật của nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội,
không ngoại trừ cơ quan nhà nước. Xu hướng sự lạm quyền của các cơ quan
nhà nước cũng là một trong những biểu hiện của vi phạm pháp luật. Sự lạm
quyền biểu hiện ở nhiều mặt khác nhau trong hoạt động thực hiện chức năng
nhà nước, diễn ra mang tính phổ biến, dưới các dạng hình thức khác nhau như
ban hành văn bản quy phạm pháp luật, thi hành pháp luật, bảo vệ pháp luật
Vì vậy, cũng phải có những cơ chế cần thiết để bảo vệ quyền con người,
quyền công dân trong chế độ XHCN.
Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhà nước của dân, do
dân vì nhân dân thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi mọi


22

cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước phải tuân thủ pháp luật. Mọi hành vi vi
phạm pháp luật phải được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh. Đảng và
Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế chính sách để xây dựng thực hiện, đảm
bảo nguyên tắc này nhằm xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Cơ chế
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân là một thiết chế có tính riêng biệt tạo
điều kiện cho nhân dân phát huy quyền làm chủ tập thể của mình, phát huy
tính dân chủ XHCN trong đời sống xã hội. Đây là một cơ chế quan trọng để
người dân thực hiện việc kiểm tra đối với tính đúng đắn hoạt động của các cơ
quan nhà nước, là cơ sở để cho các cơ quan nhà nước nhìn nhận và phát hiện
ra các khiếm khuyết trong hoạt động quản lý của mình để từ đó có điêù kiện
khắc phục.
Từ khi thành lập Nước Việt nam dân chủ cộng hoà, nay là nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp
luật quy định được quy định về khiếu nại, tố cáo của nhân dân để đáp ứng với
đòi hỏi thực tiễn.
Về mặt hình thức, các quy định pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo
đã tạo ra một cơ chế có ý nghĩa hết sức quan trọng và tích cực trong việc bảo
đảm dân chủ, quyền công dân, kiểm tra giám sát của công dân đối với cơ quan
nhà nước, giữa các cấp, các ngành trong bộ máy nhà nước.
Tuy nhiên, bên cạnh tính tích cực của cơ chế này, tính hạn chế của nó
đã bộc lộ đó là thủ tục giải quyết còn đơn giản, thiếu bình đẳng về mặt pháp
lý giữa người khiếu nại và người bị khiếu nại, người bị khiếu nại có quyền
giải quyết khiếu nại về mình. Những điểm hạn chế này cũng chính là một
trong những nguyên nhân, lý do của việc xem xét giao chức năng xét xử tranh
chấp hành chính cho Toà án nhân dân.


23
Việt Nam đang trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
như Lênin nói "Dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản", để có một nền dân chủ

như thế, chúng ta cần từng bước cải tạo xã hội về mọi mặt, đổi mới quản lý
đất nước, xây dựng một cơ chế bảo đảm dân chủ thực sự cho mọi công dân.
Xây dựng một Nhà nước pháp quyền của nhân dân, mọi lợi ích trong xã hội
được đảm bảo và bảo vệ bằng pháp luật. Vì vậy, để xây dựng thành công Nhà
nước của dân, do dân và vì dân nhất thiết phải tạo ra cơ chế giải quyết khiếu
nại có tính ưu việt hơn, phù hợp với xu hướng phát triển chung đó là hệ thống
Toà án hành chính.
Quan điểm đặt ra khi xác lập chức năng xét xử các vụ án hành chính là
tạo ra một cơ chế giải quyết hành chính mới bổ sung vào cơ chế giải quyết
khiếu kiện hành chính trong pháp luật khiếu nại, tố cáo làm tăng thêm sự bình
đẳng giữa công dân và các cơ quan nhà nước trước pháp luật. Cơ chế giải
quyết hành chính mới phải có tính ưu việt hơn so với cơ chế giải quyết khiếu
nại hành chính cũ về mặt thủ tục giải quyết ở chỗ người dân được trình bầy,
đối thoại trực tiếp với cơ quan bị khiếu kiện; Người khiếu kiện và Người bị
khiếu kiện quyền bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ pháp lý tạo ra
không khí dân chủ mới trong đời sống xã hội. Người giải quyết tranh chấp
không giữ vai trò "Quan toà - Bộ trưởng". Trên cơ sở thực tiễn của đời sống
xã hội, điều kiện của đất nước trong giai đoạn mới, chuẩn bị những điều kiện
để xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng cộng
sản Việt Nam đã chỉ đạo "Xúc tiến thành lập Toà hành chính trong Toà án
nhân dân, bổ sung thể chế làm căn cứ cho việc xét xử. Xác định mô hình, tổ
chức và thủ tục tố tụng cho phù hợp với đặc điểm của các vụ kiện hành
chính"[2, tr. 243] .
Nhiều văn bản pháp luật quan trọng được ban hành quy định về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn cơ cấu tổ chức, trình tự tố tụng, phạm vi xét xử


24
hành chính cho Toà án nhân dân như luật tổ chức TAND (sửa đổi, bổ sung),
Luật khiếu nại, tố cáo; Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính là cơ

sở pháp lý quan trọng cho việc triển khai thực hiện chức năng xét xử hành
chính tại Toà án nhân dân.
1.2. Khái niệm về hoạt động xét xử các vụ án hành chính
Ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công,
phân nhiệm và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong đó, quyền tư pháp
bao gồm các quyền xét xử của Toà án và những hoạt động của các cơ quan
nhà nước cho phép thành lập, trực tiếp liên quan đến hoạt động xét xử của
Toà án nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, lợi ích của xã hội. Vì vậy, ở nước ta có nhiều cơ quan thực hiện
quyền tư pháp, bao gồm: Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ
quan điều tra tư pháp, tổ chức tư pháp hỗ trợ như tổ chức luật sư, cơ quan
công chứng, giám định tư pháp Trong đó xét xử của Toà án sử dụng công
khai các kết quả của hoạt động điều tra, công tố, bào chữa, giám định tư pháp
thông qua các thủ tục tố tụng theo luật định để đưa ra phán quyết cuối cùng
thể hiện quyền lực nhà nước. Hoạt động xét xử của Toà án nhân dân cũng là
nơi thể hiện chất lượng hoạt động và uy tín của hệ thống các cơ quan tư pháp
nói riêng và toàn bộ quyền lực nhà nước ta nói chung.
Như vậy, hoạt động xét xử là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước,
nhân danh nhà nước, là phương thức cơ bản bảo đảm cho pháp luật được thực
hiện nghiêm chỉnh, pháp chế xã hội chủ nghĩa được thống nhất, được giữ
vững. Hoạt động xét xử của Toà án nhân dân nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, chế độ kinh tế, chế độ chính trị - xã hội, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội
chủ nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của nhà nước, xã
hội, phục vụ cho công cuộc xây dựng xã hội công bằng, văn minh, một cá


25
nhân, tổ chức xử sự với nhau trên cơ sở của pháp luật. Đứng trước thực tiễn
về tình hình giải quyết các vụ án hành chính ở nước ta chưa đáp ứng được với

những công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay;
những vấn đề lý luận về hoạt động xét xử các vụ án hành chính tại Toà án
chưa giải quyết những vấn đề thực tiễn đang nẩy sinh. Vì vậy, việc nghiên
cứu và đưa ra một khái niệm có tính khoa học về hoạt động xét xử các vụ án
hành chính của Toà án có ý nghĩa to lớn trong việc xác định những yếu tố cơ
bản tác động đến hoạt động này. Đồng thời, cũng chỉ ra nhưng nét đặc thù
của hoạt động xét xử các vụ án hành chính nhằm làm rõ hơn các tiêu chí để
phân định giữa giải quyết khiếu kiện hành chính theo thủ tục hành chính và
thủ tục tư pháp.
Trước hết về mặt thuật ngữ, nói đến hoạt động xét xử tức là nói đến
những hành vi có mục đích phán quyết do một chủ thể trong bộ máy nhà nước
thực hiện. Trong các sách báo, các công trình khoa học pháp lý, giáo trình
giảng dậy của các Trường Đại học về khoa học pháp lý cũng có đề cập nhiều
đến nội dung hoạt động xét xử của Toà án nhưng ở dưới các khía cạnh khác
nhau hoặc đặt nó trong tổng thể của một hiện tượng pháp lý khác.
Bàn về hoạt động xét xử của Toà án Platon (427-374 TCN) quan niệm
đơn giản rằng hoạt động xét xử của Toà án là bảo vệ pháp luật.
Xem xét dưới góc độ tính chất của hoạt động này, có quan điểm cho
rằng, hoạt động xét xử các vụ án hành chính của Toà án có sự khác biệt so với
hoạt động ban hành pháp luật, hoạt động quản lý nhà nước ở chỗ đó là quá
trình áp dụng quy phạm pháp luật để giải quyết các tranh chấp giữa cá nhân
với cá nhân, giữa cơ quan, tổ chức với nhau, giữa công dân với cơ quan nhà
nước và với các tổ chức hoặc xét xử các vi phạm pháp luật cụ thể.
Theo GS, TSKH Đào Trí Úc, hệ thống tư pháp là "một hệ thống của
các khâu khác nhau nhưng hoạt động và tổ chức của các khâu đó đều được


26
quyết định bởi mục đích của hoạt động tư pháp, tức là xét xử để có phán
quyết [45, tr.207]. Việc thực hiện thẩm quyền xét xử nói chung và thẩm

quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính nói riêng phải thông qua các hình
thức hoạt động theo quy định của pháp luật. Hình thức hoạt động này gọi là
hoạt động tố tụng của Toà án và đều nằm chung trong hoạt động của hệ thống
tư pháp.
Hoạt động tư pháp được GS.TSKH Đào Trí Úc định nghĩa như sau:
"Hoạt động tư pháp là hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước nhằm xem
xét, đánh giá và ra phán quyến về tính hợp pháp và tính đúng đắn của hành vi
pháp luật hay quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp và mâu thuẫn giữa
các bên có lợi ích khác nhau tranh chấp hay mâu thuẫn đó [45, tr. 206].
Để có hoạt động tư pháp phải có thẩm quyền tư pháp. Thẩm quyền tư
pháp được biểu hiện thông qua tổ chức và hoạt động tư pháp mà mục đích của
nó là xét xử để có phán quyết.
Theo PGS.TS Đinh Văn Mậu thì " quyền tư pháp là quyền tài phán
bằng hoạt động xét xử theo pháp luật tố tụng của Toà án" [45, tr. 110]
Theo TS. Nguyễn Thanh Bình thì "Hoạt động xét xử hành chính phải
tuân theo các quy định của pháp luật tố tụng không phải là pháp luật thủ tục
hành chính [34, tr. 45]. Và “ Hoạt động xét xử là một trong những nội dung
cơ bản của thẩm quyền xét xử hành chính của Toà án [ 34, tr. 44].
Theo những cách đặt vấn đề trên thì hoạt động xét xử các vụ án hành
chính của Toà án có mối liên hệ mật thiết với thẩm quyền xét xử các vụ án
hành chính, các quy định pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động xét xử
hành chính của Toà án. Nó là biểu hiện ra bên ngoài của thẩm quyền tư pháp
và hoạt động tư pháp.
Trong ngôn ngữ Tiếng Việt "hoạt động" là thuật ngữ để chỉ việc tiến
hành những việc làm có quan hệ với nhau chặt chẽ nhằm một mục đích nhất


27
định trong đời sống xã hội. Theo nghĩa thứ hai, đó là thực hiện một chức năng
nhất định nào đó trong một chính thể [50, tr. 452], còn "xét xử" được hiểu là

xem xét và xử các vụ án [50, tr. 1148].
Như vậy, theo cách định nghĩa trên, hoạt động xét xử có thể được hiểu
theo 2 cách.
- Thứ nhất, đó là tiến hành những việc làm có quan hệ với nhau chặt
chẽ nhằm xem xét và xét xử các vụ án.
- Thứ hai, đó là thực hiện chức năng xem xét và xét xử của hoạt động
quyền lực Nhà nước.
Từ những quan điểm xem xét nội hàm của hoạt động xét xử, có thể đưa
ra khái niệm hoạt động xét xử các vụ án hành chính như sau:
Hoạt động xét xử các vụ án hành chính là một khái niệm dùng để chỉ
Toà án nhân danh Nhà nước tiến hành những hoạt động để xem xét và ra
phán quyết về tính hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành
chính bị khiếu kiện theo trình tự, thủ tục (tố tụng) do pháp luật quy định
nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, góp phần nâng
cao hiệu lực hành pháp.
Với khái niệm về hoạt động xét xử các vụ án hành chính như đã nêu
trên thì hoạt động này được hiểu là tổng thể rất nhiều hoạt động khác nhau
nhưng đều nhằm mục đích là thực hiện chức năng xét xử của Toà án. Tuy
nhiên, như đã nêu ở phần phạm vi nghiên cứu đề tài tác giả chỉ đi sâu vào hai
nội dung cơ bản của hoạt động xét xử các vụ án hành chính:
-Thứ nhất, đó là hoạt động xem xét khởi kiện, khởi tố và thụ lý vụ án
hành chính.
-Thứ hai, đó là hoạt động xét xử ( theo nghĩa hẹp là hoạt động ra phán
quyết của Hội đồng xét xử).

×