Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

KINH TE HOC GIAO DUC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.41 KB, 10 trang )

Kinh tế học giáo dục

GVHD: PGS. TS. Lê Đình Sơn
KINH TẾ HỌC GIÁO DỤC

Câu hỏi:
Câu 1. Trình bày nhận thức về các đặc điểm của dịch vụ và thuộc tính của
sản phẩm giáo dục.
Câu 2. Đề xuất chính sách hoặc biện pháp quản lý giáo dục liên quan đến các
nội dung đã trình bày ở câu 1.
Dịch vụ là kết quả của hoạt động sinh ra do tiếp xúc giữa bên cung ứng và
khách hàng và các hoạt động nội bộ bên cung ứng để đáp ứng nhu cầu khách
hàng, là hoạt động lao động mang tính xã hội tạo ra các sản phẩm không mang
tính hình thái vật thể, không dẫn tới việc chuyển quyền sở hữu, nhằm thỏa mãn
kịp thời, thuận lợi, hiệu quả hơn các nhu cầu sản xuất và đời sống xã hội của con
người. Hoạt động dịch vụ có thể tác động trực tiếp hay gián tiếp đến người tiêu
dùng dịch vụ hoặc các tài sản của khách hàng làm tăng giá trị sử dụng và giá trị
tài sản (chẳng hạn như trong sửa chữa thay thế…), là việc thực hiện một, hoặc
một số công đoạn của quá trình đầu tư: từ sản xuất, cung ứng, đến tiêu thụ dịch
vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời.
Các đặc điểm của dịch vụ:

Tính
Tính

vô hình
Tính hay thay đổi

không thể
tách rời
ĐẶC ĐIỂM CỦA


DỊCH VỤ

Khó
Tính tạm thời

lượng giá
Khó đánh giá chất lượng

HV: Huỳnh Thị Thoa − Lớp K38

Trang 1


Kinh tế học giáo dục

GVHD: PGS. TS. Lê Đình Sơn

a) Tính vô hình:
- Dịch vụ là các hoạt động do các doanh nhiệp cung cấp. Khác với các hàng hóa
hữu hình, chúng ta không thể nhìn thấy, nếm thử, cảm nhận, nghe, ngửi mùi
trước khi chúng ta tiêu dùng dịch vụ đó.
- Tính vô hình của các loại dịch vụ không giống nhau. Có nhiều dịch vụ vô hình
gần như chiếm tuyệt đối, trong khi nhiều dịch vụ khác tính vô hình gần như rất
thấp. VD: các dịch vụ giảng dạy, tư vấn... thì tính hữu hình gần như bằng không.
Ngược lại, với các dịch vụ nhà hàng, ăn uống… thì tính hữu hình kèm các sản
phẩm thì rất cao.
- Vì vậy rất khó đánh giá được lợi ích của việc sử dụng trước lúc mua và dẫn tới
việc lựa chọn mua dịch vụ cũng khó khăn hơn. Do đó sự biểu lộ của các yếu tố
vật chất đóng một vai trò quan trọng. Doanh nghiệp cần phải bằng mọi cách tác
động đến người mua để họ nhanh chóng thấy được lợi ích của việc sử dụng dịch

vụ, tiện nghi và chất lượng dịch vụ cũng như sự hợp lí của giá cả dịch vụ .
→Ý nghĩa: Với đặc điểm này của dịch vụ, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ
cần có các cách thức xúc tiến quảng cáo phù hợp để cho khách hàng có thể cảm
nhận tốt nhất, biết đến nhiều nhất và đi đến quyết định sử dụng dịch vụ của
mình.
b) Tính không thể tách rời:
- Dịch vụ thường được tạo ra và tiêu thụ cùng một lúc. Tính chất không tách rời
giữa việc tạo ra sản phẩm dịch vụ với tiêu dùng sản phẩm dịch vụ (hay nói cách
khác là quá trình sản xuất và tiêu dùng dịch vụ xảy ra đồng thời), những người
tiêu dùng sản phẩm dịch vụ cũng tham gia vào hình thành và hoàn thành sản
phẩm dịch vụ. Do đó, người cung cấp dịch vụ phải nhanh nhạy và ứng xử kịp
thời với những góp ý đòi hỏi của người tiêu dùng dịch vụ mới có thể đáp ứng tốt
các yêu cầu cầu khách hàng.
→ Ý nghĩa: Các doanh nghiệp cần có chính sách phân phối để có thể cung ứng
đầy đủ cho nhu cầu của khách hàng. VD: trong dịch vụ cắt tóc, hoạt động cắt tóc
của thợ cắt tóc diễn ra đồng thời với việc được cắt tóc của khách hàng, hai hoạt
HV: Huỳnh Thị Thoa − Lớp K38

Trang 2


Kinh tế học giáo dục

GVHD: PGS. TS. Lê Đình Sơn

động này đi liền với nhau, nếu thiếu một trong hai thì dịch vụ cắt tóc sẽ không
được cung ứng .
c) Tính hay thay đổi:
- Chất lượng dịch trước hết phụ thuộc vào người tạo ra chúng vì những người
tạo ra sản phẩm dịch vụ có khả năng khác nhau và trong những điều kiện môi

trường, hoàn cảnh, trạng thái tâm sinh lí khác nhau có thể dẫn đến chất lượng
không giống nhau, nhất là trong điều kiện không được tiêu chuẩn hóa (máy
móc, tay nghề, công nghệ…), năng lực, thái độ quan tâm, khả năng phản ứng
nhanh nhạy, sáng tạo, thiện ý giải quyết vấn đề. Sau nữa chất lượng dịch vụ
lại phụ thuộc vào sự cảm nhận của khách hàng. Vì vậy, tiêu thụ sản phẩm dịch
vụ cũng nảy sinh nhiều vấn đề khó khăn hơn so với tiêu thị những sản phẩm vật
chất .
→ Ý nghĩa: doanh nghiệp cần nghiên cứu rõ tâm lí khách hàng để làm sao phục
vụ tốt nhất, đồng thời cũng phải tổ chức đội ngũ nhân viên có trình độ và nhạy
cảm nắm bắt được tâm lí khách hàng để phục vụ tốt nhất .
d) Tính tạm thời:
- Không thể dự trữ dịch vụ, trong khi số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ có
thể tăng lên ở thời điểm này nhưng lại giảm mạnh ở thời điểm khác. Các nhà
cung ứng dịch vụ không thể bán tất cả sản phẩm của mình sản xuất ở hiện tại và
lại càng không có cơ hội bán ở tương lai vì không lưu kho được. Ví dụ: dịch vụ
du lịch tăng mạnh vào mùa hè, dịch vụ bán vé máy bay...
→ Ý nghĩa: doanh nghiệp cần tổ chức hệ thống phân phối hợp lí để có thể phục
vụ nhu cầu của khách hàng, tránh tình trạng khi khách hàng cần thì không có,
khi thì có quá nhiều nhà cung cấp, các doanh nghiệp có thể mở rộng lĩnh vực
kinh doanh các ngành có liên quan đến nhau .
e) Khó đánh giá chất lượng:
- Có một số dịch vụ đòi hỏi sự trải nghiệm. VD: bữa ăn ở khách sạn, dịch vụ
thẩm mỹ, vật lí trị liệu,..
- Một số dịch vụ cần sự tin cậy. VD: sửa tivi, chăm sóc trẻ, dịch vụ pháp lí, chẩn
đoán y khoa...
HV: Huỳnh Thị Thoa − Lớp K38

Trang 3



Kinh tế học giáo dục

GVHD: PGS. TS. Lê Đình Sơn

→ Ý nghĩa: doanh nghiệp cần tạo được sự tin cậy và đa dạng hóa dịch vụ trải
nghiệm để thu hút sự quan tâm của khách hàng.
f) Khó lượng giá:
- Đặc điểm khó đánh giá về chất lượng dẫn đến khó lượng giá.
- Giá trị thực của dịch vụ và giá trị cảm nhận của khách hàng trước khi mua dịch
vụ là hai vấn đề khác nhau, nhiều khi chỉ kiểm tra được sự phù hợp sau khi mua.
* Đánh giá chung:
Sự tồn tại của dịch vụ khó khăn hơn so với hàng hóa, hay đúng hơn sản
phẩm dịch vụ không thể cất giữ trong kho để khi cần thiết sẽ xuất ra dùng, dẫn
tới chi phí dịch vụ có thể rất cao vì trong khi người cung cấp dịch vụ đã sẵn sàng
thì lại không có khách hàng mua hàng hóa dịch vụ và người cung cấp vẫn phải
chịu những chi phí cố định đôi khi khá cao. Điều đó giải thích vì sao giá cả của
một số loại dịch vụ mà khách hàng theo thời vụ hoặc không thường xuyên khá
cao như khách sạn hay những bệnh viện cho những người có thu nhập cao.
Tính chất vô hình khó xác định chất lượng và tính không không thể tách
rời chịu ảnh hưởng lớn đến đánh giá sản phẩm của người tiêu dùng khi mua. Vì
dịch vụ không biểu hiện như các sản phẩm vật chất nên không thể trưng bày,
không dễ chứng minh hay thể hiện cho người tiêu dùng thấy nên rất khó đánh
giá được chất lượng hay giá cả. Sau nữa, quá trình tạo ra dịch vụ và tiêu dùng
cũng tham gia vào quá trình tạo ra sản phẩm dịch vụ. Điều đó dẫn tới việc tạo ra
giá trị và chất lượng không chỉ do người cung ứng dịch vụ quyết định mà còn
chịu ảnh hưởng của người tiêu dùng dịch vụ. Chất lượng dịch vụ do đó chỉ có
thể đánh giá đầy đủ sau khi tiêu dùng sản phẩm dịch vụ. Song việc mua sản
phẩm dịch vụ lại diễn ra trước nên người tiêu dùng dịch vụ thường dựa vào các
thông tin về sản phẩm dịch vụ của người cung ứng dịch vụ, vào thâm niên tiếng
tăm của người cung ứng, những mặt hữu hình và kinh nghiệm của bản thân

trong tiêu dùng sản phẩm dịch vụ.
Các thuộc tính của sản phẩm giáo dục:
a) Thuộc tính hình thái ý thức xã hội: sản phẩm giáo dục trong quá trình đào tạo
không có thuộc tính hàng hóa. Nhấn mạnh hoạt động giáo dục có tính chất sản
HV: Huỳnh Thị Thoa − Lớp K38

Trang 4


Kinh tế học giáo dục

GVHD: PGS. TS. Lê Đình Sơn

phẩm và tính chất xã hội, tác động của sản phẩm giáo dục vào đời sống tinh thần
của xã hội.
b) Sản phẩm giáo dục có thuộc tính hàng hóa khi gia nhập vào thị trường lao
động. Nhấn mạnh cuối cùng thì sản phẩm giáo dục phải được sử dụng vào thị
trường lao động trực tiếp hay gián tiếp, nó bị chi phối và bị điều tiết bởi quy luật
giá trị.
Hai thuộc tính này tồn tại như các mặt đối lập, thể hiện những mâu thuẫn cần
tính đến trong tổ chức hoạt động giáo dục.
- Thuộc tính hình thái ý thức xã hội yêu cầu hoạt động giáo dục phải phục vụ
cho các mục tiêu chính trị - xã hội, thuộc tính hàng hóa yêu cầu giáo dục phải
chú ý đến hiệu ứng của thị trường, đặc biệt thị trường sức lao động.
- Sự thống nhất (dung hòa) giữa các mặt đối lập đòi hỏi tổ chức quá trình đào tạo
và đưa sản phẩm đào tạo vào thực tiễn phải đảm bảo sự thống nhất giữa hiệu
ứng xã hội và hiệu quả kinh tế thực chứng, phản đối khuynh hướng giáo dục
hoàn toàn là phúc lợi, đồng thời cũng phản đối hoàn toàn khuynh hướng giáo
dục hoàn toàn là hàng hóa.
- Khi xử lí hai loại thuộc tính này cần phải đặt thuộc tính hình thái ý thức xã hội

lên hàng đầu, sau đó mới xem xét thuộc tính hàng hóa của nó.
- Khi nghiên cứu sản phẩm giáo dục, cần lưu ý các đặc điểm sau:
+ Sản phẩm giáo dục không bị hạn chế bởi thời gian, không gian, có thể truyên
bá rộng khắp vô hạn.
+ Xét trên bình diện xã hội, sản phẩm có tính công hữu, mọi người đều được thụ
hưởng.
+ Sản phẩm giáo dục được lưu truyền lâu dài, không bị hao mòn qua tiêu dùng.
+ Sản phẩm giáo dục có thể gia tăng giá trị nhờ hoạt động của chủ thể, nhưng cũng
có thể bị hao mòn vô hình dưới ảnh hưởng của tiến bộ công nghệ (bị lạc hậu).
Giáo dục trước hết là một dịch vụ, sản phẩm được tạo ra là những con
người hoàn toàn có thể chủ động tham gia vào quá trình đào tạo, chính bản thân
họ là những tác nhân ảnh hưởng mạnh mẽ trên sự điều tiết của thị trường giáo
dục. Hơn nữa, giáo dục có những sứ mệnh và lý tưởng cao xa hơn thị trường
HV: Huỳnh Thị Thoa − Lớp K38

Trang 5


Kinh tế học giáo dục

GVHD: PGS. TS. Lê Đình Sơn

kinh tế, chẳng hạn như vai trò của giáo dục trong việc đào tạo các công dân tự
do, hay cuộc chiến của trường học với sự bất bình đẳng xã hội,.. Vì những điều
như vậy, chúng ta không thể sử dụng cùng những logic trong việc trao đổi hàng
hóa trên thị trường kinh tế để bàn luận về giáo dục. Gọi là thị trường vì trong
giáo dục có các tác nhân khác nhau, có cung và cầu, có sự cạnh tranh, có sự lựa
chọn, có cơ chế điều tiết vv. Những điều này đều thấy trong đa số các nền giáo
dục, tuy mức độ, hình thức, tính logic và cả cách hiểu về chúng có thể khác nhau
trong các quốc gia. Ở đây nếu có dính dáng tới kinh tế, thì thị trường giáo dục

cũng được vận hành theo nguyên tắc “bàn tay vô hình” trong lý thuyết cổ điển
của Adam Smith ở chỗ, thị trường tự điều chỉnh trên nguyên tắc có lợi cho mỗi
bên tác nhân tham gia và vì lợi ích của tất cả.
Có thể coi giáo dục là một lĩnh vực dịch vụ đặc biệt (có thể gọi là dịch vụ
có bù đắp hoặc dịch vụ không vụ lợi). Nói một cách chung nhất, thị trường trong
giáo dục - đào tạo là nơi diễn ra quan hệ cung - cầu về sản phẩm của giáo dục đào tạo. Thực chất, đó là mối quan hệ giữa những kiến thức, kỹ năng mà người
học tích luỹ được trong trường học với nhu cầu của thị trường lao động, là sự
gắn ký giữa đào tạo và sử dụng nhân lực trong thị trường sức lao động. Sản
phẩm của giáo dục - đào tạo: trong phạm vi ngành giáo dục - đào tạo (ở mọi cấp
học, bậc học trong hệ thống giáo dục) đều có sản phẩm riêng, có thị trường
khách hàng riêng. Sản phẩm của giáo dục đào tạo là một loại sản phẩm đặc biệt:
đó là nhân cách con người để từ đó tạo ra mọi giá trị cho xã hội. Mặc dầu giáo
dục được coi là lĩnh vực “dịch vụ có bù đắp” song không thể lấy lợi nhuận làm
động lực, hơn nữa, thực hiện khoán với các trường học có thể gây nên tình trạng
chạy đua theo chỉ tiêu lên lớp mà khó kiểm soát chất lượng. Không được xem
xét sản phẩm của giáo dục như các sản phẩm vật chất thuần tuý dẫn đến thương
mại hoá trong giáo dục. Nói tóm lại, “thị trường” là một khái niệm của kinh tế,
nhưng chúng ta có thể “xã hội học hóa” nó để biến thành một khái niệm công cụ
nhằm lý giải và so sánh các nền giáo dục khác nhau 1. Trong ý nghĩa này, giáo
dục Việt Nam cũng là một thị trường, bởi ít nhiều cũng có các yếu tố đã nói,
nhưng là một thị trường không giống ai, và có lẽ vì thế mà chất lượng giáo dục
HV: Huỳnh Thị Thoa − Lớp K38

Trang 6


Kinh tế học giáo dục

GVHD: PGS. TS. Lê Đình Sơn


cũng khác xa với thiên hạ. Ở đây tôi xin bàn về vai trò một số tác nhân chính
trong thị trường này, đó là Nhà nước, nhà trường, người học và phụ huynh.
Khách hàng của giáo dục - đào tạo: có thể chỉ ra 2 loại “khách hàng” của
giáo dục - đào tạo:
+ Thứ nhất, đối với các trường công lập, nhà trường phải thực hiện được các
“đơn đặt hàng” của nhà nước mà đại diện là ngành giáo dục - đào tạo, nhà
trường phổ thông phải đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng theo đúng yêu cầu về
chất lượng đào tạo do Bộ Giáo dục - đào tạo quy định. Thực chất, các trường
phải thực hiện mục tiêu kép: tạo ra các “sản phẩm” có kiến thức kỹ năng lao
động với mục tiêu hướng vào thị trường lao động trực tiếp (bộ phận chủ yếu) là
một bộ phận tiếp tục học lên đại học, cao đẳng.
+ Thứ hai, đối với các trường dân lập, tư thục, nhà trường phải thực hiện theo
yêu cầu của cha mẹ học sinh, song mặt khác vẫn phải đảm bảo các tiêu chuẩn
chất lượng của hệ thống giáo dục theo quy định của Bộ Giáo dục - đào tạo.
Do vậy, trong giáo dục - đào tạo, nhà quản lí cần lấy Marketing làm chức
năng liên kết toàn bộ các hoạt động của nhà trường (quản lý nhân sự, quản lý
chương trình, quản lý tài chính, CSVC) với “khách hàng” sao cho đạt hiệu quả
đào tạo cao nhất. Từ khâu nghiên cứu người học nhu cầu của thị trường, nhu cấu
của xã hội đến khâu đề ra ý niệm của sản phẩm, tổ chức tạo ra đích thực các sản
phẩm đó, đến khâu cung ứng các sản phẩm ra thị trường, xã hội va các dịch vụ
sau cung ứng. Trong tất cả các khâu của hoạt động marketing, người quản lý
ngành giáo dục - đào tạo luôn phải vận dụng tư tưởng marketing- tư tưởng hiệu
quả cao nhất trên cơ sở thoả mãn nhu cầu của khách hàng, lấy khách hàng làm
trung tâm làm phương châm và mục tiêu hoạt động của mình.
Bên cạnh đó, cần đầu tư cho giáo dục, ngân sách quốc gia, các nguồn tài
chính, nhân lực, cở sở vật chất – thiết bị dành cho giáo dục:
+ Quan niệm đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, đầu tư cho cơ
sở hạ tầng;
+ Ưu tiên hơn nữa là sự đầu tư tài chính cho sự phát triển giáo dục (tăng
ngân sách hằng năm, chính sách huy động các nguồn lực);

HV: Huỳnh Thị Thoa − Lớp K38

Trang 7


Kinh tế học giáo dục

GVHD: PGS. TS. Lê Đình Sơn

+ Đầu tư xây dựng các hệ thống thư viện, phòng thí nghiệm, giáo trình, tài
liệu học tập, phương tiện thông tin hiện đại, đáp ứng nhu cầu dạy và học;
+ Đảm bảo đủ số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán
bộ quản lý;
+ Đảm bảo điều kiện sống và làm việc của giáo viên, nhà giáo dục;
+ Đảm bảo các điều kiện thuận lợi tiếp cận giáo dục của mọi người;
+ Đầu tư cải thiện hạ tầng môi trường giáo dục trong các nhà trường.
Cần thiết phải tăng cường đầu tư, đổi mới cơ chế tài chính giáo dục đại
học, các trường tự xác định mức học phí tương xứng với chất lượng đào tạo; ưu
tiên đầu tư ngân sách để phát triển một số cơ sở giáo dục đại học, ngành đào tạo
mang tầm khu vực, quốc tế và cơ sở đào tạo giáo viên chất lượng cao; phát triển
một số ngành, vùng đặc thù để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; có cơ chế
phân bổ nguồn lực cho giáo dục đại học theo nguyên tắc cạnh tranh, bình đẳng,
hiệu quả…
Mục tiêu giáo dục của ta hiện nay là “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài”. Muốn thực hiện được mục tiêu giáo dục đề ra chúng ta cần
tích cực thực hiện các biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục:
+ Tăng cường nguồn lực cho giáo dục đào tạo: Ngoài ngân sách nhà nước hiện
nay chúng ta đang huy động các nguồn lực ngoài ngân sách, xã hội hoá giaó dục
để tăng nguồn lực cho giáo dục đào tạo. Hiện nay có nhiều nước trên thế giới coi
giáo dục là một ngành kinh doanh, kinh doanh công nghệ dạy học, chúng ta nên

tạo điều kiện kêu gọi họ tham gia xây dựng cơ sở vật chất và nội dung chương
trình giáo dục cho ta. Ngoài ra ta nên có chủ trương cho các trường chuyên
nghiệp, dạy nghề lập cơ sở sản xuất và dịch vụ khoa học đúng với ngành nghề
đào tạo.
+ “Chính sách tăng lương giáo viên”: Hiện nay, với thang bảng lương đang áp
dụng, ngành GD thật khó để thu hút được đội ngũ giáo viên giỏi. Khi ra trường
một sinh viên học về kỹ thuật, hay thương mại, kinh tế nếu làm cho một doanh
nghiệp tư nhân trong nước cũng có thể có mức lương khởi điểm từ 3 – 4 triệu
HV: Huỳnh Thị Thoa − Lớp K38

Trang 8


Kinh tế học giáo dục

GVHD: PGS. TS. Lê Đình Sơn

đồng/tháng, và may mắn hơn nếu được làm cho các tổng công ty, tập đoàn lớn
hay các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì mỗi tháng bình quân có thể
thu nhập từ 6 – 10 triệu đồng, thậm chí hơn nữa. Với mức lương tháng đó, nhìn
vào thang bảng lương giáo dục, người thầy không khỏi chạnh lòng.
+ Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục: Từng bước đổi mới nội
dung sách giáo khoa, loại bỏ những kiến thức không thiết thực, bổ sung những
nội dung cần thiết theo hướng bảo đảm kiến thức cơ bản, cập nhật những tiến bộ
khoa học, công nghệ, tăng nội dung công nghệ ứng dụng, tăng cường giáo dục
kỹ thuật tổng hợp và năng lực thực hành.
+ Tăng cường cơ sở vật chất cho các trường học, đưa Tin học vào quản lý và đổi
mới phương pháp: Thay thế, bổ sung cơ sở vật chất và thiết bị cho các trường
phổ thông, trường dạy nghề, trường đại học. Tích cực đưa Tin học vào giảng
dạy, thay đổi phương pháp dạy học theo hướng tích cực. Hiện nay trên thế giới

đang thực hiện những phương tiện dạy học hiện đại như: học với máy tính, với
đèn chiếu overhead, với giáo án điện tử …… Chúng ta từng bước tiếp cận, nhân
rộng, từng bước đưa vào sử dụng để thay đổi phương pháp dạy học.
+ Đổi mới công tác quản lý giáo dục: Xây dựng quan hệ chặt chẽ giữa cơ quan
quản lý nhà nước về giáo dục – đào tạo với cơ quan quản lý nhân lực và việc
làm. Hiện nay ngành giáo dục đang lệ thuộc nhiều vào các lực lượng khác ngoài
ngành, ví dụ tỉ lệ tốt nghiệp, tỉ lệ lên lớp, lưu ban …. “bệnh thành tích” đang làm
cho ngành mất đi tính độc lập, chủ động, thậm chí quản lý nhân sự ở các ngành
học phổ thông cũng không phải thuộc ngành giáo dục quản lý. Nên có định
hướng quản lý ngành giáo dục theo ngành dọc toàn bộ, độc lập chỉ đạo về
chuyên môn, nhân sự , ngân sách, thanh tra kiểm tra, kể cả xây dựng cơ bản, cơ
sở vật chất thì ngành mới chủ động thay đổi phương pháp giáo dục .
+ Xây dựng đội ngũ giáo viên, tạo động lực cho người dạy, người học: Nguồn
lực đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là vốn quý nhất, là động lực, là
nhân tố đảm bảo cho lợi thế giáo dục nước ta phát triển và cạnh tranh được với
các nền giáo dục tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Nhà giáo và cán bộ
HV: Huỳnh Thị Thoa − Lớp K38

Trang 9


Kinh tế học giáo dục

GVHD: PGS. TS. Lê Đình Sơn

quản lý giáo dục giỏi là chìa khóa, là nhân tố trung tâm cho sự nghiệp giáo dục
phát triển.
Xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong
toàn ngành là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài bởi vì sự nghiệp giáo dục nước ta
luôn phát triển đặt ra yêu cầu và đòi hỏi ngày càng cao về trình độ, chất lượng

chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm của nhà giáo và năng lực lãnh đạo, quản lý của
cán bộ quản lý giáo dục. Trách nhiệm của nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
không chỉ là trách nhiệm với hiện trạng giáo dục nước ta hôm nay mà còn là
trách nhiệm với quá khứ và tương lai. Ngành Giáo dục nước ta phải là nơi thu
hút được những người giỏi nhất, thông minh nhất và yêu nghề nhất để thực sự là
đòn bẩy để nâng con người Việt Nam lên vị trí hàng đầu trong khu vực và trên
thế giới. Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục, phải được xã hội
tôn vinh, vì thế giáo viên có đủ đức, đủ tài. Muốn nâng cao chất lượng dạy và
học trước hết phải nâng cao chất lượng đào tạo của các trường sư phạm. Hiện
nay chúng ta đang thực hiện không thu học phí sinh viên các trường sư phạm,
đào tạo giáo viên gắn với địa chỉ, thực hiện chương trình bồi dưỡng thường
xuyên, chuẩn hoá đội ngũ, xếp lương giáo viên cao và có nhiều chính sách đãi
ngộ đội với giáo viên, nhất là giáo viên ở những vùng khó khăn.

HV: Huỳnh Thị Thoa − Lớp K38

Trang 10



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×