Tải bản đầy đủ (.docx) (99 trang)

ĐÁNH GIÁ tác DỤNG lợi sữa của bài THUỐC “SINH HOÁ THANG” TRÊN sản PHỤ THIẾU sữa SAU SINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (680.73 KB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

HỌC VIỆN Y DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
--------------------------------------------------

VŨ CAO ĐIỀN

§¸NH GI¸ T¸C DôNG LîI S÷A CñA BµI THUèC
“SINH HO¸ THANG” TR£N S¶N PHô THIÕU S÷A
SAU SINH

Chuyên ngành : Y học cổ truyền
Mã số

: 8 720 115

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. Vũ Minh Hoàn
2. TS. Tống Thị Tam Giang

HÀ NỘI – NĂM 2019


LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, tôi đã hoàn thành khóa học và
luận văn tốt nghiệp của mình. Với tất cả tấm lòng, tôi xin được gửi lời cảm ơn
chân thành nhất tới:


Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện YDHCT Việt Nam, Phòng Sau
đại học - Học viện YHCT Việt Nam, Bệnh viện đa khoa YHCT Hà Nội
đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập
và thực hiện đề tài.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Vũ Minh Hoàn, TS. Tống
Thị Tam Giang - hai người thầy đã tận tình hướng dẫn, động viên và chỉ dẫn
cho tôi những kiến thức, phương pháp luận, tư duy khoa học để tôi hoàn thành
đề tài nghiên cứu của mình.
Với tất cả lòng kính trọng, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy trong hội
đồng thông qua đề cương, hội đồng đạo đức, hội đồng chấm luận văn đã đóng
góp nhiều ý kiến quý báu để tôi hoàn chỉnh luận văn.
Cuối cùng, xin ghi tâm những tình cảm, công lao, sự cổ vũ của bạn bè
đồng nghiệp, người thân trong gia đình luôn sát cánh cùng tôi trong quá trình
học tập và hoàn thành luận văn.
Hà Nội, tháng 3 năm 2019

Vũ Cao Điền


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi với sự hướng
dẫn khoa học của tập thể cán bộ hướng dẫn.
Các kết quả nêu trong luận văn là trung thực và được công bố một phần
trong các bài báo khoa học. Luận văn chưa từng được công bố. Nếu có điều gì
sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tác giả

Vũ Cao Điền



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BANC

: Bệnh án nghiên cứu

BN

: Bệnh nhân

BYT

: Bộ y tế

D0

: Ngày bắt đầu điều trị

D3

: Sau 3 ngày điều trị

D7

: Sau 7 ngày điều trị

D10

: Sau 10 ngày điều trị

D15


: Sau 15 ngày điều trị

NXB

: Nhà xuất bản

YHCT

: Y học cổ truyền

YHHĐ

: Y học hiện đại





MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC BIỂU ĐỒ


DANH MỤC HÌNH



9

ĐẶT VẤN ĐỀ

Sữa mẹ là nguồn thức ăn quý giá nhất đối với trẻ em, không có một loại
sữa nhân tạo nào có thể thay thế được. Sữa mẹ là nguồn thức ăn đầy đủ chất
dinh dưỡng: đạm, đường, mỡ, vitamin và các chất khoáng [1], [6].
Trong sữa mẹ có các kháng thể, trẻ bú sữa mẹ sẽ nhận được kháng thể
có khả năng miễn dịch nên trẻ ít bị bệnh hơn. Sữa mẹ dễ tiêu hoá và hấp thụ,
là thức ăn lý tưởng nhất cho sự phát triển cơ thể, phát triển trí thông minh, bảo
vệ cơ thể chống đỡ các bệnh nhiễm khuẩn. Với bà mẹ cho con bú: sữa mẹ đầy
đủ sẽ tạo điều kiện gắn bó tình cảm mẹ con, là nguồn cung cấp tiện lợi về
kinh tế, góp phần bảo vệ sức khoẻ cho bà mẹ, giảm nguy cơ chảy máu, ung
thư vú và buồng trứng [37], [46].
Với vai trò quan trọng của sữa mẹ vừa nêu trên, nếu như người mẹ nào
thiếu sữa để nuôi con, thậm chí là không có sữa, phải nuôi con bằng nguồn
sữa khác thì đó là một vấn đề khó khăn cho người mẹ, đồng thời vô cùng thiệt
thòi cho trẻ. Hiện nay tỷ lệ người mẹ thiếu sữa sau khi sinh rất nhiều, tỷ lệ suy
dinh dưỡng ở trẻ không được bú sữa mẹ còn cao [11].
Theo Y học hiện đại (YHHĐ), thiếu sữa là tình trạng sản phụ sau khi
sinh có ít sữa hoặc không có sữa [11].
Y học cổ truyền (YHCT) gọi chứng thiếu sữa hoặc không có sữa sau
khi sinh là chứng "Sản hậu khuyết nhũ" [24], [29]. Để điều trị khuyết nhũ,
YHCT sử dụng nhiều biện pháp như châm cứu, xoa bóp bấm huyệt, tác động
cột sống, dùng thuốc theo biện chứng, theo kinh nghiệm dân gian, theo cổ
phương, dùng các món ăn nhằm tăng tiết sữa [42], [47]. Mỗi phương pháp
đều cho kết quả nhất định.
Tại Việt Nam, gần đây đã có một số công trình nghiên cứu phục hồi
nguồn sữa mẹ như: Đỗ Thanh Hà, Lê Thị Hiền, Nguyễn Sơn Dư (2007)



10

nghiên cứu "Đánh giá tác dụng của phương pháp tác động cột sống để phục
hồi nguồn sữa mẹ" cho thấy kết quả tốt đạt 84,8% [12], [14]. Nguyễn Tài
Lương (2003) "Đánh giá hiệu quả của phương pháp chẩn trị bằng tác động cột
sống đối với một số bệnh sinh sản ở phụ nữ" cho thấy kết quả tốt đạt 87,2%
[28]. Các công trình trên có hiệu quả điều trị cao, tuy nhiên chưa kết hợp điều
trị các chứng hậu sản hay gặp như huyết hư, ứ trệ, bụng dưới đau…
Bài thuốc cổ phương Sinh hoá thang đã được sử dụng phổ biến trong
nhân dân để điều trị các chứng sản hậu huyết hư, ứ trệ, bụng dưới đau. Trong
quá trình sử dụng Sinh hoá thang để điều trị cho sản phụ tại Bệnh viện đa
khoa YHCT Hà Nội, chúng tôi nhận thấy, ngoài tác dụng kể trên, bài thuốc
còn được phản hồi tích cực trong việc tăng tiết sữa. Do đó với mong muốn
mở rộng ứng dụng của bài thuốc Sinh hoá thang, cũng như để đánh giá tác
dụng tăng tiết sữa một cách khoa học và khách quan, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài “Đánh giá tác dụng lợi sữa của bài thuốc “Sinh hoá thang”
trên sản phụ thiếu sữa sau sinh” với hai mục tiêu:
1.

Đánh giá tác dụng lợi sữa của bài thuốc “Sinh hoá thang” trên một số chỉ
tiêu lâm sàng, cận lâm sàng ở sản phụ thiếu sữa sau sinh.

2.

Theo dõi tác dụng không mong muốn của bài thuốc.




11

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN

1.1. Quan điểm của y học hiện đại về thiếu sữa
1.1.1. Sinh lý của sự sản xuất sữa
Sữa mẹ sản xuất từ những tế bào của nang sữa (tuyến vú). Xung quanh
các nang sữa là các tế bào cơ, nó co thắt và đẩy sữa ra ngoài qua ống dẫn
sữa. Ở phần quầng vú, các ống trở lên rộng hơn và hình thành các xoang
sữa. Đó là nơi sữa được gom lại để chuẩn bị cho một bữa ăn. Ống hẹp trở
lại khi nó qua núm vú. Tổ chức xung quanh ống dẫn sữa và nang sữa gồm
có mô mỡ, mô liên kết, mạch máu. Tổ chức mỡ và mô liên kết quyết định
độ lớn của vú. Cuối thời kỳ thai nghén, vú lớn gấp 2 – 3 lần so với lúc
bình thường [5], [13], [17].
Sau khi sinh, sản xuất sữa mẹ được điều chỉnh bởi hai phản xạ:
- Phản xạ sinh sữa:
Khi trẻ mút vú, xung động cảm giác đi từ vú lên não, tác động lên thuỳ
trước của tuyến yên để bài tiết ra prolactine. Prolactine đi vào máu đến vú làm
cho các tế bào bài tiết sữa sản xuất ra sữa. Phần lớn prolactine ở trong máu
trong khoảng 30 phút sau bữa bú. Chính vì thế, nó giúp vú tạo sữa cho bữa ăn
tiếp theo. Đối với bữa ăn này, trẻ bú sữa mà nó đã có sẵn trong vú. Vì thế, cần
cho trẻ bú nhiều thì vú mẹ sẽ tạo nhiều sữa [64].
Prolactine thường được sản xuất nhiều về ban đêm, vì vậy nên cho trẻ
bú vào ban đêm để duy trì việc tạo sữa. Prolactine làm cho sản phụ cảm thấy
thư giãn và đôi khi buồn ngủ vì thế sản phụ có thể nghỉ ngơi tốt ngay cả khi
cho con bú vào ban đêm. Ngoài ra, prolactine còn ngăn cản sự phóng noãn vì
thế có thể giúp sản phụ không có thai trở lại [4], [5], [17], [25].



12

- Phản xạ xuống sữa (hay tiết sữa):
Khi trẻ bú, xung động từ vú tác động lên thuỳ sau tuyến yên để bài tiết
ra oxytocin. Oxytocin đi vào máu đến vú và làm cho các tế bào cơ xung
quanh nang sữa co lại, làm cho sữa đã được tập trung vào nang sữa chảy theo
ống dẫn sữa đến xoang sữa và chảy ra ngoài. Đây là phản xạ xuống sữa (tiết
sữa hoặc phun sữa).
Các estrogen của bánh rau ức chế tiết prolactin; phải mất 3 – 4 ngày thì
hiện tượng này mới mất hẳn đi. Sữa bình thường cho tới lúc này còn chưa
được tiết ra. Khi mà các estrogen còn chế ngự (trong khi có thai và ngay sau
khi đẻ) thì chỉ có sữa non được tiết ra [9]. Thông thường, người đẻ con so sữa
sẽ xuống vào ngày thứ 3, thứ 4 sau đẻ; còn người đẻ con dạ sữa sẽ xuống vào
ngày thứ 2, thứ 3 sau đẻ [38], [55].

Hình 1.1. Phản xạ có điều kiện của sự tiết sữa [9]
Trên lâm sàng biểu hiện của xuống sữa thường có: vú căng tức, các
tuyến sữa phát triển nhiều, to, các tĩnh mạch dưới da vú nổi rõ, khó chịu, sốt
nhẹ, nhiệt độ >38˚C, mạch nhanh, khi có sự xuống sữa thực sự thì các hiện
tượng trên mất đi [5], [13], [17], [25], [38].


13

1.1.2. Prolactin và sự điều hoà bài tiết sữa
Prolactin là chất nội tiết chính trong việc điều hoà sản xuất sữa.
Prolactin có thể đo được trong máu với số lượng nhỏ ngay tại những thời
điểm đầu và tăng lên nhanh chóng trong khoảng thời gian từ tuần thứ 20 đến
tuần thứ 30 của thai kỳ. Prolactin ở một người bình thường vào khoảng 100 –
600 μU/mL, có thể tăng tới 4000 – 11000 μU/mL tại thời điểm sinh trẻ và rồi

giảm xuống còn 600 – 900 μU/mL trong thời gian từ 180 đến 360 ngày sau
sinh. Trẻ bú mẹ kích hoạt sự gia tăng Prolactin, sự gia tăng đạt cực đại sau 30
phút và trở về mức bình thường sau 2 – 3 giờ [54], [58], [60], [63].

Hình 1.2. Prolactin trước và sau khi sinh [59]
Trong vài tháng cuối của thai kỳ, thường có một lượng nhỏ sữa tiết ra.
Sau sinh, khi trẻ bú mẹ, lượng sữa được tiết ra tăng lên nhanh chóng. Từ vài
thìa trong ngày đầu, lượng này tăng lên vào khoảng 100 ml vào ngày thứ hai
và 500 ml vào tuần lễ thứ hai. Lượng sữa sẽ được tiết ra một cách đều đặn và
đầy đủ vào ngày thứ 10 – 14 sau khi sinh. Trung bình mỗi ngày trẻ khoẻ mạnh
tiêu thụ khoảng 700 – 800 ml sữa trong 24 giờ [50], [57].
Độ lớn của vú không ảnh hưởng đến số lượng sữa, tuy nhiên vú
quá nhỏ hay không tăng kích thước trong thời gian mang thai có thể sản
xuất ít sữa.
Ở những sản phụ nuôi dưỡng kém, lượng sữa vào khoảng 500 – 700
ml/ngày trong 6 tháng đầu, 400 – 600 ml/ngày trong 6 tháng sau đó và 300 –


14

500 ml/ngày trong năm thứ hai. Tình trạng này có thể do nguồn dự trữ của sản
phụ bị kém (thiếu dự trữ mỡ) trong thời gian mang thai [3], [5].
1.1.3. Thành phần sữa mẹ
Protein: protein sữa mẹ dễ tiêu, dễ hấp thu. Một phần có thể hấp thu
ngay ở dạ dày. Protein sữa mẹ chứa α lactalbumin, casein (35%) hình thành
những cục mềm lỏng dễ tiêu hoá. Trong sữa non, protein chiếm 10%; trong
sữa vĩnh viễn là 1%. Ngoài ra, acid amine của sữa mẹ có cystein và taurine
cần thiết cho sự phát triển của não bộ trẻ sơ sinh. Ngoài ra sữa mẹ còn có
protein kháng khuẩn để bảo vệ cơ thể trẻ [1], [9], [58].
Lipid: sữa mẹ chứa acid béo không no, đây là loại acid béo dễ tiêu, cần

thiết cho sự phát triển của não, mắt và sự vững bền của mạch máu trẻ. Sữa mẹ
còn chứa lipase, gọi là lipase kích thích muối mật vì nó khởi động các hoạt
động trong ruột non với sự có mặt của muối mật. Lipase không hoạt động
trong bầu vú hoặc trong dạ dày trước khi sữa trộn với mật [1], [9].

Hình 1.3. Nồng độ protein sữa, so sánh sữa từ các bà mẹ sinh non và đủ
tháng, theo tuổi thai khi sinh và tuần sau sinh [61]
Glucid: đường của sữa mẹ là β lactose rất dễ hấp thu, thích hợp cho sự
phát triển của vi khuẩn Lactobacillus bifidus. Vi khuẩn này biến β lactose
thành acid lactic (là loại acid ngăn cản sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh)
đồng thời giúp hấp thu dễ dàng calcium và các muối khoáng khác [1].


15

Muối khoáng [1]:
- Calcium trong sữa mẹ ít hơn trong sữa bò nhưng dễ hấp thu hơn và đủ cho trẻ
phát triển.
- Sắt trong sữa mẹ ít (50 – 70 µg/100ml), nhưng vào khoảng 70% sắt trong sữa
mẹ được hấp thu.
- Natri, kali, phospho, clo tuy ít nhưng cũng đủ cho nhu cầu sinh lý của trẻ. Natri
trong sữa mẹ phù hợp với chức năng của thận.
Vitamin: nếu mẹ ăn uống đầy đủ, trẻ bú mẹ được cung cấp đầy đủ
vitamin trong 4 – 6 tháng đầu. Lượng vitamin D ít trong sữa mẹ nhưng trẻ bú
mẹ ít bị còi xương. Lượng vitamin A, B1, C… thay đổi phụ thuộc vào chế độ
ăn của mẹ [1].
1.1.4. Tầm quan trọng của sữa mẹ
Sữa mẹ là thức ăn toàn diện nhất cho trẻ, đặc biệt là trong 6 tháng đầu
của cuộc sống. Việc nuôi con bằng sữa mẹ có những lợi ích sau [37]:
- Sữa mẹ chứa nhiều chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể trẻ.

- Cơ thể trẻ dễ hấp thu và sử dụng sữa mẹ một cách có hiệu quả.
- Bảo vệ trẻ chống lại các bệnh nhiễm khuẩn, tránh một số bệnh dị ứng.
- Giúp cho trẻ phát triển tốt về tinh thần, tâm lý và thể chất.
- Chi phí ít hơn là nuôi trẻ bằng thức ăn nhân tạo.
- Gắn bó mẹ con và làm phát triển mối quan hệ gần gũi, yêu thương.
- Giúp cho sản phụ chậm có thai.
- Bảo vệ sức khoẻ cho sản phụ (cầm máu hậu sản, giảm tỷ lệ ung thư vú).
1.1.5. Phương pháp nuôi trẻ bằng sữa mẹ
Những thuật ngữ về bú mẹ [1]:
- Bú mẹ hoàn toàn (tuyệt đối): nghĩa là không cho trẻ bất cứ một đồ ăn hoặc thức
uống nào ngay cả nước (trừ thuốc, vitamin, muối khoáng hoặc sữa mẹ đã
được vắt ra).


16

- Bú mẹ chủ yếu: nghĩa là nuôi trẻ bằng sữa mẹ nhưng cũng cho thêm một ít
nước hoặc đồ uống pha bằng nước.
- Bú mẹ đầy đủ: nghĩa là nuôi con bằng sữa mẹ kể cả bú mẹ hoàn toàn hoặc bú
mẹ là chủ yếu.
- Bú mẹ một phần: nghĩa là cho trẻ bú một vài bữa sữa mẹ, một vài bữa ăn nhân
tạo.
- Ăn nhân tạo: nghĩa là nuôi trẻ bằng các thức ăn mà không không cho bú mẹ tí
nào.
Phương pháp bú mẹ [1], [2], [6]: nuôi trẻ bằng sữa mẹ chỉ đạt được kết
quả tốt khi mẹ muốn cho con bú và đặt tin tưởng vào việc nuôi con trẻ bằng
sữa mẹ để hỗ trợ cho phản xạ oxytocin. Trẻ được bú đúng phương pháp khi:
- Cho trẻ bú ngay sau sinh, khoảng nửa giờ sau sinh và để mẹ nằm gần con.
- Sữa non phải là thức ăn đầu tiên của trẻ để giúp ruột phát triển hoàn chỉnh và
giảm tình trạng nhiễm khuẩn do nguồn thức ăn khác đưa vào.

- Bú mẹ tuyệt đối tối thiểu trong 4 tháng đầu.
- Cho trẻ bú theo nhu cầu của trẻ, tránh bú theo giờ, điều này phù hợp với lượng
sữa mẹ và sự phát triển của từng trẻ.
- Đứa trẻ phải ngậm bắt vú tốt để mút có hiệu quả.
- Đứa trẻ nên mút thường xuyên và càng lâu càng tốt.
- Không nên cho trẻ bú thêm sữa bò hoặc các loại nước khác.
- Vệ sinh vú và thân thể.
Cai sữa: chỉ nên cai sữa lúc trẻ được 18 – 24 tháng, sớm nhất là 12
tháng. Khi cai sữa trẻ phải bỏ từ từ các bữa bú. Không nên cai sữa lúc trẻ bị
bệnh hay vào lúc bị bệnh nhiễm trùng phổ biến. Mẹ có thai vẫn cho con bú
nhưng cần thêm dinh dưỡng cho trẻ và cho mẹ.
Săn sóc vú và đầu vú: đầu vú nhô ra rõ vào cuối thai kỳ vì thế nếu đầu
vú phẳng hoặc tụt vào trong cần phải hướng dẫn và làm cho đầu vú nhô


17

ra bằng cách xoa và kéo đầu vú ra vài lần mỗi ngày. Nếu làm không có
kết quả thì sẽ cho bú qua một đầu vú phụ hoặc nặn sữa ra và cho trẻ ăn
bằng thìa và cốc.
1.1.6. Thiếu sữa
1.1.6.1. Định nghĩa
Thiếu sữa là hiện tượng sản phụ sau khi sinh sữa rất ít hoặc không có
chút sữa nào [3], [7], [30], [53].
1.1.6.2. Những yếu tố làm giảm lượng sữa trong ngày:
- Cho con chậm bú sau đẻ 2 – 3 ngày, điều này sẽ hạn chế sự hoạt động của tuyến
vú bởi vì không có chất prolactine.
- Sản phụ có bệnh: suy tim, lao, thiếu máu, suy dinh dưỡng.
- Sản phụ quá trẻ, dưới 18 tuổi, tuyến vú chưa trưởng thành, kém tiết sữa.
- Sản phụ dùng các loại thuốc ức chế sự tiết sữa: Aspirine, kháng sinh, thuốc

chống dị ứng...
- Sản phụ lao động nặng.
- Sản phụ buồn phiền, lo âu sẽ hạn chế tiết prolactine.
- Khoảng cách cho bú dài trên 3 giờ.
- Con trên 12 tháng. Trong năm đầu lượng sữa là 1200 ml/ngày. Năm thứ hai là
500 ml/ngày. Năm thứ ba là 200 ml/ngày [3].
1.1.6.3. Chẩn đoán thiếu sữa
Dấu hiệu từ sản phụ [3], [7]:
- Bầu vú nhẽo mềm.
- Chậm xuống sữa, vú không căng sữa khi đến cữ bú, nặn ra ít sữa hơn so với
bình thường.
- Bầu vú căng tức đau nhiều hoặc ít nhưng sữa không xuống.
Dấu hiệu từ trẻ [1], [3]:


18

- Trẻ không hài lòng sau bữa bú, thường thể hiện trẻ khóc thường xuyên, đòi bú
tiếp mỗi khi ngừng cho bú, bụng không căng sau bú.
- Trẻ tăng cân kém dưới 500 g/tháng.
- Nhẹ cân nặng lúc sinh sau 2 tuần.
- Trẻ đi tiểu ít, dưới 6 lần/ngày, nước tiểu cô đặc, màu vàng sẫm, mùi khai.
1.1.6.4. Cách bảo vệ nguồn sữa mẹ
Đó là tái lập lại sự tạo sữa hay duy trì sữa mẹ. Được áp dụng cho trẻ
còn bú mẹ mà sản phụ vì lý do nào đó tạm thời ít sữa [10]:
Để cho trẻ bú thường xuyên: cho trẻ bú 5 phút ở mỗi vú, 2 – 3 giờ một
lần mặc dù sản phụ chỉ còn ít sữa.
Cho trẻ ăn thêm cho đến khi sản phụ đủ sữa. Trường hợp cho ăn thêm
bằng sữa bò thì pha loãng 1/2 đậm độ sữa để trẻ luôn luôn bị đói và bú mạnh
thêm. Điều này không nên kéo dài một tuần lễ. Cho trẻ ăn thêm sau khi bú mẹ

(cho trẻ ăn bằng thìa).
Để tăng cường hiệu quả tiết sữa sản phụ cần được nghỉ ngơi thoải mái
và cần được giải thích để sản phụ tin tưởng rằng sẽ có sữa trở lại; đồng
thời tìm hiểu và giải quyết nguyên nhân gây ít sữa. Nguyên nhân gây ít
sữa phổ biến là:
- Sản phụ cho trẻ ăn thêm sớm không cần thiết.
- Sản phụ lo lắng, mệt mỏi, thiếu ngủ.
- Sản phụ uống thuốc ngừa thai có độ estrogen cao.
Cần giải thích cho sản phụ lợi ích của việc bú mẹ so với các phương
pháp nuôi dưỡng khác. Có thể dùng thuốc gây xuống sữa [3], [26], [52]:
- Dùng oxytocin dưới dạng phun (Syntonon) bơm vào mũi, 4 đơn vị/lần vào một
hoặc hai mũi, 2 – 3 phút trước khi cho con bú.


19

- Dùng Chlorpromazine gây kích thích sản xuất sữa đồng thời làm giảm lo lắng.
Liều lượng dùng là 10 – 25 mg, 2 – 3 lần/ngày, trong 3 – 10 ngày. Nếu cần
tăng liều 50 mg (không quá 200 mg/ngày) trong 1 – 2 ngày, sau đó giảm liều.
Khuyến khích sản phụ ăn thêm thức ăn giàu dinh dưỡng mà gia đình có
thể có. Ăn thêm khoảng 1/2 hoặc 1/4 khẩu phần ăn so với khẩu phần ăn bình
thường. Nếu sản phụ bị nhiễm trùng thì điều trị nhiễm trùng nhanh và cho bú
mẹ lại sớm.
Nếu làm các biện pháp trên đây không có hiệu quả và không nhờ sản
phụ thứ hai nuôi trẻ, khi đó mới cho trẻ ăn thức ăn nhân tạo. Tuy vậy sản phụ
còn một ít sữa thì cần cho trẻ bú vài phút trước khi ăn. Cho trẻ bú như vậy có
lợi hơn vì:
- Gia tăng giá trị dinh dưỡng cho trẻ bằng một ít sữa mẹ.
- Trẻ được bảo vệ chống nhiễm trùng, tuy ít còn hơn không có.
- Có được mối tình cảm giữa mẹ và con.

- Sữa có thể có thể trở lại khi sản phụ được an tâm.
1.2. Quan điểm của y học cổ truyền về vấn đề thiếu sữa
1.2.1. Định nghĩa
Sản phụ sau khi sinh không có sữa hoặc ít sữa gọi là "Khuyết nhũ".
Nếu sữa không thông thì gọi là “Nhũ chấp bất hành”. Nhũ chấp là chất
dịch trắng đục, bất hành là không lưu hành, tức là sữa không lưu thông
[24], [29], [33], [47].
Sữa mẹ là chất dịch đục được sinh ra từ huyết. Mạch nhâm đảm bảo âm
huyết của toàn thân, mạch xung thuộc kinh dương minh là bể của huyết; cho
nên cốc khí thịnh, bể huyết tràn đầy thì sữa xuống đầy đủ.
Cơ chế sinh sữa, bài tiết sữa tuỳ thuộc ở hai mạch xung – nhâm và
có quan hệ mật thiết với tạng phủ. Phụ nữ sau khi đẻ, nếu mạch xung –


20

nhâm thịnh vượng, các tạng tâm, can, tỳ, phế, thận sung túc… thì đủ sữa
cho con bú [7].
1.2.2. Đặc điểm sinh lý về sữa mẹ theo y học cổ truyền
Vú nằm ở khoảng giữa hai tạng phế và can. Sự tạo sữa liên quan nhiều
đến khí và huyết.
Khí huyết tuần hoàn khắp cơ thể không lúc nào gián đoạn. Khoảng 4 –
5 giờ sáng, khí huyết bắt đầu từ thủ thái âm phế kinh đi ra đến huyệt vân môn
ở trên vú, khoảng 2 – 3 giờ sáng trở về túc quyết âm can kinh ở huyệt kỳ môn.
Mạch túc dương minh vị đi từ huyệt khuyết bồn xuống đến vú, mạch xung bắt
đầu từ huyệt khí hải cùng kinh túc dương minh vị tiếp trên rốn đi từ trong
ngực mà tản ra, cho nên cổ nhân nói: "vú thuộc kinh túc dương minh vị, đầu
vú thuộc kinh túc quyết âm can" [41].
Sữa mẹ là chất dịch đục được sinh ra từ khí huyết. Mạch nhâm đảm bảo
âm huyết của toàn thân, mạch xung thuộc kinh dương minh là bể của huyết,

cho nên khi khí thịnh, bể huyết đầy là sữa xuống đầy đủ.
Cơ chế sinh ra sữa là do hiện tượng sinh lý của kinh mạch, tạng phủ,
khí, huyết, tác dụng lên vùng ngực (tuyến vú). Thành phần của sữa là tân dịch
do khí huyết sinh ra. Khí huyết do công năng tạng phủ biến hoá mà thành,
thông qua hệ kinh mạch mới có thể đưa tới vú để sinh ra sữa. Sữa đầy đủ hay
không là do ảnh hưởng trực tiếp thịnh hay suy của kinh mạch. Tạng phủ là
nguồn gốc của khí huyết, với chức năng của các tạng phủ như sau: trong tạng
phủ thì tạng tâm chủ huyết, tạng can tàng huyết, tạng tỳ thống nhiếp huyết, vị
chủ nạp chứa đựng, nghiền nát thuỷ cốc cùng với tỳ là nguồn gốc của mọi hoá
sinh. Thận tàng tinh, tinh ở thận là chất cơ bản sinh ra huyết. Khí có tác dụng
thúc đẩy vận chuyển huyết. Khi lục phủ ngũ tạng điều hoà thì khí huyết đầy
đủ, lưu thông. Mạch xung, mạch nhâm thịnh vượng thì sữa đầy đủ cả chất
lượng và số lượng.


21

Can có chức năng tàng huyết, chủ sơ tiết và điều đạt, vì vậy can góp
phần rất quan trọng trong việc điều hoà bài tiết sữa.
Tỳ sinh huyết và thống nhiếp huyết. Quá trình biến hoá hấp thụ thức ăn
và vận chuyển dịch là sự chung sức hỗ trợ nhau giữa vị và tỳ. Tiêu hoá thức
ăn là công năng của vị, hấp thu vận chuyển các chất dinh dưỡng là nhiệm vụ
của tỳ. Cho nên tỳ là tạng vận hành tân dịch, vị phải thông qua đường kinh
mạch để phân tán nuôi dưỡng toàn thân. Theo YHCT, tinh hoa của thức ăn đồ
uống sau khi hấp thụ ở tạng tỳ được đưa lên phế (màu trắng) rồi qua tâm trở
thành màu đỏ để biến thành huyết, huyết là nguồn gốc sinh ra sữa.
Vị có chức năng nhào trộn thức ăn quan hệ biểu lý với tỳ. Ngoài ra
mạch của kinh dương minh vị đi xuống cùng hội với mạch xung ở khí xung,
vì vậy có thuyết nói rằng “xung mạch hiện ở dương minh”. Vị khí thịnh thì
xung mạch cũng thịnh, huyết hải tràn đầy, sữa mới sinh ra và bài tiết đầy đủ.

Như vậy cơ chế sinh sữa, bài tiết sữa tuỳ thuộc vào hai mạch xung,
nhâm và có quan hệ mật thiết với tạng phủ. Tuy tạng phủ có tác dụng khác
nhau nhưng giữa chúng có mối quan hệ mật thiết không thể tách rời. Thận và
can là quan hệ mẹ con, thận chủ tàng tinh, can tàng huyết, tinh huyết là gốc rễ
sinh ra khí huyết để tạo ra sữa. Tỳ và vị có quan hệ biểu lý. Vị chủ nạp thuỷ
cốc, tỳ chủ vận hoá nên khi nói đến tỳ vị là nói đến nguồn gốc của hoá sinh.
Từ đó ta nhận thấy can, thận, tỳ, vị sung túc thì tạo ra nguồn khí huyết đầy đủ,
khí huyết đầy đủ vào hai mạch xung nhâm, ra tới tuyến vú mà thành sữa.
Sản phụ sau khi sinh nếu mạch xung nhâm vượng, tỳ vị khí mạnh, ăn
uống điều hoà thì sữa đủ và đặc, đảm bảo đủ sữa cho trẻ bú trong vòng 4
tháng đầu mà không cần cho trẻ ăn gì thêm ngoài sữa mẹ [40], [41], [43].

1.2.3. Nguyên nhân, thể bệnh và điều trị theo y học cổ truyền
1.2.3.1. Nguyên nhân


22

Nguyên nhân tình trạng thiếu sữa (ít sữa) ở sản phụ là trong khi chửa,
đẻ khí huyết quá hư suy hoặc khi sinh con sản phụ mất quá nhiều máu ảnh
hưởng nghiêm trọng tới các mạch: xung, nhâm, đốc, đới và ngũ tạng, lục phủ,
làm cho nguồn tân dịch bổ sung để sinh sữa thiếu hụt, lượng sữa sản sinh
không đủ để nuôi con.
Mặt khác sản phụ có thể mất sữa (có sữa sau đó bị mất sữa) hoặc không
có sữa hoàn toàn còn do trong khi mang thai, bầu sữa không to thêm hoặc có
to thêm nhưng gần đến tháng sinh không thấy biểu hiện căng hoặc cắn nhức
đầu vú, hoặc không thấy sữa non ra báo hiệu sắp sinh [24], [29], [47].
1.2.3.2. Thể bệnh
- Thể khí huyết hư nhược [7], [47].
Nguyên nhân: do thể chất sản phụ yếu, khí huyết không đầy đủ

hoặc lúc đẻ mất huyết quá nhiều, dẫn đến khí huyết hư, không hoá sinh
ra sữa được.
Biểu hiện lâm sàng: sữa không xuống được hoặc xuống rất ít, bầu vú
không căng đau, sắc mặt xanh nhạt hoặc sạm vàng, da dẻ khô, tinh thần mệt
mỏi, thân thể ốm yếu, đầu choáng, tai ù, tâm phiền, đoản khí, ăn ít, đại tiện
lỏng, huyết hôi ra ít, đái rắt, lưỡi nhợt, mạch hư tế.
Phép điều trị: bổ huyết, ích khí, sinh sữa.
Bài thuốc 1: thông nhũ đơn (đảng sâm 20g, hoàng kỳ 20g, đương quy
20g, mạch môn đông 20g, mộc thông 20g, cát cánh 12g, móng giò lợn 2 cái).
Đun kỹ móng giò ăn, nước thuốc uống.
Bài thuốc 2: xuyên sơn giáp 20g, thiên hoa phấn 20g, móng giò lợn 1
cái. Đun kỹ lấy nước uống và ăn thịt chân giò.
Bài thuốc 3: móng giò lợn đực một bộ, thông thảo 4g. Đun kỹ lấy nước
uống và ăn thịt chân giò.
Bài thuốc 4: cá chép 1 con: đốt, tán nhỏ, mỗi lần uống 4g.


23

- Thể can uất khí trệ [7], [47].
Nguyên nhân: can khí uất trệ làm kinh mạch ngưng trệ, khí huyết tuần
hoàn bị trở ngại, không đủ để sinh huyết và sinh sữa.
Biểu hiện lâm sàng: sau khi sinh sữa không xuống, sữa căng đầy và
đau, nặng có khi phát sốt, sắc mặt hơi vàng, tinh thần bực tức, phiền toái,
ngực sườn không thư thái, ăn uống kém, đại tiện không thông, huyết ra mùi
hôi lúc nhiều lúc ít, lưỡi nhợt, rêu vàng dày, mạch huyền.
Phép điều trị: sơ can, giải uất, thông lợi sữa.
Bài thuốc 1: tiêu dao thang gia giảm (đương quy 12g, bạch thược
12g, bạc hà 8g, mộc thông 12g, thông thảo 6g, sài hồ 12g, trần bì 8g,
bạch linh 12g, bạch truật 12g, sinh khương 3 lát). Sắc uống ngày 1

thang, uống 5 - 10 thang.
Bài thuốc 2: hạ nhũ dũng tuyền thang (đương quy 12g, sinh địa 20g,
mộc thông 12g, vương bất lưu hành 20g, thanh bì 8g, sài hồ 12g, bạch thược
12g, xuyên khung 8g, xuyên sơn giáp 12g, thiên hoa phấn 12g, ngưu tất 16g,
cam thảo 6g). Sắc uống ngày 1 thang, uống 5 - 10 thang.
Bài thuốc 3: thanh bì 8g, sài hồ 8g, hương phụ 8g, chi tử 12g, cam thảo
4g. Sắc uống ngày 1 thang, uống 5 - 10 thang.
Bài thuốc 4: lá hoa phù dung giã nhỏ đắp ngoài.
Bài thuốc 5: thông thảo 4g, vẩy tê tê 12g. Sắc uống ngày 1 thang, uống
5 - 10 thang.
Châm cứu: các huyệt nhũ căn, đản trung, thiếu trạch, kiên tỉnh. Nếu hư:
châm bổ huyệt túc tam lý, nếu thực: châm tả huyệt thái xung.
Tác động cột sống (phương pháp của lương y Nguyễn Tham Tán) hoặc
xoa bóp vùng giáp tích từ đốt sống cổ 1 đến đốt sống thắt lưng 5, mỗi ngày
một lần 30 phút, liệu trình 10 - 20 ngày liên tục [34].
• Ăn uống chữa bệnh (Ẩm thực trị bệnh)


24

- Thể khí huyết hư nhược.
+ Chân giò hầm lạc: lạc nhân 200g, chân giò lợn 2 cái, muối, hành,
gừng, rượu, hầm chín nhừ ăn [18].
+ Canh cá diếc: cá diếc 100 - 250g và gia vị, nấu canh, chia làm 2 bữa
ăn trong ngày [18].
+ Móng giò lợn 2 cái (rửa sạch, cạo hết lông), thông thảo 30g (cho vào
túi vải bọc kỹ), hành hoa 3 nhánh. Tất cả cho vào nồi, đổ nước, hầm nhừ, bỏ
bã thuốc, nêm gia vị, ăn thịt, uống nước hầm (có thể dùng thường xuyên).
Nếu người khí huyết hư nhiều, mệt mỏi, có thể thêm đương quy, hoàng kỳ
mỗi thứ 50g để tăng cường khí huyết [76].

+ Đương quy 100g, thịt dê 200g (rửa sạch, thái miếng), gừng tươi 5 lát,
hành hoa 3 nhánh. Tất cả cho vào nồi hầm nhỏ lửa, tới khi thịt dê chín nhừ,
thêm gia vị vừa đủ, ăn thịt, uống nước hầm (chia nhiều bữa) [68].
+ Vừng đen 30g (giã nhỏ), gạo tẻ 50g, nấu cháo [18].
+ Canh cá chép đương quy: bạch thược 10g, đương quy 10g, bạch
truật 12g, phục linh 10g, gừng 6g nấu lấy hai chén nước sau đó hầm với
cá chép 1 con [20].
- Thể can uất khí trệ.
+ Canh măng: măng non 3 cái (400 - 500g), nấu canh, ngày chia làm 2
lần, ăn nóng, ăn 5 ngày liền [18].
+ Canh chân giò: chân giò 2 cái, mộc nhĩ 5g, lậu lô 15g, phật thủ 10g,
hành trắng 2 cọng, hầm nhừ ăn [68].
+ Móng heo hầm mướp: móng heo 1 cái, đậu khuôn 250g, nấm hương
50g. Hầm nhừ, chia làm 3 lần ăn trong ngày [20].
• Ngoài chế độ ăn uống và điều trị bằng thuốc, sản phụ cần nghỉ ngơi
nhiều, tránh mọi căng thẳng thần kinh, uất ức và cáu giận, tự tạo cho mình sự
thoải mái vì sự căng thẳng tinh thần ảnh hưởng rất xấu tới quá trình tạo sữa.


25

Đồng thời sản phụ cũng cần tuân thủ theo đúng hướng dẫn của các bác sỹ để
cho trẻ bú đúng phương pháp; vệ sinh, săn sóc vú và đầu vú sạch sẽ, đúng
cách [3], [10].
1.3. Tình hình nghiên cứu về thiếu sữa trên thế giới và ở Việt Nam
1.3.1. Ở Trung Quốc
1.3.1.1. Nghiên cứu về dùng thuốc điều trị thiếu sữa
- Thông nhũ linh: hoàng kỳ 40g, đảng sâm 30g, đương quy 15g, sinh
địa 15g, mạch môn đông 15g, cát cánh 10g, mộc thông 10g, vương bất lưu
hành (sao) 10g, bào sơn giáp (xuyên sơn giáp) 6g, thông thảo 6g, tạo giác

thích 6g, lậu lô 6g, thiên hoa phấn 6g, trư đề (móng chân lợn) 2 cái sắc trước,
mỗi ngày 1 thang. Điều trị 175 bệnh nhân, khỏi 170 bệnh nhân, không kết quả
5 bệnh nhân, tỷ lệ có hiệu quả 97% [73].
- Sơ can thông nhũ thang: sài hồ 12g, đương quy 12g, xuyên khung 6g,
mộc thông 15g, thông thảo 15g, vương bất lưu hành 15g, cát cánh 10g, lộ lộ
thông 10g, xuyên sơn giáp 10g, lậu lô 10g. Ngày sắc uống 1 thang. Điều trị
sản phụ khuyết nhũ 35 bệnh nhân, tốt 25 bệnh nhân, khá 8 bệnh nhân, không
có kết quả 2 bệnh nhân [71].
- Thông can sinh nhũ thang: bạch thược (thổ sao), đương quy 15g, bạch
truật (thổ sao)15g, mạch đông 15g, bào sơn giáp (xuyên sơn giáp) 10g, thục
địa 10g, chích cam thảo 3g, thông thảo 3g, sài hồ 3g, viễn chí 3g, cát cánh 3g,
bạch chỉ 3g. Mỗi ngày 1 thang, sắc uống, dùng từ 3 đến 5 thang. Điều trị sản
hậu khuyết nhũ 61 bệnh nhân, tốt 38 bệnh nhân, khá 18 bệnh nhân, tỷ lệ hiệu
quả tốt và khá 91,8%, không hiệu quả 5 trường hợp (8,2%) [69].
- Vương bất lưu hành thang: vương bất lưu hành 25g, xuyên sơn giáp
15g, thông thảo 15g, lộ lộ thông (quả cây sau sau) 15g, lậu lô 20g, mạch môn
đông 10g, mộc thông 10g. Khí huyết hư nhược gia đảng sâm 20g, đương quy
15g. Can uất khí trệ gia hương phụ 10g, đan sâm 15g. Sắc uống ngày 1 thang,


×