Tải bản đầy đủ (.doc) (150 trang)

Điều tra cây thuốc và các bài thuốc của đồng bào dân tộc thái, huyện quế phong, tỉnh nghệ an, nhằm bảo tồn tri thức bản địa và định hướng phát triển tài nguyên rừng bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.83 MB, 150 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THƯỢNG HẢI

ĐIỀU TRA CÂY THUỐC VÀ CÁC BÀI THUỐC CỦA
ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THÁI, HUYỆN QUẾ PHONG,
TỈNH NGHỆ AN, NHẰM BẢO TỒN TRI THỨC BẢN ĐỊA
VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN TÀI NGUYÊN RỪNG
BỀN VỮNG
Chuyên ngành: Thực vật học
Mã số: 62.42 01 11

Người hướng dẫn khoa học:
1. GS.TSKH Nguyễn Nghĩa Thìn
2. PGS.TS Phạm Hồng Ban

HÀ NỘI – 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và chưa từng
để bảo vệ ở bất kỳ học vị nào, các thông tin trích dẫn trong luận án này đều được
chỉ rõ nguồn gốc.
Nghệ An, ngày 03 tháng 6 năm 2016
Tác giả luận án
Nguyễn Thượng Hải

i




LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài “ Điều tra cây thuốc và các bài thuốc của
đồng bào dân tộc Thái, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An, nhằm bảo tồn tri thức
bản địa và định hướng phát triển tài nguyên rừng bên vững”, tôi đã nhận được
rất nhiều sự giúp đỡ của các nhà khoa học, các thầy cô giáo, tập thể Ban Lãnh
đạo Khoa Sinh học, Phòng Sau đại học Trường Đại học Vinh, các thầy giáo, cán
bộ Viện Sinh thái Tài nguyên Sinh vật, Viện Dược liệu. Tôi xin bày tỏ lòng biết
ơn chân thành về sự giúp đỡ quý báu đó.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS.TSKH. Nguyễn Nghĩa
Thìn, PGS.TS Phạm Hồng Ban, những thầy giáo trực tiếp hướng dẫn và chỉ bảo
tôi hoàn thành luận án này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Nghệ
An, các đồng nghiệp nơi tôi đang công tác, gia đình và bạn bè , đã tạo điều kiện,
khích lệ, động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Xin trân trọng cảm ơn.

ii


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………...……………….…1
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án……………………….……………………....1
2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án……………………………………………....2
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án………………………………….....2
3.1. Ý nghĩa khoa học……………………………………………………….……2
3.2. Ý nghĩa thực tiễn………………………………………………………….....2
4. Những điểm mới của luận án……………………………………………….…2
Chương 1.


TỔNG QUAN TÀI LIỆU………………………………………....5

1.1.Tình hình nghiên cứu, sử dụng và bảo tồn cây thuốc .....................................5
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về cây thuốc…………………………………….…5
1.1.2. Vấn đề trồng bảo tồn cây thuốc trên thế giới. ……………………….9
1.2. Tình hình nghiên cứu, sử dụng và bảo tồn cây thuốc ở Việt Nam……….. .9
1.2.1. Tình hình nghiên cứu về cây thuốc………………………………………10
1.2.2.Tình hình điều tra, đánh giá, trồng bảo tồn…………………….................12
1.3. Tình hình nghiên cứu cây thuốc ở Nghệ An…………………………….…16
1.4. Tình hình nghiên cứu, sử dụng cây thuốc ở huyện Quế Phong………….....20
1.5. Điều kiện tự nhiên và xã hội huyện Quế Phong……………………………23
1.5.1. Vị trí địa lý………………………………………………………………24
1.5.2. Diện tích, khí hậu………………………………………………………...25
1.5.3 Điều kiện xã hội…………………………………………………………..28
Chương 2. VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU…..30
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………………………....30

2.2. Nội dung nghiên cứu………………………………………………………30
2.3. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………..30

Chương3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN……………………36
3.1. Đánh giá tính đa dạng về thành phần loài cây thuốc ………………..…….36
3.1.1. Đa dạng về bậc ngành…………………………………………………..36
iii


3.1.2. Đa dạng về các lớp trong ngành Ngọc lan………………………….…..37
3.1.3. Sự đa dạng về số lượng loài trong các chi, họ………………………….39


3.1.4. So sánh cây thuốc huyện Quế Phong với hệ cây thuốc Việt Nam……….41
3.1.5. Đa dạng về dạng thân, nơi sống và cách sử dụng cây thuốc…………….42

3.1.5.1.Đa dạng về dạng thân cây của các cây thuốc ......................…………... 42
3.1.5.2. Sự phân bố cây thuốc theo môi trường sống………………….……….43

3.1.5.3. Sự đa dạng về tần số sử dụng của các bộ phận khác nhau…………….45
3.2. Những cây thuốc bị khai thác nhiều, cây thuốc trong Sách đỏ … ....………47
3.2.1. Mô tả, bổ sung công dung những cây thuốc……..……………….……....47
3.2.2.Hiện trạng những cây thuốc quý trong Sách Đỏ Việt Nam……….………80
3.2.3. Bổ sung danh lục cây thuốc Việt Nam…………………………….……..89
3.3. Các bài thuốc của người dân tộc Thái ở huyện Quế Phong………….……..95
3.3.1. Các nhóm bệnh được người dân tộc Thái huyện Quế Phong …….……...95
3.3.2. Một số bài thuốc được đồng bào dân tộc Thái sử dụng……….…… …...97

3.3.2.1. Nhóm bệnh do thời tiết (cảm nóng, cảm lạnh, đau đầu…)….…………97
3.3.2.2. Bệnh về tiêu hoá (dạ dày, tả, lị, ngộ độc, giun sán…)…………………98
3.3.2.3. Nhóm bệnh ngoài da (nhiễm trùng, lở, mụn nhọt…)…………….…….99
3.3.2.4. Các bài thuốc bồi bổ sức khoẻ…………………………………….…..100
3.3.2.5. Bệnh về thần kinh (bại liệt, thần kinh, nhức mỏi…)………………….101
3.3.2.6. Các bài thuốc về nhóm bệnh hô hấp (ho, phế quản, phổi…)..…...102
3.3.2.7. Bệnh của trẻ em (suy dinh dưỡng, ho, giật mình, mẩn ngứa…)......103

3.3.2.8. Động vật cắn (rắn, chó dại, sên, vắt...)……………………………103
3.3.2.9. Bệnh về xương (bong gân, gãy xương, đau khớp…)…………......103

3.3.2.10. Bệnh về thận (sỏi thận, lợi tiểu, viêm thận…)…………….……..104
3.3.2.11. Bệnh về gan (viêm gan, xơ gan, vàng da…)……………...…..…104
3.3.2.12. Bệnh về răng…………………...…………………………...……104


3.3.2.13. Bệnh của phụ nữ…………………………………………...…104
3.3.2.14. Bệnh về mắt…………………………………………….…….105
3.3.2.15. Bệnh ung thư (u, hạch…)…………………………….………106

3.3.2.16. Nhóm bệnh khác…………………………………….………..106
iv


3.3.3. Đa dạng về phương pháp bào chế thuốc………………………………...108

3.3.4. Một số kết quả ban đầu về kiểm nghiệm thực tế và cơ sở khoa học.......109
3.3.4.1. Kết quả điều tra thực tế hiệu quả của một số bài thuốc…………... …109
3.3.4.2. Kết quả kiểm chứng bài thuốc chữa viêm khớp dạng ong đốt.….……110
3.3.4.3. Xác định thành phần hóa học có trong thân cây Hoa dẻ lông đen. ..….110
3.4. Vấn đề bảo tồn tri thức bản địa và phát triển tài nguyên rừng…….…113
3.4.1.Thống kê số lượng người sử dụng thuốc dân tộc Thái trên địa bàn……..114

3.4.2. Thực trạng cây thuốc huyện Quế Phong và vấn đề bảo tồn………. 117
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ…………………………………………………119
Danh mục các công trình đã công bố
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
Phụ lục 1: Danh lục các loài thực vật được người dân tộc Thái sử dụng làm thuốc
ở huyện Quế Phong.
Phụ lục 2: Ảnh một số loài cây thuốc.
Phụ lục 3: Các hợp chất hóa học đã được tìm thấy có trong các loài cây thuốc ở
huyện Quế Phong.
Phụ lục 4: Các phiếu kiểm tra nồng độ acidt uric có trong máu của các bệnh nhân
bị bệnh gút.
Phụ lục 5: Các mẫu phiếu điều tra

Phụ lục 6: Danh sách các ông lang, bà mế hiện đang sinh sống trên địa bàn huyện
Quế Phong.
Phụ lục 7: Các phổ của các hợp chất trong thân cây Hoa dẻ lông đen
Phụ lục 8: Các phổ của các hợp chất trong thân cây Dây lửa ít gân

v


Danh mục các chữ viết tắt
Ca
Bu
CM
CT
Đ
Dl
DT
G
Ha
HD
Ho
KBTTN
Kh
KS
MN
N

:
:
:
:

:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:

Cả cây
Thân bụi
Cắm Muộn
Châu Thôn
§åi nói.
Dây leo
Dạng thân
Thân gỗ
Hạt
Hạnh Dịch
Hoa
Khu bảo tồn thiên nhiên
Khe
Kim Sơn
Mường nọc

:Nư¬ng rÈy, ven ®êng ®i.


Nh::Nhựa
NN
:
Nậm Nhóong
NS
:
Nơi sống
QP
:
Quang Phong
Qu
:
Quả
R
:Rõng s©u, rõng thưa
T:Thân
Th
:
Thân thảo
TL
:
Tri Lễ
TP
:
Tiền Phong
TT
:
Thông Thụ
V
:

Vên nhµ
Vr
:
Ven rõng
Vs
:
Ven suèi

vi


Danh mục các biểu đồ
Hình 3.1. Số lượng tỷ lệ % các taxa của các ngành cây làm
thuốc Hình 3.2. Tỷ lệ % Sự phân bố họ, chi, loài trong hai lớp
Hình 3.3. Tỷ lệ % các nhóm dạng thân của cây thuốc
Hình 3.4. Phân bố các loài cây thuốc
Hình 3.5. Phân bố số lượng các bộ phận sử dụng
Hình 3.6. Sự đa dạng về các nhóm bệnh được chữa trị
Hình 3.7. Sự đa dạng về cách sử dụng
Hình 3.8 Tỷ lệ số người dùng thuốc dân tộc

vii


DANH MỤC ĐỒ THỊ, HÌNH

Hình 3.1. Số lượng tỷ lệ % các taxon của các ngành cây làm thuốc
Hình 3.2. Sự phân bố họ chi, loài trong hai lớp của ngành Ngọc lan
Hình 3.3. Biểu đồ biểu hiện sự phân bố số lượng loài cây thuốc trong các chi
Hình 3.4. Tỷ lệ % các nhóm dạng thân của cây thuốc ở huyện Quế Phong

Hình 3.5. Phân bố các loài cây thuốc theo môi trường sống
Hình 3.6. Phân bố số lượng các bộ phận sử dụng của cây thuốc ở huyện Quế
Phong Hình 3.7. Sự đa dạng về các nhóm bệnh được chữa trị bằng cây thuốc ở
Hình 3.8. Biểu đồ thể hiện đa dạng về cách sử dụng.
Hình 3.9 Tỷ lệ số người dùng thuốc dân tộc ở các xã trên địa bàn.

viii


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận án.
Các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc Nghệ An nói chung và huyện Quế
Phong nói riêng có dân số lớn, phân bố rộng, trình độ dân trí thấp, đời sống cơ
bản đang gặp nhiều khó khăn. Do đặc thù về vị trí địa lí nên người dân ở đây
đang chịu nhiều thiệt thòi. Các vấn đề xã hội như giáo dục, y tế chưa được quan
tâm đúng mức, đặc biệt là vấn đề chăm lo sức khỏe của nhân dân. Dân số các
đồng bào dân tộc thiểu số chiếm một tỷ lệ lớn (90%) so với dân số toàn huyện,
trong đó dân tộc Thái có 50.523 người, chiếm khoảng 80%. Qua tìm hiểu chúng
tôi thấy đồng bào Thái đang lưu truyền rất nhiều bài thuốc chữa bệnh hay, thậm
chí một số bài thuốc truyền thống còn chữa bệnh hiệu quả hơn các phương pháp
chữa bệnh tiên tiến khác.
Do dân cư phân bố chủ yếu ở các vùng sâu, vùng xa, giao thông cách trở,
cơ sở y tế nghèo nàn, thuốc tây vừa thiếu, giá lại đắt nên ở đây người dân chủ yếu
chữa bệnh bằng kinh nghiệm của các ông lang bà mế. Đồng bào Thái gọi thầy
thuốc là “Xây hạc may”. Xây có nghĩa là thầy, hạc may nghĩa là rễ cây, “Xây hạc
may” có nghĩa là người thầy dùng cây để chữa bệnh. Trên thực tế, các ông lang
bà mế không nhiều, các bài thuốc chủ yếu chỉ truyền trong gia tộc, một số thầy
lang không truyền lại được cho đời sau. Như vậy, nguy cơ về việc thất truyền các
bài thuốc là có thật và việc chữa bệnh của đồng bào dân tộc Thái sẽ ngày càng

khó khăn hơn.
Người Thái sống chủ yếu dựa vào nguồn cung cấp lương thực, thuốc men
từ rừng, đó là nguồn tài nguyên vô giá. Tuy nhiên, nhưng năm gần đây nguồn tài
nguyên rừng đang bị tàn phá nghiêm trọng và ngày càng cạn kiệt. Nạn chặt phá
rừng, khai thác không có kế hoạch, ô nhiễm môi trường… đang diễn ra hàng
ngày, song song với những vấn nạn đó thì cây thuốc của đồng bào dân tộc Thái
cũng dần dần bị biến mất một cách nhanh chóng.

1


Hiện nay, việc nghiên cứu cây thuốc ở vùng Tây Bắc Nghệ An nói chung
chưa được quan tâm nhiều, đặc biệt ở Quế Phong - một huyện vùng núi cao giáp
Lào, nơi chứa đựng một kho tàng cây thuốc và các bài thuốc dân gian có giá trị
của dân tộc miền núi, đây là nguồn tư liệu tốt cho nền y học nước nhà. Xuất phát
từ thực tế đó nên tôi chọn đề tài “Điều tra cây thuốc và các bài thuốc của đồng
bào dân tộc Thái, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An nhằm bảo tồn tri thức bản
địa và định hướng phát triển tài nguyên rừng bền vững”
2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án

Đánh giá tính đa dạng về cây thuốc tại huyện Quế Phong, đặc biệt tại Khu
Bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt; thu thập các bài thuốc dân tộc Thái trên địa bàn
nghiên cứu để bảo tồn tri thức bản địa.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
3.1. Ý nghĩa khoa học

Luận án đánh giá một cách có hệ thống các loài cây thuốc trên địa bàn huyện
Quế Phong, thu thập các bài thuốc, cung cấp tư liệu cho ngành dược, y học cổ
truyền Việt Nam.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn


Huyện Quế Phong trong đó có Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt, có
nguồn tài nguyên thực vật đa dạng, phong phú, đặc biệt có nhiều loài thực vật
làm thuốc giá trị. Tuy nhiên, cho đến nay các nghiên cứu về thực vật học dân tộc
tại huyện Quế Phong nói chung và Pù Hoạt nói riêng đã được quan tâm nhưng
chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, do đó cần phải nghiên cứu cụ thể để phục
vụ công tác bảo tồn.
Luận án ngoài việc thống kê, đánh giá tính đa dạng cây thuốc còn ghi
chép các bài thuốc của các ông lang, bà mế để phục vụ cho việc lưu giữ cho thế
hệ sau, bảo tồn tri thức bản địa.
Đề xuất và đã thực hiện việc bảo tồn cây thuốc có giá trị trên địa bàn nghiên

cứu.
4. Những điểm mới của luận án

2


+ Điều tra lập danh lục 583 loài cây thuốc tại huyện Quế Phong được đồng bào
dân tộc Thái sử dụng để chữa bệnh.
+ Bổ sung 118 loài từ khu vực nghiên cứu vào từ điển Cây thuốc Việt Nam
2012.
+ Xác định, mô tả, bổ sung công dụng 15 loài cây thuốc quý có trong Sách Đỏ
Việt Nam (2007).
+ Thu thập nhiều bài thuốc thuộc nhiều nhóm bệnh khác nhau.
+ Mô tả đặc điểm sinh học, điều kiện sinh thái, công dụng của 64 loài cây
thuốc có giá trị.
+ Xác định thành phần hóa học của 2 loài cây thuốc Hoa dẻ lông đen (Desmos
cochinchinensis) và cây Dây lửa ít gân (Rourea oligophlebia).
+ Trồng bảo tồn cây Dây lửa ít gân (Rourea oligophlebia) theo phương pháp bảo

tồn nội vi (in-situ) vàbảo tồn ngoại vi (ex-situ).

5. Bố cục của luận án
Luận án gồm 119 trang, phụ lục 138 trang.
Mở đầu
Chương 1. Tổng quan tài liệu
Chương 2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Chương 3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Kết luận và kiến nghị
Phụ lục
Danh mục các công trình nghiên cứu liên
quan Tài liệu tham khảo
Phụ lục 1: Danh lục các loài thực vật làm thuốc

4 trang
23 trang
6 trang
84 trang
2 trang
2 trang
11 trang
49 trang
9 trang

Phụ lục 2: Ảnh một số loài cây thuốc.
Phụ lục 3: Các hợp chất hóa học có trong các loài cây thuốc

16 trang

Phụ lục 4: Các phiếu kiểm tra nồng độ acidt uric các bệnh nhân

bị bệnh gút.
Phụ lục 5: Các mẫu phiếu điều tra

8 trang

Phụ lục 6: Danh sách các thầy lang trên địa bàn huyện Quế
Phong

6 trang

3

3 trang


Phụ lục 7: Các phổ của các hợp chất trong thân cây hoa dẻ lông đen

18 trang

Phụ lục 8: Các phổ của các hợp chất trong cây dây lửa ít gân

16 trang

4


Chương 1.TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Tình hình nghiên cứu, sử dụng và bảo tồn cây thuốc một số nước
trên thế giới

1.1.1. Tình hình nghiên cứu về cây thuốc.
Trên thế giới, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, đều có những nền y học cổ
truyền mang nét đặc trưng. Các nghiên cứu có mức độ khác nhau tùy thuộc vào
sự đầu tư và phát triển của quốc gia đó.
Theo Anon (1996), trong cuốn “Lịch sử liên đại cây cỏ” ấn hành năm
1878, Charles Pikering đã chỉ rõ “ngay từ năm 4271 trước Công nguyên (TCN)
người dân khu vực Trung Cận Đông đã sử dụng nhiều loại cây (sung, vả, cau
dừa,..v.v.) để làm lương thực và chữa bệnh [1].
Trung Quốc và Ấn Độ được xem là cái nôi của y học cổ truyền. Các bài thuốc
chữa bệnh bằng cây cỏ hình thành sớm nhất ở các quốc gia này. Từ năm 3216
hoặc 3080 tr.CN, Thần nông – Một ông vua, đồng thời cũng là một nhà dược học
tài năng đã chú ý tìm hiểu tác động của cây cỏ đến sức khỏe của con người. Ông
đã thử nghiệm tác dụng các loài cây thuốc trên chính bản thân bằng cách uống,
nếm rồi ghi chép tất cả những hiểu biết đó vào cuốn sách "Thần nông bản thảo",
gồm 365 vị thuốc rất có giá trị [37].
Vào đầu thập kỷ thứ II nhân dân Trung Quốc đã biết dùng các loài cây cỏ để
chữa bệnh như: Nước chè đặc, rễ cây Cốt khí củ (Polygonum cuspidatum), vỏ rễ
cây Táo tầu (Zizyphus vulgaris) …để chữa vết thương; dùng các loài nhân sâm
(Panax) để phục hồi ngũ quan, trấn tĩnh tinh thần, chế ngự cảm xúc, giảm thiểu
kích động, sáng mắt …[37].
Cách đây 3000 - 5000 năm, người dân Trung Quốc đã dùng cây đại hồi (Illicicum
verum), người Ai Cập dùng nhiều loài trong chi Hương nhu (Ocimum L.) để làm thuốc
[91], người Ấn Độ dùng lá cây Ba chẽ (Desmodium triangulare) sao vàng sắc đặc để
trị kiết lị và tiêu chảy [38], cư dân một số nơi tại bang Madya Pradesh
5


dùng hương lau (Vetiveria zizaniodes) để trị giun sán, ngoài ra còn có tá dạng
chống nấm, diệt khuẩn và xua đuổi côn trùng [43]. Cho đến nay đã có rất nhiều
công trình nghiên cứu về cây thuốc tại đất nước này như: Nghiên cứu của

Ackerman W. L. vào năm 1978 về cây Sơn tra, hay của Akhtar Husain và các
cộng sự về các cây có chứa tinh dầu [37]
Trong chương trình điều tra cơ bản nguồn tài nguyên thiên nhiên ở khu
vực Đông Nam Á, Pery đã nghiên cứu và công bố hơn 1000 công trình khoa học
về thực vật và dược liệu được các nhà khoa học kiểm chứng (trong đó có 146 loài
có tính kháng khuẩn) và tổng hợp thành cuốn sách về cây thuốc vùng Đông Á và
Đông Nam Á "Medicinal Plants of East and Southeast Asia, 1985"[107].
Người Philipin dùng cải ma (Blumea lacera), để điều trị ho và mau lành
vết thương. Cây bạc hà (Mentha arvensis ) được nhiều nước trên thế giới sử dụng
phổ biến trong y học dân gian như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản [62].
Ở châu Âu dược thảo rất đa dạng và phần lớn dựa trên nền tảng của y học
truyền thống cổ điển. Người đầu tiên phải kể đến là Galen (131-200 SCN), một
thầy thuốc của Hoàng đế La Mã Marcus Aurelius, có ảnh hưởng sâu sắc đến sự
phát triển của các vị thuốc bào chế từ thảo mộc. Ông đã viết hàng trăm cuốn sách
và đã được áp dụng trong ngành Y châu Âu hơn 1500 năm[1].
Vào thế kỷ XVIII, William Withering (1741-1799) lần đầu tiên khám phá ra công
dụng chữa bệnh của cây thuốc Mao địa hoàng (Digitalis purpurea), mở ra sự phát
triển trong lịch sử y dược học [1].
Hiện nay, theo Đỗ Huy Bích, Trần Văn Ơn ước lượng có khoảng 35.000 – 70.000
loài trong số 250.000 -300.000 loài cây cỏ được sử dụng, vào mục đích chữa
bệnh ở khắp nơi trên thế giới. Trong đó Trung Quốc có trên 10.000 loài, Ấn Độ
có khoảng 7.500 loài, Inđônnêxia có 7.500 loài, Malaysia có khoảng 2.000 loài,
Nepal có 700 loài, SriLanka có khoảng 550-700 loài [12] .
Andrew(2006), đã tham khảo về lịch sử cổ truyền và dân gian của từng loại cây
đồng thời giải thích rõ những điều mà các nhà khoa học đã nghiên cứu về các

6


phần tử hoạt tính, tácdụng cũng như các ứng dụng tiềm năng mới của 550 loài

cây thuốc [1].
Theo WHO, mức độ sử dụng nguồn dược liệu ngày càng nhiều: ở Trung
Quốc tiêu thụ hết khoảng 700 ngàn tấn/năm, sản phẩm thuốc y học dân tộc đạt giá trị
khoảng 1,7 tỉ USD trong năm 1986. Tổng giá trị về thuốc có nguồn gốc từ thực vật
trên thị trường Châu Âu -Châu Mỹ và Nhật Bản 1985 đạt hơn 43 tỉ USD.

Song song với sự phát triển của Khoa học Công nghệ, con người đã khai
thác tinh dầu trong cây thuốc để phục vụ cho việc chữa bệnh rất hiệu quả. Các
nước Trung Hoa, Ấn Độ, Inđônêxia đã trở thành những nước sản xuất và chế biến
tinh dầu có khối lượng lớn. Các nước công nghiệp phát triển như Hoa Kỳ, Anh,
Pháp, Đức, Thụy Sỹ, Nhật Bản…rất chú trọng việc nhập tinh dầu thô và tái xuất
các sản phẩm đã qua chế biến đem lại lợi nhuận khổng lồ. Nhu cầu về tinh dầu
của các ngành công nghiệp dược phẩm ngày càng tăng lên. Trong những năm từ
1965 đến 1970, khối lượng tinh dầu được sản xuất và chế biến trên toàn thế giới
là 25.000 - 35 .000 tấn, nhưng đến năm 2000 đã lên đến 80.000 tấn, trong đó chỉ
riêng Trung Quốc sản xuất được 20.000 tấn, Braxin 17.000 tấn. Năm 1990, Trung
Quốc là nước xuất khẩu 14.963 tấn tinh dầu và thu về 141.967.000 USD. Giá cả
tinh dầu trên thị trường không giống nhautuỳ thuộc vào chất lượng, số lượng, nhu
cầu và chủng loại. Quí và đắt nhất là tinh dầu Trầm hương (96 - 100 ngàn
USD/kg), sau đó đến tinh dầu hoa Hồng (7.300 - 7.600 USD/kg) và tinh dầu
Vông vang (5.000 USD/kg) [63]. Riêng sản lượng chung của loại tinh dầu bạc hà
trên thế giới hàng năm vào khoảng 7.500-9.000 tấn. Trung Quốc, Ấn Độ, Braxin
là những nước sản xuất tinh dầu bạc hà lớn nhất thế giới [106] . Khối lượng tinh
dâu hoắc hương hàng năm trên 1.000 tấn, các nước sản xuất tinh dầu hoắc hương
nhiều nhất là Inđônêxia, Trung Quốc, Malaixia và Singapo [74]. Điều này chứng
tỏ rằng ở các nước công nghiệp, phát triển cây thuốc phục vụ cho nền y học cổ
truyền cũng rất mạnh. Cây thuốc là loại cây kinh tế, cung cấp nhiều loài thuốc
dân tộc và hiện đại trong việc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho con người .
7



Từ năm 1990 các tác giả: Chung R. C. K. & Purwaningsh, Flach M. &
Rumawas F., Flash M. & Siemonsma J. S, Jansen P. C. M., Kochummen K. M.,
Wong W. C., Sudo S. & Frietema F. T., Latiff A. M., Lememns R.H.M.J. &
Wulijarni – SoetjiptoN., Lucie Widowati, Marfu ah Wardani, Mulyati Rahaya N.
& Halijah Ibrahim,... đã có nhiều công trình nghiên cứu về cây thuốc, tinh dầu
đăng trong “Tài nguyên thực vật Đông Nam Á” [111].
Boelens M. H. (1994) cũng đã có công trình nghiên cứu đánh giá hoạt
chất và đặc tính hóa học của tinh dầu các loài cỏ ở vùng nhiệt đới [105].
Brian M. Lawrence (1994) đã công bố nghiên cứu về tinh dầu các loài
thực vật.Trong giai đoạn 1994-1997 đã có nhiều nghiên cứu về tinh dầu như của
Makkar H.P.S., Backer K, Charles D. J., Simon J. E., Widrlechner M. P., Singl N.
K. [105].
Trung Quốc có bá rộng rãi một dược phẩm mới mang tên “Di-fu-zi”, đây
là loại thuốc có tác dụng lợi tiểu và chống nấm được chế biên từ cây
Chenopodium ambrosioides [63] .
Trong khoảng 30 năm gần đây, Viện Ung thư Hoa Kỳ (CNI) đã điều tra nghiên cứu
sàng lọc hơn 40.000 mẫu cây thuốc, phát hiện hàng trăm cây thuốc có khả năng chữa
trị bệnh ung thư, 25% đơn thuốc ở Mỹ sử dụng chế phẩm có dược tính mạnh được
điều chế từ một loài Hoa hồng (Catharanthus roseus). Theo Richard Primarck
(1995) ở Madagasca, người ta dùng cây này để chữa bệnh máu trắng cho trẻ em và
rất hiệu quả, đã làm tăng tỷ lệ sống của trẻ em từ 10 lên đến 90% [72].

1.1.2.Vấn đề trồng bảo tồn cây thuốc trên thế giới.
Trước đại chiến thế giới lần thứ nhất, đảo Java của Inđônêxia đã trồng Hương
lau (Vetiveria zizaniodes) để xuất khẩu sang châu Âu (chủ yếu xuất khẩu sang Đức,
Pháp, Anh) [62]. Hiện nay ở Philipin và Inddooxixia đã đưa loài dầu giun
(Chenopodium ambrosioides ) để làm thuốc [63]. Tại Inđonêxia người ta đã trồng
địa liền (Kaempferia galanga ) tại miền Trung đảo Java và Miền tây đảo Sumatra đã
đạt khoảng 2000 ha, với sản lượng thân rễ tươi chừng 20.000 tấn/năm

[111].

Những năm gần đây Ấn Độ, đã trồng và sản xuất Gừng (Zingiber

officinale) với diện tích ngày càng tăng. Năm 1980 là 300.000 tấn, đến năm 1990
8


lên 500.000 tấn, năm 1998 lên tới 600.000 tấn, các nước Trung Quốc,
Inddooneexxia, Nigieria, Jamaica… là những nước sản xuất Gừng nhiều nhất thế
giới [111].
Hiện nay tại các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam của Trung Quốc,
nhiều nơi tại Nhật Bản cây màng tang (Litsea cubeba ) được coi là đối tượng gieo
trồng rừng và đã tạo ra thành những quần thể trên diện tích lớn để lấy quả cất tinh
dầu, làm dược liệu [62].
Theo P. Raven (1987) và Ole Harmann (1988), trong vòng hơn 100 năm
trở lại đây, có khoảng 1.000 loài thực vật đã bị tuyệt chủng, có tới 60.000 loài gặp
rủi ro hay sự tồn tại của chúng bị đe doạ vào thế kỷ tới. Trong số những loài thực
vật đã mất đi hoặc đang bị đe doạ gay gắt, có một tỷ lệ không nhỏ là thực vật làm
thuốc [16]. Để phục vụ mục đích chăm sóc bảo vệ sức khỏe cho con người, và để
chống lại bệnh tật, thì sự kết hợp giữa Đông - Tây y, giữa y học hiện đại với Y
học cổ truyền của các dân tộc là điều cần thiết. Chính từ những kinh nghiệm của
Y học cổ truyền đã giúp cho nhân loại khám phá ra những loài thuốc có ích. Vì
vậy, việc khai thác kết hợp với bảo tồn các loài cây thuốc là điều hết sức quan
trọng. Các nước trên thế giới đang hướng về mục tiêu thực hiện chương trình
quốc gia kết hợp sử dụng, bảo tồn và phát triển bền vững cây thuốc.
1.2. Tình hình nghiên cứu, sử dụng và bảo tồn cây thuốc ở Việt Nam.
1.2.1. Tình hình nghiên cứu về cây thuốc
Dân tộc Việt Nam bước vào thời kỳ Trung đại dưới nền đô hộ của các triều
đại Triệu- Hán - Nguỵ - Tấn - Tống - Tề - Lương - Tuỳ - Đường (179 tr. CN

-

938 sau CN). Dưới các thời kì này, người Việt Nam thuộc tầng lớp trên đã được

giới thiệu một nền y học kinh điển thông qua các thầy thuốc đến từ Trung Quốc
như Đổng Phụng (187 - 226), Lâm Thắng (479 - 501). Trong giai đoạn này, một
số dược liệu của Việt Nam đã được ghi vào Dược điển của Trung Quốc như: Ý
dĩ, Sắn dây (Danh Y biệt lục), Đậu khấu (Hải Nam bản thảo - đời Đường), Sử
quân tử (Bản thảo khai bảo - đời Tống), Sả (Bản thảo thập di).
9


Trầu, Cau (Tô cung bản thảo), Hương bài, Khổ qua, Bí ngô, Lười ươi (Bản thảo
cương mục) [119].
Nền y học nước nhà qua các thời kỳ lịch sử đều gắn liền với tên tuổi của các
Lương y nổi tiếng. Ngay từ thời vua Hùng Vương dựng nước qua các văn tự Hán
Nôm còn sót lại (Đại Việt sử ký, Lĩnh nam chích quái liệt truyện, Long uy bí
thư...) [37]. Đời nhà Lý (1010- 1224) nhà sư Nguyễn Minh Không đã dùng nhiều
cây thuốc chữa bệnh cho vua và nhân dân, đến đời nhà Trần có nhiều danh y nổi
tiếng như Phạm Công Bân, Tuệ Tĩnh [89].
Tuệ Tĩnh được phong là ông tổ ngành dược Việt Nam và là người mở đầu cho
nền y dược cổ truyền Việt Nam. Ông đã biên soạn bộ sách “Hồng Nghĩa giác tư y
thư”biên soạn bằng quốc âm, trong đó có 630 vị thuốc, giới thiệu 13 đơn thuốc
chữa tạp bệnh, 37 đơn thuốc chữa bệnh thương hàn (Thập tam phương thuốc gia
giảm và tam thập thất tùy pháp) [56], [35].
Đến thời vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Lê trung hưng, ở ngôi từ năm 1705 đến năm
1729 thời vua Lê Dụ Tông lại được biết đến Danh y Hải Thượng Lãn Ông, [56],
[33]. Ông để lại nhiều tác phẩm lớn như “Y tông tâm lĩnh” (1770), nay người ta
gọi là “Hải Thượng y tông tâm lĩnh” được viết trong vòng 10 năm, gồm 28 tập,
66 quyển chắt lọc tinh hoa của y học cổ truyền, được đánh giá là công trình y học

xuất sắc nhất trong thời trung đại Việt Nam và“không chỉ có giá trị về y học mà
còn có giá trị văn học, lịch sử, triết học”[33].
Thời kỳ Tây Sơn (1788-1802) có Danh y Nguyễn Quang Tuân có tập “Nam
Dược”, “Nam dược chỉ danh truyền”, “La khê phương dược” ghi chép 500 vị
thuốc nam trong dân gian dùng để chữa bệnh [38],[120].
Danh y Gia Phan (1748 – 1817), ông là tác giả các bộ sách “Liệu dịch
phương pháp toàn tập” viết về bệnh truyền nhiễm; “Hộ Nhi phương pháp tổng
lục”, viết về Nhi khoa và “Lý Am phương pháp thông lục” về Phụ khoa [116].
Thời nhà Nguyễn (1802-1884) có quyển “Xuân Đình y án kinh trị chủ
chứng‟‟ chuyên về bệnh ôn dịch và thời khí của Lê Kinh Hạp [116].

10


Thời Pháp thuộc (1884 – 1945), Y học cổ truyền Việt Nam bước vào thế kỷ XX,
ngoài những tác phẩm y học biên soạn bằng chữ Hán Nôm như: “Vệ sinh yếu
chỉ‟‟ (1901) của Bùi Văn Trung ở Nam Định, “Bí truyền tập yếu‟‟ (1906) của
Lê Tư Thúy ở Hà Nam, còn có những tài liệu y học viết bằng chữ Quốc ngữ:
“Việt Nam Dược học‟‟ của Phó Đức Thành, “Nam Dược bộ‟‟ của Nguyễn An
Cư, “Trung Việt Dược tính hợp biên‟‟ gồm 1500 vị thuốc của Đinh Nho Chấn…
[119].
Giai đoạn từ năm 1945 đến nay đã có nhiều nhà khoa học, nghiên cứu về
cây thuốc, có nhiều tác phẩm như : “Thuốc Nam châm cứu‟‟ (1960) của Viện
Đông y, 450 cây thuốc (1962) của Phó Đức Thành, “Sổ tay thuốc nam thường
dùng ở cơ sở” của Bộ Y tế ghi chép các loài cây thuốc được dùng chữa trị ở các
địa phương, [14], Võ Văn Chi (1991) đã tổng hợp các mô tả cây thuốc của tỉnh
An Giang [18];“Tính kháng khuẩn của cây thuốc Việt Nam‟‟ (1975) của Nguyễn
Đức Minh [60], “Tóm tắt đặc điểm các họ cây thuốc (1976) " của Vũ Văn
Chuyên [27], "Sổ tay cây thuốc Việt Nam" (1980) của Đỗ Huy Bích, Bùi Xuân
Chương đã giới thiệu 519 loài cây thuốc trong đó có 150 loài mới phát hiện [10],

"Danh lục cây thuốc Miền Nam Việt Nam", tập "Atlas cây thuốc" đã công bố về
danh sách cây thuốc ở Miền Bắc là 1114 loài, Miền Nam là 1119 loài. Tổng hợp
trong cả nước đến năm 1985 là 1863 loài và dưới loài, phân bố trong 1033 chi,
236 họ, 101 bộ, 17 lớp, 11 ngành [25], tác giả Trần Đình Lý và cộng sự (1993)
cho xuất bản cuốn "1900 loài cây có ích ở Việt Nam" [57].
Năm 1993, Đỗ Huy Bích đã công bố kết quả nghiên cứu về tài nguyên cây
thuốc Việt Nam [9]. Năm 2003, Đỗ Huy Bích và các công sự của Viện dược liệu
đã giới thiệu 920 loài cây thuốc, 80 loài động vật làm thuốc và giới thiệu gần
1.000 bài thuốc chữa các bệnh thường gặp trong bộ "Cây thuốc và động vật làm
thuốc ở Việt Nam" [11]. Năm 2011, Đỗ Tất Lợi đã tiếp tục tái bản bổ sung cuốn
"Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam" đã được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh
về khoa học kỹ thuật, ông mô tả tỉ mỉ tên khoa học, phân bố, công dụng, thành
phần hóa học của 792 loài cây thuốc chia theo các nhóm bệnh khác nhau [56].
Năm 2012, Võ Văn Chi,đã cho tái bản có bổ sung cuốn “Từ điển cây
11


thuốc Việt Nam”, gồm 2 tập, là công trình đồ sộ ghi chép 4472 loài cây thuốc có
ở Việt Nam [21].
Những năm gần đây đã có rất nhiều các nghiên cứu sâu về cây thuốc như công
trình “Nghiên cứu thành phần hóa học và tác dụng dược lý theo hướng điều trị
loét dạ dày của rễ cây sâm báo (Abelmoschus sagittifolius ) họ Bông
(Malvaceae)” của Đào Thị Vui (2007) [102]; “ Nghiên cứu thành phần hóa học và
một số tác dụng sinh học của cây cao cẳng (Ophipogon confertifolius, họ Mạch
môn – Convallariaceae” Nguyễn Thị Vinh Huê (2009), [47]; „Nghiên cứu một số
tác dụng dược lí của Tam thất hoang (Panax stipuleanatus Tsai et Feng), họ
Araliaceae” củaNguyễn Thị Thu Hương(2009) ;“Nghiên cứu đặc điểm thực vật,
thành phần hóa học và một số tác dụng sinh học của cây vọng cách Premna sp.
thu hái ở Nam Định”của Nguyễn Thị Bích Hằng (2010) [38]; “ Tài nguyên cây
thuốc họ Na ở Việt Nam” của Đỗ Ngọc Đài, Phạm Hồng Ban (2011)

[29]

và “Nghiên cứu đa dạng cây thuốc Tây Bắc Nghệ An [2012]; „Nghiên cứu

tác dụng trên bệnh Gút thực nghiệm của cây hy thiêm (Siegesbeckia orientalis )”
của Nguyễn Thị Thùy Dương (2012) [28]; “Nghiên cứu thành phần hóa học và
một số tác dụng dược lý của cây mạ mân (Aganope balansae )” của Trần Quốc
Toản (2012) [84]; Nghiên cứu thành phần hóa học và một số tác dụng dược lý
của loài trám hồng (Canarium bengalense) củaHoàng Thị Lê (2012) [54]; “
Nghiên cứu tác dụng hạ Glucose huyết của rễ cây chóc máu nam (Salacia
cochinchinensis )”của Đỗ Thị Nguyệt Quế (2013) [71].
Năm 2014, Nguyễn Thị Thu Hương đã công bố kết quả nghiên cứu “ Nghiên cứu
tính đa dạng nguồn cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng dân tộc ở tỉnh Thái
Nguyên nhằm bảo tồn và phát triển bền vững” [48].
1.2.2. Tình hình nghiên cứu, trồng bảo tồn, phát triển cây thuốc và bài thuốc
ở Việt Nam
1.2.2.1. Công tác điều tra
Đến nay, đã có nhiều công trình điều tra về cây thuốc dân tộc của các nhà khoa
học trên khắp cả nước. Theo thống kê sơ bộ của Nguyễn Bá Hoạt (2013) đã có
một số kết quả nghiên cứu như: cây thuốc của Người Dao (khu vực Vườn Quốc
gia Ba Vì): 579 loài và 125 bài thuốc; người Mường (Cẩm Liên, Cẩm Thủy,
12


Thanh Hóa): 206 loài và 32 bài thuốc;

người Tày:(Vị Xuyên, Hà Giang): 292

loài; Người Tày - Nùng (Tràng Đinhk, Lạng Sơn): 126 loài và 51 bài thuốc; Bản
Mường (xã Vĩnh Lạc, Lục Yên, Yên Bái): 40 loài và 40 bài thuốc; 85 bài thuốc

của cộng đồng người Dao; 72 bài thuốc của cộng đồng người H'Mông; 16 bài
thuốc của cộng đồng người Thái và Khơ Mú; 11 bài thuốc của cộng đồng Bru Vân Kiều [94].
Từ năm 1961 đến năm 1985 là giai đoạn điều tra cơ bản, Viện Dược liệu tiến
hành điều tra dược liệu và công bố ở Miền Bắc từ năm 1961 đến 1974 đã điều tra
1905 xã, thuộc 20 tỉnh và thành phố. Kết quả đã phát hiện được 1114 loài thực
vật được dùng làm thuốc [91].


Năm 1985, công tác điều tra cơ bản lần thứ nhất về dược liệu trên toàn quốc đã
được hoàn thành. Tổng số các địa phương đã được tổ chức điều tra bao gồm 2715
xã - phường, thuộc 357 huyện - quận và 42 tỉnh - thành phố. Kết quả đã ghi nhận
được Danh lục cây thuốc gồm 1863 loài thực vật bậc cao cũng như bậc thấp được
sử dụng làm thuốc, thuộc 1033 chi, 236 họ, 11 ngành [92], [93].
Sau khi kết thúc giai đoạn điều tra cơ bản lần thứ nhất, từ năm 1986 đến nay
công tác điều tra dược liệu không tiến hành một cách rộng rãi như trước kia. Tuy
nhiên, trong khuôn khổ các đề tài nghiên cứu, Viện Dược liệu vẫn phối hợp với
các địa phương và các ngành có liên quan tiếp tục tiến hành công việc điều tra
cây thuốc tại các tỉnh Thanh Hóa, Hà Giang, Lào Cai… và đồng thời nghiên cứu
sâu về khả năng khai thác, tái sinh và phát triển nhiều cây thuốc có giá trị như
Chè hoa vàng, Sa nhân, Bảy lá một hoa, Sâm ngọc linh, Bình vôi…[95].
Đến năm 2001, Viện Dược liệu đã tiến hành tổng hợp kết quả điều tra thu
thập cây thuốc, đã thống kê được 3850 loài thực vật và Nấm lớn có công dụng
làm thuốc ở Việt Nam[95].
Trong hội nghị dược liệu toàn quốc lần thứ nhất(2003) “Phát triển dược liệu bền
vững trong thế kỷ 21”, Viện Dược liệu đã tổng hợp quá trình phát triển dược liệu;
công tác quản lý và chế độ chính sách về dược liệu; nguồn tài nguyên dược liệu Việt
Nam; trồng cây thuốc tạo nguồn nguyên liệu cho công nghiệp dược và chế biến sau
thu hoạch; nghiên cứu sản xuất và hiện đại hóa thuốc Y học cổ truyền; đánh giá chất
lượng dược liệu ; cách trồng và chế biến; vai trò của dược liệu
13



tham gia vào cơ cấu cây trồng trong vườn gia đình, vườn trang trại; tình hình thị
trường dược liệu tham gia xuất khẩu; bảo tồn nguồn gen và cây thuốc cổ truyền
[94].

Từ năm 2001-2004, Nguyễn Tập với đề tài "Điều tra, đánh giá về tiềm năng và
hiện trạng nguồn dược liệu Việt Nam. Đề xuất các giải pháp khai thác hợp lý đi
đôi với việc bảo vệ, phát triển và sử dụng lâu bền”đã tiến hành điều tra ở một số
vùng rừng của 7 tỉnh như: Bắc Kạn, Đắk Lắk, Gai Lai, Kon Tum, Lai Châu, Lâm
Đồng, Tuyên Quangtổng hợp toàn bộ kết quả điều tra của Viện Dược liệu từ 1961
đến 2004, cùng với từ các nguồn tài liệu đã được công bố, đã xây dựng được
Danh lục cây thuốc Việt Nam (3948 loài), trong đó chỉ có 500 loài là cây thuốc
trồng hoặc cây trồng khác được sử dụng để làm thuốc và có 136 loài nguy cấp
cần được bảo vệ [77] Ngoài ra Nguyễn Tập cũng đã có rất nhiều công trình khoa
học nghiên cứu về cây thuốc như “Nguồn lợi cây thuốc trong rừng Việt Nam ”
[78].“Tổng quan về nguồn tài nguyên dược liệu Việt Nam”,[81] “ Cẩm nang cây
thuốc cần được bảo vệ ở Việt Nam”[83],…các công trình đã công bố thực trạng
dược liệu ở Việt Nam, đồng thời mô tả chi tiết đặc điểm sinh học, công dụng, nơi
phân bố của các loài thực vật quý cần được bảo vệ như cây từ mỏng (Dioscorea
membranacea), tỏa dương (Balanophora laxiflora), thủy xương bồ lá to (Acorus
macrospadiceus)…[83].
Gần đây, có nhiều công trình khoa học nghiên cứu theo hướng trồng và bảo tồn
cây thuốc.Viện dược liệu (2008) đã thống kê 50 đề tài khoa học các cấp về kỹ
thuật trồng cây thuốc chủ yếu báo cáo kết quả nghiên cứu của các đề tài thuộc
lĩnh vực đánh giá các giải pháp kỹ thuật ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng
dược liệu để xây dựng qui trình kỹ thuật trồng và chế biến dược liệu sau thu
hoạch, công bố kết quả nghiên cứu của các đề tài thuộc lĩnh vực nhập nội cây
thuốc, chọn tạo giống, nhân giống, các giải pháp nâng cao chất lượng giống, xây
dựng tiêu chuẩn giống, sản xuất giống và đề xuất công tác quản lý giống cây

thuốc, đồng thời thống kê kết quả sau 20 năm nghiên cứu bảo tồn nguồn gen và
giống cây thuốc, bảo tồn cây thuốc và tri thức dân tộc của cộng đồng [99]. Tiếp
đến, năm 2009 Viện Dược liệu đã công bố một số kết quả của các dự án khai thác phát
triển nguồn gen cây thuốc và định hướng phát triển (về sâm Việt Nam (Panax); trinh
nữ hoàng cung (Crinum asiaticum); các loài nấm dược liệu tại
14


VN…) [100]. Hiện nay, công tác điều tra được tiến hành tại các tỉnh Lâm Đồng,
Sơn La, Bình Dương, Điện Biên, để tiếp tục đánh giá được tiềm năng và hiện
trạng nguồn dược liệu.
1.2.2.2.Về công tác bảo tồn cây thuốc, phát triển nguồn dược liệu:
Hoạt động trồng cây thuốc đã được trồng nhiều tại các huyện miền núi khác nhau


trong nước như Hà Giang( Quản Bạ, Đồng Văn, Mèo Vạc, Hoàng Su Phì, Phó

Bảng), Lạng Sơn (Mẫu Sơn), Yên Bái (Văn chấn, Lục Yên), Lai Châu (Sìn Hồ),
Lào Cai (Sa Pa, Bát Xát, Bắc Hà), Quảng Nam (Trà My), Lâm Đồng (Đà Lạt),
v.v…Có những vung chuyên trồng cây thuốc như làng Nghĩa Trai (Văn Lâm,
Hưng Yên) trồng đại trà hơn 10 loài cây thuốc, vùng Mễ Sở, Đa Ngưu (Khoái
Châu) [90] . Tại trạm nghiên cứu trồng cây thuốc Sa Pa đã trồng thành công 3
vườn bảo tồn chuyển chỗ (ex situ) loài 5834 cây ngũ gia bì hương
(Ancanthopanax gracilistylus), 7314 cây ngũ gia bì gai (Ancanthopanax
trifoliatus),1511 cây sâm vũ điệp (Panax bipinatifidus), 1979 cây tam thất hoang
(Panax stipuleanatus) [44], [45],[46] .
Hiện nay, bảo tồn và phát triển nguồn dược liệu đã được nhà khoa học nghiên
cứu, nhà nước quan tâm và đầu tư mạnh. Nhiều cây thuốc đã được các nhà khoa
học, các doanh nghiêp đầu tư nghiên cứu bảo tồn và phát triển như:Sa nhân
(Amomum longiligulare), Giảo cổ lam (Gynostemma pentaphyllum), Chè hoa

vàng (Camellia chrysantha), Trinh nữ hoàng cung (Crinum asiaticum )...
Có khoảng trên 40 loài cây thuốc bản địa đã được trồng ở Việt Nam. Ở Yên
Bái,Thanh Hóa, Lào Cai, hàng năm cung cấp hàng nghìn tấn quế. Lạng Sơn, Cao
Bằng,Quảng Ninh: Cung cấp thảo quả; Sơn La, Hòa Bình: Cung cấp ý dĩ…[94].
Năm 2015, trên phạm vi cả nước đã có nhiều vườn cây thuốc được xây dựng trên
các địa phương như: Nghệ An 1 vườn; Hà Nội 1 vườn; Vùng Sa Pa 8 vườn; khu vực
Vườn Quốc gia Bạch Mã 4 vườn; Yên Bái 2 vườn; Hòa Bình 1 vườn; Thanh Hóa 1
vườn; Lạng Sơn 4 vườn; Hà Giang 1 vườn; Vĩnh Phúc 1 vườn.

Tại các Vườn Quốc gia: Tam Đảo, Bến En, Cát Tiên, Ba Bể, Ba Bể, Cúc Phương,
đã trồng được 120 loài cây thuốc.

15


Năm 2015, tại huyện Tây Giang (Quảng Nam) đã quyết định nhân rộng mô hình
trồng sâm ba kích (Morinda officinalis)dưới tán rừng tự nhiên từ với diện tích
gần 5 ha, đây là mô hình thuộc dự án giảm nghèo do Tổ chức phi chính phủ
Malteser (CHLB Đức) tài trợ nhằm tạo nguồn gen quý, giúp các nhóm hộ đồng
bào huyện Tây Giang tăng thu nhập.
1.2.2.3. Về bài thuốc
Năm 1965, Hội Đông Y Việt Nam đã thu thập và công bố 50 bài thuốc chữa vết
thương bỏng [50]. Tính đến năm 2007, trên cả nước đã tập hợp được 39.381 bài
thuốc kinh nghiệm dân gian gia truyền của 12.351 lương y [12], trong đó có các
bài thuốc quý giá từ các loài rau được Võ Văn chi (1998) mô tả cụ thể, đồng thời
ghi chép cách thu hái, chế biến [19]. Nguyễn Đức Hoàn (2005) đã công bố các
bài thuốc từ 31 loài rau [40], đến năm 2015 có nhiều bài thuốc đã được bổ sung,
tuy nhiên chưa có tài liệu tổng hợp cụ thể.
Mặc dù công tác điều tra, đánh giá, trồng bảo tồn, phát triển cây thuốc và bài thuốc ở
Việt Nam đã được Đảng, Nhà nước quan tâm, tuy nhiên chưa đáp ứng được nhu cầu

về dược liệu, chưa tương xứng với tiềm năng hiện có của chúng ta.

1.3. Tình hình nghiên cứu cây thuốc ở Nghệ An
Nghệ An là một tỉnh có diện tích rừng lớn, phong phú và có nhiều loài cây thuốc.
Các khu rừng chạy dọc theo dãy Trường Sơn và nhiều huyện miền núi được đánh
giá là một trong những trung tâm về đa dạng sinh học.
Tài nguyên thực vật ở Nghê An được tập trung chủ yếu ở vùng Tây Bắc và Tây
Nam, nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống lâu đời như Thái, Thổ,
Tày, Mường... Cuộc sống của người dân ở đây chủ yếu sống nhờ vào rừng, lương
thực, thực phẩm và cây thuốc.
Trong danh mục cây thuốc và vị thuốc thiết yếu của Bộ Y tế, Nghệ An có
41 loài nằm trong 206 loài cây thuốc mọc tự nhiên được khai thác và sử dụng.
Nghệ An cũng nằm trong Quy hoạch tổng thể phát triển dược liệu đến năm 2020
tầm nhìn 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
16


×