Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Báo cáo tốt nghiệp MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.31 KB, 39 trang )

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

1.1

Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài

Pháp luật với tư cách là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nó luôn tác động và
ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến các quan hệ xã hội nói chung và tới các đối tượng mà nó điều
chỉnh nói riêng, vì vậy để pháp luật phát huy được vai trò, tác dụng và giá trị to lớn của nó
thì cần phải xây dựng một hệ thống pháp luật có tính khoa học, đảm bảo tác động có hiệu
quả đến các đối tượng mà pháp luật cần điều chỉnh.
Trong những năm gần đây, tình trạng người chưa thành niên vi phạm pháp luật xảy ra
khá phổ biến, điều cần lưu ý là hành vi vi phạm pháp luật hình sự của người chưa thành niên
ngày cành gia tăng. Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội là một việc khá phức tạp bởi
người chưa thành niên còn yếu về nhận thức, hành vi của họ thường mang tính bột phát do
bị lôi kéo hoặc kích động, họ chưa đủ khả năng làm chủ hành động của mình hơn nữa họ còn
có một tương lai dài phía trước. Do đó, không thể áp dụng các biện pháp xử lý người chưa
thành niên phạm tội giống với những người đã thành niên.
Hiện nay, trong hệ thống pháp luật của nước ta đã có những quy định xử lý riêng đối
với người chưa thành niên phạm tội, những quy định này đã đem lại lợi ích cho những người
chưa thành niên phạm tội nhưng trong những năm gần đây số lượng người chưa thành niên
vi phạm hình sự không có dấu hiệu giảm đi, vì thế cần nghiên cứu, đánh giá chính xác hiệu
quả của pháp luật trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên để đề
ra những quy định phù hợp vừa giúp nâng cao hiệu quả của pháp luật, vừa làm giảm được vi
phạm của người chưa thành niên.
Do đó, việc nghiên cứu đề tài “Trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi trong
luật hình sự Việt Nam. Lý luận và thực tiễn” là vấn đề mang tính thời sự và cấp thiết.
1.2

Những vấn đề được xác lập và tuyên bố trong đề tài



Nghiên cứu tập trung làm sang tỏ những vấn đề cơ bản sau đây:
- Những vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên
- Pháp luật hiện hành về việc truy cứu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên
- Thực trạng về việc vi phạm hình sự của người chưa thành niên
- Thực trạng về việc truy cứu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm
tội
- Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về việc truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người chưa thành niên phạm tội

1


- Một số giải pháp nhằm làm giảm vi phạm hình sự của người chưa thành niên
1.3

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

Nghiên cứu có một số mục tiêu sau đây:
- Nắm được và hiểu rõ được một số vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm hình sự của
người chưa thành niên
- Hiểu rõ một số quy định của pháp luật về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người chưa thành niên phạm tội
- Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của người chưa thành niên
- Nắm được thực trạng về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành
niên phạm tội
- Tăng thêm tài liệu để tìm hiểu về lý luận và thực tiễn về việc truy cứu trách nhiệm
hình sự của người chưa thành niên
- Đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về việc xử lý
người chưa thành niên phạm tội

- Đề xuất những giải pháp làm giảm vi phạm hình sự của người chưa thành niên
1.4

Những câu hỏi đặt ra trong nghiên cứu

Để có thể đạt được những mục tiêu nêu trên, nghiên cứu cần làm sang tỏ những vấn
đề lý luận và thực tiễn, để làm sáng tỏ những câu hỏi sau đây:
- Thế nào là người chưa thành niên?
- Hành vi như thế nào là vi phạm hình sự?
- Nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng vi phạm hình sự của người chưa thành niên
ngày càng gia tăng
- Tình hình truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ở
nước ta trong thời gian qua như thế nào?
- Các biện pháp xử lý hình sự đối với người chưa thành niên trong hệ thống pháp luật
nước ta có phù hợp và hiệu quả không?
- Để làm giảm hành vi vi phạm hình sự của người chưa thành niên, cần tiến hành
những giải pháp nào?
1.5

Phương pháp nghiên cứu

2


Nghiên cứu được tiến hành bằng nhiều phương pháp khác nhau như: phương pháp
thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, điều tra xã hội học; bằng phương pháp đánh giá thực
trạng nghiên cứu, khảo cứu các tài liệu có lien quan đến việc nghiên cứu.
1.6

Phạm vi nghiên cứu


Do việc nghiên cứu trách nhiệm hình sự của người chưa thành là vấn đề được đặc biệt
quan tâm trong thời gian gần đây, nên để phục vụ cho mục tiêu đã đạt ra, nghiên cứu được
giới hạn trong khoảng thời gian từ năm 2005 tới nay..
1.7

Ý nghĩa của nghiên cứu

Nghiên cứu đã góp phần làm hoàn thiện một số vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm
hình sự của người chưa thành niên, từ đó tạo cơ sở cho việc nhận thức một cách đúng đắn
nhất về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên và việc miễn truy cứu trách nhiệm
hình sự của người chưa thành niên, góp phần nâng cao trách nhiệm của người chưa thành
niên vi phạm hình sự, áp dụng những vấn đề lý luận cơ bản này nhằm nâng cao tính khả thi,
hiệu quả của pháp luật, bồi dưỡng nâng cao nhận thức của các cán bộ thuộc các cơ quan
chức năng, đặc biệt là của những người chưa thành niên, nâng cao năng lực quản lý của nhà
nước.
Kết quả của nghiên cứu có thể được sử dụng trong các đề tài nghiên cứu khoa học về
các vấn đề liên quan tới trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên.
Kết quả của quá trình nghiên cứu có thể được dùng làm tài liệu trong các buổi tuyên
truyền, tư vấn nhằm nâng cao nhận thức cho người chưa thành niên, qua đó góp phần làm
giảm số lượng vụ án vi phạm hình sự do lứa tuổi này gây ra.
Nghiên cứu giúp cơ quan chức năng có cái nhìn chính xác, sâu sắc về động cơ dẫn tới
hành vi vi pham hình sự của người chưa thành niên từ đó đưa ra hướng giải quyết nhanh,
hợp lý và hiệu quả.
1.8

Kết cấu báo cáo của nghiên cứu

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục và phụ lục nghiên cứu còn có cấu trúc 4
chương.


3


CHƯƠNG 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN
2.1 Khái niệm trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên
2.1.1 Khái niệm trách nhiệm hình sự
2.1.1.1 Trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự (TNHS) là một trong những vấn đề lý luận phức tạp, là một
thuật ngữ pháp lý được sử dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự
( PLHS). Từ trước đến nay xung quanh khái niệm TNHS vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm
khác nhau. Hiện nay, trong khoa học Luật hình sự Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm
khác nhau, ví dụ như:
PGS.TSKH. Lê Cảm định nghĩa : “TNHS là hậu quả pháp lý của việc thực
hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một hoặc nhiều
biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Luật hình sự quy định” [5, tr.122];
GS.TSKH. Đào Trí Úc viết: “TNHS là hậu quả pháp lý của việc phạm tội, thể
hiện ở chỗ người đã gây ra tội phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình trước Nhà nước”
[6, tr.41];
GS.TS. Đỗ Ngọc Quang quan niệm: “TNHS là một dạng trách nhiệm pháp lý,
là trách nhiệm của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
PLHS bằng một hậu quả bất lợi do Tòa án áp dụng tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy
hiểm của hành vi mà người đó thực hiệm” [7 tr.14];
GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa và PGS.TS. Lê Thị Sơn cho rằng: “TNHS là trách
nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả bất lợi về hành vi của mình. TNHS là
một dạng của trách nhiệm pháp lý bao gồm: nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động
truy cứu TNHS, chịu vị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của TNHS (hình phạt, biện pháp tư
pháp) và chịu mang án tích”[8, tr.281-282]…

Như vậy, dưới góc độ khái quát và chung nhất, trách nhiệm hình sự là một dạng của
trách nhiệm pháp lý và là hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm và được thể
hiện bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Luật hình sự
quy định đối với người phạm tội. Là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm, TNHS chỉ
phát sinh (xuất hiện) khi có sự việc phạm tội. Cho nên, TNHS là dạng trách nhiệm pháp lý
nghiêm khắc nhất so với bất kỳ dạng trách nhiệm pháp lý nào khác. Nó chỉ được thực hiện
trong phạm vi của quan hệ PLHS giữa hai bên với tính chất là hai chủ thể có các quyền và
nghĩa vụ nhất định- một bên là Nhà nước còn bên kia là người phạm tội. Cụ thể, Nhà nước
(mà đại diện là cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền) thì có quyền truy cứu người phạm
tội, nhưng phải có nghĩa vụ chỉ được xử lý dựa trên các căn cứ và trong các giới hạn xê dịch

4


do pháp luật quy định, còn người phạm tội thì có nghĩa vụ phải chịu tước bỏ hoặc hạn chế
quyền, tự do nhất định, nhưng đồng thời cũng có quyền yêu cầu sự tuân thủ từ phía Nhà
nước (các cơ quan tư pháp hình sự đã nêu) đối với các quyền và lợi ích của con người và
công dân theo đúng hành lang pháp lý mà pháp luật cho phép.
Từ các khái niệm và phân tích khái niệm TNHS ở trên ta có thể rút ra một số đặc
điểm của TNHS:
- TNHS là hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi phạm tội. Hậu quả này chỉ phát
sinh khi có người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm hoặc
không thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật hình sự yêu cầu phải thực hiện.
TNHS chỉ có thể được xác định bằng trình tự đặc biệt theo quy định của pháp
luật mà các cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ phải thực hiện.
TNHS được biểu hiện cụ thể ở việc người phạm tội phải chịu biện pháp cưỡng
chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước là hình phạt, biện pháp tước bỏ hoặc hạn chế ở họ một
số quyền hoặc lợi ích hợp pháp.
TNHS mà người phạm tội phải gánh chịu là trách nhiệm đối với Nhà nước chứ
không phải đối với người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị hành vi phạm tội trực

tiếp xâm hại
TNHS phải được phản ánh trong bản án hay quyết định có hiệu lực pháp luật
của tòa án
2.1.1.2 Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Không phải từ khi sinh ra con người đã có năng lực TNHS. Năng lực TNHS là năng
lực của tự ý thức được hình thành trong quá trình phát triển của cá thể về mặt tự nhiên và
mặt xã hội. “Chỉ trong tự ý thức, con người (mới) tách mình và độc lập với thế giới xung
quanh, xác định vị trí của mình trong những quan hệ tự nhiên và xã hội. Từ đó hình thành
nên những cá nhân, những chủ thể có ý thức đầy đủ về hoạt động của mình, chịu trách
nhiệm về hành vi của mình.”
Ở mỗi con người bình thường đều có khả năng hình thành và phát triển ý thức và tự
ý thức. Nhưng phải qua quá trình hoạt động và giáo dục trong điều kiện xã hội, khả năng đó
mới có thể trở thành hiện thực. “Ý thức ngay từ đầu đã là một sản phẩm xã hội và vẫn là
một sản phẩm xã hội chừng nào nói chung con người vẫn tồn tại”.
Như vậy năng lực TNHS chỉ hình thành khi con người đã đạt đến một độ tuổi nhất
định và năng lực đó sẽ tiếp tục hoàn thiện và phát triển trong những giai đoạn nhất định tiếp
theo. Khi đạt độ tuổi đó, con người nói chung sẽ có năng lực TNHS, trừ những trường hợp
cá biệt – những trường hợp mà luật hình sự coi là trong tình trạng không có năng lực TNHS
(Điều 13 BLHS)

5


Luật hình sự các nước dựa trên cơ sở kết quả các công trình nghiên cứu, khảo sát về
tâm lí cũng như căn cứ vào chính sách hình sự của mình mà đã quy định tuổi bắt đầu có
năng lực TNHS và tuổi có năng lực TNHS đầy đủ. Mức tuổi cụ thể của tuổi bắt đầu có năng
lực TNHS và tuổi có năng lực TNHS đầy đủ được xác định ở mỗi nước và có thể ở mỗi thời
gian nhất định trong mỗi nước không hoàn toàn giống nhau.
Theo quy định này, người chưa đạt độ tuổi bắt đầu có năng lực TNHS sẽ luôn luôn
được coi là không có lỗi. Trong độ tuổi từ bắt đầu có năng lực TNHS đến độ tuổi có năng

lực TNHS đầy đủ, năng lực TNHS còn hạn chế, do vậy người trong độ tuổi này chỉ bị coi là
có năng lực TNHS trong những trường hợp nhất định. Ở Việt Nam, căn cứ vào thực tiễn đấu
tranh phòng chống tội phạm và trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm các nước khác, Nhà nước
ta đã xác định trong BLHS tuổi 14 là tuổi bắt đầu có năng lực TNHS và tuổi 16 là tuổi năng
lực TNHS đầy đủ.
Điều 12 BLHS 2015 quy định:
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ
những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2.6 Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm
rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134,
141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265,
266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.
Quy định trên đây là xuất phát từ đường lối của Nhà nước ta về xử lí đối với người
chưa thành niên phạm tội cũng như xuất phát từ cơ sở cho rằng người trong độ tuổi năng lực
TNHS chưa đầy đủ luôn luôn có thể nhận thức được tính chất xã hội của một số hành vi
nguy hiểm cho xã hội nhất định.
Một vấn đề khác cũng liên quan đên vấn đề tuổi chịu trách nhiệm hình sự đó là việc
xác định tuổi của người phạm tội. Việc xác định chính xác tuổi của họ có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc xác định tội phạm và TNHS của họ. Trong nhiều trường hợp nó có ý nghĩa
quyết định trong việc khẳng định có phạm tội hay không phạm tội cũng như có phải chịu
TNHS hay không phải chịu TNHS.
Để xác định tuổi của người phạm tội ta căn cứ vào ngày tháng năm sinh được ghi trên
giấy khai sinh, tuy nhiên trên thực tế có rất nhiều trường hợp không có căn cứ gì để ngày
tháng năm sinh, xác định độ tuổi của người có hành vi gây nguy hiểm cho xã hội.
Để xác định được tuổi của người phạm tội trong mọi trường hợp và đảm bảo nguyên
tắc có lợi cho người phạm tội, tại công văn số 81 ngày 10 tháng 6 năm 2002, tòa án nhân dân
tối cao cụ thể hóa cách xác định tuổi trong từng trường hợp cụ thể.
Nếu xác định được tháng cụ thể, nhưng không xác định được ngày nào trong tháng
thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo.


6


Nếu xác định được quý cụ thể của năm, nhưng không xác định được cụ thể ngày nào,
tháng nào của quý đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng của quý đó làm ngày sinh
của bị can, bị cáo để xem xét TNHS đối với bị can, bị cáo.
Nếu xác định được cụ thể nửa đầu hay nửa cuối năm, nhưng không xác định được
ngày tháng nào trong nửa đầu hay nửa cuối năm thì lấy ngày 30 tháng 6 hoặc 31 tháng 12
tương ứng của năm đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo để xem xét TNHS đối với bị can, bị
cáo.
Nếu không xác định được nửa năm nào, quý nào, tháng nào trong năm thì lấy ngày
31 tháng 12 của năm đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo để xem xét TNHS đối với bị can, bị
cáo.
Trong văn bản này mới chỉ có cách tính tuổi khi không có đủ điều kiên xác định chính
xác ngày tháng sinh. Nếu có sự tranh chấp về năm sinh thì văn bản trên chưa đưa ra cách
thức để xác định. Trong trường hợp đó người ta thường căn cứ vào kết quả giám định.
Nhìn chung, các quy định của pháp luật nước ta trong việc xác định tuổi của người
phạm tội đều mang tính có lợi cho bị cáo, điều đó thể hiện tinh thần nhân đạo của Nhà nước
ta cũng như thái độ của Nhà nước đối với những người chưa thành niên phạm tội.
2.1.2 Khái niệm người chưa thành niên
2.1.2.1 Người chưa thành niên
Người chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về nhân
cách, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân. Pháp luật ở mỗi quốc gia quy
định độ tuổi cụ thể của người chưa thành niên.
Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông
qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới
18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm
hơn”.
Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất trong Hiến
Pháp năm 1992, Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Bộ luật Lao

động, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm
pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định tuổi của người chưa thành niên
là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật đối với người chưa thành niên
trong từng lĩnh vực cụ thể.
Khái niệm người chưa thành niên khác với khái niệm trẻ em. Theo Điều 1 Luật Bảo
vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”.

7


Tóm lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự phát triển về
mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hoá bằng giới hạn độ tuổi trong các
văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó, người ta quy định những quyền và nghĩa vụ
cụ thể của người chưa thành niên.
Như vậy, có thể khái niệm: Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa phát
triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như
người đã thành niên.
Tham khảo thêm các văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến người chưa thành niên
gồm: Công ước về Quyền trẻ em (United Nations Convention on the Rights of the Child)
được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20-11-1989; Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu
của Liên hợp quốc về áp dụng pháp luật với người chưa thành niên (United Nations
Standard Minimum Rules for the Administration of Juvenile Justice /Beijing Rules) ngày 2911-1985; Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên
(United Nations Guidelines for the Prevention of Juvenile delinquency/ Riyadh Guidelines)
ngày 14-12-1990. Theo quan niệm quốc tế thì trẻ em (Child) là người dưới 18 tuổi, người
chưa thành niên (Juvenile) là người từ 15 đến 18 tuổi, thanh niên (Youth) là người từ 15 đến
24 tuổi, người trẻ tuổi (Young persons) bao gồm trẻ em, người chưa thành niên và thanh
niên.
Ở Việt Nam, tuổi kết nạp Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh là từ 10 đến 15 tuổi,
tuổi kết nạp Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là từ 15 đến 30 tuổi. Trong tuổi Đoàn
gọi là thanh niên, trong tuổi Đội là thiếu niên, dưới tuổi Đội gọi là nhi đồng. Ở mỗi lứa tuổi,

người chưa thành niên được Nhà nước và xã hội quan tâm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục để
phát triển tốt nhất về thể chất và nhân cách, trở thành người khỏe mạnh, có ích cho xã hội.
2.1.2.2 Đặc điểm tâm lí của người chưa thành niên
Đặc trưng cơ bản của nhóm người chưa thành niên (vị thành niên) biểu hiện trước hết
ở vị trí vai trò của nó trong đời sống xã hội cũng như trong chính cuộc đời của mỗi người.
Nếu trong cuộc đời, tuổi vị thành niên là giai đoạn quan trọng, giai đoạn bản lề có thể quyết
định toàn bộ cuộc sống sau này của mỗi người thì trong xã hội, thế hệ vị thành niên bao giờ
cũng đại diện cho một sự chuyển tiếp vào các thế hệ mới, hướng tới tương lai. Nguồn nhân
lực cho sự phát triển được nảy sinh, bảo vệ, nuôi dưỡng từ tuổi trẻ em, bổ sung và hoàn thiện
dần về thể chất, tri thức và nhân cách từ vị thành niên và bắt đầu thực sự đóng góp cho xã
hội ở những giai đoạn sau đó.
Thực tế cho thấy, lối sống, đạo đức và nhân cách của mỗi người được hình thành từ
tuổi ấu thơ và định hình rõ nét từ tuổi vị thành niên. Tuổi vị thành niên hàm chứa trong mình
nó rất nhiều những yếu tố vừa ghi nhận, vừa loại bỏ, vừa định dạng vừa biến động trong
nhận thức, tâm lý, tình cảm, suy nghĩ của con người trong giai đoạn này rồi trở thành khuôn

8


mẫu nhân cách của chính con người đó trong cuộc đời sau này. Đặc trưng cơ bản của nhóm
vị thành niên có thể được xác định bởi những biến đổi thường xuyên ,liên tục của ba mặt cơ
bản: mặt thể chất, mặt tâm lý, tình cảm, nhận thức và sau đó là mặt hành vi, cụ thể là :
Thứ nhất, vị thành niên là nhóm tuổi có những sự thay đổi mạnh mẽ nhất về thể chất
trong cuộc đời của mỗi người. Trên bình diện y sinh học, nó là giai đoạn chuyển biến từ một
đứa trẻ non nớt thành một người lớn khoẻ mạnh. Sự trưởng thành nhanh chóng gần như đột
biến ấy không chỉ gây sự ngạc nhiên cho những người xung quanh mà còn cho chính cả
những đứa trẻ ở vào lứa tuổi này. “Tuổi mười bảy bẻ gãy sừng trâu” là câu tục ngữ hoàn toàn
đúng mà người xưa đã dùng để nói về tuổi vị thành niên.
Thứ hai, vị thành niên cũng là giai đoạn thay đổi nhanh chóng nhất về tâm lý, tình
cảm, nhận thức, mà trong nhiều trường hợp, chính sự thay đổi còn có thể gây “sốc” cho bản

thân lứa tuổi này. Các nhà tâm lý học đều đã viết và nói nhiều về sự đa dạng và phức tạp
trong tình cảm, tâm lý trầm tư, u uất, sự khép mình vào thế giới nội tâm của nhiều bạn gái
trẻ, hoặc thái độ ngang bướng thậm chí phá phách, muốn khẳng định mình ở các bạn trai, khi
ở vào tuổi vị thành niên. Do vậy, có thể nói rằng, tuổi vị thành nien cũng là giai đoạn có
nhiều biến động nhất trong sự hình thành các giá trị đạo đức, lối sống và nhân cách của mỗi
người. Để rồi, sau khi vuợt qua lứa tuổi này, con người có thể bước vào đời như những công
dân tương lai với tất cả những gì được tạo dựng từ đó, những tốt và xấu, trắng và đen, những
đúng đắn và sai lệch đan xen nhau, đấu tranh với nhau trong suốt quãng đường còn lại của
đời người.
Thứ ba, từ sự thay đổi về thể chất và nhận thức, vị thành niên cũng là nhóm nhân
khẩu xã hội có những biến đổi mạnh mẽ nhất trong hành vi. Nó khiến cho bao giờ cũng vậy,
rất nhiều hành vi của nhóm tuổi này luôn là khó hiểu và khó lường trước được đối với những
thế hệ khác, đặc biệt là những người lớn tuổi. Ở vào tuổi vị thành niên, người ta dễ dàng
hành động mà không cần có sự cân nhắc, tính toán chín chắn. Trẻ vị thành niên có thể là
những người vị tha, độ lượng có thể hy sinh thân mình để làm những điều tốt đẹp, nhưng
cũng có thể ngay sau đó lại bị lôi kéo vào những hành vi xấu mà không nhận biết được.
Người ta cũng rất dễ bị lây nhiễm những tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, trộm cắp, đánh
nhau khi ở vào tuổi vị thành niên để rôi khi trưởng thành đã không thể dễ dàng từ bỏ những
tệ nạn này.
Ở nước ta, thực tế những năm thực hiện công cuộc đổi mới cho thấy, sự nâng cao
bước đầu về đời sống kinh tế xã hội, đặc biệt là về mức sống đã khiến cho vị thành niên ở
nước ta có những sự phát triển mạnh về thể chất. Nhìn chung, sức khoẻ, chiều cao, cân nặng
của thế hệ vị thành niên những năm gần đây đã tăng lên so với những thế hệ trước đó. Bên
cạnh sự phát triển về thể chất, việc mở rộng các điều kiện học tập sinh hoạt, vui chơi giải trí,
giao lưu văn hoá...cũng khiến cho các thế hệ vị thành niên hiện nay đã có được những sự
phát triển mạnh mẽ về nhận thức, tình cảm, suy nghĩ và sức sáng tạo. Vị thành niên nước ta

9



ngày càng chứng minh được trên thực tế tiềm năng to lớn, vị trí, vai trò của họ đối với sự
phát triển của đất nước trong tương lai
Tuy nhiên, lớn lên trong hoàn cảnh xoá bỏ bao cấp về nhiều mặt, cuộc sống của cha
mẹ, những người lớn tuổi trong gia đình và xã hội phần nhiều đều tập trung vào những lo
toan hàng ngày về kinh tế và đời sống, lại luôn phải sống và chứng kiến những mặt trái của
cơ chế thị trường, những tệ nạn xã hội, nhóm vị thành niên đã sinh trưởng và lớn lên cùng
với rất nhiều tâm tư, suy nghĩ.
Lực lượng bỏ học hoặc không được học hành đến nơi đến chốn trong nhóm tuổi vị
thành niên chiếm tỷ lệ khá cao. Theo các cuộc khảo sát về mức sống dân cư của Tổng cục
thống kê trong những năm gần đây thì số lượng vị thành niên mù chữ ở nước ta hiện nay đã
ở mức đáng lo ngại. Số vị thành niên bỏ học hoặc không thể thi đỗ vào trung học hoặc đại
học cũng đã khiến cho tỷ lệ những người không đi học ở nhóm vị thành nien cao hơn hẳn ở
nhóm học sinh trẻ em. Không có điều kiện để tiếp tục học tập ở tuổi chưa thành niên, lại
không thể kiếm được việc làm đã khiến cho các em dễ rơi vào các tệ nạn xã hội.
Ở nước ta, việc sử dụng lao động trẻ em trong đó có lao động của vị thành niên là khá
phổ biến. Ở nông thôn ,có tới trên 90% số vị thành niên phải tham gia lao động kiếm sống
cùng với gia đình, trong đó nhiều em đã trở thành lực lượng lao động chính. Nhiều em đã
phải bán sức lao động, đi làm thuê, làm những công việc nặng nhọc như đập đá, làm phu nề,
kéo xe... để kiếm sống. Nhiều em gái phải ra thành phố làm trong các quán ăn, nhà trọ, bị
buộc phải trở thành gái mãi dâm. Thực tế những năm gần đây cũng đã cho thấy, trong sự di
chuyển dân cư và lao động mạnh mẽ dưói tác động của cơ chế thị trường, số lao động vị
thành niên đã chiếm một tỷ lệ khá cao. Trong điều kiện xa gia đình, xa người thân quen,
không được chăm sóc, quản lý, giáo dục đầy đủ, phải tự lập quá sớm lại thiếu kinh nghiệm
sống, chưa đủ kiến thức và bản lĩnh để ứng xử , các em rất dễ bị bóc lột, lừa gạt, lôi kéo, ép
buộc, rơi vào cạm bẫy của các tệ nạn xã hội hoặc vi phạm pháp luật
2.1.3 Khái niệm trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên
Qua phân tích khái niệm trách nhiệm hình sự, khái niệm người chưa thành niên ta có
thể rút ra khái niệm trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên như sau:
Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên là trách nhiệm mà người chưa thành
niên phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi phạm tội của mình

2.2 Miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên
2.2.1 Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự
Cũng là một trong những chế định quan trọng trong Luật hình sự Việt Nam, miễn
TNHS thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước ta đối với người phạm tội,
đồng thời qua đó nhằm động viên, khuyến khích người phạm tội lập công chuộc tội, chứng

10


tỏ khả năng giáo dục, cải tạo nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng và giúp họ trở thành
người có ích cho xã hội
Ta có thể định nghĩa khái niệm miễn trách nhiệm hình sự như sau:
Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định nhân đạo của Luật hình sự Việt Nam, do
cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng
áp dụng và được thể hiện bằng nội dung không buộc một người phải gánh chịu hậu quả
pháp lí bất lợi của việc thực hiện tội phạm, nếu xét thấy không cần thiết phải truy cứu trách
nhiệm hình sự người đó và đáp ứng những điều kiện nhất định.
2.2.2 Điều kiện miễn trách nhiệm hình sự
Theo BLHS 2015thì việc miễn TNHS được thực hiện trong các điều kiện sau đây:
“ Điều 20. Sự kiện bất ngờ
Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể
thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu
trách nhiệm hình sự.
Điều 21. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần,
một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì
không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Điều 22. Phòng vệ chính đáng
1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng
của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại

một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
Điều 23. Tình thế cấp thiết
1. Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi
ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà
không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.
Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm.
Điều 24. Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội
1. Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách
nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không
phải là tội phạm.
Điều 25. Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ
thuật và công nghệ

11


Hành vi gây ra thiệt hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến
bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp
dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa thì không phải là tội phạm.
Điều 26. Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên
Người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy
hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an
ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh
lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong
trường hợp này người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự.”

CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG VỀ VIỆC TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI

3.1 Một số quy định của pháp luật về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
chưa thành niên phạm tội
3.1.1 Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Xuất phát từ đặc điểm tâm lý và yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng chống tôi
phạm của người chưa thành niên, BLHS quy định những nguyên tắc đặc thù về việc xử lý
người chưa thành niên phạm tội bao gồm nội dung như sau:
Thứ nhất là mục đích của việc xử lý người chưa thành niên phạm tội. Khoản 1 Điều
91 BLHS 2015 khẳng định:
Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới
18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành
mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.
Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức
của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện
gây ra tội phạm
Như vậy mục đích của việc xử lý người chưa thành niên phạm tội đã được xác định
một cách trực tiếp trong BLHS, ta có thể thấy rằng việc xử lý người chưa thành niên phạm
tội là để giáo dục, giúp họ sửa chữa lỗi lầm, trở thành công dân có ích cho xã hội chứ không
đề cập trực tiếp đến mục đích trừng trị. Do đó ta cần hiểu rằng, đối với người chưa thành
niên , nếu như hành vi mà họ thực hiện bị BLHS coi là tội phạm nhưng việc có đưa ra truy tố
xét xử hay không là việc mà các cơ quan chức năng có thẩm quyền phải xem xét, cân nhắc

12


và ngay trong giai đoạn này mục tiêu giáo dục, giúp đỡ người chưa thành niên cũng phải
được đặt lên hàng đầu.
Để thực hiện được nguyên tắc này, khi người chưa thành niên phạm tội các cơ quan
tư pháp phải xác định tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Việc làm này sẽ
giúp người chưa thành niên phạm tội nhận thức một cách đầy đủ và sâu sắc về hành vi của
mình có như vậy mới có thể giúp họ sửa chữa lỗi lầm và trở thành người có ích cho xã hội.

Bên cạnh đó các cơ quan chức năng còn phải làm rõ nguyên nhân và điều kiện gây ra tội
phạm, như vậy sẽ đủ cơ sở đưa ra quyết định truy tố hay không? Nếu có thì phải áp dụng các
biện pháp cụ thể làm triệt tiêu nguyên nhân và điều kiện của tội phạm nhằm hạn chế mức
thấp nhất tội phạm do người chưa thành niên gây ra.
Thứ hai là điều kiện miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên chưa
thành niên phạm tội thấp hơn so với những người thành niên phạm tội. Khoản 2 Điều 91
BLHS 2015 quy định:
Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều
tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy
định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một
trong các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này:
a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm
trọng, trừ tội phạm quy định tại các điều 134, 141, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ
luật này;
b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại khoản
2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ tội phạm quy định tại các điều 123, 134, 141, 142, 144, 150,
151, 168, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này;
c) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.
Như đã nói ở trên, các điều kiện mà BLHS quy định cho phép miễn TNHS đối với
người chưa thành niên phạm tội có tính chất mở rộng hơn so với người phạm tội nói chung.
Người chưa thành niên được miễn TNHS khi thỏa mãn bốn điều kiện sau:
-

Tội phạm thực hiện là tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng;
Chưa gây thiệt hại hoặc thiệt hại không lớn;
Có nhiều tình tiết giảm nhẹ;
Được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.

Thứ ba là điều kiện truy cứu TNHS và áp dụng hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội được quy định trong Khoản 3, 4 Điều 91 BLHS 2015:

-

Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường hợp
cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu cầu việc phòng ngừa tội phạm.

13


-

Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét
thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại
Mục 2 hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy định tại Mục
3 Chương này không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa.

Nguyên tắc thứ ba của việc xử lý người chưa thành niên phạm tội thể hiện tính nhân
đạo sâu sắc. Không phải mọi trường hợp người chưa thành niên phạm tôi đều bị truy cứu
TNHS. Việc đưa ra truy cứu TNHS chỉ đặt ra khi nó thực sự cần thiết và xuất phát từ yêu
cầu phòng ngừa tội phạm. Ngay cả khi người chưa thành niên phạm tội bị truy cứu TNHS thì
họ vẫn có khả năng không bị áp dụng hình phạt. Thay vào đó là các biện pháp tư pháp nếu
các biện pháp này đủ tác dụng cải tạo họ thành công dân có ích. Như vậy có thể nói rằng
việc truy cứu TNHS và áp dụng hình phạt đối với người thành niên phạm tội là biện pháp
cuối cùng.
Nguyên tắc thứ tư đối với người chưa thành niên phạm tội là nguyên tắc giảm nhẹ
TNHS. Tính chất giảm nhẹ được thể hiện ở những quy định về loại và mức phạt tù có thể áp
dụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Khoản 5,6 Điều 91 BLHS 2015quy định:
Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
.Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi
xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa.

Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức
án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời
hạn thích hợp ngắn nhất.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Tử hình và tù chung thân là hai biện pháp nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt
được quy định trong BLHS, người phạm tội chỉ bị áp dụng hình phạt này trong trường hợp
đặc biệt nghiêm trọng và khi khả năng giáo dục không còn nữa. Chính vì vậy đối với người
chưa thành niên phạm tội, khi mục đích của việc truy cứu TNHS chủ yếu là nhằm giáo dục
cải tạo họ, thì không thể áp dụng hai hình phạt này.
Nguyên tắc cuối cùng đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định tại
Khoản 7 Điều 91 BLHS 2015:
Án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi, thì không
tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
3.1.2 Các biện pháp tư pháp được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
BLHS có các quy định về các biện pháp tư pháp theo hướng giảm nhẹ TNHS cho
người chưa thành niên phạm tội.

14


BLHS 2015 quy định những biện pháp tư pháp được áp dụng đối với người chưa
thành niên phạm tội bao gồm: giáo dục tại phường, xã, thị trấn và đưa vào trại giáo dưỡng.
3.1.2.1 Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Theo điều 95 BLHS 2015, biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn là biện pháp tư
pháp được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiệm
trọng trong thời hạn từ 1 năm đến 2 năm. Người chưa thành niên phạm tội được áp dụng
biện pháp giáo dục tại phường, xã, thị trấn không bị cách ly khỏi cuộc sống xã hội, nhưng
phải chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ sau:
Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước; tích cực thực hiện nghĩa vụ
công dân và quy ước của thôn, làng, ấp. bản, cụm dân cư nơi mình cư trú;

Làm cam kết với ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc tổ chức xã hội
được giao giám sát, giáo dục, trong đó nêu rõ các biện pháp tích cực sửa chữa lỗi lầm của
mình. Bản cam kết phải có ý kiến của người được phân công trực tiếp giám sát, giáo dục;
Thực hiện nghiêm chỉnh bản cam kết của mình, tích cực sửa chữa lỗi lầm, học
tập, làm ăn lương thiện và tham gia các hoạt động chung tại cộng đồng dân cư nơi mình cư
trú;
Làm bản tự kiểm điểm về quá trình rèn luyện, tu dưỡng của mình gửi Chủ tịch
ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc người đứng đầu tổ chức được giao giám sát, giáo
dục khi đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách. Bản tự kiểm điểm phải có nhận
xét của người trực tiếp giám sát, giáo dục hoặc cảnh sát khu vực, công an xã, trưởng thôn,
làng, ấp, bản nơi người đó cư trú
Hàng tháng phải báo cáo bằng văn bản với người được giao giám sát, giáo dục
về kết quả rèn luyện, tu dưỡng của mình; trong trường hợp đi khỏi nơi cư trú trên 30 ngày thì
báo cáo và trong thời gian tạm trú phải có nhận xét của cảnh sát khu vực hoặc công an xã
nơi người chưa thành niên phạm tội cư trú
Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và tổ chức xã hội được giao giám sát, giáo dục
có trách nhiệm:
Phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục người chưa thành niên phạm tội;
Tạo điều kiện giúp đỡ người chưa thành niên phạm tội học nghề, tìm việc làm
để ổn định cuộc sống;
Phối hợp với cơ quan, tổ chức hữu quan khác và gia đình người chưa thành
niên phạm tội trong việc giáo dục, cảm hóa giúp họ sửa chữa lỗi lầm;
Yêu cầu người chưa thành niên phạm tội thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của
mình, có biện pháp ngăn ngừa, uốn nắn kịp thời khi người đó có biểu hiện tiêu cực và thong
báo với cơ quan tổ chức có thẩm quyền để xử lí khi cần thiết;
Kịp thời biểu dương khi người chưa thành niên phạm tội có tiến bộ, tích cực
tham gia hoạt động xã hội hoăc lập công;
Xem xét giải quyết cho người chưa thành niên phạm tội vắng mặt ở nơi cư trú;

15



Đề nghị hoặc theo đề nghị của người chưa thành niên phạm tội đề nghị tòa án
cấp huyện nơi người đó dang chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn ra quyết
định chấm dứt thời hạn chấp hành biện pháp này khi người đó chấp hành được một phần hai
thời hạn và có nhiều tiến bộ;
Cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong thời hạn chấp hành biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn cho người chưa thành niên phạm tội;
3.1.2.2 Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng là biện pháp tư pháp đối với người chưa
thành niên phạm tội nếu xét thấy cần phải có kỉ luật chặt chẽ và cần phải cách li họ với
môi trường xã hội để giáo dục và cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.
Khi quyết định áp dụng biện pháp tư pháp này, tòa án cần xem xét tính chất
nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và môi trường sống của
người đó. Thời hạn của biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng là từ một năm đến hai năm.
Trường giáo dưỡng là cơ sở giáo dục đặc biệt được Nhà nước thành lập để giáo
dục, cải tạo người chưa thành niên phạm tội hoặc có những vi phạm pháp luật khác. Đưa
người chưa thành niên phạm tội vào trường giáo dưỡng là biện pháp nghiêm khắc hơn
biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Biện pháp này được áp dụng khi thấy cần
thiết phải cách li người chưa thành niên khỏi môi trường xã hội mà họ đang sinh sống để
giáo dục, cải tạo. Môi trường cũ không có các điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục,cải
tạo người chưa thành niên là môi trường như trong gia đình có bố, mẹ, anh, chị, em là
người có tiên án hoặc người thường xuyên vi phạm pháp luật; bạn bè của người chưa
thành niên là những người có nhân thân không tốt, đã ảnh hưởng xấu đến lối sống của
họ; bản thân người chưa thành niên không có chỗ học tập, lao động, sinh sống ổn định,
đã sớm có lối sống trụy lạc, sa đọa.
Tuy biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng bắt buộc người chưa thành niên phạm
tội chịu sự quản lý chặt chẽ và phải cách li khỏi xã hội nhưng họ được học tập văn hóa và
nghề nghiệp. Tại đây họ rèn luyện và cải tạo lối sống trước đây của mình để trở thành
công dân có ý thức pháp luật đầy đủ trong tương lai.

Khi chấp hành được một phần hai thời hạn và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của
nhà trường, tòa án có thể có quyết định chấm dứt thời hạn ở trường giáo dưỡng.
3.1.3 Hệ thống hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
Hệ thống hình phạt của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam bao gồm hình phạt
chính và hình phạt bổ sung. Tuy nhiên căn cứ vào đặc điểm của người chưa thành niên, yêu
cầu của việc phòng chống tội phạm, nguyên tắc nhân đạo XHCN, luật hình sự quy định các
hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội bao gồm:

16


-

Cảnh cáo;
Phạt tiền;
Cải tạo không giam giữ;
Tù có thời hạn.

Tử hình và tù chung thân là những hình phạt chính và nghiêm khắc nhất trong hệ
thống các hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự của nước ta, chỉ áp dụng đối với
các trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Đối với người chưa thành niên ya thức
phạm tội của họ chưa sâu sắc và chịu sự chi phối rất lớn từ môi trường, nên trong mọi trường
hợp không áp dụng tử hình và tù chung thân đối với người chưa thành niên phạm tội.
Bên cạnh các hình phạt chính, trong BLHS còn quy định các hình phạt bổ sung.
Nhưng do người chưa thành niên có những đặc điểm tâm lí riêng biệt nên luật hình sự quy
định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội.
3.1.3.1 Cảnh cáo
Cảnh cáo là hình phạt chính, có tính giáo dục sâu sắc, thể hiện sự khiển trách công
khai của Nhà nước đối với người phạm tội và hành vi phạm tội của họ. Cảnh cáo gây ra cho
người bị kết án những tổn hại về tinh thần.

Người chưa thành niên phạm tội bị phạt cảnh cáo khi phạm tội ít nghiêm trọng và có
nhiều tình tiết giảm nhẹ
3.1.3.2 Phạt tiền
Phạt tiền là hình phạt chính áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội nhằm
tước đi quyền lợi vật chất của họ để cải tạo và giáo dục họ trở thành công dân có ích cho xã
hội.
Người chưa thành niên phạm tội bị phạt tiền khi có đủ hai điều kiện: Họ là người đã
từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và có thu nhập hoặc tài sản riêng.
Các điều kiện về áp dụng phạt tiền với người chưa thành niên phạm tội thể hiện thái
độ của Nhà nước trong trường hợp này. Người chưa thành niên thường chưa có thu nhập
hoặc tài sản riêng, chỉ phạt tiền khi họ có khả năng chấp hành án. BLHS hạn chế phạt tiền
theo độ tuổi, chỉ người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi mới có thể bị phạt tiền. Trong trường
hợp không thỏa mãn các điều kiện phạt tiền thì áp dụng các hình phạt khác mà luật hình sự
cho phép như cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn.
3.1.3.3 Cải tạo không giam giữ
Cải tạo không giam giữ là hình phạt chính có nội dung giáo dục sâu sắc không buộc
người được áp dụng hình phạt này phải cách li khỏi xã hội. Họ vẫn có thẻ thực hiện công
việc thường ngày và sống trong môi trường gia đình và xã hội như trước đây.

17


Người chưa thành niên phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ cần đáp ứng hai điều
kiện sau: Hành vi phạm tội thuộc vào tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng; Họ phải có nơi
làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng.
3.1.3.4 Tù có thời hạn
Tù có thời hạn là hình phạt cách li người phạm tội ra khỏi xã hôi để giáo dục, cải tạo
họ trở thành công dân có ích cho xã hội
Đây là hình phạt có hiệu quả giáo dục và ngăn ngừa cao. Chính vì vậy loại hình này
có thể áp dụng đối với mọi tội phạm được quy định trong luật hình sự Việt Nam.

Tù có thời hạn là hình phạt nghiêm khắc nhất có thể áp dụng đối với người chưa
thành niên. Hình phạt này được áp dụng khi người chưa thành niên phạm tội rất nghiêm
trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Trong trường hợp người chưa thành niên phạm tội ít
nghiêm trọng hoặc tội ghiêm trọng, cần thiết áp dụng hình phạt nhưng không có đủ điều kiện
áp dụng các hình phạt khác như cảnh cáo, phạt tiền hoặc cải tạo không giam giữ thì cũng áp
dụng hình phạt tù có thời hạn.
3.2 Thực trạng tình hình truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên
phạm tội ở nước ta
Vấn đề người chưa thành niên vi phạm pháp luật và phạm tội đã và đang được tất cả
các nhà nước trên thế giới quan tâm, lo lắng. Liên hợp quốc đã ban hành một số Công ước,
Quy tắc liên quan đến công tác phòng chống vi phạm pháp luật của người chưa thành niên;
các cơ quan của tổ chức lớn nhất hành tinh này cũng đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo có tính
chất toàn cầu và khu vực để bàn về vấn đề này.
Ở nước ta, công tác đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật và phạm tội của người
chưa thành niên thuộc về trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các cơ quan, tổ chức và toàn thể
nhân dân. Trong những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương,
chính sách và pháp luật nhằm bảo đảm sự phát triển toàn diện của trẻ em và người chưa
thành niên. Chính phủ, các Bộ, ban, ngành và chính quyền các cấp đã đề ra nhiều chương
trình, kế hoạch cũng như áp dụng nhiều biện pháp để tăng cường bảo vệ an ninh, trật tự an
toàn xã hội, đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật nói chung trong đó có vi phạm
pháp luật của người chưa thành niên nói riêng. Tuy nhiên, tình hình người chưa thành niên vi
phạm pháp luật và phạm tội ở nước ta hiện nay vẫn có xu hướng gia tăng và diễn biến phức
tạp. Đặc biệt có một bộ phận thanh thiếu niên đã tham gia vào các băng nhóm tội phạm có tổ
chức, phạm tội có sử dụng bạo lực với tính chất côn đồ hung hãn; thực hiện các hành vi giết
người, cướp của, chống người thi hành công vụ, bảo kê, đâm thuê, chém mướn gây ra hậu
quả hết sức nghiêm trọng.

18



Theo thống kê của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, số người vi phạm pháp luật hình
sự bị khởi tố, truy tố, xét xử trong 5 năm (từ năm 2003 đến 2007), như sau:
- Năm 2003 khởi tố 4.578 người, truy tố 3.260 người, xét xử 2.940 người.
- Năm 2004 khởi tố 5.138 người, truy tố 3.421 người, xét xử 2.930 người.
- Năm 2005 khởi tố 6.420 người, truy tố 4.172 người, xét xử 3.404 người.
- Năm 2006 khởi tố 7.818 người, truy tố 5700 người, xét xử 5.171 người.
- Năm 2007 khởi tố 8.394 người, truy tố 5.889 người, xét xử 5.247 người.
Số người chưa thành niên có nguy cơ vi phạm pháp luật là 71.581 người.
Theo số liệu thống kê của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội (Bộ Công
an) thì trong 6 tháng đầu năm 2008 đã xảy ra 5.746 vụ, với khoảng 9.000 người người chưa
thành niên vi phạm pháp luật hình sự, tăng 2% số vụ so với cùng kỳ năm ngoái.
Về độ tuổi, theo thống kê của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội thì tình
hình tội phạm do người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện có chiều
hướng gia tăng và chiếm tỷ lệ cao nhất, khoảng 60%; từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chiếm
khoảng 32% và dưới 14 tuổi chiếm khoảng 8% trong tổng số các vụ phạm tội do người chưa
thành niên và trẻ em thực hiện.
Về cơ cấu tội phạm, theo thống kê mới nhất của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội, thì hành vi vi phạm pháp luật hình sự của
người chưa thành niên tập trung nhiều nhất vào các nhóm tội xâm phạm sở hữu; xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự con người, một số tội xâm phạm an toàn công
cộng, trật tự công cộng.
Trong đó tội danh trộm cắp tài sản chiếm 38%, cố ý gây thương tích chiếm 11%, đặc
biệt là giết người chiếm 1,4% trong tổng số tội phạm do người chưa thành niên thực hiện.
Về địa bàn hoạt động, các vụ vi phạm pháp luật và phạm tội do người chưa thành
niên thực hiện không chỉ xảy ra ở các thành phố, thị xã mà còn xảy ra ở các vùng nông thôn,
kể cả vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên, đánh giá một cách tổng thể trên phạm vi toàn quốc thì
tại các thành phố lớn, nơi kinh tế phát triển mạnh thu hút nhiều lực lượng lao động, nhiều
thành phần xã hội sinh sống, thì tỷ lệ người chưa thành niên vi phạm pháp luật và phạm tội
chiếm tỷ lệ cao hơn và có chiều hướng tăng nhanh hơn. Phần lớn các vụ án do vị thành niên
gây ra là trên địa bàn đô thị (chiếm hơn 70%), trong đó tập trung ở những tỉnh, thành phố

lớn như Hà Nội, Hải Phòng, TP.HCM, Đồng Nai, Bình Định… Đây cũng là nhóm có xu
hướng tái phạm tội rất cao (khoảng 35%).
Cũng theo số liệu thống kê của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao cho thấy 71% trẻ vị
thành niên phạm pháp do không được quan tâm chăm sóc đến nơi đến chốn. Một nghiên cứu

19


mới đây của Bộ Công an cũng chỉ ra nguyên nhân phạm tội của trẻ vị thành niên xuất phát từ
gia đình…
Trước thực trạng trẻ vị thành niên phạm tội trộm cắp, cướp giật đang ở mức báo
động, Viện Tâm lý học vừa có công trình nghiên cứu dưới góc độ khoa học tâm lý nhằm mổ
xẻ nguyên nhân trẻ phạm pháp. Các phân tích của công trình nghiên cứu này cho thấy
nguyên nhân trẻ vị thành niên phạm pháp do ảnh hưởng của gia đình chiếm một tỉ lệ không
nhỏ.
Cha mẹ làm sai, con làm theo
Người xưa thường cho rằng muốn con cái trở thành thương nhân thì nên ở gần chợ,
muốn con hay chữ thì ở gần trường học, còn nếu gần trộm, gần cướp thì sớm hay muộn cũng
vào tù ra khám. “Gần mực đen, gần đèn thì rạng”, câu tục ngữ mang tính giáo dục đến nay
vẫn hoàn toàn đúng.
Theo số liệu thống kê tội phạm học, trẻ em phạm pháp có nguồn gốc gia đình làm
nghề buôn bán bất hợp pháp chiếm 51,94%, gia đình có người phạm tội hình sự chiếm 40%,
30% trẻ phạm tội có bố, mẹ hoặc cả hai nghiện hút. Có trường hợp bố mẹ trực tiếp đẩy con
ra đường, xúi giục chúng làm những điều bất chính khiến trẻ bỏ nhà đi hoang, sống bụi, trộm
cắp. Theo số liệu của Viện Kiểm sát Nhân dân TP.Hà Nội, tỉ lệ người chưa thành niên có
hành vi trộm cắp tài sản đồng phạm với bố mẹ là 5%.
Sống trong các gia đình có bố mẹ hoặc người lớn khác có hành vi thiếu văn hóa, lối
sống vô đạo đức và thậm chí có cả những hành vi phạm tội, như bố mẹ bất hòa hay đánh
chửi nhau, đánh bạc, nghiện rượu, nghiện ma túy, buôn lậu, trộm cắp, tham ô... , các em dần
dần coi thường pháp luật, nhiễm các thói hư tật xấu và dễ bị lôi kéo rồi dẫn tới đồng lõa với

hành vi phạm pháp. Chỉ có những trẻ có ý chí kiên cường, có lòng tự trọng cao, sớm có khả
năng đánh giá đúng, sai mới tránh được những ảnh hưởng xấu đó.
Con hư do thiếu tình cảm cha mẹ
Trên thực tế, cũng có nhiều trường hợp bố mẹ là người tốt, có đủ kiến thức và trình
độ hiểu biết nhưng không chú ý đúng mức đến việc giáo dục con cái hoặc không có điều
kiện giáo dục chúng. Có người ỷ lại cho nhà trường, một số mải lo làm ăn, kiếm sống hoặc
phải đi công tác trong một thời gian dài. Có gia đình bố mẹ ly hôn, có con ngoài giá thú, một
trong hai người chết hoặc vì lý do nào đó phải xa cách dẫn đến việc con cái bị bỏ rơi, thiếu
sự dạy dỗ và tình thương gia đình.
Những đứa trẻ không được chăm sóc và dạy dỗ chu đáo sẽ có tâm lý lệch lạc, tự do
ngang bướng, thậm chí bất cần. Chúng dễ dàng phạm tội khi bị rủ rê, lôi kéo...
Số liệu thống kê của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao cho thấy 71% trẻ vị thành niên
phạm pháp là do không được quan tâm chăm sóc đến nơi đến chốn. Một nghiên cứu mới đây

20


của Bộ Công an cũng chỉ ra nguyên nhân phạm tội của trẻ vị thành niên xuất phát từ gia
đình: 8% trẻ phạm tội có bố mẹ ly hôn, 28% phàn nàn bố mẹ không đáp ứng nhu cầu cơ bản
của các em, 49% phàn nàn về cách đối xử của bố mẹ.
Gần 50% trẻ phạm tội vì bị đối xử hà khắc
Có những gia đình bố mẹ thiếu hiểu biết hoặc không kiềm chế được nên đã coi việc
hành hạ, đánh đập hoặc dùng các nhục hình với trẻ như là quyền của họ. Khi trẻ có lỗi, cha
mẹ đánh; khi cha mẹ buồn bực, lo lắng cũng trút đòn roi lên đầu con cái. Nhiều đứa trẻ bị
bạo hành đã nghĩ rằng bố mẹ và gia đình không còn yêu thương, che chắn và bảo vệ mình
nữa.
Chính cách xử sự này của bố mẹ đã khiến trẻ bị khủng hoảng tâm lý, tự ti, khó hòa
nhập, nhiều em trở nên hung hãn, lì lợm, xa lánh mọi người và căm ghét gia đình. Chính
trong hoàn cảnh này, trẻ dễ bị những kẻ xấu lôi kéo, lợi dụng, khống chế thực hiện những
hành vi trái pháp luật, trong đó có tội trộm cắp, cướp giật.

Theo số liệu điều tra trong 2.209 học viên các trường giáo dưỡng, có tới 49,81%
trong số này sống trong cảnh bị đối xử hà khắc, thô bạo, độc ác của bố mẹ. Số em bị bố đánh
chiếm 23% (gấp 6 lần mẹ đánh); bị dì ghẻ, bố dượng đánh chiếm 20,3%.
Như vậy, môi trường gia đình lành mạnh sẽ là yếu tố quyết định tạo cho con cái
những điều kiện thuận lợi để hình thành và phát triển nhân cách.
3.3 Một số nhận xét về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành
niên phạm tội ở nước ta
Từ thực trạng nêu trên, chúng ta có thể thấy trong những năm gần đây, số vụ và số
lượng người chưa thành niên vi phạm pháp luật và phạm tội có chiều hướng ngày càng gia
tăng. Tính chất, mức độ vi phạm pháp luật, đặc biệt là tội phạm hình sự do người chưa thành
niên thực hiện ngày càng nghiêm trọng. Nếu như những năm 2000 trở về trước, người chưa
thành niên thường thực hiện các hành vi trộm cắp, gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương
tích không gây nguy hại lớn, thì những năm gần đây tính chất, mức độ của tội phạm lại nguy
hiểm hơn vượt quá giới hạn của độ tuổi người chưa thành niên như: hình thành các băng
nhóm tội phạm có tổ chức, có cơ cấu chặt chẽ. Thực hiện các hành vi phạm tội: giết người
(con giết cha mẹ, cháu giết ông bà); cướp tài sản có sử dụng vũ khí nóng; hiếp dâm; mua
bán, sử dụng trái phép các chất ma túy. Sự gia tăng về số lượng, mức độ vi phạm pháp luật
của người chưa thành niên có sự khác nhau giữa các địa phương, theo đó tỷ lệ tăng nhiều
nhất chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn.
Trong những năm sắp tới, công cuộc đổi mới nền kinh tế của đất nước sẽ đặt ra yêu
cầu mở rộng hơn nữa quan hệ kinh tế, văn hóa – xã hội với các nước láng giềng, các nước
trong khu vực và các nước trên thế giới. Bên cạnh những mặt tích cực của nó, như thúc đẩy
sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, văn hóa – xã hội theo nguyên tắc các bên cùng có lợi, còn

21


có mặt tiêu cực là không chỉ làm gia tăng về số lượng tội phạm mà tính chất mức độ của
hành vi phạm tội cũng ngày càng nghiêm trọng hơn, đặc biệt một số loại tội phạm có tính
chất xuyên quốc gia, tội phạm công nghệ cao cũng xuất hiện và phát triển. Đây cũng là một

trong những yếu tố sẽ có tác động mạnh đến tình hình vi phạm pháp luật của người chưa
thành niên. Vì vậy, dự báo trong thời gian tới, số lượng các vụ vi phạm pháp luật và số người
vi phạm vẫn tiếp tục gia tăng; tính chất của hành vi vi phạm ngày càng nghiêm trọng và diễn
biến phức tạp; các tội phạm hoạt động theo băng nhóm, có tổ chức, có cơ cấu chặt chẽ ở độ
tuổi này vẫn tiếp tục gia tăng. Hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt là các hành vi phạm tội
vẫn chủ yếu tập trung vào các nhóm tội như: xâm phạm tính mạng sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự của con người; xâm phạm an toàn công cộng và trật tự công cộng; các tội phạm về
ma túy. Trong tương lai gần, người chưa thành niên có thể tham gia vào các đường dây tội
phạm xuyên quốc gia như tội phạm về ma túy, tội phạm công nghệ cao, tội mua bán phụ nữ
với tính chất và hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Bàn vấn đề tố tụng với người chưa thành niên, thẩm phán Vũ Phi Long (Phó
Chánh Tòa Hình sự TAND TP.HCM) đã gửi cho Pháp Luật TP.HCM một bài phân tích
khá sâu về pháp lý, sinh động về thực tiễn áp dụng
Nhìn tổng thể, các quy định trong pháp luật hình sự hiện hành với người chưa thành
niên phù hợp với tình hình xã hội, thể chế pháp luật, đáp ứng được các yêu cầu của các điều
ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và có những điều khoản mang tính tiến bộ.
Tuy nhiên, giữa quy định và thực thi có những khoảng cách mà nếu không khắc phục
nhanh sẽ ảnh hưởng lớn tới quyền lợi của các em.
Chẳng hạn, theo luật, chỉ được bắt tạm giam người chưa thành niên khi họ phạm tội
rất nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng nhưng có khả năng trốn, cản trở điều tra. Vậy mà có
khi một em học sinh trộm cắp một chiếc xe máy cũng bị bắt tạm giam. Dù điều này vi phạm
tố tụng nghiêm trọng nhưng không ai để ý thì nó trở thành bình thường và cứ tái diễn.
Việc tạm giam để lấy cung, theo luật bắt buộc phải có người đại diện hợp pháp tham
gia nhưng không ít nơi “quên”. Luật cũng bắt buộc phải có luật sư và người giám hộ tham
gia ngay từ giai đoạn điều tra nhưng nhiều nơi còn cẩu thả không làm.
Luật cho phép luật sư của người chưa thành niên có quyền và trách nhiệm kháng cáo
khi thấy tòa xử chưa thỏa đáng nhưng thực tế rất hiếm luật sư nào chủ động làm. Đáng nói
hơn là chưa có biện pháp chế tài nào và chưa luật sư nào bị xử lý vì không làm tròn trách
nhiệm này. Đây có thể coi là một kẽ hở.
Luật rất tiến bộ khi quy định trong tất cả các khâu từ điều tra, truy tố và xét xử trẻ thì

cán bộ tố tụng phải có kiến thức chuyên sâu về tâm sinh lý và sự phát triển thể chất của trẻ.
Nhưng thực tế có mấy cán bộ được đào tạo như vậy để làm việc với các em? Như vậy bảo
sao họ không đưa ra những quyết định mang tính áp đặt, chủ quan.

22


Luật cũng quy định khá rõ vai trò của cộng đồng, gia đình, nhà trường và các tổ chức
xã hội với trẻ vị thành niên phạm tội nhưng rất hiếm trường hợp cơ quan tố tụng triệu tập đại
diện của những tổ chức này bảo vệ trẻ. Điều đó dẫn đến một thực tế là cả người tiến hành và
người tham gia tố tụng đã tự bỏ qua một số quyền mà luật cho phép mình làm.
Tất cả những khoảng cách trên, tôi cho rằng nếu rút ngắn được để làm đúng chuẩn thì
chắc chắn việc xử lý sẽ khác hiện nay rất nhiều.
Quan điểm của tôi về quá trình điều tra hiện nay là nên có mô hình phòng hỏi cung
thân thiện, làm cho trẻ thoải mái về tâm lý như Pháp Luật TP.HCM đã đề cập.
Nhưng đó cũng mới chỉ giải quyết được vấn đề hình thức điều tra, còn bản chất quan
trọng nhất vẫn là nội dung các cuộc hỏi cung. Những yêu cầu như hỏi cung bằng cách nào,
phương pháp ra sao, nhằm vào mục tiêu gì… quan trọng hơn rất nhiều. Hỏi cung để trẻ khai
việc phạm tội của mình thì dễ nhưng để các em nói ra những điều tự mình muốn nói mới
khó. Vì từ đó điều tra viên sẽ khai thác được thông tin nhằm làm sáng tỏ vụ án chứ không
chỉ nhằm làm rõ hành vi phạm tội. Đặc biệt, trong những vụ phạm tội có tổ chức thì việc tìm
ra manh mối, bản chất của vụ án là mục tiêu rất quan trọng.
Đến giai đoạn xét xử, tôi không ủng hộ việc xử rút gọn với người chưa thành niên bởi
chế định này chỉ áp dụng với những tội ít nghiêm trọng mà độ tuổi chưa thành niên dưới 16
tuổi lại không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội ít nghiêm trọng thì lấy ai mà xử. Chưa kể,
để có thể xử rút gọn phải hội đủ bốn điều kiện trong khi thực tế rất ít trường hợp nào đáp
ứng được…
Việc áp dụng biện pháp tư pháp đưa trẻ vào trường giáo dưỡng là rất tiến bộ và hiện
chúng ta đã có đầy đủ hành lang pháp lý cũng như điều kiện thực hiện. Tuy nhiên, thực tế
vẫn vướng ở chỗ thông thường đến giai đoạn xét xử thì cơ quan điều tra đã tạm giam trẻ

được vài tháng, có khi cả năm trời. Trẻ đã phải chịu bao nhiêu sự ràng buộc, tòa lại tuyên
đưa vào trường giáo dưỡng sẽ trở nên vô ích. Chưa kể, luật khống chế độ tuổi đi giáo dưỡng
chỉ đến 18 tuổi, với những trẻ 17 tuổi mới phạm tội thì thời gian giáo dục chỉ còn một năm,
không tương xứng với hành vi phạm tội. Còn những em mới 14, 15 tuổi lại ít khi phạm
những tội nằm trong diện phải vào trường giáo dưỡng.
Từ khi khởi tố, điều tra viên có thể áng chừng các em sẽ bị xử lý ở khung hình phạt
nào thì tại sao không cho các em vào trường giáo dưỡng ngay lúc đó để kết hợp giữa điều tra
với rèn luyện, giáo dục các em? Khi đấy, tòa sẽ căn cứ vào nơi em đó đang bị quản chế để
tuyên buộc phải ở trường thêm bao lâu hay sẽ xử án treo. Làm như vậy vừa thuận lợi cho cơ
quan tố tụng, vừa không ảnh hưởng đến tâm lý của trẻ phạm tội.
Tôi vẫn luôn mong muốn có một tòa án chuyên trách dành riêng cho người chưa
thành niên. Theo tôi, mô hình này đáp ứng được yêu cầu xét xử hiện đại, đảm bảo được tốt
nhất quyền và lợi ích cho trẻ cũng như phát huy được vai trò của các cán bộ xã hội.

23


Tôi phản đối việc đưa người chưa thành niên ra xử lưu động, vì mục đích cuối cùng
của pháp luật là giáo dục. Ai cũng hiểu đại đa số trẻ em phạm tội mang tính nhất thời, trong
khi bản chất ý nghĩa của việc xử lưu động là để răn đe. Khi đưa một người nhận thức tâm
sinh lý chưa đầy đủ để răn đe là đi ngược với chính sách hình sự. Ở góc độ xã hội, đưa người
chưa thành niên xử lưu động là không có ý nghĩa về mặt giáo dục vì mặc nhiên đã xem trẻ
như người lớn với tâm lý cần phải trừng trị.

CHƯƠNG 4
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
4.1 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm hình sự
của người chưa thành niên phạm tội.
Xét về tuổi chịu trách nhiệm hình sự (TNHS), bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015 đã

qui định có tính chất giảm nhẹ hơn so với BLHS năm 1999. Tuy nhiên điều luật qui định
tuổi chịu TNHS trong BLHS hiện hành vẫn còn có điểm chưa hợp lý. BLHS qui định người
vừa từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc tội phạm đặc biệt quan trọng. Có nghĩa là người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi này
có thể bị truy cứu TNHS về bất kỳ tội phạm nào nếu đó là tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Điểm bất hợp lý nầy thể hiện ở những khía cạnh sau
đây:
Về mặt lý luận, vì đế có được mục đích chống chính quyền nhân dân đòi hỏi người
phạm tội hình thành ý thức giai cấp, ý thức chính trị rõ ràng. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới
16 tuổi có năng lực nhận thức hạn chế, kinh nghiệm sống ít thì không thể đáp ứng được yêu
cầu trên.
Về thực tiễn:
Thực hiện quyền đấu tranh chống các tội phản cách mạng trước đây, và nay là các
tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia, đòi hỏi người phạm tội phải có ý thức
chính trị rõ ràng. Vì vậy, việc cân nhắc điều kiện tuổi của họ phải rất thận trọng. Có trường
hợp người thực hiện tội phạm đặc biệt nguy hiểm xâm hại an ninh quốc gia, đủ 14 tuổi trở
lên nhưng chưa đủ 16 tuổi, chưa có ý thức chính trị rõ ràng không bị xử lý về hình sự.

24


Hơn nữa, đối với một số tội phạm, do tính chất đặc biệt của chủ thể như: Chủ thể là
người có chức vụ quyền hạn, là quân nhân, là người đã thành niên…thì người chưa thành
niên phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không thể có những đặc điểm này.
Từ những căn cứ phân tích trên, ta chỉ nên qui định buộc người chưa thành niên phạm
tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS đối với những hành vi mà họ có khả năng
thực hiện được.
Một vấn đề nữa liên quan đến tuổi chịu TNHS của người chưa thành niên phạm tội đó
là việc xác định tuổi của người phạm tội. Việc xác định một cách chính xác tuổi của người
phạm tội có ý nghĩa rất lớn đối với việc xác định tội phạm và TNHS của họ. Trong nhiều

trường hợp nó có ý nghĩa quyết định trong việc khẳng định có phạm tội hay không phạm tội
cũng như có phải chịu TNHS hay không phải chịu TNHS.
Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy, qua trình vận dụng qui định về tuổi chịu
TNHS có những vướng mắc nhất định đòi hỏi phải được giải quyết về mặt lý luận.
Theo qui định tại Điều 12 BLHS năm 2015, tuổi chịu TNHS là tuổi tính tròn. Nhưng
vấn đề đặt ra là đột tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hay 16 tuổi đó được tính từ thời điểm
nào?
Trường hợp chúng ta có đủ điều kiện xác định chính xác ngày tháng năm sinh (thông
thường qua giấy khai sinh) thì việc tính tuổi không có điều gì cần bàn. Nhưng thực tế đấu
tranh phòng chống tội phạm hiện nay cho thấy, có rất nhiều trường hợp không có căn cứ xác
định chính xác ngày sinh, tháng sinh thậm chí cả năm sinh của người chưa thành niên có
hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Giải quyết những tình trạng này, nghị quyết số 02 ngày 5-1-1986 của Hội đồng thẩm
vấn tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) đã khẳng định “ Trong trường hợp không có điều
kiện xác định chính xác ngày sinh thì tính ngày sinh theo ngày cuối cùng của tháng, và nếu
cũng không có điều kiện xác định chính xác tháng sinh thì xác định là ngày cuối cùng của
năm sinh”. Có thể nói việc đưa ra cách tính tuổi nêu trên hoàn toàn là sự áp dụng nguyên tắc
có lợi cho bị can, bị cáo.
Quán triệt nguyên tắc này tại công văn số 81 ngày 10 tháng 6 năm 2002, TANDTC lại
một lần nữa cụ thể hóa cách xác định tuổi trong từng trường hợp cụ thể.
Nếu xác định được tháng cụ thể, nhưng không xác định được ngày nào trong tháng
đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo.
Nếu xác định được quý cụ thể của năm, nhưng không xác định được cụ thể ngày nào,
tháng nào của quí đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng của quí đó làm ngày sinh
của bị can, bị cáo để xngười chưa thành niên xét TNHS đối với bị can bị cáo.

25



×