Tải bản đầy đủ (.doc) (134 trang)

PHỐI hợp các lực LƯỢNG xã hội TRONG GIÁO dục ý THỨC PHÒNG CHỐNG ô NHIỄM môi TRƯỜNG nước CHO CỘNG ĐỒNG dân cư HUYỆN KIẾN THỤY, THÀNH PHỐ hải PHÒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (633.44 KB, 134 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
-----------------------

LÊ THỊ NGỌC BÁCH

PHỐI HỢP CÁC LỰC LƯỢNG XÃ HỘI TRONG GIÁO DỤC
Ý THỨC PHÒNG CHỐNG Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG NƯỚC
CHO CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ HUYỆN KIẾN THỤY,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

Chuyên ngành: Giáo dục và phát triển cộng đồng
Mã số: Thí điểm
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

HÀ NỘI - 2019
1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
-----------------------

LÊ THỊ NGỌC BÁCH

PHỐI HỢP CÁC LỰC LƯỢNG XÃ HỘI TRONG GIÁO DỤC
Ý THỨC PHÒNG CHỐNG Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG NƯỚC
CHO CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ HUYỆN KIẾN THỤY,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

Chuyên ngành: Giáo dục và phát triển cộng đồng


Mã số: Thí điểm
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trương Thị Hoa

HÀ NỘI - 2019
2


LỜI CẢM ƠN

3


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
:
:
:
:
:
:

4


DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU

5



MỤC LỤC

6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhiệm vụ bảo vệ
môi trường luôn được Đảng và Nhà nước coi trọng. Thực hiện Luật Bảo vệ môi
trường, Chỉ thị số 36-CT/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII) về tăng cường công
tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
công tác bảo vệ môi trường ở nước ta trong thời gian qua đã có những chuyển
biến tích cực. Hệ thống chính sách, thể chế từng bước được xây dựng và hoàn
thiện, phục vụ ngày càng có hiệu quả cho công tác bảo vệ môi trường. Nhận
thức về bảo vệ môi trường trong các cấp, các ngành và nhân dân đã được nâng
lên; mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường đã từng bước được
hạn chế; công tác bảo tồn thiên nhiên và bảo vệ đa dạng sinh học đã đạt được
những tiến bộ rõ rệt. Những kết quả đó đã tạo tiền đề tốt cho công tác bảo vệ
môi trường trong thời gian tới.
Tuy nhiên, môi trường nước ta vẫn tiếp tục bị xuống cấp nhanh, đặc biệt
vấn đề ô nhiễm môi trường nước. 10 năm gần đây, mỗi năm ở nước ta có khoảng
3 - 4 vụ ô nhiễm nước ở quy mô lớn và hàng trăm vụ quy mô nhỏ rải rác trên cả
nước. Những vụ ô nhiễm nước ở quy mô lớn ảnh hưởng sâu sắc tới sự phát triển
kinh tế nước ta như vụ ô nhiễm sông Thị Vải (2008), ô nhiễm biển miền Trung
(2016)… Đây là những thực tế đòi hỏi cần có sự cải cách sâu sắc về kiểm soát ô
nhiễm nguồn nước. Đồng thời cần có biện pháp tuyên truyền giáo dục cộng
đồng phòng chống kịp thời mức độ ô nhiễm môi trường nước ngày càng nghiêm
trọng, lan rộng gây nên hậu quả nặng nề.
Theo các chuyên gia, nếu tăng 1% GDP thì ở Việt Nam phải trả giá 3%
thiệt hại do ô nhiễm môi trường. Mỗi năm, ngành chăn nuôi các loài cá tra, tôm

chân trắng, tôm sú, ngao phải chịu thêm gần 1.400 tỷ đồng chi phí do ô nhiễm
nước. Từ năm 2011 – 2017, những vụ cá, tôm chết hàng loạt do chất lượng nước
nuôi không đảm bảo dẫn đến dịch bệnh gây thiệt hại hơn 1.000 tỷ đồng. Nguồn
7


nước ô nhiễm cũng khiến nguồn trồng trọt bị thiệt hại nặng nề. Bên cạnh đó,
theo thống kê của WHO và UNICEF, trong năm 2016, số trường hợp tử vong do
những vấn đề liên quan tới nước và vệ sinh lên tới 14.500 ca. Nguồn nước ô
nhiễm cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản gây ra các bệnh mãn tính
nguy hiểm.
Nguyên nhân ô nhiễm nguồn nước có thể đến từ mỗi cá nhân, công đồng
trong quá trình sinh hoạt, hay từ hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngành
nghề. Khi chất lượng nước đã bị suy thoái, việc khôi phục rất tốn kém, đòi hỏi
nhiều thời gian. Trả giá cho môi trường cho nguồn nước sẽ đắt hơn những gì có
trước mắt.
Hiện nay, trên địa bàn huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng có một
nguồn trữ lượng nước rất lớn, đó chính là nguồn nước của con sông Đa Độ ( một
nhánh của sông Văn Úc) dài 16 km và hệ thống kênh, mương dài 21km cung
cấp nước sinh hoạt, sản xuất không chỉ cho trên 10 nghìn người dân huyện Kiến
Thụy mà còn cung cấp một lượng nước lớn cho nhà máy nước toàn thành phố.
Tuy nhiên, hiện nay nước trên sông Đa Độ và các kênh mương đang có hiện
tượng ô nhiễm. Nước bị ô nhiễm ảnh hưởng rất lớn đến sinh hoạt, sản suất, sức
khỏe của cộng đồng nhân dân, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế trên địa bàn
huyện.
Thời gian qua, với chức năng và nhiệm vụ của mình, Phòng Tài nguyên
và Môi trường huyện Kiến Thụy TP Hải Phòng đã tổ chức nhiều hoạt động
tuyên truyền, tập huấn liên quan đến công tác phòng chống ô nhiễm môi trường
nước, tuy nhiên do chưa có sự phối hợp các lược lượng xã hội trên địa bàn
huyện nên công tác tuyên truyền giáo dục đạt hiệu quả chưa cao.

Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Phối hợp các lực lượng xã hội
trong giáo dục ý thức phòng chống ô nhiễm môi trường nước cho cộng đồng
dân cư huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng”.
2. Mục đích nghiên cứu
8


Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng phối hợp các lực lượng xã hội
trong phòng chống ô nhiễm môi trường nước cho cộng đồng dân cư huyện Kiến
Thụy, thành phố Hải Phòng, luận văn đề xuất một số biện pháp phòng chống ô
nhiễm môi trường nước cho cộng đồng dân cư huyện Kiến Thụy, thành phố Hải
Phòng dựa vào sự phối hợp của các lực lượng xã hội nhằm góp phần nâng cao ý
thức bảo vệ môi trường môi trường nước cho cộng đồng huyện Kiến Thụy, thành
phố Hải Phòng.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động giáo dục ý thức phòng chống ô nhiễm môi trường nước cho
cộng đồng dân cư.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp phối hợp các lực lượng xã hội trong giáo dục ý thức phòng
chống ô nhiễm môi trường nước cho cộng đồng dân cư huyện Kiến Thụy, thành
phố Hải Phòng.
4. Giả thuyết khoa học
Việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường nước chỉ do Hội phụ nữ thực hiện
mà không phối hợp với các lực lượng xã hội khác do vậy kết quả chưa cao. Nếu
đề xuất và áp dụng được những biện pháp giáo dục ý thức mang tính phù hợp và
hiệu quả trên cơ sở khai thác sức mạnh tổng hợp của các lực lượng xã hội thì sẽ
góp phần giúp cho cộng đồng huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng từng bước
có được nhận thức đầy đủ, thái độ đúng đắn và thói quen tích cực về bảo vệ môi
trường nước của địa phương.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận về phối hợp các lực lượng xã hội trong
giáo dục ý thức phòng chống ô nhiễm môi trường nước cho cộng đồng.
5.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng giáo dục ý thức phòng chống ô nhiễm
môi trường nước và thực trạng phối hợp các lực lượng xã hội trong giáo dục ý
9


thức phòng chống ô nhiễm môi trường nước cho cộng đồng dân cư tại huyện
Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng.
5.3. Đề xuất và biện pháp phối hợp các lực lượng xã hội trong giáo dục ý
thức phòng chống ô nhiễm môi trường nước cho cộng đồng dân cư tại huyện
Kiến Thụy thành phố Hải Phòng và tiến hành khảo nghiệm các biện pháp đề
xuất.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu.
6.1. Giới nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu biện pháp phối hợp giữa Phòng Tài nguyên và Môi trường, Hội
Liên hiệp phụ nữ (LHPN), Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Đảng
ủy, chính quyền cấp xã; cán bộ các cơ quan, ban ngành, đoàn thể huyện Kiến
Thụy thành phố Hải Phòng.
6.2. Giới hạn khách thể khảo sât:
Khách thể là cán bộ, công chức Phòng Tài nguyên và Môi trường; Hội liên
hiệp phụ nữ; cán bộ, công chức UBND các xã, thị trấn; cán bộ các cơ quan, ban
ngành, đoàn thể huyện huyện Kiến Thụy thành phố Hải Phòng.
6.4. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9 năm 2018 tháng 4 năm 2019
7 . Phương pháp nghiên cứu:
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
- Sử dụng nhóm phương pháp này nhằm thu thập và xử lí các tài liệu văn bản
có liên quan đến môi trường nước, bảo vệ môi trường nước, ý thức bảo vệ môi
trường nước, cộng đồng huyện Kiến Thụy, giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho

cộng đồng huyện Kiến Thụy, phối hợp các lực lượng xã hội trong giáo dục ý thức
bảo vệ môi trường nước cho cộng đồng tại huyện Kiến Thụy, thành phố Hải
Phòng
- Các phương pháp được sử dụng bao gồm: Phương pháp phân tích và
tổng hợp lí thuyết, phương pháp phân loại và hệ thống hóa lí thuyết.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
10


- Sử dụng nhóm phương pháp này nhằm thu thập những thông tin về thực
trạng phối hợp các lực lượng xã hội trong giáo dục ý thức bảo vệ môi trường nước
cho cộng đồng tại huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng
- Các phương pháp được sử dụng bao gồm: Phương pháp điều tra bằng
phiếu hỏi; phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động; phương pháp tổng kết
kinh nghiệm, phương pháp phỏng vấn.
7.3. Nhóm phương pháp xử lý số liệu
- Sử dụng nhóm phương pháp này nhằm xử lí kết quả điều tra, định lượng
kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn để rút ra các nhận xét khoa học khái quát
về thực trạng phối hợp các lực lượng xã hội trong giáo dục ý thức bảo vệ môi
trường nước cho cộng đồng tại huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng.
- Các phương pháp được sử dụng bao gồm: Phương pháp sử dụng công
thức toán học như công thức tính giá trị phần trăm, công thức tính giá trị
trung bình, độ lệch chuẩn….
8. Cấu trúc luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo,
phụ lục, nội dung chính của luận văn được thể hiện ở 3 chương:
Chương 1: Lý luận về phối hợp các lực lượng xã hội trong giáo dục ý
thức phòng chống ô nhiễm môi trường nước cho cộng đồng.
Chương 2: Thực trạng phối hợp các lực lượng xã hội trong giáo dục ý
thức phòng chống ô nhiễm môi trường nước cho cộng đồng dân cư tại huyện

Kiến Thụy thành phố Hải Phòng
Chương 3: Biện pháp phối hợp các lực lượng xã hội trong giáo dục ý
thức phòng chống ô nhiễm môi trường nước cho cộng đồng dân cư tại huyện
Kiến Thụy thành phố Hải Phòng

11


Chương 1
LÝ LUẬN VỀ PHỐI HỢP CÁC LỰC LƯỢNG XÃ HỘI
TRONG GIÁO DỤC Ý THỨC PHÒNG CHỐNG Ô NHIỄM MÔI
TRƯỜNG NƯỚC CHO CỘNG ĐỒNG CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ HUYỆN
KIẾN THỤY THÀNH PHỐ HẢI PHONG
1.1 Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Trên thế giới
Môi trường là một vấn đề đã và đang thu hút sự quan tâm của toàn Thế
giới. Trong vài chục năm trở lại đây, sự phát triển kinh tế ồ ạt dưới tác động của
cách mạng khoa học kỹ thuật và sự gia tăng dân số quá nhanh đã làm cho môi
trường bị biến đổi chưa từng thấy. Nhiều nguồn tài nguyên bị vắt kiệt, nhiều hệ
sinh thái bị tàn phá mạnh, nhiều cân bằng trong tự nhiên bị rối loạn. Môi trường
lâm vào khủng hoảng với quy mô toàn cầu, trở thành nguy cơ thực sự đối với
cuộc sống hiện đại và sự tồn vong của xã hội trong tương lai. Để bảo vệ cái nôi
sinh thành của mình, con người phải thực hiện hàng loạt các các vấn đề phức
tạp, trong đó có vấn đề giáo dục BVMT. giáo dục BVMT là một trong những
biện pháp có hiệu quả nhất, giúp con người có nhận thức đúng trong việc khai
thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường. Nghiên cứu
về môi trường và giáo dục môi trường nhận được sự quan tâm đặc biệt của các
nhà khoa học, của các tổ chức.
Tháng 6 năm 1972: Hội nghị của Liên Hợp Quốc về con người và môi
trường được tổ chức tại Stockhom, Thụy Điển được đánh giá là là hành động

đầu tiên đánh dấu sự nỗ lực chung của toàn thể nhân loại nhằm giải quyết các
vấn đề về môi trường. Một trong những kết quả của hội nghị lịch sử này là sự
thông qua bản tuyên bố về nguyên tắc và kế hoạch hành động chống ô nhiễm
môi trường. Ngoài ra, Chương trình Môi trường của Liên Hợp Quốc cũng được
thành lập.
Chương trình IEEP ( Chương trình giáo dục BVMT quốc tế) ra đời tại một
12


hội thảo ở Belyrade năm 1972. Hội thảo đưa ra bản tuyên bố liên chính phủ lần
đầu tiên về giáo dục BVMT. Các mục đích, mục tiêu, những khái niệm cốt lõi và
những nguyên tắc hướng dẫn của chương trình được đưa ra vào một văn kiện
của hội thảo có tên là: “Hiến chương Belyrade – một hệ thống nguyên tắc toàn
cầu cho giáo dục BVMT”. Một tập hợp các mục tiêu ngắn gọn, bao quát giáo
dục BVMT được đưa ra tại Belyrade có thể tóm tắt như sau:
- Nâng cao nhận thức và quan tâm tới mối quan hệ tương tác về kinh tế, xã
hội, chính trị, sinh thái giữa nông thôn và thành phố.
- Cung cấp cho mỗi cá nhân những cơ hội tiếp thu kiến thức những giá trị,
quan niệm, trách nhiệm và những kỹ năng cần thiết nhằm bảo vệ và cải tạo môi
trường.
- Tạo ra những mô hình ứng xử với môi trường cho các cá nhân, các tổ
chức, cũng như toàn xã hội.
Tại Hội nghị liên chính phủ lần đầu tiên về giáo dục BVMT do UNESCO
tổ chức tại Tbilisi (Liên Xô) năm 1977 có 66 thành viên các nước tham dự. Hội
nghị đưa ra các ý kiến đóng góp cho việc áp dụng rộng rãi hơn nữa giáo dục
BVMT trong chương trình giáo dục chính thức và không chính thức. Sự kiện
quan trọng này và những công bố liên tiếp theo dự kiến hội nghị đã tiếp tục đóng
góp cho hệ thống nguyên tắc của sự phát triển giáo dục BVMT trên toàn thế giới
ngày nay[18]
Năm 1984: Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã ủy nhiệm cho bà Gro Harlem

Brundtland, khi đó là Thủ tướng Na Uy, quyền thành lập và làm chủ tịch Ủy ban
Môi trường và Phát triển Thế giới (World Commission on Environment and
Development - WCED), nay còn được biết đến với tên Ủy ban Brundtland. Tới
nay, ủy ban này đã được ghi nhận có những công hiến rất giá trị cho việc đẩy
mạnh sự phát triển bền vững.
Năm 1987 đánh dấu 10 năm kỷ niệm hôi nghị Tbilisi đầu tiên và Hội nghị
này một loạt các vấn đề cơ bản được đưa ra thảo luận trong đó có tầm quan
13


trọng đặt biệt của giáo dục BVMT, với nội dung: Rốt cuộc là sẽ không có gì
giảm được mối đe doạ mang tính khu vực và quốc tế đối với môi trường trừ khi
ý thức của đại đa số quần chúng về mối liên quan thiết yếu giữa đặc trưng môi
trường và tiếp tục thoả mãn các nhu cầu của con người được thức tỉnh. Hoạt
động của con người phụ thuộc vào động cơ, mà động cơ phụ thuộc vào sự hiểu
biết của chúng. Vì thế chúng ta hiểu được tầm quan trọng tại sao mỗi người phải
nhận thức môi trường đúng đắn thông qua giáo dục BVMT[22].
Cũng trong năm 1987, Uỷ ban thế giới về môi trường và sự phát triển đã có
báo cáo “Tương lai của chúng ta” (WCED, 1987). Bản báo cáo đã đưa ra một công
bố chính “chương trình nghị sự toàn cầu” để nhất trí vấn đề môi trường với sự phát
triển, và vì thế đã tăng cường và mở rộng thực chất cuộc bảo tồn thế giới 1980.
Giáo dục được coi là phần trọng tâm của chương trình này “Sự thay đổi trong thái
độ mà chúng ta cố gắng làm phụ thuộc các chiến dịch giáo dục lớn, các cuộc thảo
luận và sự tham gia của quần chúng” (WCED 1987).[22]
Năm 1989: Sự phát hành và tầm quan trọng của Our Common Futur đã
được đưa ra bàn bạc tại Đại hội đồng Liên Hiệp quốc và đã dẫn đến sự ra đời
của Nghị quyết 44/228 - tiền đề cho việc tổ chức Hội nghị về Môi trường và
Phát triển của Liên hiệp quốc.
Năm 1992: Rio de Janeiro, Brasil là nơi đăng cai tổ chức Hội nghị thượng
đỉnh về Trái Đất, tên chính thức là Hội nghị về Môi trường và Phát triển của

Liên hiệp quốc (UNCED). Tại đây, các đại biểu tham gia đã thống nhất những
nguyên tắc cơ bản và phát động một chương trình hành động vì sự phát triển
bền vững có tên Chương trình Nghị sự 21 (Agenda 21). Với sự tham gia của
đại diện hơn 200 nước trên thế giới cùng một số lượng lớn các tổ chức phi
chính phủ, hội nghị đã đưa ra bản Tuyên ngôn Rio về môi trường và phát triển
cũng như thông qua một số văn kiện như hiệp định về sự đa dạng sinh học, bộ
khung của hiệp định về sự biến đổi khí hậu, tuyên bố về nguyên tắc quản lý,
bảo tồn rừng...Và một dự kiến được đưa ra là mọi chính phủ phải nổ lực phấn
14


đấu để cập nhập hóa hoặc chuẩn bị các chiến lược nhằm mục đích kết hợp môi
trường và phát triển thành vấn đề trung tâm để đưa vào tất cả các cấp giáo dục.
Năm 2002: Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững nhóm
họp tại Johannesburg, Nam Phi là dịp cho các bên tham gia nhìn lại những việc
đã làm 10 năm qua theo phương hướng mà Tuyên ngôn Rio và Chương trình
Nghị sự 21 đã vạch ra, tiếp tục tiến hành với một số mục tiêu được ưu tiên.
Những mục tiêu này bao gồm xóa nghèo đói, phát triển những sản phẩm tái sinh
hoặc thân thiện với môi trường nhằm thay thế các sản phẩm gây ô nhiễm, bảo vệ
và quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Hội nghị cũng đề cập tới chủ đề
toàn cầu hóa gắn với các vấn đề liên quan tới sức khỏe và phát triển. Các đại
diện của các quốc gia tham gia hội nghị cũng cam kết phát triển chiến lược về
phát triển bền vững tại mỗi quốc gia trước năm 2005.
Hàng năm thế giới đều tổ chức ngày nước thế giới 22 tháng 3; nhằm kêu
gọi sự quan tâm của toàn thế giới về tầm quan trọng của tài nguyên nước và vận
động chính sách về quản lý bền vững tài nguyên nước, đặc biệt là các nguồn
nước ngọt.
Chủ đề của Ngày Nước thế giới năm 2018 là “Nước với thiên
nhiên” nhằm nhấn mạnh vai trò của thiên nhiên trong việc bảo vệ nguồn
nước.Theo UN-Water, chủ đề của Ngày Nước thế giới năm 2018 nhằm kêu gọi

ứng dụng các giải pháp sẵn có trong tự nhiên để giải quyết các vấn đề thách thức
về tài nguyên nước trong thế kỷ 21 trên toàn cầu. Lũ lụt, hạn hán và ô nhiễm tài
nguyên nước đang ngày càng nghiêm trọng do các hoạt động khai thác, sử dụng
nguồn nước chưa bền vững cùng với các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu.
Dựa vào tự nhiên để quản lý và bảo vệ tài nguyên nước là một giải pháp hữu
hiệu giúp giải quyết, ứng phó với các thách thức này; đồng thời giúp đạt được
mục tiêu phát triển bền vững số 6 của Liên hợp quốc “Đảm bảo nguồn cung cấp
và quản lý bền vững tài nguyên nước và các điều kiện vệ sinh an toàn cho tất cả
mọi người”. Đặc biệt, chỉ tiêu 6.3 “Đến năm 2030, tất cả mọi người đều có khả
15


năng tiếp cận nguồn nước sạch và cải thiện các điều kiện vệ sinh thông qua việc
giảm tỷ lệ nước thải chưa qua xử lý và tăng cường tái sử dụng nước an toàn”.
Với chủ đề “Water for all - Leaving no one behind” (Nước cho tất cả Không để ai bị bỏ lại phía sau), Ngày Nước thế giới năm 2019 nhằm tuyên
truyền, vận động về khả năng tiếp cận với nước sạch của cộng đồng để thực hiện
Mục tiêu phát triển bền vững số 6 (SDG6)[36].
Theo đó, tiếp cận nguồn nước hợp vệ sinh, an toàn là nền tảng cho sức
khỏe cộng đồng và điều này quan trọng đối với sự phát triển bền vững của nhân
loại. Đáng chú ý, theo thống kê hiện trạng sử dụng nước hiện nay trên toàn thế
giới, hiện có khoảng 1,9 tỷ người sống trong các khu vực khan hiếm nước và 2,1
tỷ người không được tiếp cận các dịch vụ về nước uống bảo đảm an toàn. Dự
kiến, đến năm 2050, dân số thế giới tăng thêm khoảng hai tỷ người và nhu cầu
về nước an toàn có thể lên tới 30% so với hiện nay. Do việc thiếu nước sạch sẽ
có tác động bất lợi đến các cộng đồng nghèo dễ bị tổn thương như: phụ nữ, trẻ
em, người tị nạn, người bản địa thiểu số, người khuyết tật… Đáng lo ngại, hiện
trên toàn thế giới có khoảng 663 triệu người chưa được tiếp cận với các nguồn
nước uống hợp vệ sinh[36].
1.1.2. Ở Việt Nam
Ở nước ta, người đi đầu trong việc giáo dục BVMT cho thế hệ trẻ và nhân

dân là Chủ tịch Hồ Chí Minh; năm 1962, Bác đã phát động phong trào “trồng
cây gây rừng” trong cả nước. Câu nói “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích
trăm năm trồng người” đã để lại ý nghĩa sâu sắc trong lòng các thế hệ dân Việt.
Bác đã khái quát được mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, giữa môi trường
tự nhiên với môi trường xã hội.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác giáo dục BVMT trong công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát
triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường và xã hội bền vững. Nhiều văn bản đã

16


được ban hành nhằm thể chế hóa công tác giáo dục BVMT như Luật Bảo vệ môi
trường năm 2005 đã được Quốc Hội thông qua.
Đại hội Đảng toàn quốc lần X đã xác định nhiệm vụ của Giáo dục và Đào
tạo là: “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới cơ cấu tổ chức, nội
dung, phương pháp dạy học, thực hiện: Chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa,
chấn hưng nền giáo dục Việt Nam” [10,2].
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa
XI về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT cũng đã chỉ rõ: “Đổi mới căn bản,
toàn diện GD&ĐT là đổi mới từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội
dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới
từ sự lãnh đạo của Đảng, sự QL của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các
cơ sở GD - đào tạo và việc tham gia của gia đình, CĐ, XH và bản thân người
học… người học là chủ thể trung tâm của quá trình GD; GĐ có trách nhiệm
kết hợp với NT và XH trong việc GD nhân cách, lối sống cho con em mình” [9,
4].
So với thế giới, việc giáo dục bảo vệ môi trường ở Việt Nam được thực
hiện muộn hơn, mới chỉ được đề cập từ lần Cải cách giáo dục lần thứ 3 (năm
1979). Từ đó đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về chủ đề này, cụ thể

như:
- Tác giả Võ Quý “Bảo vệ môi trường - điều tiên quyết để giảm nhẹ những
đau khổ con người và để phát triển bền vững”- Tuyển tập tóm tắt các công trình
khoa học .2005 [27].
- Tác giả Nguyễn Văn Thuần có đề tài “Một số giải pháp quản lý hoạt
động giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh THPT huyện Thanh Chương,
tỉnh Nghệ An” [28]. Tác giả nghiên cứu các giải pháp quản lý nhằm nâng cao
các hoạt động giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh Trung học phổ thông
huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An.

17


Nguyễn Thị Thu Hằng (Đại học Quốc Gia Hà Nội), Giáo dục môi trường
thông qua dạy học dự án, chương nhóm Cacbon – Hoá học 11 nâng cao,
[11].Trần thị Hồng Châu (Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh), Giáo dục
môi trường thông qua dạy học hoá học lớp 10, 11 ở trường phổ thông, [5].
Những luận văn trên đưa ra nội dung và quy trình để thực hiện hiệu quả trong
hoạt động giáo dục BVMT cho học sinh thông qua giảng dạy bộ môn ở bậc học
Trung học phổ thông.
Ngoài ra, đã có một số đề tài luận văn Thạc sĩ Quản lí giáo dục nghiên cứu
về quản lý công tác giáo dục BVMT ở các trường phổ thông như: Trần Tự
Trọng – Biện pháp quản lí hoạt động giáo dục môi trường cho học sinh trung
học phổ thông vùng ven biển tỉnh Quảng nam – Đại học Đà Nẵng, [29].
Nguyễn Tý – Biện Pháp quản lí công tác giáo dục môi trường ở các trường
trung học cơ sở trên địa bàn quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng, [32].
Các luận văn trên đã làm rõ mục tiêu và nội dung giáo dục BVMT cho học
sinh, trong đó trình bày cụ thể các các bước để đạt mục tiêu và nội dung giáo
dục BVMT cho học sinh, xác định phương pháp dạy học, hình thức chung khi
tổ chức các hoạt động nhằm giáo dục BVMT cho học sinh trên địa bàn đạt

hiệu quả cao.
Luận văn của Đặng Hoàn Kiếm (Đại học Thái Nguyên – Trường Đại học
sư phạm), Tổ chức giáo dục môi trường cho học sinh trung học phổ thông,
thông qua khảo sát thực trạng ô nhiễm ở làng nghề huyện Đông Hưng, tỉnh
Thái Bình [18]. Luận văn nêu lên quy trình khảo sát để đưa ra thực trạng môi
trường ô nhiễm ở làng nghề tại huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình và thực
trạng nhận thức của đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên và học sinh về tầm
quan trọng của môi trường và đưa ra những giải pháp khắc phục trong đó giải
pháp chủ đạo là nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên, học
sinh và người dân.

18


Ở Việt Nam, vấn đề Bảo vệ môi trường nước trogn thời gian Đảng và
Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách và có những giải pháp
nhằm tăng cường quản lý, bảo vệ hiệu quả, khai thác và sử dụng bền vững tài
nguyên nước(TNN) gắn liền với công tác bảo vệ môi trường (BVMT) nhằm bảo
vệ sức khỏe, đời sống của nhân dân; có nhiều cố gắng trong việc giải quyết nhu
cầu nước hợp vệ sinh, an toàn cho người dân đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa,
vùng núi, hải đảo. Tuy nhiên, để thúc đầy việc thực hiện mục tiêu “nước cho tất
cả mọi người”, trong năm 2019 và những năm tiếp theo, Bộ TN và MT sẽ tiếp
tục phối hợp với các bộ, ngành, địa phương quyết tâm đưa các nghị quyết của
Đảng, Quốc hội, Chính phủ liên quan đến quản lý TNN vào cuộc sống, triển
khai thực hiện nghiêm túc các quy định của Luật TNN, Luật BVMT, các chương
trình, kế hoạch hành động đã đề ra, nhất là tiếp tục triển khai thực hiện Nghị
quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành T.Ư (Khóa XI) về chủ động ứng phó
biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT.
Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến quán triệt pháp luật về TNN,
thông tin đến người dân, doanh nghiệp; tăng cường công tác bảo vệ TNN, đặc

biệt là thiết lập, quản lý chặt chẽ hành lang bảo vệ nguồn nước, bảo vệ rừng đầu
nguồn, quản lý chặt chẽ các hoạt động khai thác, bảo vệ nguồn nước dưới đất;
đẩy mạnh công tác điều tra, quy hoạch tài nguyên nước; tập trung thanh tra,
kiểm tra; xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật về TNN.
Nghiên cứu về BVMT nói chung đã có nhiều đề tài và công trình nghiên
cứu, nghiên cứu về Bảo vệ môi trường nước chủ yếu các công trình mang tính
khoa học đơn thuần về bảo vệ nguồn nước trước các tác động của con người Tuy
nhiên vấn đề giáo dục ý thức bảo vệ môi trường nước cho cộng đồng - vấn đề
cốt lõi để giáo dục từ nhận thức, thái độ để thực hiên đúng cho đến nay chưa có
công trình nào nghiên cứu.
- Theo vốn hiểu biết của tác giả, cho đến nay, chưa có một công trình
nghiên cứu nào về “Phối hợp các lực lượng xã hội trong giáo dục ý thức bảo
19


vệ môi trường nước cho cộng đồng tại huyện Kiến Thụy, thành phố Hải
Phòng”.
1.2. Một số khái niệm cơ bản:
1.2.1. Môi trường nước và ô nhiểm môi trường nước
1.2.1.1. Môi trường và môi trường nước
Có nhiều khái niệm về môi trường và được hiểu theo các nghĩa khác nhau:
Trong Tiếng Anh, môi trường được viết “Environment”, Tiếng Pháp viết
là “L’environnement”, dịch theo nghĩa Tiếng Việt là “Bao quanh”. Vì vậy,
hiểu theo nghĩa khái quát nhất “Môi trường của một vật thể hoặc một sự kiện,
là tổng hợp các sự kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới vật thể và sự kiện đó”.
Khái niệm này được cụ thể hóa đối với những đối tượng và mục đích nghiên
cứu khác nhau.
Xét về nghĩa rộng, “Môi trường là tổng hợp các điều kiện bên ngoài có ảnh
hưởng tới một vật thể hoặc một sự kiện”.
Tổ chức UNESCO cho rằng: “Môi trường sống của con người bao gồm toàn

bộ hệ thống tự nhiên và hệ thống do con người sáng tạo ra; trong đó, con người
sống và bằng lao động của mình đã khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên và
nhân tạo cho phép để thỏa mãn các nhu cầu của con người”[33].
Theo tác giả Lê Văn Khoa, đối với cơ thể sống đã viết:“Môi trường là tổng
hợp những điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới đời sống và sự phát triển của
cơ thể [19].
Tác giả Hoàng Đức Nhuận định nghĩa: “Môi trường bao gồm tất cả
những gì bao quanh sinh vật, tất cả các yếu tố vô sinh và hữu sinh có tác
động trực tiếp hay gián tiếp lên sự sống, phát triển và sinh sản của sinh
vật” [24].
Như vậy, ta có thể khái quát: Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên
và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản
xuất, sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật hoặc môi trường là
20


tổng hợp tất cả điều kiện xung quanh một điểm trong không gian và thời
gian. môi trường là tổng hợp tất cả các ngoại lực, ảnh hưởng, điều kiện tác
động lên đời sống, tính chất, hành vi, sự sinh trưởng, phát triển và trưởng
thành của các cơ thể sống [19] .
Điều 3, Luật Bảo vệ Môi trường 2005 [26] định nghĩa: Môi trường bao
gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh
hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật.
Tóm lại, môi trường là tất cả những gì xung quanh chúng ta, tạo điều kiện
để chúng ta sống, hoạt động và phát triển.
Môi trường nước: Khi nghiên cứu về môi trường nước, không có nhiều tác
giả nghiên cứu về vấn đề này. Qua nghiên cứu trên các tài liệu chúng tôi quan
niệm
Môi trường nước được hiểu là môi trường mà những cá thể tồn tại, sinh
sống và tương tác qua lại đều bị ảnh hưởng và phụ thuộc vào nước. Môi trường

nước có thể bao quát trong một lưu vực rộng lớn hoặc chỉ chứa trong một giọt
nước.
Môi trường nước là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học tự
nhiên, kỹ thuật và cả kinh tế – xã hội. Môi trường nước là một loại môi trường
đặc biệt luôn gắn liền với nước.
Trái đất là một hành tinh xanh, có nhiều nước, nhưng 95,5% lượng nước
có trên Trái đất là nước biển và đại dương. Lượng nước ngọt mà loài người có
thể sử dụng được chỉ chiếm khoảng 0,01% lượng nước ngọt có trên Trái đất.
Cuộc sống của tất cả chúng ta và nhiều loài sinh vật khác phụ thuộc vào lượng
nước ít ỏi đó. Lượng nước quý giá đó đang bị suy thoái một cách nhanh chóng
do các hoạt động của con người và con người đang phải vật lộn với sự thiếu hụt
nước ngọt tại nhiều vùng trên thế giới.
Các hoạt động của con người đã làm giảm sút một cách đáng kể số lượng
và chất lượng nguồn nước ngọt của thế giới. Các hoạt động thiếu quy hoạch hợp
21


lý như ngăn sông, đắp đập, chuyển đổi đất ngập nước, phá rừng, thải các chất
thải sinh hoạt và công nghiệp ngày càng nhiều, đến mức thiên nhiên không thể
phân hủy kịp, đã và đang gây ô nhiễm đất, nước, không khí. Trong lúc đó, nhu
cầu ngày càng tăng nhanh của con người về nguồn nước ngọt đã làm thay đổi
các dòng nước tự nhiên, thay đổi quy trình lắng đọng và làm giảm chất lượng
nước. Tình trạng thiếu nước trên thế giới ngày càng lan rộng, nạn khô hạn kéo
dài, gây nhiều hậu quả về kinh tế và xã hội cho nhiều vùng rộng lớn. Tất cả
những điều đó đều tác động tiêu cực lên sự phát triển, làm suy giảm đa dạng
sinh học và chức năng của các hệ thống thủy vực trên thế giới. Để có thể bảo tồn
nguồn tài nguyên nước hết sức ít ỏi của chúng ta, chúng ta phải nhận thức được
rằng cần phải giữ được sự cân bằng nhu cầu và khả năng cung cấp bằng cách
thực hiện các biện pháp thích hợp. Để có thể hồi phục được sự cân bằng mỗi khi
đã bị thay đổi, sẽ tốn kém rất lớn, tuy nhiên, có nhiều trường hợp không thể sửa

chữa được. Vì thế cho nên, nhân dân tại tất cả các vùng phải biết tiết kiệm nước,
giữ cân bằng giữa nhu cầu sử dụng với nguồn cung cấp, có như thế mới giữ
được một cách bền vũng nguồn nước với chất lượng an toàn.
1.2.1.2. Ô nhiễm môi trường nước
Ngày nay, vấn đề ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước đã
và đang ngày càng trở nên nghiêm trọng ở Việt Nam. Trên các phương tiện
thông tin đại chúng, chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những hình ảnh, những
thông tin môi trường bị ô nhiễm. Bất chấp những lời kêu gọi bảo vệ môi trường,
bảo vệ nguồn nước, tình trạng ô nhiễm càng lúc càng trở nên trầm trọng. Hầu
hết sông hồ ở các thành phố lớn như Hà Nội và TP. HCM, nơi có dân cư đông
đúc và nhiều khu công nghiệp lớn đều bị ô nhiễm.
Ô nhiễm nước là sự thay đổi theo chiều xấu đi các tính chất vật lý – hoá
học – sinh học của nước, với sự xuất hiện các chất lạ ở thể lỏng, rắn làm cho
nguồn nước trở nên độc hại với con người và sinh vật. Làm giảm độ đa dạng
sinh vật trong nước.
22


Xét về tốc độ lan truyền và quy mô ảnh hưởng thì ô nhiễm nước là vấn đề
đáng lo ngại hơn ô nhiễm đất.
Ô nhiễm nước xảy ra khi nước bề mặt chảy qua rác thải sinh hoạt, nước
rác công nghiệp, các chất ô nhiễm trên mặt đất, rồi thấm xuống nước ngầm
Hiến chương châu Âu về nước đã đưa ra khái niệm ô nhiễm môi trường
nước:
“Ô nhiễm môi trường nước là sự biến đổi nói chung do con người đối với
chất lượng nước, làm nhiễm bẩn nước và gây nguy hiểm cho con người, cho
công nghiệp, nông nghiệp, nuôi cá, nghỉ ngơi, giải trí, cho động vật nuôi và các
loài hoang dã”.[ 36]
Hiện tượng ô nhiễm nước xảy ra khi các loại hoá chất độc hại, các loại vi
khuẩn gây bệnh, virut, kí sinh trùng phát sinh từ các nguồn thải khác nhau như

chất thải công nghiệp từ các nhà máy sản xuất, các loại rác thải của các bệnh
viện, các loại rác thải sinh hoạt bình thường của con người hay hoá chất, thuốc
trừ sâu, phân bón hữu cơ… sử dụng trong sản xuất nông nghiệp được đẩy ra các
ao, hồ, sông, suối hoặc ngấm xuống nước dưới đất mà không qua xử lí hoặc với
khối lượng quá lớn vượt quá khả năng tự điều chỉnh và tự làm sạch của các loại
ao, hồ, sông, suối.
Như vậy, Ô nhiễm nước là hiện tượng những vùng nước như sông, hồ,
biển, nước ngầm…bị những hoạt động của con người làm nhiễm chất độc hại
như chất có trong thuốc bảo vệ thực vật chưa được xử lý, chất thải công
nghiệp… tất cả những chất gây hại cho con người và cuộc sống các sinh vật tự
nhiên.
Ô nhiễm môi trường nước chính là nguồn nước bị các chất độc hại xâm
chiếm qua các hoạt động sản xuất hay sinh hoạt của con người. Cũng như ô
nhiễm không khí thì ô nhiễm môi trường nước để lại nhiều hậu quả to lớn như
ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, làm cá chết và nhiễm độc hàng loạt.
1.2.2. Giáo dục, giáo dục ý thức phòng chống ô nhiễm môi trường nước
23


1.2.2.1. Giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng XH đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt
và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử – XH của các thế hệ loài người, nhờ có giáo dục
mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn hoá dân tộc của nhân loại
được kế thừa, bổ sung và trên cơ sở đó mà xã hội loài người không ngừng tiến
lên. Các nhà nghiên cứu giáo dục đã đưa ra nhiều định nghĩa về giáo dục:
Trong Giáo trình Giáo dục học do tác giả Trần Thị Tuyết Oanh (chủ biên)
[25] đã cho rằng “Giáo dục là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức, có kế
hoạch, có nội dung và bằng phương pháp khoa học của nhà giáo dục tới người
được giáo dục trong các cơ quan giáo dục nhằm hình thành nhân cách cho họ.
Tác giả Nguyễn Lân [20] cho rằng:“Giáo dục là một quá trình có ý thức

có mục đích, có kế hoạch nhằm truyền cho lớp mới những kinh nghiệm đấu
tranh và sản xuất, những tri thức về tự nhiên, về xã hội, về tư duy, để họ có thể
có đầy đủ khả năng tham gia vào đời sống và đời sống xã hội”.
Trong cuốn Giáo dục học đại cương 1, tác giả Nguyễn Sinh Huy (chủ biên)
[17] lại tiếp cận khái niệm Giáo dục (theo nghĩa rộng) ở phạm vi rộng hơn: Giáo
dục là sự hình thành có mục đích và có tổ chức những sức mạnh thể chất và tinh
thần của con người, hình thành thế giới quan, bộ mặt đạo đức và thị hiếu thẩm
mĩ cho con người; với nghĩa rộng nhất, khái niệm này bao hàm cả giáo dưỡng,
dạy học và tất cả những yếu tố khác tạo nên những nét tính cách và phẩm hạnh
của con người, đáp ứng yêu cầu của kinh tế xã hội.
Từ các định nghĩa trên, ta có thể hiểu một cách chung nhất: GD là hoạt động
chuyển giao hệ thống tri thức cho thế hệ sau nhằm phát triển và hoàn thiện nhân
cách cá nhân – XH, đảm bảo sự tồn tại và phát triển XH. Khái niệm GD còn được
phân nhỏ về ngoại diên và nội hàm thành các khái niệm: GD nhà trường, GD gia
đình, giáo dục XH; về nội dung GD thì có: GD ý thức công dân, GD văn hoá thẩm mỹ, GD lao động, hướng nghiệp, giáo dục thể chất – quân sự, GD dân số,
GD giới tính, GD phòng chống ma tuý. giáo dục BVMT...
24


GD được coi là khởi nguồn của sự phát triển. Không có GD thì không có
bất cứ sự phát triển nào đối với con người, đối với kinh tế, văn hoá. Chính nhờ
có GD mà các di sản tư tưởng và kỹ thuật của các thế hệ trước được truyền lại
cho thế hệ sau. Các di sản này được tích luỹ ngày càng phong phú làm cho xã
hội phát triển.
Thông qua quá trình tương tác giữa người giáo dục và người được giáo dục
để hình thành nhân cách toàn vẹn (hình thành và phát triển các mặt đạo đức, trí
tuệ, thẩm mĩ, thể chất, lao động) cho người được giáo dục.
1.2.2.2. Ý thức phòng chống ô nhiễm môi trường nước
Ý thức là hình thức phản ánh tâm lí cao nhất chỉ có ở người, được phản
ánh bằng ngôn ngữ, là khả năng con người hiểu được các tri thức, các hiểu biết

mà con người đã tiếp thu được trong quá trình quan hệ qua lại với thế giới khách
quan.
Về mặt nhận thức của ý thức: con người có khả năng nhận thức được thế
giới từ cái bên ngoài trực tiếp đến cái bên trong gián tiếp bằng ngôn ngữ để hiểu
khái quát bản chất của sự vật, hay là từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lí tính.
Về mặt thái độ của ý thức: là khả năng tỏ thái độ lựa chọn, thái độ đánh
giá, thái độ cảm xúc của con người đối với thế giới mà con người nhận thức.
Về mặt năng động của ý thức: là khả năng điều khiển, điều chỉnh thái độ,
hành vi của mình đối với hiện thực trên cơ sở nhận thức.
Ý thức bảo vệ môi trường là khả năng nhận thức, sự hiểu biết của con
người về môi trường được biểu hiện cụ thể qua các hành vi bảo vệ môi trường
bao gồm những hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, đảm bảo cân
bằng hệ sinh thái. Ngăn chặn, khắc phục các hậu quả gây ảnh hưởng đến môi
trường xung quanh. Tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho mục đích phát
triển khác.
Ý thức là việc cần được xây dựng theo một quá trình và để nó dần dần
trở thành một thói quen cho mỗi người. Do đó việc xây dựng ý thức về bảo vệ
25


×