Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Luận văn: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.66 KB, 91 trang )

PHáT TRIểN NGUồN NHÂN LựC CHấT LƯợNG
CAO TRONG CÔNG NGHIệP HóA, HIệN ĐạI
HóA
ở Hà NộI HIệN NAY

LUN VN THC S KINH T


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1

Trang
3
NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO VÀ
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC

CHẤT

LƯỢNG

CAO

TRONG

CÔNG

NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở HÀ NỘI

11



HIỆN NAY

1.1.

Lý luận chung về nguồn nhân lực chất lượng cao
11

1.2.

trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Nội hiện nay

24

Chương 2

NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP
CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN

NGUỒN NHÂN

LỰC CHẤT LƯỢNG CAO TRONG CÔNG NGHIỆP
HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở HÀ NỘI HIỆN NAY

2.1.

46


Những quan điểm cơ bản về phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở

2.2.

Hà Nội
Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân

46

lực chất lượng cao trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Hà Nội hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

54
78
80
84


3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nguồn nhân
lực là nhân tố trung tâm, có vai trò quyết định đối với tăng trưởng và phát
triển của nền kinh tế. Nghị quyết Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam đã
nhấn mạnh: "Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy

mạnh phát triển và ứng dụng khoa hoc, công nghệ…” [6, tr.130]. Điều đó cho
thấy, đào tạo và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành
một trong các yếu tố then chốt thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển cũng như
trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hà Nội là một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học
và công nghệ và đầu mối giao thông quan trọng của cả nước, quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thủ đô Hà Nội có vai trò quan trọng trong
việc góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Vì vậy, hơn bất cứ địa phương nào trong cả nước, Thành phố Hà
Nội cần phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, bao gồm những con người có
đức, có tài, có trách nhiệm, ham học hỏi, thông minh sáng tạo, được chuẩn bị
tốt về kiến thức văn hóa, được đào tạo thành thạo về kỹ năng nghề nghiệp, về
năng lực sản xuất kinh doanh, có trình độ khoa học - kỹ thuật cao. Đó phải là
nguồn nhân lực của một nền văn hóa công nghiệp hiện đại.
Trong những năm qua Hà Nội đã tập trung nhiều công sức đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa Thủ đô. Tuy nhiên, nguồn nhân lực của Thành phố Hà Nội hiện nay
chưa đáp ứng được yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; chưa
thực sự là động lực để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
Thành phố. Cho nên việc nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng nguồn


4
nhân lực ở Hà Nội, nhằm đề xuất những giải pháp phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
Hà Nội là nhiệm vụ cần thiết trong tình hình hiện nay.
Với ý nghĩa trên, tác giả chọn đề tài "Phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Nội hiện nay" làm
luận văn thạc sĩ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Ở Hà nội cũng như trong cả nước đã có nhiều công trình khoa học, các
cuộc hội thảo, các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ nghiên cứu về đề tài này ở nhiều góc
độ, phạm vi rộng, hẹp khác nhau như:
* Nhóm nghiên cứu về phát triển con người:
“Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa, hiện
đại hóa”, của GS.TS Phạm Minh Hạc. Tác giả nghiên cứu chủ yếu về con người,
những nhân tố tác động đến sự phát triển toàn diện của con người như: sức khỏe,
hình thể, trí tuệ, sự chăm sóc y tế, giáo dục của gia đình, nhà trường, xã hội, giáo dục
và đào tạo... từ đó đưa ra các giải pháp chiến lược nhằm phát triển nguồn nhân lực
cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
“Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn” của Lê Thị Ngân. Tác giả đã tập trung làm rõ những vấn
đề mang tính lý luận và thực tiễn yêu cầu phải phát triển nguồn nhân lực. Trên cơ
sở những quan điểm của Đảng, chính sách phát triển và sử dụng nguồn nhân lực
của Nhà nước, tác giả tập trung phân tích vai trò và sự cần thiết phát triển nguồn
nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn.
“Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Việt Nam” của Tiến sỹ Đoàn Khải. Tác giả chủ yếu phân tích vai trò của con
người là nhân tố quan trọng chủ yếu quyết định thành công sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm phát


5
triển con người toàn diện trong đó đề cập nhiều đến thể lực, trí lực, trình độ
chuyên môn, trình độ học vấn, khả năng ứng dụng khoa học công nghệ đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
“Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện
nay” của Tiến sỹ Hồ Anh Dũng. Tác giả tập trung đề cập nhân tố quan trọng
trong phát triển lực lượng sản xuất là nhân tố con người, từ đó rút ra vấn đề
muốn phát triển lực lượng sản xuất thì phải coi trọng phát triển nguồn lực con

người như: giáo dục - đào tạo, nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên
môn kỹ thuật, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
“Đại hội XI với vấn đề phát triển nguồn nhân lực” của PGS.TS. Bùi
Thị Ngọc Lan, tác giả tập trung phân tích những điểm mới trong tư duy lãnh
đạo của Đảng về phát triển nguồn nhân lực. Theo tinh thần Đại hội XI của
Đảng, để phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao, cần phải đi vào một số giải pháp căn bản như: xây dựng và hoàn thiện hệ
thống giá trị của con người Việt Nam trong thời đại mới; đổi mới căn bản và
toàn diện nền giáo dục quốc dân; nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe
nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội.
* Nhóm nghiên cứu liên quan đến giáo dục và đào tạo:
“Đổi mới giáo dục - đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực”
của GS-TS Hoàng Ngọc Hà, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Bài viết này tác giả chủ yếu bàn về đổi mới công tác giáo dục và đào tạo ở
tất cả các cấp học, đi sâu phân tích thực trạng giáo dục đào tạo nghề, tác
giả đã nêu lên những vấn đề còn yếu kém về chất lượng đào tạo nghề như:
còn dàn trải, thiếu tập trung, thiếu đồng bộ, chưa sát với đòi hỏi thực tiễn
nhu cầu nhân lực của xã hội. Đồng thời tác giả đã đề cập đến những giải
pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.


6
“Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập và toàn cầu hóa"
của PGS-TS Nguyễn Tiệp. Tác giả nêu lên đặc điểm khi chúng ta mở cửa tham
gia hội nhập kinh tế quốc tế, cũng như đòi hỏi phải phát triển nguồn nhân lực
sau khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO, trên cơ sở đó tác giả đưa ra một số
giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực cho Việt Nam trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế và là thành viên chính thức của WTO.
“Vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, những thách thức lớn đối với Việt Nam” của Trần Văn Tùng. Tác giả chủ
yếu đi sâu phân tích vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở nước ta, đồng thời tác giả cũng đã phân tích sâu sắc những
khó khăn trở ngại khi nước ta tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện là một nước nghèo nàn, lạc hậu, cơ sở hạ tầng kỹ thuật
còn yếu kém, phần lớn lực lượng lao động chủ yếu chưa qua đào tạo cơ bản...
từ đó tác giả nêu lên một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn thách
trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực.
“Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Thanh Nxb Chính trị quốc gia. Tác giả đã
đề cập nhiều lĩnh vực về việc phát triển nguồn nhân lực trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay như đặc điểm, yêu cầu, vai trò của
phát triển nguồn nhân lực, những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân
lực, thực trạng giáo dục và đào tạo, trình độ chuyên môn kỹ thuật, đồng thời tác
giả cũng đưa ra hệ thống giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
"Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài năng" của Trần
Văn Tùng. Tác giả chủ yếu bàn về thực trạng chất lượng đào tạo cũng như bồi
dưỡng nguồn nhân lực tài năng của đất nước, cũng như những bất cập quá
trình sử dụng nguồn nhân lực tài năng, tác giả đề cập một số giải pháp thiết


7
thực nhằm đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài năng của đất
nước có hiệu quả.
“Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước” của Mai Quốc Chính. Tác giả tập trung nghiên
cứu những vấn đề lý luận cơ bản về nguồn nhân lực, vai trò của nguồn nhân
lực đồng thời nêu lên một số kinh nghiệm về phát triển nguồn nhân lực của
một số nước trên thế giới và thực trạng đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta, từ

đó tác giả rút ra một số định hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
"Việc làm, thực trạng và những vấn đề bất cập ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay" của Trần Minh Yến. Bài viết của tác giả chủ yếu bàn về việc làm và thực
trạng giải quyết việc làm cho người lao động; những vấn đề bất cập trong đào tạo
nghề và sử dụng lao động trong những năm qua đồng thời tác giả nêu lên những
giải pháp cơ bản nhằm phát huy hiệu quả trong đào tạo, cũng như sử dụng lao động
qua đào tạo và định hướng đào tạo nghề nhằm sử dụng có hiệu quả, cũng như giải
quyết việc làm ở nước ta hiện nay.
"Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực trong điều kiện mới" của
Nguyễn Minh Đường. Tác giả chủ yếu nêu lên những bất cập trong đào tạo
nhân lực, cũng như thực chất của nguồn nhân lực trong đó đề cập đến đội ngũ
cán bộ quản lý, cán bộ lãnh đạo, những người trực tiếp tham gia lao động đã
qua đào tạo nghề... song chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
trong điều kiện mới; từ đó tác giả đưa ra những giải pháp đào tạo lại cho đội
ngũ này để đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới.
“Khủng hoảng tài chính và thị trường nguồn nhân lực chất lượng cao
ở Việt Nam” của GS, TS Hoàng Văn Châu. Tác giả phân tích thị trường lao
động chất lượng cao ở Việt Nam; khủng hoảng tài chính và thị trường nguồn
nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam, tác giả chỉ rõ trong lúc tình trạng cung


8
cầu nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam đang bị mất dần cân đối thì
nền kinh tế phải chịu tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu bắt đầu từ năm 2008. Một trong những tác động dễ nhận thấy nhất của
cuộc khủng hoảng đó là tình trạng mất việc làm gia tăng do sản xuất bị đình
trệ, xuất khẩu giảm sút… Trên cơ sở đó tác giả đưa ra những giải pháp cho
các trường đại học để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, khả năng
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực kinh tế, kinh

doanh, tài chính - ngân hàng và ngoại ngữ phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
"Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo kinh nghiệm
Đông Á" của Lê Thị Ái Lâm. Tác giả đề cập kinh nghiệm phát triển nguồn
nhân lực của một số nước Đông Á như:
Trung Quốc bước vào kỷ nguyên lịch sử mới của cải cách và mở cửa
với thế giới bên ngoài vào năm 1978, giáo dục nghề nghiệp rất được coi
trọng để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc
tế và hiện đại hoá đất nước.
Nhật Bản đã đề ra mục tiêu: đào tạo những thế hệ mới có tính năng
động, sáng tạo, có kiến thức chuyên môn sâu, có khả năng suy nghĩ và làm việc
độc lập, khả năng giao tiếp quốc tế để đáp ứng những đòi hỏi của thế giới, với
sự tiến bộ không ngừng của khoa học và xu thế cạnh tranh - hợp tác toàn cầu.
Bí quyết của Hàn quốc là dựa vào phát triển nguồn nhân lực trong
một nước nghèo tài nguyên thiên nhiên để phát triển kinh tế. Giáo dục là
nhân tố chủ yếu để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và chính sách về
giáo dục luôn được xây dựng phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế.
Nhìn chung, các công trình trên chủ yếu nghiên cứu nguồn lực lao
động, một số tác giả bàn đến hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, hoặc bàn
riêng về thực trạng đào tạo nguồn nhân lực nguồn nhân lực chất lượng cao;


9
yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta trong
tình hình hiện nay. Tuy nhiên cho đến nay, chưa có công trình nào đi sâu
nghiên cứu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở Thành phố Hà Nội. Vì
vậy, việc lựa chọn đề tài: "Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Nội hiện nay " làm luận văn tốt
nghiệp, tác giả muốn tiếp cận một lĩnh vực cụ thể chưa được nhiều người

đề cập một cách hoàn chỉnh và thấu đáo.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi của luận văn
* Mục đích
Luận giải những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao trên địa bàn thành phố Hà Nội. Trên cơ sở đó đề xuất một số quan
điểm cơ bản và những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thành phố Hà Nội đến năm 2020 và
những năm tiếp theo.
* Nhiệm vụ
- Làm rõ những vấn đề lý luận về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục
vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Nội trong những năm qua.
- Đề xuất một số quan điểm cơ bản và những giải pháp chủ yếu nhằm phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Thành phố Hà Nội.
* Đối tượng nghiên cứu
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trên địa bàn Thành phố Hà Nội.


10
* Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
- Các số liệu điều tra, khảo sát nguồn nhân lực chất lượng cao được
thực hiện chủ yếu từ năm 2005 đến năm 2011.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Tác giả nghiên cứu trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, Tư

tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm chính sách của Đảng, Nhà nước
và của Hà Nội về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt
là phương pháp trừu tượng hóa khoa học, kết hợp với các phương pháp
lôgíc - lịch sử, hệ thống cấu trúc, điều tra xã hội học, thống kê, so sánh và
phương pháp chuyên gia.
5. Ý nghĩa của luận văn
- Góp phần làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát
triển nguồn nhân lực nói chung, nguồn nhân lực chất lượng cao nói riêng ở
Thành phố Hà Nội.
- Góp phần cung cấp thêm những luận cứ khoa học cho Đảng bộ, chính
quyền Thành phố Hà Nội trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển nguồn nhân lực,
trực tiếp là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu và học
tập, giảng dạy môn Kinh tế chính trị ở các nhà trường trong và ngoài quân đội.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: Mở đầu; 2 chương (4 tiết); kết luận; danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.


11
Chương 1
NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO VÀ THỰC TRẠNG
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
TRONG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Ở HÀ NỘI HIỆN NAY
1.1. Lý luận chung về .....nguồn nhân lực chất lượng cao trong công
nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực, nguồn nhân lực chất lượng cao

Nguồn nhân lực: Cho đến nay, có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn
nhân lực. Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì “Nguồn nhân lực của một
quốc gia là toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động.
Nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa: theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là
nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người
cho sự phát triển” [37, tr.4]. Do đó, nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có
thể phát triển bình thường. Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động
của xã hội, là một nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm các
nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao động, là tổng
thể các yếu tố về thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động.
Theo cách tiếp cận của kinh tế phát triển: Nguồn nhân lực là một bộ
phận dân số trong độ tuổi qui định có khả năng tham gia lao động. Nguồn
nhân lực được biểu hiện trên hai mặt: về số lượng, đó là tổng số những người
trong độ tuổi lao động làm việc theo qui định của nhà nước và thời gian lao
động có thể huy động được từ họ; về chất lượng đó là sức khỏe, trình độ
chuyên môn, kiến thức và trình độ lành nghề của người lao động.
Theo Giáo sư - Viện sĩ Phạm Minh Hạc thì: “Nguồn nhân lực cần được
hiểu là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức
khỏe và trí tuệ, năng lực, phẩm chất và đạo đức của người lao động. Nó là


12
tổng thể nguồn nhân lực hiện có thực tế và tiềm năng được chuẩn bị sẵn sàng
để tham gia phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia hay một địa phương
nào đó…” [13, tr.213]. Như vậy, quan niệm về nguồn nhân lực của các nhà
khoa học, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước tuy tiếp cận ở những
góc độ khác nhau, nhưng đều có sự thống nhất ở nội dung căn bản: Nguồn
nhân lực là lực lượng dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng hoạt động
trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Từ những quan điểm trên, dưới góc độ Kinh tế chính trị có thể hiểu:

Nguồn nhân lực là tổng thể các nguồn: thể lực, trí lực, trình độ, phẩm chất
thái độ nghề nghiệp chuyên môn tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã
hội của một quốc gia, trong đó có sự kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao
động sáng tạo của một dân tộc đang được sử dụng, hoặc sẽ sử dụng để sản
xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương
lai của đất nước.
Nguồn nhân lực chất lượng cao: Hiện nay có nhiều quan niệm khác
nhau về nguồn nhân lực chất lượng cao. Theo tác giả Trần Mai Ước thì:
“Nguồn nhân lực chất lượng cao được hiểu là bộ phận lao động xã hội có
trình độ học vấn và chuyên môn kĩ thuật cao; có kĩ năng lao động giỏi và có
khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi nhanh chóng của công nghệ sản
xuất; có sức khỏe và phẩm chất tốt, có khả năng vận dụng sáng tạo những tri
thức, những kĩ năng đã được đào tạo vào quá trình lao động sản xuất nhằm
đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả cao” [35, tr.4].
Theo bài viết của PGS,TS Bùi Thị Ngọc Lan cho rằng: “Nguồn nhân
lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ lực lượng lao động cụ thể có trình độ
lành nghề (về chuyên môn, kỹ thuật) ứng với một ngành nghề cụ thể theo tiêu
thức phân loại lao động về chuyên môn, kỹ thuật nhất định (trên đại học, đại
học, cao đẳng, lao động kỹ thuật lành nghề); có kỹ năng lao động giỏi và có


13
khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi nhanh chóng của công nghệ sản
xuất; có sức khỏe và phẩm chất tốt, có khả năng vận dụng sáng tạo những tri
thức, những kỹ năng đã được đào tạo vào quá trình lao động sản xuất nhằm
đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả cao” [18, tr.6].
Theo tác giả Nguyễn Hữu Dũng - Bộ Lao động thương binh - xã
hội: “Nguồn nhân lực trình độ cao là bộ phận lao động phức tạp, phải trải
qua một quá trình đào tạo, rèn luyện công phu”. Tác giả phân chia trình
độ đào tạo nhân lực của một quốc gia thành 7 nhóm:

Nhóm 1: nhân lực được đào tạo ở cấp trình độ sau đại học
Nhóm 2: nhân lực cán bộ công chức quản lý hành chính Nhà nước
Nhóm 3: nhân lực khoa học - công nghệ và đội ngũ giảng viên
Nhóm 4: nhân lực doanh nhân và các chuyên gia quản trị doanh nghiệp.
Nhóm 5: nhân lực tốt nghiệp cao đẳng, đại học trở lên.
Nhóm 6: nhân lực tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp.
Nhóm 7: lực lượng công nhân kỹ thuật.
Từ cách phân chia trên, tác giả Nguyễn Hữu Dũng cho rằng, xét theo
trình độ đào tạo thì nguồn nhân lực chất lượng cao phải ở 5 nhóm nhân lực
đầu tiên theo thứ tự nêu trên.
Theo Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và đầu tư trong báo cáo
nghiên cứu đề tài khoa học cấp Bộ (2006) về: (nguồn nhân lực chất lượng
cao: hiện trạng phát triển, sử dụng và các giải pháp tăng cường) cho rằng:
“Chất lượng nguồn nhân lực là tổng thể năng lực về trí lực, thể lực và khí chất
của một tập hợp (nhóm) người trong mối tương quan với khả năng đáp ứng
yêu cầu phát triển bản thân con người và phát triển kinh tế - xã hội, những
năng lực này được hình thành và phát triển thông qua giáo dục, đào tạo nghề
nghiệp, chăm sóc sức khỏe và quá trình lao động” [3, tr.8]. Thông qua phân
tích các yếu tố cơ bản để đánh giá nguồn nhân lực như: thể chất (gồm thể lực


14
và thể trạng), tri thức, trí tuệ; khí chất (tinh thần, ý thức xã hội); lao động qua
đào tạo các bằng cấp, chứng chỉ, cấp đào tạo, lao động chuyên môn… Những
yếu tố tạo thành chất lượng nguồn nhân lực (thể lực, trình độ kiến thức và kỹ
năng nghề nghiệp cùng với khí chất của người lao động) được hình thành và
phát triển qua hai con đường chủ yếu là giáo dục - đào tạo và thực hành làm
việc trong lĩnh vực sản xuất.
Như vậy, về mặt chất lượng thì nguồn nhân lực chất lượng cao bao gồm
những người phải trải qua hai quá trình được đào tạo một cách cơ bản có hệ

thống, có bằng cấp và quá trình rèn luyện qua thực tế sản xuất kinh doanh,
(một lao động được coi là cao hơn, phức tạp hơn so với lao động trung bình,
đòi hỏi phải qua quá trình đào tạo cơ bản và cao hơn, phải tốn nhiều công sức
để tạo ra nó, vì vậy nó có một giá trị cao hơn so với sức lao động giản đơn.
Nếu giá trị của sức lao động đó cao hơn thì giá trị đó cũng biểu hiện ra một
lao động cao hơn và vì vậy, trong những khoảng thời gian bằng nhau nó sẽ
được vật hóa trong các giá trị tương đối lớn hơn). Tuy nhiên, trên thực tế
không phải tất cả những người có bằng cấp cao đều trở thành nguồn nhân lực
chất lượng cao. Nguồn nhân lực chất lượng cao không chỉ biểu hiện ở bằng
cấp cao mà quan trọng hơn là sức lao động đó được vận dụng vào thực tế sản
xuất, quản lý… phải “đem lại một hiệu quả cao nhất định”. Thông qua những
công việc cụ thể, biểu hiện hành vi, phương pháp tư duy vượt qua mức kỹ
năng trở thành kỹ xảo, điêu luyện và thuần thục.
Kế thừa những quan niệm trên và tiếp cận từ góc độ lực lượng sản xuất,
có thể hiểu:
Nguồn nhân lực chất lượng cao là bộ phận lao động xã hội đã qua đào
tạo, có trình độ học vấn hay chuyên môn kĩ thuật cao, có sức khỏe và phẩm
chất xã hội cần thiết, đáp ứng yêu cầu của từng ngành, lĩnh vực hoạt động.
Như vậy, nguồn nhân lực chất lượng cao phải đạt được những yêu cầu đó là:


15
Thứ nhất, là những người lao động phải trải qua quá trình đào tạo, bồi
dưỡng ở các cấp đào tạo đáp ứng với yêu cầu công việc mà người lao động
trực tiếp tham gia hoạt động.
Thứ hai, là lực lượng lao động có trình độ học vấn hay chuyên môn kỹ
thuật cao đáp ứng yêu cầu từng ngành, lĩnh vực hoạt động.
Các tiêu chí này nói lên nguồn nhân lực chất lượng cao phải có trình
độ chuyên môn, kỹ thuật cao, có khả năng thích ứng tốt với những công
việc phức tạp và luôn thay đổi trong thời đại khoa học và công nghệ đang

phát triển nhanh như hiện nay. Điều này cũng có nghĩa là nguồn nhân lực
chất lượng cao phải có bản lĩnh nghề nghiệp để không bị động trước những
thay đổi nhanh chóng cả về nội dung và cách thức tiến hành công việc
trong thời đại toàn cầu hóa và kinh tế tri thức.
Thứ ba, là lực lượng lao động có sức khỏe và phẩm chất đạo đức tốt,
lòng yêu nghề, say mê với công việc, có tính kỷ luật và có trách nhiệm với
công việc, luôn mong muốn đóng góp tài năng, công sức của mình vào sự
phát triển chung của dân tộc.
Như vậy, nói đến nguồn nhân lực chất lượng cao phải khảng định
trình độ học vấn hay trình độ chuyên môn nghiệp vụ, hoặc kỹ năng lao
động. Do đó, chỉ có đào tạo mới có, nghĩa là dấu hiệu cơ bản nguồn nhân
lực chất lượng cao là đào tạo. Tuy nhiên, nguồn nhân lực chất lượng cao
nếu chỉ xét trình độ chuyên môn nghiệp vụ, hoặc kỹ năng lao động là chưa
đủ mà còn hội tụ các yếu tố sức khỏe, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp được
thể hiện thông qua quá trình lao động.
Trong thế giới hiện đại, khi các quốc gia đang chuyển dần sang nền
kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức và trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh
tế quốc tế, thì nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao ngày
càng thể hiện vai trò quyết định của tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội


16
nhanh và bền vững. Các lý thuyết tăng trưởng gần đây chỉ ra rằng, một nền
kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức độ cao phải dựa trên ít nhất ba trụ
cột cơ bản đó là: áp dụng công nghệ mới; phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó động lực quan trọng nhất của
sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững chính là những con người, đặc biệt
là nguồn nhân lực chất lượng cao, những con người được đầu tư phát triển
toàn diện, có kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo.
Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động và cạnh tranh quyết liệt, phần

thắng sẽ thuộc về những quốc gia có nguồn nhân lực chất lượng cao, có môi
trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư, có môi trường chính trị- xã hội ổn định.
1.1.2. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và vai trò của nó
trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Nội
* Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Hà Nội hiện nay
Trên cơ sở quan niệm về nguồn nhân lực chất lượng cao như đã phân
tích ở trên, theo tác giả: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Hà Nội
là một hoạt động của các chủ thể ở Hà Nội, gồm tổng thể các chủ trương,
biện pháp, cơ chế chính sách nhằm tạo ra những điều kiện để nguồn nhân lực
chất lượng cao gia tăng về số lượng, tiếp tục nâng cao chất lượng, có cơ cấu
phù hợp, đáp ứng yêu cầu của các ngành, lĩnh vực sử dụng nguồn nhân lực
chất lượng cao.
Từ quan niệm trên theo tác giả, phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Nội hiện nay phải đạt được
các tiêu chí đó là:
Thứ nhất về trình độ học vấn, đó là những lao động được đào tạo cơ
bản, có trình độ học vấn cao, đáp ứng được yêu cầu của từng ngành, lĩnh vực
hoạt động cụ thể.


17
Thứ hai về kỹ năng kỹ xảo, đó là những lao động đã được rèn luyện
trong quá trình học tập, nghiên cứu và thông qua thực tiễn trong lao động sản
xuất cũng như được bồi dưỡng về kỹ năng nghề nghiệp.
Thứ ba về năng lực sáng tạo, đó là những người không chỉ có khả năng
thành thạo trong công việc, ứng dụng tốt các tiến bộ của khoa học và công
nghệ mà còn có khả năng sáng tạo trong lao động sản xuất nhằm nâng cao
năng xuất, chất lượng sản phẩm.
Thứ tư về thể lực, đó là lực lượng lao động phải đảm bảo về sức khỏe

đáp ứng được yêu cầu những công việc của người lao động trực tiếp tham gia.
Tuy nhiên, trên thực tế nguồn nhân lực chất lượng cao của Thành phố
Hà Nội vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó, để phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao Thành phố phải thực sự quan tâm phát triển cả về số lượng và
chất lượng, cơ cấu lao động và thu hút sử dụng lao động chất lượng cao một
cách hợp lý, nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bên cạnh
việc đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao, Thành phố cũng phải
thường xuyên nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho họ, khẳng định vị trí,
vai trò của họ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Để thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao, Thành phố Hà Nội tiếp tục đẩy mạnh chủ trương, chính sách xã
hội hóa giáo dục - đào tạo, phát huy vai trò của các cấp, các ngành, cả hệ thống
chính trị, của gia đình, nhà trường và toàn xã hội trong giáo dục – đào tạo.
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XV
(2011-2015) tiếp tục khẳng định: Hà Nội phấn đấu giữ vị trí dẫn đầu cả nước
trong nhiệm vụ chiến lược: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, phục vụ thiết thực yêu cầu đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa Thủ đô và đất nước. Không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục


18
- đào tạo, trong đó đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, đạo đức, nhân cách,
lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức
trách nhiệm xã hội cho học sinh, sinh viên trong các cấp học” [10, tr.29].
Nội dung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Thành phố Hà
Nội bao gồm phát triển về số lượng, chất lượng và có cơ cấu hợp lý.
Thứ nhất, không ngừng phát triển số lượng nguồn nhân lực chất lượng
cao.
Số lượng nguồn nhân lực chất lượng cao được xác định bao gồm, tổng

số những người trong độ tuổi lao động và tham gia lao động đã qua đào tạo,
có trình độ học vấn và chuyên môn kĩ thuật đáp ứng yêu cầu của các ngành,
lĩnh vực kinh tế; có kĩ năng lao động giỏi và có khả năng thích ứng nhanh với
những thay đổi nhanh chóng của khoa học - công nghệ; có sức khoẻ và phẩm
chất đạo đức tốt, có khả năng vận dụng sáng tạo những tri thức.
Ở Hà Nội hiện nay, lực lượng trong độ tuổi lao động khá dồi dào, số lao
động qua đào tạo chiếm tỷ lệ khá cao so với cả nước, tuy nhiên số lượng nhân
lực chất lượng cao còn khá khiêm tốn. Trong khi nhu cầu về nguồn nhân lực
chất lượng cao trong các ngành kinh tế, khu vực kinh tế ngày một tăng cao,
nhất là lĩnh vực công nghiệp - xây dựng cơ bản; trong các ngành dịch vụ như:
Tài chính, Ngân hàng, Bưu chính viễn thông, Công nghệ thông tin, vận tải;
cán bộ công chức quản lý Nhà nước, cán bộ khoa học - kỹ thuật trong các
ngành kinh tế, trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn… . Đây là những ngành,
lĩnh vực mà Hà Nội đang rất cần lực lượng lao động chất lượng cao cho cả
hiện tại và tương lai, đặc biệt trong giai đoạn Thành phố đang đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vây, phát triển nhanh về số lượng nguồn
nhân lực chất lượng cao là hết sức cần thiết.
Thứ hai, phát triển về chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao.


19
Chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao là nội dung tổng hợp, bao
gồm những đặc trưng về trạng thái thể lực (tình trạng sức khỏe); trí lực (trình độ
học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp); phẩm chất tâm lý
xã hội (đạo đức nghề nghiệp, lối sống, kỹ năng giao tiếp, ý thức kỷ luật, tác
phong lao động …) của người lao động. Trong đó trình độ học vấn, trình độ
chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, là quan trọng nhất, vì nó không chỉ là cơ sở
để nâng cao kỹ năng nghề nghiệp của người lao động, mà còn là yếu tố hoàn
thiện nhân cách, lối sống trong mỗi con người. Chất lượng nguồn nhân lực chất
lượng cao có tác động làm tăng năng xuất lao động, tăng hàm lượng giá trị trong

mỗi sản phẩm được sản xuất ra, tăng tính cạnh tranh trên thị trường … từ đó góp
phần tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, nâng cao thu
nhập cho người lao động.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phải bằng tổng hợp các giải pháp,
sự vào cuộc của tất cả các cấp, các ngành, bằng cả hệ thống chính trị, trong đó
tập trung vào công tác giáo dục và đào tạo nghề, phát triển thể lực, nâng cao
chất lượng hoạt động y tế ... Trang bị cho họ (nguồn nhân lực) có trình độ học
vấn và chuyên môn kĩ thuật cao, có khả năng thích ứng nhanh chóng sự tiến
bộ của khoa học công nghệ, có khả năng sáng tạo, có sức khoẻ và phẩm chất
đạo đức tốt, khát khao được làm việc, được cống hiến, có khả năng vận dụng
sáng tạo những tri thức, những kĩ năng đã được đào tạo vào quá trình lao động
sản xuất nhằm đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, đáp ứng
được yêu cầu phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2020 và những
năm tiếp theo của Thành phố Hà Nội.
Thứ ba, cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng cao hợp lý.
Theo C.Mác, cơ cấu lao động có nghĩa là bàn về cấu trúc bên trong của
quá trình phân công lao động xã hội. Đó là các quan hệ tỷ lệ cũng như xu hướng


20
vận động, phát triển nguồn lao động giữa các ngành kinh tế (công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ…).
Cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng cao được thể hiện trên các phương
diện như: cơ cấu trình độ học vấn: trên đại học, đại học, cao đẳng; trung học
chuyên nghiệp; công nhân kỹ thuật; cơ cấu về giới tính; độ tuổi; cơ cấu lao động
trong các thành phần, các ngành, các lĩnh vực kinh tế; cơ cấu lao động trong nội
bộ ngành, lĩnh vực kinh tế ... trong nền kinh tế quốc dân.
Ở đây, cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng cao hợp lý, tức là phát triển hợp
lý về số lượng, đào tạo theo cấp bậc (trình độ) phù hợp với nhu cầu thực tiễn của
các lĩnh vực, các ngành, các thành phần kinh tế, phù hợp với qui hoạch phát triển

chung của Hà Nội. Cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng cao hợp lý sẽ tạo điều
kiện thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
Như vậy, sự phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao chính là các hoạt
động nhằm tạo ra những điều kiện cần thiết cho số đông người lao động phát
triển cả về thể chất, trí tuệ, trình độ chuyên môn, tay nghề ngày càng cao đáp
ứng mục tiêu, yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Thành phố Hà Nội.
* Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao trong công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Hà Nội hiện nay
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thành phố Hà Nội đòi hỏi
nhiều nhân tố quan trọng như: vốn, khoa học công nghệ, tài nguyên thiên
nhiên, song yếu tố quan trọng hàng đầu và quyết định nhất là con người. Nếu
so sánh các nguồn lực với nhau thì nguồn nhân lực có ưu thế hơn cả. Do vậy,
hơn bất cứ nguồn lực nào khác, nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực
chất lượng cao luôn chiếm vị trí trung tâm và đóng vai trò quan trọng hàng
đầu trong phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô, nhất là trong giai đoạn đẩy


21
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng
cao thể hiện ở những mặt sau:
Thứ nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn nhân lực đã trải qua quá trình
đào tạo, là những người có thể lực tốt, có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao,
có khả năng tư duy sáng tạo, khả năng tiếp thu trình độ khoa học công nghệ
cao… Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu góp phần thúc đẩy khoa học kỹ
thuật trong các ngành sản xuất phát triển, ứng dụng, cải tiến công nghệ sản
xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao năng xuất lao động và
thúc đẩy các ngành dịch vụ kỹ thuật cao phát triển. Do đó, các ngành công
nghiệp - xây dựng, dịch vụ của Thành phố Hà Nội phát triển mạnh hơn dẫn

đến tỷ trọng các ngành này trong quá trình chuyển dịch cơ cấu theo đúng định
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngược lại, nguồn nhân lực chất lượng
cao không đủ đáp ứng yêu cầu đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
Hà Nội sẽ làm cho quá trình tiếp thu ứng dụng, đổi mới, cải tiến khoa học kỹ
thuật – công nghệ chậm, dẫn đến trình độ năng xuất lao động thấp, làm cho
tốc độ phát triển của các ngành kinh tế chậm lại thậm chí thụt lùi, theo đó quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng diễn ra chậm chạp, tất yếu sẽ kìm hãm
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Do vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế thì nhất thiết phải có được nguồn nhân lực chất lượng cao.
Thứ hai, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ tạo điều kiện kiện thuận lợi
cho quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động. Bởi vì nguồn nhân lực chất lượng
cao luôn hướng tới tìm kiếm việc làm ở những ngành nghề đem lại giá trị cao
hơn, trong các ngành nghề đòi hỏi lao động phải có trình độ hiểu biết cao, có


22
kỹ năng chuyên môn giỏi để dần thay thế khu vực kinh tế kém hiệu quả, tạo
sự bền vững trong phát triển kinh tế xã hội.
Khi nguồn nhân lực chất lượng cao được tăng lên cả số và chất lượng
nhất là những ngành, những lĩnh vực mang lại thu nhập cao cho người lao
động, sẽ thu hút lực lượng lao động có trình độ chuyên môn nghề nghiệp vào
những khu vực này để làm việc, chẳng hạn như các ngành công nghiệp - xây
dựng và dịch vụ như hiện nay. Dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo
hướng tăng tỷ lệ lao động phi nông nghiệp. Đây cũng là xu hướng chuyển
dịch tích cực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự chuyển dịch
này sẽ diễn ra theo hai hướng: chuyển dịch cơ cấu lao động giữa hai khu vực
nông thôn và thành thị theo hướng tăng tỷ trọng lao động ở khu vực thành thị
gắn với phát triển công nghiệp và dịch vụ; chuyển dịch cơ cấu lao động giữa

các ngành kinh tế theo hướng chuyển dịch lao động từ ngành nông - lâm thủy sản sang công nghiệp - xây dựng và dịch vụ.
Thứ ba, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình đổi mới, nâng cao trình
độ khoa học - kỹ thuật, công nghệ sản xuất
Nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ tạo thuận lợi để tiếp thu tri thức khoa
học và công nghệ, các nguồn lực và kinh nghiệm tổ chức quản lý tiên tiến của
các nước phát triển qua đó nhanh chóng tăng cường năng lực khoa học và
công nghệ của Hà Nội, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Những
thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, sẽ tạo điều kiện cho
nước ta nói chung và Hà Nội nói riêng có thể đi thẳng vào những công nghệ
tiên tiến để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giảm bớt khoảng
cách phát triển kinh tế so với các nước đi trước.
Trong điều kiện kinh tế tri thức và khoa học - công nghệ phát triển
nhanh chóng như hiện nay, Hà Nội có thể tận dụng thời cơ, ứng dụng những
thành tựu của khoa học, công nghệ hiện đại để vươn lên tránh nguy cơ tụt


23
hậu, tạo ra sự phát triển nhanh, bền vững. Nhưng điều đó chỉ trở thành hiện
thực khi Hà Nội có một nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng được với phát
triển và ứng dụng của khoa học, công nghệ mới, tiên tiến, đẩy nhanh tiến trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Thành phố.
Thứ tư, góp phần tích cực cho tăng trưởng kinh tế và hội nhập kinh tế
quốc tế
Nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định
sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nguồn nhân lực chất lượng cao với tư
cách là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội, là yếu tố quyết định nhất,
động lực cơ bản nhất thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế. Với vị trí, vai trò
của nguồn nhân lực như vậy nên nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện
để rút ngắn khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh
quá trình nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bởi vì, đây là những người

lao động được đào tạo cơ bản với trình độ tri thức, chuyên môn, kỹ thuật cao;
có thái độ làm việc nghiêm túc, dám nghĩ, dám làm, luôn muốn tìm mọi cách
để nâng cao năng xuất lao động; họ là những người có vai trò thúc đẩy nhanh
quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế, tạo điều kiện tiếp thu các định chế kinh tế quốc tế, tăng cường hiểu biết đối
tác, nâng cao hiệu quả hợp tác, liên kết, liên doanh với các đối tác nước ngoài;
hạn chế được những rủi ro trong quá trình hợp tác kinh tế, đảm bảo nâng cao
được vị thế, khả năng cạnh tranh.
Việc hội nhập kinh tế quốc tế sẽ thúc đẩy việc thiết lập cơ cấu lao động
theo định chế quốc tế và quan hệ thị trường, nguồn nhân lực chất lượng cao
ngày càng cần thiết cho mọi quốc gia, trong khi những lao động không có
chuyên môn kỹ thuật ngày càng phải cắt giảm. Quan hệ đó sẽ tạo điều kiện
cho nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao của nước ta tham


24
gia sâu rộng hơn vào phân công và hợp tác lao động quốc tế, tạo việc làm một
cách ổn định và bền vững.
1.2. Thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Nội hiện nay
Hà Nội là thủ đô, đồng thời là thành phố đứng đầu Việt Nam về diện
tích tự nhiên và đứng thứ hai về diện tích đô thị sau thành phố Hồ Chí Minh,
cũng đứng thứ hai về dân số với 6.779.300 người (2011). Nằm giữa đồng
bằng sông Hồng trù phú, nơi đây đã sớm trở thành một trung tâm chính trị,
kinh tế và văn hóa ngay từ những buổi đầu của lịch sử Việt Nam.
Sau khi mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, Hà Nội
hiện nay có diện tích 3.344,7 km², gồm 10 quận, 1 thị xã và 18 huyện ngoại
thành. Cùng với Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng và Đà Nẵng, Hà Nội là
một trong bốn trung tâm kinh tế hàng đầu của cả nước. GDP của thành phố

tăng bình quân từ năm 2005 đến 2011 khoảng trên 10%. Hà Nội cũng là một
trung tâm văn hóa, giáo dục lớn nhất nước, với các nhà hát, bảo tàng, các làng
nghề truyền thống, những cơ quan truyền thông cấp quốc gia và các trường
đại học lớn… Phát huy lợi thế và tiềm năng của mình, Thành phố Hà Nội
luôn dẫn đầu cả nước về phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ
thuật v.v... Xứng đáng là một Thành phố có bề dày lịch sử ngàn năm văn hiến.
1.2.1. Những thành tựu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Nội
Trong những năm qua, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục
vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thành phố Hà Nội đã đạt được những
thành tựu quan trọng, góp phần tích cực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
nói chung và quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng,
trong điều kiện cả nước đang tích cực phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.


25
Cùng với sự nỗ lực chung của cả nước, nhằm nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố Hà
Nội đã tập trung triển khai nhiều giải pháp tích cực, nhằm từng bước phát
triển về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao, đảm bảo cơ
cấu hợp lý. Thành phố đã xây dựng được qui hoạch phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao giai đoạn 2009 - 2015; triển khai nghị quyết về xã hội hóa giáo
dục - đào tạo và y tế; thực hiện liên kết với các trường đại học, cao đẳng trong
và ngoài nước, phối hợp với các doanh nghiệp trên địa bàn để đào tạo và đào
tạo lại cho người lao động. Đồng thời Hà Nội đã ban hành nhiều chính sách
nhằm thu hút nhân lực chất lượng cao về Thành phố làm việc. Bên cạnh đó,
những năm qua Hà Nội tập trung đầu tư, huy động nhiều nguồn lực cho sự
nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo nghề cho người lao động.

Những nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố Hà Nội đã
đem lại những kết quả đáng khích lệ trong phát triển nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô
những năm qua. Kết quả đó được thể hiện trên một số nội dung sau:
* Kết quả thực hiện những chủ trương, chính sách chủ yếu về phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Hà Nội trong những năm qua
Nhận thức được vị trí, vai trò tầm quan trọng của việc phát triển nguồn
nhân lực lượng cao, trong những năm gần đây Đảng bộ, chính quyền Thành
phố Hà Nội đã có những chính sách quan tâm đến phát triển nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Hội đồng nhân dân Thành phố Hà Nội
khóa XIII kỳ họp thứ 18 ngày 17/7/2009 ra Nghị quyết 06/2009/NQHĐND về
việc đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục đào tạo và y tế giai đoạn 2009 – 2015; Hội
đồng nhân dân Thành phố Hà Nội khóa XIV thông qua đồ án qui hoạch phát triển
hệ thống giáo dục đào tạo Thủ đô đến năm 2020 tầm nhìn 2030. Trong đó xác


×