Tải bản đầy đủ (.pdf) (224 trang)

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ở thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 224 trang )





BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH














PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
CHẤT LƢỢNG CAO TRONG BỐI CẢNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH






LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ









Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2014




BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH











PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
CHẤT LƢỢNG CAO TRONG BỐI CẢNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


Chuyên ngành: Kinh tế Chính trị
Mã số: 62310102

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ






Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2014
i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong các công trình
khác.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 12 năm 2014
Tác giả





ii

MỤC LỤC


Trang phụ bìa
Lời cam đoan i
Mục lục ii
Danh mục các chữ viết tắt vi
Danh mục các bảng, hình vẽ, đồ thị vii
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH
TẾ QUỐC TẾ 14
1.1. Khái niệm và các tiêu chí đánh giá nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối
cảnh HNKTQT 14
1.1.1. Phát triển nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao 14
1.1.2. Hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu đối với phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao 27
1.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong
thời kỳ HNKTQT ở khía cạnh cung cầu lao động 33
1.2. Một số lý thuyết về vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao trong phát triển
và hội nhập quốc tế 45
1.2.1. Lý thuyết về nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố trực tiếp của quá trình
sản xuất 45
1.2.2. Lý thuyết về vốn nhân lực và tăng trưởng kinh tế 50
1.2.3. Lý thuyết về ích lợi của việc đầu tư vào vốn nhân lực 52
1.2.4. Lý thuyết về vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao trong hội nhập quốc
tế 55
1.3. Những bài học rút ra từ việc nghiên cứu kinh nghiệm của các nước Hàn Quốc,
Trung Quốc và Malaysia 58
1.3.1. Bài học kinh nghiệm về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao 58
1.3.2. Bài học kinh nghiệm về sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao 59
Tóm tắt chương 1
iii


CHƢƠNG 2: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ 62
2.1. Khung phân tích 62
2.2. Phương pháp tiếp cận vấn đề nghiên cứu 62
2.2.1. Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử 63
2.2.2. Phương pháp tiếp cận liên ngành 65
2.2.3. Phương pháp tiếp cận điểm 65
2.2.4. Phương pháp nghiên cứu tài liệu 65
2.2.5. Phương pháp phân tích và tổng hợp 66
2.2.6. Phương pháp so sánh, đối chiếu 66
2.3. Phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng 66
2.3.1. Nghiên cứu định tính 66
2.3.2. Phương pháp nghiên cứu định lượng 69
2.4. Hệ thống thông tin, dữ liệu nghiên cứu 72
2.4.1. Thông tin thứ cấp 72
2.4.2. Thông tin sơ cấp 72
2.5. Quy trình nghiên cứu 74
Tóm tắt chương 2
CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT
LƢỢNG CAO TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 76
3.1. Tổng quan về sự phát triển kinh tế và tiến trình hội nhập quốc tế của TP.HCM
76
3.1.1. Tổng quan về sự phát triển kinh tế của TP.HCM 76
3.1.2. Khái quát về tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của TP.HCM 78
3.2. Phân tích thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở TP.HCM 81
3.2.1. Thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao ở khía cạnh cung lao động 81
3.2.1.1. Tình hình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở TP.HCM hiện nay 81

3.2.1.2. Yếu tố khoa học công nghệ đối với phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao ở TP.HCM 92
iv

3.2.1.3. Yếu tố văn hoá và xã hội trong đội ngũ nhân lực chất lượng cao ở TP.HCM
94
3.2.1.4. Chính sách của Nhà nước đối với nguồn nhân lực chất lượng cao ở
TP.HCM 95
3.2.2. Thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao ở khía cạnh cầu lao động 96
3.2.2.1. Qui mô, cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng cao 96
3.2.2.2. Chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao ở TP.HCM hiện nay 103
3.2.2.3. Chính sách sử dụng đối với lao động chất lượng cao hiện nay ở TP.HCM
112
3.3. Những vấn đề đặt ra đối với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở
TP.HCM trong bối cảnh HNKTQT 114
3.3.1. Những bất cập đối với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở TP.HCM
trong bối cảnh HNKTQT ở khía cạnh cung lao động 114
3.3.2. Những bất cập đối với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở TP.HCM
trong bối cảnh HNKTQT ở khía cạnh cầu lao động 116
3.3.3. Nguyên nhân của những tồn tại trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao ở TP.HCM 119
Tóm tắt chương 3
CHƢƠNG 4. QUAN ĐIỂM, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO TRONG BỐI
CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
123
4.1. Những quan điểm chủ đạo trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của TP.HCM 123
4.1.1. Xác định vai trò quyết định của việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao 123

4.1.2. Hoạch định chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao một cách
hợp lý 124
4.1.3. Cải cách giáo dục phù hợp với yêu cầu của đổi mới 125
4.1.4. Có chiến lược bồi dưỡng, sử dụng và phát triển hợp lý và đồng bộ 126
v

4.2. Phương hướng, mục tiêu phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu hội
nhập quốc tế của TP.HCM 127
4.2.1. Phương hướng cơ bản 127
4.2.2. Những mục tiêu chủ yếu 129
4.3. Một số giải pháp cấp thiết nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp
ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế trên địa bàn TP.HCM 130
4.3.1. Nhóm giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở khía cạnh cung
lao động trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế trên địa bàn TP.HCM 130
4.3.1.1. Giải pháp về giáo dục đào tạo đối với phát triển NNLCLC 130
4.3.1.2. Giải pháp về khoa học công nghệ đối với phát triển NNLC 135
4.3.1.3. Giải pháp về chính sách của nhà nước đối với phát triển NNLCLC 137
4.3.2. Nhóm giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở khía cạnh cầu
lao động trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế trên địa bàn TP.HCM 139
4.3.2.1. Giải pháp về qui mô cơ cấu đối với phát triển NNLCLC 139
4.3.2.2. Giải pháp về chất lượng đối với phát triển NNLCLC 141
4.3.2.3. Giải pháp về chính sách sử dụng đối với phát triển NNLCLC 147
Tóm tắt chương 4
KẾT LUẬN 153
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 156
TÀI LIỆU THAM KHẢO 157
PHỤ LỤC
vi

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


1. BCHTW : Ban Chấp hành Trung ương
2. CHND : Cộng hoà nhân dân
3. CMKT : Chuyên môn kỹ thuật
4. CNH, HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
5. CNKT : Công nhân kỹ thuật
6. CSDN : Cơ sở dạy nghề
7. ĐH : Đại học
8. GD-ĐT : Giáo dục đào tạo
9. HNKTQT : Hội nhập kinh tế quốc tế
10. KCX-KCN : Khu chế xuất, khu công nghiệp
11. NCKH : Nghiên cứu khoa học
12. NNLCLC : Nguồn nhân lực chất lượng cao
13. TCCN : Trung cấp chuyên nghiệp
14. THCS : Trung học cơ sở
15. THPT : Trung học phổ thông
16. TP.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh
17. TW : Trung ương



vii

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, HÌNH VẼ

Bảng 3.1. Tổng hợp giáo viên và học sinh trung cấp chuyên nghiệp 84
Bảng 3.2. Qui mô đào tạo đại học, cao đẳng hệ chính qui phân theo nhóm ngành 88
Bảng 3.3. Doanh nghiệp đang hoạt động (thời điểm 31/12/2011) 96
Bảng 3.4. Số liệu lao động – việc làm TP.HCM giai đoạn (2000-2009) 96
Bảng 3.5. Chỉ số cơ cấu cung nhân lực theo trình độ nghề 102

Bảng 3.6. Thống kê mô tả điểm đánh giá của các doanh nghiệp về thể lực 104
Bảng 3.7. Tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo (%) 105
Bảng 3.8. Thống kê mô tả điểm đánh giá của các doanh nghiệp về trí tuệ 106
Bảng 3.9. Thống kê mô tả điểm đánh giá của các doanh nghiệp về nhân cách 108
Bảng 3.10. Thống kê mô tả điểm đánh giá của các doanh nghiệp về tính năng động
xã hội 111

Biểu đồ 3.1. Đánh giá tổng hợp chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực ở một số
nước châu Á 83
Biểu đồ 3.2. Biểu đồ thể hiện các nhu cầu của lao động chất lượng cao tại TP.HCM .
113

Hình 2.1. Khung phân tích 62
Hình 2.2. Qui trình nghiên cứu 74

1

PHẦN MỞ ĐẦU
Sự phát triển của thế giới đang bước sang trang mới với những thành tựu có
tính đột phá, trong đó yếu tố đóng vai trò trung tâm quyết định sự biến đổi về chất
của nền kinh tế chính là nguồn nhân lực chất lượng cao. Sự thống trị của các nhân
tố truyền thống như số lượng đất đai, lao động, hay nguồn vốn giờ đây đã được thay
đổi. Chính nguồn nhân lực chất lượng cao mới là yếu tố cơ bản nhất của mọi quá
trình, bởi lẽ những yếu tố khác vẫn có thể có được nếu có tri thức, song tri thức
không tự nhiên xuất hiện mà phải thông qua một quá trình giáo dục, đào tạo và hoạt
động thực tế. Ngày nay, sự cạnh tranh giữa các quốc gia, các doanh nghiệp chủ yếu
là cạnh tranh về hàm lượng chất xám, nghĩa là hàm lượng tri thức kết tinh trong sản
phẩm hàng hoá dịch vụ nhờ vào nguồn nhân lực có chất lượng. Vì vậy, để có được
tốc độ phát triển cao và bền vững, các quốc gia trên thế giới đều chú trọng đến việc
phát triển nguồn nhân lực,một vấn đề cấp bách có tầm chiến lược, có tính sống còn

trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế thế giới.
Hiện nay, công nghệ Việt Nam ở mức trung bình kém. Trong các ngành
công nghiệp, hệ thống máy móc thiết bị lạc hậu từ 2 đến 4 thế hệ so với thế giới.
Tình trạng thiếu công nhân kỹ thuật, đặc biệt là công nhân bậc cao là nhân tố trực
tiếp ảnh hưởng đến quá trình thực hiện chuyển giao công nghệ, làm giảm hiệu suất
sử dụng của thiết bị công nghệ.
Trong cơ cấu trình độ của lực lượng lao động của nước ta, tỷ lệ lao động
được đào tạo không chỉ quá thấp mà còn rất bất hợp lý. Chúng ta thiếu cả cán bộ
trên đại học, đại học, trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật lành nghề,
nhưng thiếu hụt nghiêm trọng hơn cả là chuyên gia đầu ngành và công nhân lành
nghề – kỹ thuật viên (Lê Văn Toàn, 2007).
Báo cáo chính trị của Ban Chấp Hành trung ương khoá IX tại đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X của Đảng cũng xác định rằng con đường công nghiệp hoá, hiện
đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, và
muốn vậy thì phải phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt
Nam thông qua giáo dục và đào tạo, khoa học, công nghệ, gắn với hội nhập quốc tế,
2

phát huy lợi thế của đất nước, gắn công nghiệp hoá, hiện đại hoá với kinh tế tri
thức, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ tiên tiến, hiện đại về khoa học và công
nghệ.
Kế thừa quan điểm phát triển, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta
tiếp tục xác định: “phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể,
nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”; “Phát triển nhanh nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược…”, “Nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát triển nhanh giáo dục đào tạo”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011)
Từ nhiều năm qua, thành phố Hồ Chí Minh đã xác định nguồn nhân lực là
một trong những nhân tố tạo nền tảng cho việc phát triển kinh tế - xã hội. Vì thế,
chủ trương phát triển nguồn nhân lực đã được Đảng bộ thành phố đề ra từ Đại hội

lần thứ VII (2001-2005) và lần thứ VIII (2006-2010)
Đại hội Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh lần thứ IX, nhiệm kỳ 2010-2015 đã
phân tích nhiều nhu cầu cấp bách phải tái cấu trúc kinh tế của thành phố Hồ Chí
Minh trong giai đoạn đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020, xác định phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao chính là một trong sáu chương trình đột phá của
thành phố Hồ Chí Minh. (Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh, 2010).
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, yêu cầu về nguồn nhân lực – một
yếu tố then chốt và quyết định - hiện đang đặt ra cho nền kinh tế nước ta nói chung
cũng như cho thành phố Hồ Chí Minh những vấn đề nan giải, cấp bách: Số lượng
lao động thì dư thừa, nhưng chất lượng nguồn lao động thì lại không đáp ứng, yêu
cầu lao động chất xám, lao động có trình độ chuyên môn, tay nghề luôn thiếu hụt.
Hệ thống giáo dục, đào tạo tuy đã được cải tiến, tiếp cận với hệ thống quốc tế, chất
lượng đội ngũ giáo viên đã được nâng lên một bước, tuy nhiên chất lượng giáo dục
và đào tạo vẫn còn nhiều bất cập trước yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước. Điều
đó sẽ hạn chế khả năng cung ứng nguồn nhân lực cho một thị trường với yêu cầu
phát triển cao về chất nhằm phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
hội nhập kinh tế quốc tế của thành phố. (Nguyễn Trần Dương, 2005).
3

Từ thực trạng và yêu cầu phát triển nguồn nhân lực nêu trên, tác giả quyết
định chọn đề tài: “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc ở thành phố Hồ Chí Minh” làm luận án tiến sỹ chuyên ngành kinh tế
chính trị.
1. Bối cảnh nghiên cứu và lý do chọn đề tài
1.1. Những công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất
lƣợng cao trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
Tác giả Nguyễn Bá Ngọc và Trần Văn Hoan (2002) cho rằng quá trình toàn
cầu hoá có tính chất hai mặt, vừa tạo ra cơ hội, vừa đặt ra những thách thức đối với
các nước đang phát triển. Lao động Việt Nam có trở thành nguồn lực quyết định sự
thành công trong tham gia hội nhập quốc tế hay trở thành rào cản trong tiến trình

đuổi kịp các nước tiên tiến, đều tuỳ thuộc vào ý chí vươn lên của dân tộc Việt Nam.
Tác giả cũng đề cập đến tác động của toàn cầu hoá đối với lao động, việc làm, với
vấn đề phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam như: di chuyển lao động trên thị
trường lao động trong nước và quốc tế; biến đổi lao động và thất nghiệp dưới tác
động của toàn cầu hoá kinh tế; tác động đến cải cách thể chế, quan hệ lao động, điều
kiện lao động và các vấn đề xã hội của lao động ở Việt Nam.
Tác giả Phạm Thị Thu Hằng (2008) và Hoàng Văn Châu (2009) đều đánh giá
tổng quan về môi trường kinh doanh của Việt Nam 2007, phân tích các hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trên 4 khía cạnh: lao động, tài chính, công
nghệ và tiếp cận thị trường trong 6 ngành (dệt may, xây dựng, du lịch, ngân hàng,
bảo hiểm, sản xuất chế biến thực phẩm) bị ảnh hưởng nhiều nhất của việc Việt Nam
gia nhập WTO từ các vấn đề lao động và phát triển nguồn nhân lực. Các tác giả
nhận định thị trường lao động Việt Nam sẽ tiếp tục thiếu hụt và khan hiếm nguồn
nhân lực cao cấp quản lý trở lên. Sau khi cuộc khủng hoảng tài chính qua đi, khi các
doanh nghiệp tiến hành tái cấu trúc và nhu cầu nhân lực có chất lượng cao tăng lên
thì chắc chắn sự mất cân đối cung - cầu trên thị trường lao động sẽ diễn ra ngày
càng trầm trọng hơn nếu như Việt Nam không có những biện pháp hữu hiệu giải
quyết vấn đề này. Nguyên nhân của việc này là do các doanh nghiệp thiếu thông tin
4

về thị trường lao động và chưa tiếp cận một cách hiệu quả được với các dịch vụ đào
tạo; nhiều doanh nghiệp chưa tích cực tham gia vào các chương trình đào tạo; các
sinh viên đã không được định hướng tốt trong việc chọn trường, chọn ngành nghề
theo học.
Tác giả Nguyễn Thị Thanh Liên (2011) đã đánh giá những điểm mạnh của
TP.HCM trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là tập trung nhiều trường
ĐH, CĐ danh tiếng của cả nước; là địa phương làm tốt công tác dự báo nguồn nhân
lực và sàn giao dịch việc làm; Nhiều trường ĐH, CĐ trong thành phố như ĐH Bách
Khoa, ĐH Sư phạm Kỹ thuật, CĐ Lý Tự Trọng đã hợp tác liên kết với doanh
nghiệp trong và ngoài nước về nhu cầu lao động. Đồng thời tác giả cũng phân tích

những hạn chế của TP.HCM là cung lao động vẫn chưa đáp ứng nhu cầu cả về số
lượng và chất lượng, trong đó thiếu hụt mạnh là khu vực ngoại thành. Tác giả bài
viết cho rằng nguyên nhân chính của vấn đề là mối quan hệ giữa nhà trường và
doanh nghiệp chưa thật sự chặt chẽ, và sự đầu tư cho quá trình chuyển đổi của thành
phố chưa theo kịp nhu cầu xã hội. Từ đó tác giả các giải pháp là tái cấu trúc nhân
lực thành phố, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho trường học theo hướng hiện
đại, tăng cường liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp đồng thời nâng cao vai trò
quản lý của nhà nước về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Tác giả Đàm Nguyễn Thuỳ Dương (2004) đưa ra những nhân tố tác động
đến nguồn lao động như vị trí địa lý của lãnh thổ, điều kiện tư nhiên và tài nguyên
thiên nhiên, dân số và nguồn lao động, lịch sử khai thác lãnh thổ, cơ sở hạ tầng,
đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, Giáo dục, y tế. Trong đó tác giả
cho rằng giáo dục có vai trò quan trọng nhất đối với sự phát triển tiềm năng của con
người. Năng suất lao động không chỉ phụ thuộc vào sức khoẻ người lao động, vào
công nghệ sản xuất mà còn phụ thuộc nhiều vào trình độ hiểu biết của người lao
động. Kết quả giáo dục là tăng lực lượng lao động
Các tác giả Francis Green, David Ashton, Donna James, Johnny Sung
(1999) đề xuất một giải thích mới về vai trò của nhà nước trong việc hình thành kỹ
năng, với ba nền kinh tế Đông Á mới công nghiệp hóa. Thay vì nhìn thấy nhà nước
5

là yếu tố bên ngoài chỉ đơn giản là khắc phục, nhóm tác giả giải thích nhà nước phù
hợp với việc cung cấp và nhu cầu cho các kỹ năng trong một nền kinh tế phát triển
nhanh chóng. Vai trò này có thể là tốt hơn một chiến lược cho phép các tổ chức giáo
dục và đào tạo được thúc đẩy bởi quá trình tự trị. Bài viết xem xét các cơ chế chính
trị giúp cho việc đảm bảo sự phát triển của giáo dục và hình thành các chính sách
đào tạo tuân theo những mệnh lệnh của sự tăng trưởng kinh tế.
Trong tác phẩm “Tư duy lại tương lai” do Rowan Gibson biên tập (2002) các
nhà nghiên cứu cho rằng: Từng ngóc ngách trong lối tư duy của kỷ nguyên công
nghiệp bây giờ đây đang được xem xét lại kỹ lưỡng và được tu chỉnh một cách

mạnh mẽ. Thông qua quan điểm các nhà nghiên cứu, đã có 6 tổng kết đặc biệt quan
trọng để thực hiện những bước tư duy lại tương lai: (1) Tư duy lại các nguyên tắc,
(2) Tư duy lại vấn đề cạnh tranh, (3) Tư duy lại sự kiểm soát và tính phức tạp, (4)
Tư duy lại vai trò lãnh đạo, (5) Tư duy lại thị trường, (6) Tư duy lại thế giới. Những
tổng kết mang tính triết lý này giúp mọi người nhìn thế giới với một nhận thức mới
mẻ, đồng thời cũng giúp nêu ra những hành động cụ thể để giành được những thành
công trong thời đại toàn cầu hoá với nền kinh tế tri thức.
Tiếp nối những nghiên cứu này, tác giả John Naisbitt (2009) đã nghiên cứu
và tổng kết 11 lối tư duy của tương lai cho những ai muốn tham gia vào đội ngũ
nguồn nhân lực chất lượng cao. Dù đề ra quan điểm phải tư duy lại tương lai hay
phải có lối tư duy của tương lai nhưng các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau
rằng, đó phải là tư duy sáng tạo. Như vậy, khi đề ra những yêu cầu đối với nguồn
nhân lực chất lượng cao, các tác giả đã nhấn mạnh tới những sáng tạo để đạt tới
đỉnh cao nhất trên con đường phát triển ở thời đại ngày nay.
Trong công trình: Bảy tri thức tất yếu cho nền giáo dục tương lai, sau khi
nhấn mạnh vai trò trung tâm của giáo dục đối với con người trong xã hội ngày nay,
tác giả Edgar Morin (2008) đã luận giải về bảy tri thức cần phải trở thành nền tảng
trong nền giáo dục tương lai để những bộ óc được đào tạo tốt, có khả năng sáng tạo
cao, đó là: Sự đuôi mù của nhận thức: Sai lầm và ảo tưởng; Những nguyên tắc để có
một nhận thức đúng đắn; Về hoàn cảnh con người; Căn cước địa cầu; Đương đầu
6

với những bất xác định; Sự thông cảm; Đạo lý của nhân loại. Bảy tri thức này cho
phép kết nạp tất cả các bộ môn hiện có, thúc đẩy sự phát triển của nguồn nhân lực
chất lượng cao với khả năng đáp ứng những thách thức của cuộc sống cá nhân, văn
hoá và xã hội của tương lai.
1.2. Những nhận định về nguồn nhân lực chất lƣợng cao trong giai đoạn hiện
nay ở Việt Nam
Tác giả Đức Vượng (2008) cho rằng nguồn nhân lực Việt Nam được xác
định gồm nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí thức, công chức viên chức và

có những đặc điểm chung là nguồn nhân lực ở Việt Nam khá dồi dào, nhưng chưa
được sự quan tâm đúng mức, chưa được quy hoạch, chưa được khai thác, đào tạo
thì nửa vời, nhiều người chưa được đào tạo; Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao,
dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa lượng và chất; Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa
nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí thức, chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự
cộng lực để cùng nhau thực hiện mục tiêu chung là xây dựng và bảo vệ đất nước.
Từ đó, tác giả đã đề xuất 10 giải pháp phát triển nguồn nhân lực Việt Nam (Cần coi
nguồn nhân lực là tài nguyên quý giá nhất của Việt Nam; nâng cao chất lượng con
người và chất lượng cuộc sống; Nhà nước phải có kế hoạch phối hợp tạo nguồn
nhân lực từ nông dân, công nhân, trí thức; có kế hoạch khai thác, đào tạo, bồi
dưỡng, sử dụng các nguồn nhân lực cho đúng; hằng năm, Nhà nước cần tổng kết về
lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực ở Việt Nam, đánh giá đúng mặt được, mặt
chưa được, kịp thời rút ra những kinh nghiệm, trên cơ sở đó mà xây dựng chính
sách mới và điều chỉnh chính sách đã có về nguồn nhân lực ở Việt Nam ) Tác giả
cũng kiến nghị Chính phủ và các cơ quan chức năng phải có chính sách, biện pháp
kết hợp thật tốt giữa đào tạo và sử dụng trong tổng thể phát triển kinh tế của đất
nước, đáp ứng có hiệu quả nguồn lao động có chất lượng cao cho yêu cầu phát triển
của nền kinh tế.
Tác giả Nguyễn Thanh Tuyền và cộng sự (2002) khẳng định con đường hội
nhập đối với Việt Nam là tất yếu. Xây dựng được cho mình những yếu tố ngày càng
mạnh của kinh tế tri thức là cách duy nhất để có được năng lực cạnh tranh, và hợp
7

tác một cách bình đẳng trong sự hội nhập đó. Đối với Việt Nam, chuyển sang thời
đại nền kinh tế tri thức là xu hướng không thể đảo ngược. Phải có tư duy của nền
kinh tế tri thức ngay cả khi đang ở trong giai đoạn phát triển nền kinh tế hữu hình
(công nghiệp hoá) để chí ít khi chưa thể bắt kịp vào nền kinh tế tri thức thì cũng tạo
ra được những tiền đề để tiếp nhận có hiệu quả các hiệu ứng tác động của nền kinh
tế tri thức trong toàn cầu hoá. Từ đó các tác giả cũng đề xuất sáu giải pháp căn bản
để tiến đến nền kinh tế tri thức là: Đẩy nhanh hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu,

nắm bắt những cơ hội của nó để nhanh chóng để tiến nhanh; Đầu tư vào giáo dục,
phát triển nguồn vốn con người để tăng năng lực hấp thụ và sử dụng tri thức; Đầu tư
cho khoa học và công nghệ để tạo ra tri thức của chính mình; Đầu tư vào hạ tầng
thông tin để tạo điều kiện dễ dàng cho việc thu nhận lẫn hấp thụ tri thức; Tăng
cường đổi mới chính sách và thiết chế để tiếp tục thực thi phát triển nền kinh tế mở;
và kinh tế tri thức hướng tới một xã hội mở, dân chủ rộng rãi.
Tác giả Lê Thị Ngân (2002) cho rằng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
tiếp cận kinh tế tri thức là nâng cao năng lực thể chất và năng lực tinh thần sáng tạo,
tìm kiếm, phát hiện thông tin và vật chất hoá thông tin thành sản phẩm và công
nghệ mới. Do đó, khả năng sáng tạo đổi mới là đặc điểm nổi bậc của chất lượng
nguồn nhân lực tiếp cận kinh tế tri thức. Qua đó tác giả cũng xác định điểm yếu của
Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn, tiếp cận kinh tế tri
thức là cơ sở hạ tầng cho kinh tế tri thức còn nhiều yếu kém, nguồn nhân lực chưa
đáp ứng yêu cầu của sự phát triển, còn thiếu về số lượng và chất lượng. Tác giả cho
rằng để tiếp cận được kinh tế tri thức phải đồng thời tiến hành việc tạo dựng cơ sở
hạ tầng ban đầu cho kinh tế tri thức và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Cùng quan điểm khi nghiên cứu nguồn nhân lực chất lượng cao tác giả Trần
Văn Hùng (2012) cho rằng điều kiện để tạo được lợi thế cạnh tranh trong thời đại
ngày nay là đầu tư phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao đi đôi với cấu trúc
lại nền kinh tế. Cạnh tranh kinh tế hiểu theo nghĩa rộng chính là cạnh tranh về giáo
dục đào tạo và khoa học công nghệ. Tuy nhiên, để có được như vậy vấn đề cơ bản
là phải có đầu tư xứng đáng vào giáo dục đào tạo, tức là đầu tư vào nguồn tài
8

nguyên con người, đào tạo nguồn nhân lực có năng lực trí tuệ và tay nghề cao, có
khả năng tiếp nhận và sáng tạo tri thức và công nghệ mới.
Nhìn nhận nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua giáo dục – đào tạo, tác
giả Nguyễn Trung (2012) nhận định chất lượng của công tác giảng dạy ở nước ta
được đánh giá thông qua chương trình giảng dạy, người dạy, chất lượng nhà trường.
Tác giả cung cấp cho người đọc thông tin đáng chú ý về chất lượng đào tạo ở nước

ta thông qua đánh giá của các chủ doanh nghiệp Việt Nam đối với những lao động
được đào tạo qua các cơ sở đào tạo trong nước: (a) họ phải đào tạo lại hầu hết mọi
người ở mọi cấp bậc – học nghề, đại học, sau đại học - mà họ nhận vào doanh
nghiệp của mình, (b) họ không tin tưởng vào hệ thống đại học và các viện nghiên
cứu của trong nước, vì chất lượng giảng dạy thấp; nội dung thấp và lạc hậu; khả
năng nghiên cứu nghèo nàn; sách vở và thiết bị đều thiếu, không đồng bộ, cũ kỹ,
yếu về ngoại ngữ, năng lực tổ chức và quản lý thấp.
Tác giả Đàm Nguyễn Thuỳ Dương (2004) cũng cho rằng nguồn nhân lực là
nguồn lực mạnh nhất, quan trọng nhất trong các nguồn lực của sự phát triển. Đó
không chỉ là động lực mà còn là mục tiêu của sự phát triển, là hướng vào phục vụ
lợi ích con người. Tuy nhiên, vấn đề phát huy sức mạnh của nguồn lực này như thế
nào còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt vào trình độ và kỹ năng sử dụng nguồn
lao động. Tác giả đã cho thấy được nguồn lao động của thành phố có qui mô lớn
nhất cả nước, chiếm 77% tổng nguồn lao động; 7,9% dân số trong độ tuổi lao động
và 6,6% dân số hoạt động kinh tế của cả nước. Chất lượng nguồn lao động đã được
nâng lên rõ rệt: về trình độ văn hoá của dân số hoạt động kinh tế chỉ có 0,5% chưa
biết chữ và 10% chưa tốt nghiệp tiểu học, 8,9% đã tốt nghiệp từ tiểu học đến trung
học phổ thông; về trình độ chuyên môn kỹ thuật 33% dân số hoạt động kinh tế có
trình độ từ công nhân kỹ thuật trở lên và gần 40% qua đào tạo nghề, đặc biệt là lao
động có trình độ cao đẳng trở lên ngày càng tăng. Về sử dụng lao động, 93,8% dân
số hoạt động tập trung ở khu vực công nghiệp và dịch vụ, chỉ có 6,7% tập trung
trong nông nghiệp. Lao động ở TP.HCM cũng phân bố không đồng đều giữa các
khu vực kinh tế. Mặc dù kinh tế thành phố phát triển cao, hàng năm giải quyết được
9

một số lượng lớn lao động nhưng tỷ lệ người thất nghiệp của TP.HCM vẫn còn khá
cao chiếm 6,53% tổng số người trong độ tuổi lao động (so với Đông Nam
Bộ:4,65%; Hà Nội:4,61%; cả nước:2,1%). Từ đó tác giả đã đưa ra một số giải pháp
về nguồn lao động và sử dụng nguồn lao động. Đối với nhóm giải pháp nguồn lao
động, chú ý việc điều tiết biến động dân số và nguồn lao động nhằm giảm sức ép

tăng lao động, xây dựng chính sách hợp lý đối với lao động nhập cư, đồng thời nhấn
mạnh đến việc nâng cao chất lượng nguồn lao động như chính sách giáo dục – đào
tạo, y tế, giáo dục thể chất, chính sách thu hút nhân tài. Đối với nhóm sử dụng
nguồn lao động, tác giả đưa ra 7 giải pháp cụ thể, trong đó đặc biệt chú trọng đến 3
giải pháp: chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý, phát huy tiềm năng thế mạnh của
thành phố để phát triển kinh tế - xã hội và hợp tác quốc tế nhằm thu hút mọi nguồn
lực như vốn, “chất xám”, kinh nghiệm quản lý, công nghệ từ nước ngoài để tạo ra
nhiều việc làm cho người lao động.
1.3. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu

Ý nghĩa lý luận
- Các tác giả đã tiếp cận một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản
như: ý nghĩa và tầm quan trọng mang tính quyết định của vấn đề nhân lực và phát
triển nguồn nhân lực trong quá trình CNH,HĐH; Vai trò quan trọng và quyết định
của giáo dục và đào tạo trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, quy mô lớn
và hợp lý về cơ cấu ngành nghề phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế Việt Nam.
- Các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đều dùng những thuật ngữ đa dạng
để chỉ nguồn nhân lực chất lượng cao. Đó là nguồn nhân lực trí tuệ, nguồn nhân lực
tài năng, đội ngũ tri thức, đội ngũ khoa họcnhững thuật ngữ này hướng tới những
nhóm đối tượng khác nhau trong nguồn nhân lực chất lượng cao. Điều đó giúp cho
người đọc có một cách nhìn tổng quát về nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
- Các công trình nghiên cứu trong nước đều khẳng định vai trò to lớn của
nguồn nhân lực chất lượng cao đối với quá trình CNH,HĐH và hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam. Đó là chìa khoá chiếm lĩnh những đỉnh cao của khoa học, kỹ
10

thuật và công nghệ trên con đường phát triển, chống nguy cơ tụt hậu, là khâu đột
phá nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai
đoạn 2010-2020 và tạo ra bước phát triển thần kỳ của Việt Nam.

- Khi bàn về nguồn nhân lực chất lượng cao trong nền kinh tế, tinh thần cơ
bản toát lên từ những công trình kể trên là sự nhấn mạnh tới yêu cầu về việc con
người phải thay đổi tư duy để thích ứng và làm chủ những xu hướng phát triển rất
mới và đầy bất ngờ trong thời đại ngày nay.
- Bằng việc vận dụng phương pháp tiếp cận hệ thống và phương pháp tiếp
cận thị trường, các bài viết đã góp phần bổ sung và phát triển lý luận về mối quan
hệ biện chứng giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế - dịch chuyển nhu cầu nhân lực – và
điều chỉnh nhu cầu đào tạo nhân lực trong điều kiện kinh tế thị trường.

Ý nghĩa thực tiễn
- Các tác giả đã phân tích ở những khía cạnh và góc độ khác nhau về thực
trạng nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam. Những thực trạng đó liên quan tới
số lượng, cơ cấu và khả năng đáp ứng yêu cầu của những công việc đòi hỏi trình độ
cao. Tất cả những nghiên cứu đều khẳng định rằng nguồn nhân lực chất lượng cao
của Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình CNH,HĐH và quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
- Những tài liệu trên đã phát hoạ được bức tranh phát triển nguồn nhân lực
của Việt Nam nói chung, với nét chủ yếu là thực trạng và nhu cầu nguồn nhân lực,
cũng như hạn chế của hệ thống giáo dục và đào tạo cần được khắc phục một cách
hiệu quả để từ đó đưa ra những giải pháp về nguồn nhân lực cho Việt Nam.
- Các tác giả nghiên cứu cũng đã đề xuất một số giải pháp về giáo dục – đào
tạo nhằm phát triển nguồn nhân lực như: phát triển giáo dục đào tạo đáp ứng theo
nhu cầu của thị trường, đổi mới nội dung, chương trình và cách thức giảng dạy ở
các bậc học. Có chính sách ưu đã trong việc trọng dụng nhân tài.
1.4. Những vấn đề đặt ra cho luận án
- Các tác giả nước ngoài có những cách phân tích và luận giải tương đối cuốn
hút và thuyết phục về tầm quan trọng của tri thức và trí tuệ trong quá trình hình
11

thành nền kinh tế tri thức. Từ đó các tác giả đặc biệt nhấn mạnh tới vấn đề phải đổi

mới tư duy để mỗi cá nhân trở nên chủ động hơn trong sự phát triển mạnh mẽ của
thời đại ngày nay. Mặc dù khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao không được sử
dụng nhưng những thuật ngữ như doanh nhân, đội ngũ lãnh đạo, nhà khoa học, tầng
lớp sáng tạo, công nhân trí thức, công nhân trí tuệ được các tác giả sử dụng như một
cách diễn đạt khác về lực lượng này đã chứng tỏ sự quan tâm đặc biệt trong những
nghiên cứu của các tác giả đối với lực lượng ưu tú của xã hội- lực lượng quyết định
nhất đến sự hình thành nền kinh tế tri thức toàn cầu. Những nghiên cứu này thể hiện
mối quan tâm đến nguồn nhân lực chất lượng cao. Tuy nhiên, đó là những nghiên
cứu chủ yếu gắn với bối cảnh kinh tế ở các nước phát triển hàng đầu thế giới, không
phải là những nghiên cứu gắn với Việt Nam.
- Các nghiên cứu trong nước cũng chỉ đề cập đến các lý luận chung về xây
dựng, quản lý, phát triển nguồn nhân lực, những yếu tố riêng lẻ tác động đến nguồn
nhân lực trong suốt quá trình hình thành và phát triển theo sự phát triển của kinh tế
xã hội. Chưa có các nghiên cứu chỉ rõ những yếu tố nào ảnh hưởng đến nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế tại TP.HCM. Chưa có nghiên cứu
phân tích cụ thể những nguyên nhân ảnh hưởng đến quá trình phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao ở TP.HCM
- Hoạt động đào tạo nhân lực đã được quan tâm ở nhiều quốc gia và có nhiều
công trình, hội nghị, hội thảo đề cập đến nhưng việc nghiên cứu phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao ở khía cạnh cung và cầu lao động vào một vùng lãnh thổ
đặc trưng như TP.HCM cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập
đến một cách toàn diện, đầy đủ, luận giải một cách sâu sắc.
- Trong số các nghiên cứu, có một số nghiên cứu đề cập đến việc nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực trong giai đoạn thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, nhưng các nghiên cứu về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn
với hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập WTO vẫn chưa
được đề cập một cách đầy đủ. Chưa có tác giả nghiên cứu xây dựng thang đo chất
lượng nguồn nhân lực chất lượng cao dựa trên nhu cầu lao động tại TPHCM.
12


- Tất cả những công trình nói trên, ở những mức độ khác nhau, đã giúp tác
giả có một số tư liệu và kiến thức cần thiết để có thể hình thành những hiểu biết
chung, giúp tiếp cận và đi sâu nghiên cứu vấn đề.
2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án
- Phân tích thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao và phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao ở TP.HCM trong bối cảnh HNKTQT.
- Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao ở khía cạnh cung lao động.
- Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao ở khía cạnh cầu lao động
- Lập luận về phương pháp, mục tiêu và đề xuất quan điểm và giải pháp phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của
TP.HCM
3. Đối tƣợng phạm vi và giới hạn nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực sản
xuất (lao động kỹ thuật) trên địa bàn TP.HCM
- Nội dung vấn đề nghiên cứu: Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu HNKTQT ở TP.HCM
- Phạm vi nghiên cứu: Luận án nghiên cứu nguồn nhân lực chất lượng cao
với tư cách là một bộ phận cấu thành của lực lượng sản xuất; là đội ngũ lao động
trực tiếp sản xuất của nền kinh tếtrên địa bàn TP.HCM trong bối cảnh HNKTQT.
4. Điểm mới và những đóng góp của luận án
4.1. Về phƣơng diện học thuật
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao, các tiêu chí đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao trong thời kỳ HNKTQT hiện nay ở hai khía cạnh cung và cầu lao
động tại TP.HCM.
Góp phần xác định và chứng minh các nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến
quá trình phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong HNKTQT ở TP.HCM
13


4.2 Về phƣơng diện thực tiễn
Kết quả nghiên cứu giúp cho các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính
sách có cách nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về cách thức tiếp cận đối với nguồn nhân
lực chất lượng cao với tư cách là một bộ phận cấu thành của lực lượng sản xuất.
Nhận thức đầy đủ, rõ ràng hơn về thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao trong bối cảnh HNKTQT ở TP.HCM. Từ đó đề xuất các giải pháp làm cơ
sở cho việc hoạch định và nâng cao chất lượng phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao ở TP.HCM hiện nay.
5. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục các chữ viết tắt, danh mục
các bảng, phụ lục và tài liệu tham khảo; luận án được bố cục theo 4 chương như
sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
Chương 3: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ở TP.HCM.
Chương 4: Quan điểm, phương hướng và một số giải pháp phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ở TP.HCM.

14

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. Khái niệm và các tiêu chí đánh giá nguồn nhân lực chất lƣợng cao trong
bối cảnh HNKTQT

1.1.1. Phát triển nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lƣợng cao
Khái niệm về nguồn nhân lực
Khái niệm nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa, ngoài nghĩa rộng được
hiểu như khái niệm “nguồn lực con người”, thường còn được hiểu theo nghĩa hẹp là
nguồn lao động (tổng số người đang có việc làm, số người thất nghiệp và số lao
động dự phòng), thậm chí có khi còn được hiểu là lực lượng lao động (số người
trong độ tuổi lao động mà có khả năng lao động).
Nguồn nhân lực là toàn bộ quá trình chuyên môn mà con người tích luỹ
được, nó được đánh giá cao vì tiềm năng đem lại thu nhập trong tương lai. Cũng
giống như nguồn lực vật chất, nguồn nhân lực là kết quả đầu tư trong quá khứ với
mục đích đem lại thu nhập trong tương lai (Begg et.al, 1995).
Theo Ngân hàng thế giới thì nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, là kiến
thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có hoặc tiềm năng để phát
triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng (WB, 2000).
Nguồn nhân lực cần được hiểu là số lượng (số dân) và chất lượng con người,
bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực, phẩm chất và đạo
đức của người lao động. Nó là tổng thể nguồn nhân lực hiện có thực tế và tiềm năng
được chuẩn bị sẵn sàng để tham gia phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia hay
một địa phương nào đó (Phạm Minh Hạc, 2001)
Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của một tổ chức, một địa
phương, một quốc gia trong thể thống nhất hữu cơ năng lực xã hội (thể lực, trí lực,
nhân cách) và tính năng động xã hội của con người thuộc các nhóm đó, nhờ tính
15

thống nhất mà nguồn lực con người biến thành nguồn vốn con người đáp ứng yêu
cầu phát triển (Đoàn Văn Khái, 2005)
Schultz (1972) giải thích thuật ngữ “nguồn nhân lực” là bao gồm nhiều thuộc
tính như thể lực, sinh học, tâm lý và văn hoá cũng như giá trị văn hoá và giá trị kinh
tếcủa nhà sản xuất và dịch vụ khách hàng.
Nguồn nhân lực, theo cách tiếp cận mới, có nội hàm rộng rãi bao gồm các

yếu tố cấu thành về số lượng, tri thức, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tính
năng động xã hội, sức sáng tạo, truyền thống lịch sử và văn hoá. Các khái niệm trên
cho thấy nguồn lực con người không chỉ đơn thuần là lực lượng lao động đã có và
sẽ có, mà còn bao gồm sức mạnh của thể chất, trí tuệ, tinh thần của các cá nhân
trong một cộng đồng, một quốc gia được đem ra hoặc có khả năng đem ra sử dụng
vào quá trình phát triển xã hội.
Như vậy, xem xét dưới các góc độ khác nhau có thể có những khái niệm
khác nhau về nguồn nhân lực, nhưng những khái niệm này đều thống nhất nội dung
cơ bản: nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội. Con người với
tư cách là yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất giữ vị trí hàng đầu, là nguồn lực cơ
bản và nguồn lực vô tận của sự phát triển không thể chỉ được xem xét đơn thuần ở
góc độ số lượng hay chất lượng mà là sự tổng hợp của cả số lượng và chất lượng;
không chỉ là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động mà là các thế hệ con người với
những tiềm năng, sức mạnh trong cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội.
Kế thừa quan điểm của các tác giả nghiên cứu về nguồn nhân lực, tác giả đề
tài cho rằng: Nguồn nhân lực là tổng thể số lượng và chất lượng con người với
tổng hoà các tiêu chí về trí lực, thể lực và những phẩm chất đạo đức - tinh thần
tạo nên năng lực mà bản thân con người và xã hội đã, đang và sẽ huy động vào
quá trình lao động sáng tạo vì sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Phát triển nguồn nhân lực
Nadler & Nadler (1990) cho rằng phát triển nguồn nhân lực và giáo dục đào
tạo là những thuật ngữ có cùng nội hàm. Hai tác giả này định nghĩa: phát triển
16

nguồn nhân lực là làm tăng kinh nghiệm học được trong một khoảng thời gian xác
định để tăng cơ hội nâng cao năng lực thực hiện công việc.
Phát triển nguồn nhân lực là tổng thể các hình thức, phương pháp, chính sách
và biện pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng cho nguồn nhân lực (trí tuệ,
thể chất, và phẩm chất tâm lý xã hội) nhằm đáp ứng đòi hỏi về nguồn nhân lực cho
sự phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát triển (Bùi Văn Nhơn, 2006)

Trong khái niệm này chất lượng nguồn nhân lực được giải thích như sau:
Thể lực của nguồn nhân lực: sức khỏe cơ thể và sức khỏe tinh thần. Thể lực
là trạng thái sức khoẻ thể chất của con người, là điều kiện đảm bảo cho con người
phát triển, trưởng thành một cách bình thường, hoặc có thể đáp ứng được những đòi
hỏi về sự hao phí sức lực, thần kinh, cơ bắp trong lao động. Trí lực ngày càng đóng
vai trò quyết định trong sự phát triển nguồn nhân lực, song, sức mạnh trí tuệ của
con người chỉ có thể phát huy được lợi thế trên nền thể lực khoẻ mạnh. Chăm sóc
sức khoẻ là một nhiệm vụ rất cơ bản để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo
tiền đề phát huy có hiệu quả tiềm năng con người.
Trí lực của nguồn nhân lực: là trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật và kỹ
năng lao động thực hành của người lao động. Đó là năng lực của trí tuệ, quyết định
phần lớn khả năng lao động sáng tạo của con người. Trí tuệ được xem là yếu tố
quan trọng hàng đầu của nguồn nhân lực, khai thác và phát huy tiềm năng trí tuệ trở
thành yêu cầu quan trọng nhất của việc phát huy nguồn lực con người. Nó bao gồm
trình độ tổng hợp từ văn hoá, chuyên môn, kỹ thuật, kỹ năng lao động. Trình độ văn
hoá, với nền tảng học vấn nhất định là cơ sở cho phát triển trình độ chuyên môn kỹ
thuật. Trình độ chuyên môn kỹ thuật đảm bảo cho nguồn nhân lực hoạt động mang
tính chuyên môn hoá và chuyên nghiệp hoá. Kỹ năng lao động theo từng nghành
nghề, lĩnh vực là một yêu cầu đặc biệt quan trọng trong phát triển nguồn nhân lực ở
xã hội công nghiệp.
Phẩm chất tâm lý xã hội: còn được gọi là tâm lực, chính là tác phong, tinh
thần – ý thức trong lao động như: tác phong công nghiệp (khẩn trương, đúng giờ
v.v.), có ý thức tự giác cao, có niềm say mê nghề nghiệp chuyên môn, sáng tạo,

×