Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Phân tích, đánh giá và nêu các ví dụ minh họa đối với các quy định về năng lực dân sự của cá nhân trong BLDS năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.51 KB, 11 trang )

BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN NHẬP MÔN LUẬT DÂN SỰ
MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, xã hội ngày càng tiến bộ và phát triển đòi hỏi quyền
dân chủ cho cá nhân ngày càng lớn, điều đó cũng kéo theo sự phát triển mạnh
mẽ trong lĩnh vực giao lưu dân sự . Đặc biệt là trong nền kinh tế phát triển thì
các quan hệ dân sự ngày càng phổ biến.
Để tham gia vào các quan hệ dân sự của mình thì các cá nhân đó phải có
năng lực hành vi dân sự của mình. Thực tế cho thấy hiện nay có rất nhiều tranh
chấp liên quan đến năng lực hành vi dân sự và việc giải quyết những tranh chấp
này không phải lúc nào cũng thỏa đáng. Bởi vậy việc trang bị cho bản thân một
chút kiến thức về năng lực hành vi dân sự của cá nhân là rất cần thiết.Khi nào
một cá nhân có đủ năng lực hành vi để tham gia vào các quan hệ pháp luật dân
sự? BLDS năm 2015 quy đinh về năng lực hành vi dân sự của cá nhân như thế
nào? Thực tế áp dụng các quy định này ra sao?
Đểlàm rõ hơn về những vấn đề trên thì em xin chọn đề tài số 4: “Phân
tích, đánh giá và nêu các ví dụ minh họa đối với các quy định về năng lực dân
sự của cá nhân trong BLDS năm 2015” làm nội dung cho bài tập học kỳ của
mình.

1


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN NHẬP MÔN LUẬT DÂN SỰ
NỘI DUNG
1. Một số vấn đề lý luận về năng lực hành vi dân sự của cá nhân
1.1. Khái niệm về năng lực chủ thể
Cá nhân là chủ thể đầu tiên của các quan hệ xã hội, là “tổng hòa các mối
quan hệ xã hội”. Để tham gia vào các quan hệ nói chung và quan hệ dân sự nói
riêng, cá nhân phải có đủ tư cách chủ thể để tham gia vào các quan hệ dân sự. Đây
là năng lực chủ thể được tạo thành bởi năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
Có thể nói: năng lực chủ thể là điều kiện cần và đủ để xem xét một cá


nhân có tư cách chủ thể hay không? Chỉ những ai có năng lực chủ thể do nhà
nước quy định thì mới là chủ thể của các quan hệ pháp luật nói chung và quan
hệ dân sự nói riêng.
Cấu thành năng lực chủ thể của cá nhân là năng lực chủ thể của cá nhân
được tạo thành bởi năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự:
- Năng lực pháp luật dân sự được quy định tại Khoản 1 Điều 16 BLDS
năm 2015: “Năng lực pháp luật dân sự là khả năng của cá nhân có quyền dân sự
và nghĩa vụ dân sự”. Năng lực pháp luật dân sự là khả năng, điều kiện, tiền đề
cần thiết để cá nhân đó có quyền và nghĩa vụ, là thành phần không thể thiếu
được của cá nhân để được xem là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự.
- Năng lực hành vi dân sự có thể hiểu là khả năng của cá nhân trong việc
điều khiển hành vi của mình sao cho phù hợp với quy định của pháp luật và khả
năng tự chịu trách nhiệm do hành vi mình gây ra. Điều 19 BLDS năm 2015 quy
định: “Năng lực hành vi là khả năng cá nhân bằng hành vi của mình xác lập thực
hiện quyền, nghĩa vụ dân sự”. Mặt khác năng lực hành vi dân sự còn bao hàm cả
năng lực chịu trách nhiệm của cá nhân khi cá nhân đó vi phạm nghĩa vụ dân sự
trước chủ thể mang quyền.
1.2. Mối quan hệ giữa năng lực pháp luật và năng lực hành vi của cá nhân
Giữa năng lực pháp luật và năng lực hành vi có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Những chủ thể có năng lực pháp luật mà không có năng lực hành vi thì
không trực tiếp trở thành chủ thể trong giao dịch dân sự, tức là không thể trực

2


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN NHẬP MÔN LUẬT DÂN SỰ
tiếp trở thành chủ thể trong giao dịch dân sự nói riêng, quan hệ pháp luật nói
chung. Ta thấy năng lực pháp luật là tiền đề cho năng lực hành vi. Muốn trở
thành chủ thể của quan hệ pháp luật thì bên cạnh năng lực pháp luật phải có
năng lực hành vi. Năng lực pháp luật chính là điều kiện cần còn năng lực hành

vi chính là điều kiện đủ để tạo tư cách chủ thể cho cá nhân tham gia trong giao
dịch dân sự.
2. Các quy địnhvề năng lực hành vi dân sự của cá nhân của BLDS
năm 2015
2.1. Căn cứ xác định mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân
Khi xác định mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân, độ tuổi chỉ là
điều kiện cần mà không phải là điều kiện đủ. Tiêu chí độ tuổi cá nhân chỉ cho
chúng ta phân biệt mức độ năng lực hành vi của cá nhân. Do vậy để phân biệt thì
người ta dựa vào độ tuổi, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của cá nhân
đó. Thông thường khi phát triển đến một độ tuổi nhất định, con người sẽ có sự
phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần, đủ để có thể nhận thức và điều
khiển hành vi của mình.
Tuy nhiên có những trường hợp đặc biệt, dù đã đến tuổi trưởng thành
nhưng nhận thức của họ không phát triển, trí não của họ không bình thường như
người khác. Nghĩa là cá nhân đó không nằm trong 3 tiêu chí trên nên BLDS có
quy định nếu cá nhân bị mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác không làm chủ được
hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan của cá
nhân, tổ chức khác, tòa án sẽ tuyên bố hạn chế năng lực hành vi đối với họ.
Việc xác định mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân có vai trò rất
quan trọng. Ở mỗi mức độ, cá nhân sẽ có quyền tham gia giao dịch dân sự ở các
mức tương ứng.
2.2. Các quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân
Điều 19 BLDS năm 205 quy định: “Năng lực dân sự của cá nhân là khả
năng bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự”. Năng
lực hành vi dân sự được quy định cụ thể như sau:
2.2.1. Năng lực hành vi dân sự đầy đủ
Điều BLDS năm 2015 quy định: “ Người đủ từ 18 tuổi trở lên là người
thành niên”. Vậy người thành niên là những người có năng lực dân sự đầy đủ, có
3



BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN NHẬP MÔN LUẬT DÂN SỰ
thể tham gia vào các quan hệ dân sự với tư cách chủ thể độc lập. Như Điều quy
định: “ Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ trừ trường hợp quy
định tại điều 22 và 23 của bộ luật này”. Qua đó ta có thể thấy không phải tất cả
những ai đã là thành viên sẽ có năng lực hành vi dân sự đầy đủ đó là trường hợp
bị tuyên bố mất hành vi dân sựvà hạn chế năng lực hành vi dân sự của BLDS
năm 2015.
Người từ đủ 18 tuổi trở lên theo BLDS thì mới được xem là người thành
niên. Liên hệ thực tế với quy định về năng lực dân sự đầy đủ của các nước khác
trên thế giới. Chẳng hạn như quy định về tuổi thành niên ở Nhật Bản, Hàn Quốc
và Đài Loan là 20 tuổi; Ấn Độ, Anh, Mỹ, Canada là 18 tuổi tuy nhiên cũng có
một số nước xác định độ tuổi trưởng thành thấp hơn... BLDS nước ta chỉ quy
định duy nhất trường hợp có năng lực hành vi dân sự đầy đủ đó là 18 tuổi,
không bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự ngoài ra không quy định trường hợp ngoại lệ nào.
Những người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự sẽ được tham gia giao
dịch dân sự, nhân danh chính mình tự chịu trách nhiệm về hành vi mà mình đã
thực hiện. Ví dụ, người có năng lực hành vi dân sự sẽ có quyền định đoạt đối với
tài sản của mình (mua, bán, tặng, cho...). Những người từ đủ 18 tuổi được xác
định là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
2.2.2. Năng lực hành vi dân sự một phần
BLDS năm 2015 quy định: “Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm
tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp
luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp
với lứa tuổi” (Khoản 3 Điều 21 BLDS năm 2015); “Người từ đủ mười lăm tuổi
đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao
dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân
sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý”
(Khoản 4 Điều 21 BLDS năm 2015). Như vậy, cá nhân từ đủ sáu tuổi đến dưới

mười tám tuổi là những người có năng lực hành vi dân sự một phần. Họ có thể
bằng hành vi của mình tạo ra quyền và phải chịu những nghĩa vụ khi tham gia các
giao dịch để thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu hằng ngày phù hợp với lứa tuổi.
4


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN NHẬP MÔN LUẬT DÂN SỰ
Những người có năng lực hành vi một phần hay còn gọi là năng lực hành
vi không đầy đủ là những người vẫn sẽ được tham gia các giao dịch dân sự
nhưng pháp luật chỉ cho họ một giới hạn nhất định và họ chỉ được thực hiện xác
lập quyền, nghĩa vụ trong giai đoạn ấy, những giao dịch được coi là trong giới
hạn hành vi mà người đại diện cho phép thực hiện mà không cần trực tiếp hỏi ý
kiến của người đại diện.
Những người từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi có thể tự mình
xác lập, thực hiện các giao dịch trong phạm vi tài sản riêng mà họ có và không
cần sự đồng ý của người đại diện. Sở dĩ người đủ mười lăm tuổi trở lên được
nhiều quyền xác lập, định đoạt quyền, nghĩa vụ dân sự liên quan đến tài sản của
mình bởi theo quy định của pháp luật lao động, họ là chủ thể của một số hoạt
đọng được phép, cụ thể họ có tài sản và thu nhập riêng, được sử dụng, chi tiêu vì
lợi ích của mình.
2.2.3.Mất năng lực hành vi dân sự
Khái niệm “mất” thông thường được hiểu là một sự vật, hiện tượng đang
tồn tại nhưng sau đó không cong sự vật, hiện tượng đó nữa. Tương tự như vậy,
mất năng lực hành vi dân sự được hiểu một cách đơn giản là một người đã có
năng lực hành vi dân sự nhưng vì một lý do nào đó mà năng lực hành vi dân sự
của họ không còn nữa. Thông thường năng lực hành vi dân sự của cá nhân chỉ
mất đi khi người đó chết hoặc bị Tòa tuyên bố là đã chết. Hay cũng có những
trường hợp là cs nhân đó vẫn còn tồn tại là người thành niên nhưng bị Tòa tuyên
bố là mất năng lực khi hội tụ đầy đủ các hành vi trong Khoản 1 Điều 22 BLDS
năm 2015: “Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không

thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích
liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố
người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định
pháp y tâm thần”.
Vì mất năng lực hành vi dân sự nên họ cũng không có khả năng nhận thức
và làm chủ hành vi nên mọi giao dịch của người mất năng lực hành vi đều do
người đại diện xác lập và thực hiện. Tuy nhiên, trường hợp vì một lý do nào đó
mà một người bị mất năng lực hành vi dân sự nhưng nay lý do đó không còn
5


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN NHẬP MÔN LUẬT DÂN SỰ
nữa thì: “Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự
thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan
Tòa án ra quyết định hủy bỏ tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự”.
2.2.4. Khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
Bên cạnh, trường hợp hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất năng lực hành
vi dân sự như BLDS 2005 đã quy định, BLDS năm 2015 đã bổ sung thêm
trường hợp người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Điều 23 BLDS năm 2015 quy định:
“Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả
năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân
sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ
quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.
Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của
người giám hộ.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền,
lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định huỷ

bỏ quyết định tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”.
Việc xác lập, thực hiện quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân của
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi phải được người đại diện theo pháp luật của
người này đồng ý theo quy định của BLDS năm 2015 hoặc cá bộ luật khác có
liên quan hoặc theo quyết định của Tòa án.
Lần đầu tiên vấn đềkhó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi dân sự
được đề cập trong BLDS. Gần đây ở trong nước xuất hiện loại tội phạm chạy
bệnh án tâm thần để được Tòa tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, để trốn
tránh trách nhiệm hình sự. Quy định này có ý nghĩa to lớn về mặt xã hội, dập tắt
việc chạy bệnh án tâm thần của các đối tượng, tránh bỏ lọt tội phạm, mang lại
công bằng cho xã hội.
2.2.5.Hạn chế năng lực hành vi dân sự

6


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN NHẬP MÔN LUẬT DÂN SỰ
Trường hợp hạn chế năng lực hành vi dân sự được quy định tại Điều 24
của BLDS:
“Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài
sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của
cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện.
Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người
bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người
đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày
hoặc luật liên quan có quy định khác.

Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên
quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết
định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự”
Năng lực hành vi trong trường hợp này hoàn toàn khác so với trường hợp
người có năng lực hành vi một phần. Người có năng lực hành vi một phần là do
họ chưa đạt đến tuổi mà pháp luật quy định là có đầy đủ năng lực hành vi. Còn
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì phải tuân thủ theo trình tự do pháp
luật quy định và áp dụng đối với người nghiện ma túy hoặc các chất kích thích
khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình.

7


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN NHẬP MÔN LUẬT DÂN SỰ
3. Một số ý kiến nhằm hoàn thiện các quy địnhcủa pháp luật về hành
vi dân sự của cá nhân
- Thứ nhất, đề ra phương hướng sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật về
năng lực hành vi dân sự của cá nhân và tạo tiền đề cho các hoạt động áp dụng
pháp luật được tiến hành một cách dễ dàng, thuận tiện, đạt hiệu quả.
- Thứ hai, nâng cao hiệu quả công tác xét xử các vụ án dân sự liên quan
tới năng lực hành vi dân sự của cá nhân.
- Thứ ba, cần nâng cao công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong
quần chúng nhân dân giúp họ nhận thức được và bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình, của các tổ chức, của nhà nước nhằm chống lại hành vi xâm
phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
- Thứ tư, BLDS cần quy định thêm về trách nhiệm của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền đối với người mất năng lực hành vi dân sự mà không có người
đại diện.
- Thứ năm là giải pháp áp dụng pháp luật. Bên cạnh việc thực hiện các

quy định của pháp luật thì một giải pháp không thể thiếu là nâng cao trình độ
chuyên môn, kĩ năng hành nghề của đội ngũ cán bộ làm công tác xét xử. Việc áp
dụng đúng hay sai phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ này. Từ đó các quy định của
BLDS nói riêng, quy định của pháp luật nói chung có thể đi vào thực tiễn, đảm
bảo được công bằng xã hội.

8


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN NHẬP MÔN LUẬT DÂN SỰ
KẾT LUẬN
Qua bài viết, chúng ta thấy rằng: Việc hoàn thiện các chế định pháp luật
ngày càng trở thành một yêu cầu khách quan trong xã hội ngày nay. Đặc biệt về
vấn đề năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong pháp luật dân sự luôn là vấn
đề nhận được nhiều sự quan tâm. Vì vậy hiểu biết về năng lực hành vi dân sự
của cá nhân là rất cần thiết. Bài viết đã chỉ ra một số vấn đề lý luận về năng lực
hành vi dân sự của cá nhân, phân tích các quy định về năng lực hành vi dân sự
của cá nhân, nêu ra thực tiễn áp dụng các quy định về năng lực hành vi dân của
sự cá nhân và đưa ra một số ý kiến nhằm hoàn thiện các quy địnhcủa pháp luật
về hành vi dân sự của cá nhân giúp người đọc hiểu hơn về vấn đề năng lực hành
vi dân sự của cá nhân.
Do thời gian tìm hiểu còn ngắn cũng như hiểu biết còn nhiều hạn chế nên
bài viết không tránh khỏi những sai sót. Rất mong nhận được đóng góp từ phía
người đọc.

9


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN NHẬP MÔN LUẬT DÂN SỰ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.
2.
3.
4.

Bộ luật dân sự năm 2005;
Bộ luật dân sự năm 2015;
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình Luật dân sự Việt nam tập I

(Chương 2 phần B), Nxb CAND, Hà Nội, 2013;
5.
TS. Phạm Văn Tuyết và TS. Lê Kim Giang, Hướng dẫn học môn Luật
dân sự, Nxb Lao động;
6.
400 câu hỏi đáp về Bộ luật dân sự Việt Nam và bình luận khoa học Bộ
luật dân sự Việt Nam;
7.
Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, tập I, Nxb
Giáo dục, Hà Nội, 2009.

10


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN NHẬP MÔN LUẬT DÂN SỰ
MỤC LỤC
Mở đầu

1


Nội dung

2

1. Một số vấn đề lý luận về năng lực hành vi dân sự của cá nhân

2

1.1. Khái niệm về năng lực chủ thể

2

1.2. Mối quan hệ giữa năng lực pháp luật và năng lực hành vi của cá nhân

3

2. Các quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân của BLDS

3

năm 2015
2.1. Căn cứ xác định mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân

3

2.2. Các quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân

4

2.2.1 Năng lực hành vi dân sự đầy đủ


4

.
2.2.2 Năng lực hành vi dân sự một phần

5

.
2.2.3 Mất năng lực hành vi dân sự

5

.
2.2.4 Khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

6

.
2.2.5 Hạn chế năng lực hành vi dân sự

7

.
3. Một số ý kiến nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về hành

8

vi dân sự của cá nhân
Kết luận


9

Danh mục tài liệu tham khảo

10

11



×