HỌC VIỆN TƯ PHÁP
Đề thi môn: Kỹ năng tranh tụng cña Luật sư trong các vụ việc dân sự
Mã số: LS.DS/TN-05/240
-----------------*--------------Ngày 2/4/2002, Vợ chồng bà Nguyễn Thị M và ông Phạm Văn P, trú tại số 2, ngõ 16,
Đường Nguyễn Ngọc Nại, quận T, thành phố N và bà Trần Thị T, trú tại 72, Đường Nguyễn Viết
Xuân, quận T, thành phố N có thoả thuận mua bán một căn nhà mái bằng 01 tầng diện tích 80 m 2
trên tổng diện tích 100 m2. Người bán là vợ chồng bà M, ông P; người mua là bà T. Nguồn gốc
căn nhà này là do cơ quan quân đội cấp cho vợ chồng bà M và ông P từ năm 1982. Giá ngôi nhà
và đất được hai bên thỏa thuận là 1.700.000.000 đồng (một tỷ bảy trăm triệu đồng).
Cùng ngày hai bên có làm giấy giao nhận một số tiền là 200.000.000 đồng (hai trăm
triệu đồng) và hẹn khi nào bên mua bàn giao nốt số tiền còn lại thì bên bán sẽ giao nhà. Việc bàn
giao số tiền trên có sự chứng kiến của anh Phan Hồng Vinh, người hàng xóm của bà T, đồng thời
số tiền được giao tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp quận T. Số tiền cũng được chuyển vào
tài khoản cá nhân của bà M tại Chi nhánh ngân hàng này. Giấy giao nhận không ghi thoả thuận
thời gian cụ thể giao nốt tiền mà chỉ thoả thuận khi nào bà T bán được ngôi nhà của mình tại 343
Bạch Đằng, quận H, thành phố H thì sẽ trả hết cho vợ chồng bà M.
Theo bà M, sau nhiều lần yêu cầu bà T thanh toán nốt số tiền còn lại thông qua anh Vinh,
nhưng không thấy bà T trả lời. Cho nên, ngày 4/8/2002 bà M làm hợp đồng mua bán chính ngôi
nhà đã thoả thuận bán cho bà T với anh Chu Xuân A với giá 2.000.000.000 đồng (hai tỷ đồng).
Hợp đồng này chưa được công chứng, chứng thực, nhưng hai bên trên thực tế đã bàn giao nhà
ngay sau khi ký hợp đồng. Anh A đã phá ngôi nhà cũ và xây thành 02 căn hộ 04 tầng và lại bán
ngay cho 02 chủ khác vào tháng 6/2003 với giá 3.200.000.000 đồng (ba tỷ hai trăm triệu đồng).
Biết được sự việc, bà T đã phản đối vì không nhận được yêu cầu nào của bà M và đề nghị
bà M tôn trọng hợp đồng đã ký kết. Thực tế hai bên cũng làm giấy mua bán, tuy giấy tờ mua bán
chưa được cơ quan có thẩm quyền chứng thực. Bà T cũng đã thanh toán cho bà M số tiền là
200.000.000 đồng. Nhưng bà M không chấp nhận, vì thực tế bà cũng đã bán nhà và bàn giao nhà
cho người khác từ năm 2002. Ngày 20/5/X Bà T muốn khởi kiện yêu cầu bà M thực hiện hợp
đồng mua bán đã ký kết với bà T.
Bà T nhờ anh (chị) tư vấn.
Câu hỏi 1: (1 điểm)
Theo anh (chị) bà T có nên khởi kiện bà M hay không?
Tình tiết bổ sung
Bà T cho biết sở dĩ có chuyện bà M bán nhà trong suốt thời gian dài như vậy mà bà
không có ý kiến gì vì trong thời gian này bà T không sinh sống ở thành phố N mà đang sống
cùng con trai ở thành phố M. Qua một người quen là anh Vinh, bà T biết vợ chồng bà M có nhu
cầu bán nhà nên thông qua anh Vinh, bà đã thỏa thuận mua nhà với vợ chồng bà M. Khi mua có
viết giấy nhưng trong giấy mua không nói đến thời hạn kết thúc hợp đồng mua vì thực tế bà T
chưa thực sự có nhu cầu về chỗ ở. Bà T cho rằng người có lỗi trong trường hợp này là vợ chồng
bà M, nhưng do nhà đã bán, người mua đã xây nhà mới, đã chuyển qua nhiều chủ khác nên bà T
quyết định yêu cầu bà M trả lại cho mình số tiền đã giao là 200.000.000 đồng.
Câu hỏi 2: (1 điểm)
Ngoài số tiền 200.000.000 đồng, bà T có quyền yêu cầu bà M phải chịu khoản tiền phạt
hợp đồng do không thực hiện hợp đồng hay không?
Tình tiết bổ sung
Bà M thừa nhận các nội dung như bà T trình bày, nhưng không đồng ý cho rằng bà M là
người có lỗi. Theo bà M, sau khi nhận tiền của bà T từ tháng 4/2002, bà đã nhiều lần liên lạc với
bà T yêu cầu thanh lý hợp đồng vì vợ chồng bà đang cần tiền nhưng không thấy bà T trả lời.
Trước đó bà M có thỏa thuận miệng với bà T là sau ba tháng, nếu bà T không trả nốt tiền thì bà
M sẽ bán nhà nếu gặp khách. Từ đó đến giờ, bà T mới gặp bà để yêu cầu đòi nhà thì bà không thể
chấp nhận được vì bà M đã bán nhà cho người khác. Bà M đồng ý sẽ trả lại cho bà T
200.000.000 đồng, nhưng hiện tại số tiền đó được gửi ở ngân hàng chưa đến kỳ rút tiền và hẹn
khi nào đến hạn rút tiền thì sẽ trả dần cho bà T, mỗi lần 30.000.000 đồng. Bà T không đồng ý.
Trên thực tế, từ đó đến nay, bà M vẫn chưa trả tiền cho bà T. Ngày 5/6/X, bà T đã khởi kiện ra
Toà án yêu cầu bà M trả lại số tiền 200.000.000 đồng và bồi thường thiệt hại.
Câu hỏi 3: (1 điểm)
Anh (chị) hãy giúp bà T làm đơn khởi kiện.
Câu hỏi 4: (1 điểm)
Xác định những giấy tờ cần thiết kèm theo đơn khởi kiện.
Tình tiết bổ sung
Bà M uỷ quyền cho luật sư Nguyễn Văn K, trưởng Văn phòng luật sư X có trụ sở tại 90
Tô Hiệu, Quan hoa, quận C. thành phố N. Trong biên bản lấy lời khai lần 2, luật sư K cho rằng
bà T không phải là người trực tiếp giao dịch mua bán với thân chủ của mình. Do đó, Luật sư đề
nghị Toà án xác định nhân thân và tư cách của nguyên đơn, đồng thời không công nhận chứng cứ
do nguyên đơn đưa ra - đó là Giấy biên nhận số tiền 200.000.000 đồng mà nguyên đơn khai rằng
là do chính bà M viết.
Câu hỏi 5: (1 điểm)
Theo anh (chị) đề nghị của luật sư K có ý nghĩa gì cho việc bảo vệ quyền lợi của bà M
hay không?
Tình tiết bổ sung
Vì biết được bị đơn có tài khoản cá nhân tại Ngân hàng nông nghiệp Quận T, bà T muốn
đề nghị Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với tài khoản của bà M. Mặt khác, bà T
cho rằng số tiền trong tài khoản của bị đơn có thể không đủ số tiền để trả cho bà, nên bà T muốn
Tòa án áp dụng thêm biện pháp kê biên tài sản là ngôi nhà mà bà M đang cư trú.
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Quan điểm của anh (chị) đối với yêu cầu của bà T về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời?
Câu hỏi 7: (1 điểm)
Trên cơ sở quan điểm này, hãy giúp bà T làm đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời?
Tình tiết bổ sung
Quá trình giải quyết, ngoài yêu cầu đòi bà M phải trả lại số tiền 200.000.000 đồng, bà T
còn đề nghị Tòa án giải quyết bồi thường thiệt hại tính theo tỷ lệ số tiền đã giao so với giá trị nhà
đất vào thời điểm xét xử sơ thẩm. Đồng thời còn yêu cầu bà M phải trả lãi đối với số tiền
200.000.000 đồng theo quy định của pháp luật.
Câu hỏi 8: (1 điểm)
Yêu cầu của bà T có cơ sở chấp nhận không?
Tình tiết bổ sung
Trong phần mở đầu phiên tòa, sau khi đã kiểm tra căn cước của đương sự, bà M đã tự ý
bỏ về không tiếp tục tham gia phiên tòa mà không nêu ra bất kỳ lý do nào. Hội đồng xét xử đã
hoãn phiên tòa.
Câu hỏi 9: (1 điểm)
Không đồng ý với việc hoãn phiên tòa, anh (chị) phải làm gì?
Tình tiết bổ sung
Tại phiên tòa, bà M không thừa nhận chữ viết và chữ ký của bà trong giấy biên nhận số
tiền 200.000.000 đồng. Hội đồng xét xử công bố biên bản lấy lời khai ngày 11/11/2005, người
được lấy lời khai là bà M, trong đó bà M thừa nhận vào khoảng năm 2002, bà có thỏa thuận bán
nhà cho bà T và có viết giấy biên nhận số tiền 200.000.000 đồng. Bà M cho rằng, hiện tại bà đã
già hiện nay 73 tuổi, trí nhớ không minh mẫn, lúc nhớ, lúc quên nên đã nhận là có viết giấy biên
nhận số tiền của bà T. Thực ra bà không nhận tiền của bà T và cũng không viết giấy biên nhận.
Bà M đề nghị Tòa án cho hoãn phiên tòa để giám định chữ viết của bà M.
Không đồng ý với yêu cầu của bà M vì cho rằng bà M làm vậy là để cố tình kéo dài thời
gian kết thúc vụ án, kéo dài thời gian phải thanh toán tiền cho bà T nên đề nghị Tòa án không
chấp nhận yêu cầu của bà M.
Câu hỏi 10: (1 điểm)
Hãy trình bày lập luận của mình tại phiên tòa về vấn đề trên.
(Học viên được sử dụng các văn bản pháp luật)
HỌC VIỆN TƯ PHÁP
Đề thi môn: Kỹ năng tranh tụng cña LuËt s trong c¸c vụ việc dân sự
Mã số: LS.DS/TN-06/240
-----------------*--------------Vào lúc 19h10 ngày 19/2/X, tại đường Quốc Phòng thuộc thôn 4 Điện Dương, huyện Đ,
tỉnh H giữa xe môtô do Trần Văn Công điều khiển với xe môtô do Nguyễn Văn Vinh điều khiển
chở phía sau cháu Nguyễn Quang 5 tuổi và Nguyễn Thị Ba. Hậu quả là cả ba người trên xe của
Vinh đều bị thương nặng.
Diễn biến như sau: Tối hôm đó, Công đi mua thức ăn cho tôm. Sau khi mua xong thức ăn
cho tôm, Công điều khiển xe môtô chạy về hướng thôn 5 Điện Dương, đoạn đường quốc phòng
rộng 3m và dọc 2 bên đường là khu vực dân cư, Công cho xe chạy với tốc độ 55km/h (lời khai
của Công). Khi đến đoạn đường chợ chiều thuộc thôn 4 xã Điện Dương, Công phát hiện hướng
ngược chiều có xe môtô do Nguyễn Văn Vinh điều khiển chở phía sau là Nguyễn Quang 5 tuổi
và Nguyễn Thị Ba đang chạy đến nhưng chạy giữa đường. Thấy vậy, Công lấn trái và bọc qua
bên phải xe môtô ngược chiều để tránh. Khi bọc qua phải thì va vào dọc theo bên phải xe ngược
chiều nên làm cho xe của Vinh ngã qua trái và nằm gần giữa đường bên phải theo hướng đi của
Vinh, còn xe của Công điều khiển chạy luôn về phía trước và đâm qua bên trái đường dài 20m10
mới nằm lại. Qua hiện trường để lại có nhiều mảnh vỡ nhựa của đèn, yếm xe bị bể và điểm cày
xước của xe của Vinh điều khiển, vị trí này cách mép đường bên trái hướng đi xe của Vinh là
1m70, cũng như biên bản khám hai xe đều thấy hai xe bị bể các dụng cụ như trên. Xác minh các
mảnh vỡ của xe cho thấy đó là điểm va chạm của xe.
Hậu quả của tai nạn:
- Trần Văn Công: Gãy xương đùi trái đoạn 1/3 trên, gãy đầu trên xương chày phải phức
tạo, kèm gãy xương mác, gãy 1/3 dưới xương quay tay phải, gãy các xương bàn tay 2,3,4,5 và
xương đốt một ngón 3 bàn tay phải. Đã được giám định thương tích là 50%.
- Nguyễn Văn Vinh: Gãy kín đầu dưới xương mác chân phải được giám định thương tích
là 9%.
- Nguyễn Thị Ba: Gãy kín đi lệch đoạn 1/3 dưới xương cánh tay phải, gãy đầu dưới
xương quay tay phải được giám định thương tích là 28%.
Riêng cháu Quang năm tuổi may mắn không bị sao.
Cơ quan công an đã kết luận:
“Căn cứ vào hiện trường để lại, các dấu vết để lại trên hai xe và tài liệu trong hồ sơ thì
nguyên nhân của tai nạn là do:
- Trần Văn Công điều khiển xe môtô chạy vượt quá tốc độ cho phép và chạy lấn sang
phần đường bên trái nên đã va vào xe môtô ngược chiều để xảy ra tai nạn.
- Đối với Nguyễn Văn Vinh trong vụ tai nạn này không có lỗi vì Vinh đã đi đúng phần
đường quy định. Riêng bản thân không có giấy phép lái xe sẽ bị xử phạt hành chính theo Nghị
định 39/CP của Chính phủ.
Như vậy, hành vi của Trần Văn Công đã vi phạm khoản 1 Điều 9 Luật giao thông đường
bộ Việt Nam đã được Quốc hội khoá 9 Kỳ họp thứ X thông qua ngày 29/6/2001, nhưng vì thương
tích của người bị hại còn thấp chưa đủ điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Trần
Văn Công.
Do đó công an huyện Đ xử lý hành chính đối với Trần Văn Công. Về trách nhiệm dân sự
thì bản thân Công có trách nhiệm bồi thường cho bên bị hại theo chứng từ hợp lệ, do hai bên
thỏa thuận hoặc giải quyết theo quy định của pháp luật”.
Kết luận điều tra của cơ quan công an đã được thông báo tới các đương sự.
Câu hỏi 1: (1 điểm)
Hồ sơ vụ tai nạn có được cơ quan công an chuyển sang để Toà án giải quyết về trách
nhiệm bồi thường dân sự hay không?
Tình tiết bổ sung
Sau khi được cơ quan thông báo, gia đình người bị hại đã làm đơn khởi kiện Trần Văn
Công ra Toà án.
Câu hỏi 2: (1 điểm)
Những người bị hại có thể làm chung một đơn khởi kiện hay mỗi người phải làm riêng
một đơn khởi kiện?
Câu hỏi 3: (1 điểm)
Xác định những giấy tờ cần thiết được gửi kèm theo đơn khởi kiện?
Tình tiết bổ sung
Trong hồ sơ vụ tai nạn do cơ quan công an chuyển giao cho cơ quan Toà án có một “Đơn
xin nhận lại xe” viết ngày 2/8/X. Nội dung của đơn này như sau:
“Tên tôi là: Trần Thị Hồng Ánh, là chủ xe mang biển số ….
Tôi viết giấy này xin nhận lại xe của tôi vì vào ngày 19/2/X, tôi có cho em trai tôi là Trần
Văn Công mượn xe và trong quá trình điều khiển xe thì em tôi đã bị tai nạn giao thông. Và hiện
giờ xe còn đang bị tạm giữ tại cơ quan công an huyện Đ.
Trong khi chờ đợi sự chấp thuận của cấp trên, tôi xin thành thật biết ơn”.
Đoạn cuối trong đơn này có ghi: “Đã nhận lại xe mang biển số, tình trạng xe đúng như
biên bản khám nghiệm ngày 25/2/X” và chữ ký của Trần Thị Hồng Ánh.
Câu hỏi 4: (1 điểm)
Việc cơ quan công an giải quyết trả lại xe theo đơn trình bày của chị Ánh là đúng hay
không?
Câu hỏi 5: (1 điểm)
Tài liệu này có ý nghĩa như thế nào đối với việc giải quyết vụ án dân sự yêu cầu bồi
thường thiệt hại về sức khỏe của các bị hại?
Tình tiết bổ sung
Hồ sơ vụ tại nạn cũng có lưu một bản sao Giấy chứng nhận bảo hiểm mô tô - xe máy số
No 637400 ghi tên chủ xe Trần Thị Hồng Ánh, số biển kiểm soát, loại xe C100; thời hạn bảo
hiểm từ 15h ngày 12/10/X-1 đến …h ngày 11/10/X. Phần mức trách nhiệm hoàn toàn bỏ trống.
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Theo anh (chị) cơ quan bảo hiểm có trách nhiệm trong vụ tai nạn giao thông này hay
không?
Tình tiết bổ sung
Về phía các nguyên đơn trong vụ kiện dân sự, Nguyễn Văn Vinh và Nguyễn Thị Ba đã kê
ra các khoản tiền hại sau đây:
1/Nguyễn Văn Vinh:
- Thuốc điều trị:
262.000 đ
- Tiền công lao động: 45 ngày x 40.000 đ/ngày
Tổng cộng:
1.800.000 đ
- Tiền ăn 45 ngày x 25.000 đ/ngày 1.005.000 đ
Tổng cộng:
3.187.000 đ
2/ Nguyễn Thị Ba:
- Tiền thuốc:
2.518.000 đ
- Tiền công chăm sóc: 60 ngày x 40.000đ/ngày
Tổng cộng:
2.400.000 đ
- Tiền xe đi lại:
300.000 đ
- Tiền công lao động:
60 ngày x 30.000 đ/ngày
1.800.000 đ
Tổng cộng:
10.500.000đ.
3/ Tiền sửa xe:
300.000 đ
Tổng cộng toàn bộ số tiền yêu cầu bồi thường là 13.987.000 đồng.
Câu hỏi 7: (1 điểm)
Theo anh (chị) yêu cầu bồi thường của nguyên đơn có cơ sở để chấp nhận hay không?
Tình tiết bổ sung
Phía bị đơn, anh Trần Văn Công cho rằng trước khi xảy ra tai nạn, anh Vinh đã điều khiển
xe đi lấn sang phần đường của anh Công, làm anh Công phải lách qua trái gây tai nạn. Do vậy,
anh Công không chấp nhận bồi thường thiệt hại cho anh Vinh vì anh Vinh cũng có lỗi trong tai
nạn giao thông. Riêng chị Ba là người ngồi sau nên anh Công chấp nhận bồi thường cho chị Ba
số tiền thuốc điều trị là 2.518.000 đồng. Ngoài ra anh Công không chấp nhận bồi thường bất kỳ
một khoản nào khác. Anh Công là nông dân, hiện tại đang bị thương tích cũng rất nặng và khó có
khả năng để thực hiện việc bồi thường.
Câu hỏi 8: (1 điểm)
Quan điểm của anh (chị) về việc xác định trách nhiệm bồi thường trong vụ án?
Tình tiết bổ sung
Tòa án đã mở phiên tòa giải quyết vụ án. Triệu tập tham gia phiên tòa có anh Công, anh
Vinh, chị Ba và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của anh Vinh, chị Ba.
Câu hỏi 9: (1 điểm)
Tòa án đã triệu tập đầy đủ những người phải tham gia tố tụng hay chưa?
Tình tiết bổ sung
Có ý kiến cho rằng, trong vụ án này, Tòa án cần phải triệu tập cơ quan bảo hiểm tham gia
tố tụng.
Câu hỏi 10: (1 điểm)
Trong trường hợp đồng ý với quan điểm này, anh, chị hãy trình bày lập luận của mình để
thuyết phục hội đồng xét xử hoãn phiên tòa để triệu tập thêm cơ quan bảo hiểm.
(Học viên được sử dụng các văn bản pháp luật)
HỌC VIỆN TƯ PHÁP
Đề thi môn: Kỹ năng tranh tụng cña LuËt s trong c¸c vụ việc dân sự
Mã số: LS.DS/TN-07/240
-----------------*--------------Theo lời trình bày của anh Trần Văn Khoa: Ngày 18/11/X-4 anh vay của bà Phương ở xã
Tân Lý, huyện C, Tiền Giang 13 chỉ vàng. Hai bên thỏa thuận mỗi quý trả lãi là 2.5 chỉ vàng.
Anh trả lãi đến tháng 2/X-3 thì ngưng. Tháng 4/X-2 phía bà Phương ngang nhiên chiếm 500m 2
đất trên phần diện tích 990m2 đất thuộc quyền sử dụng của anh Khoa (Mảnh đất 990m 2 này anh
Khoa đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01041/QSDĐ ngày 20/4/1998 tọa lạc
tại xã Tân Lý, huyện C, Tiền Giang). Bà Phương tuyên bố với vợ chồng anh lấy đất để cấn trừ
nợ. Sau đó bà Phương đã xây nhà cho con là vợ chồng chị Hà Minh ở trên diện tích 300m 2.
Ngoài ra, phần còn lại 200m2 bà Phương tự cho ông Luật thuê, thu lợi. Anh Khoa đã nhiều lần
yêu cầu bà Phương, vợ chồng chị Hà Minh trả đất nhưng bà Phương và vợ chồng chị Hà Minh
không trả. Đầu năm X-1 vợ chồng chị Hà Minh đổ đất và vật liệu xây dựng nhà kiên cố trên đất,
vợ chồng anh Khoa đã phản đối quyết liệt, hai bên xô sát công an xã Tân Lý đã đến lập biên bản
yêu cầu các bên giữ nguyên hiện trạng chờ giải quyết. Nay, anh Khoa yêu cầu bà Phương và vợ
chồng chị Hà Minh dỡ nhà trả lại cho vợ chồng anh toàn bộ diện tích đất lấn chiếm. Số tiền vợ
chồng anh Khoa nợ là 13 chỉ vàng 24k vợ chồng anh Khoa sẽ trả nếu bà Phương yêu cầu
Ngày 1/3/X anh Khoa đến nhờ anh (chị) khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình.
Câu hỏi 1: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy giúp anh Khoa soạn thảo đơn khởi kiện và chuẩn bị hồ sơ khởi kiện.
Tình tiết bổ sung
Theo lời trình bày của bà Phương và chị Hà Minh: Vào năm X-4, anh Khoa có vay của
vợ chồng bà Phương 13 chỉ vàng 24K và thế chấp một sổ kê khai diện tích đất số 124/TC/TN
diện tích 0,41ha để làm ăn. Sau đó, năm X-3, X-2 vợ chồng anh Khoa nhiều lần đến vay tiền và
vàng. Việc vay mượn những lần tiếp theo này hai bên không làm biên nhận và không lập hợp
đồng. Cứ 4 tháng một lần chị Diệp (vợ anh Khoa) viết giấy cộng trả lãi (lãi 4%) tổng cộng 6 lần:
lần 1 là 0,5 chỉ vàng 24K; lần 2 là 8,5 chỉ vàng 24K; lần 3 là 3 triệu đồng; lần 4 là 1 triệu đồng;
lần 5 là 7 triệu đồng; lần 6 là 2,5 chỉ vàng 24K. Ngoài ra, còn mượn thêm 10 triệu đồng không
làm giấy biên nhận. Tổng cộng vàng và tiền quy ra vàng là 7,3 cây tiền vốn và lãi trả hàng tháng.
Bà Phương đã đòi nhiều lần nhưng vợ chồng anh Khoa không trả. Vì vậy, 2 bên thỏa thuận sang
nhượng diện tích đất 500m2 vì chỗ quen biết nên không làm giấy tờ. Sau khi sang nhượng bà
Phương tiến hành san lấp mặt bằng và trồng chuối dừa, tổng chi phí là 18 triệu đồng. Năm X-2
bà Phương cho anh Luật thuê mặt bằng sửa xe trong thời hạn 3 năm. Bà Phương yêu cầu được
tiến hành thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Vụ kiện này có nhiều ý kiến về việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp:
(i) Đòi lại tài sản là quyền sử dụng đất và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất;
(ii) Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng vay tài sản;
(iii) Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Câu hỏi 2: (1,5 điểm)
Nêu ý kiến của anh (chị) về việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp?
Câu hỏi 3: (1 điểm)
Anh (chị) xác định trọng tâm vấn đề cần chứng minh trong hồ sơ vụ kiện này?
Tình tiết bổ sung
Qua xác minh về nguồn gốc và diện tích đất, địa chính xã Tân Lý, huyện C, Tiền Giang
cho biết diện tích đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của vợ chồng anh Khoa. Ngoài ra, anh
Khoa còn thế chấp quyền sử dụng đất này tại ngân hàng T, huyện C, Tiền Giang. Tòa án nhân
dân huyện C, Tiền Giang đã gửi thông báo thụ lý vụ kiện đến ngân hàng T nhưng Ngân hàng T
đã có công văn từ chối tham gia tố tụng. Ngân hàng T cho rằng đợi đến hạn nếu vợ chồng anh
Khoa không thực hiện việc trả nợ, ngân hàng T sẽ khởi kiện thành một vụ kiện khác.
Câu hỏi 4: (1 điểm)
Anh (chị) hãy xác định tư cách đương sự trong vụ án?
Tình tiết bổ sung
Tại phiên tòa, bà Phương và anh Khoa đều thừa nhận năm X -4 anh Khoa có vay của vợ
chồng bà Phương 13 chỉ vàng 24K và thế chấp một sổ kê khai diện tích đất số 124/TC/TN diện
tích 0,41ha để làm ăn.
Ngoài ra, theo bà Phương: Tổng cộng các lần anh Khoa vay tiếp theo cả vốn và lãi tính đến
tháng 4 năm X-3 là 35 triệu đồng. Bà Phương xuất trình cho Hội đồng xét xử giấy tính nợ do chị
Diệp vợ anh Khoa viết nhưng không có chữ ký của chị Diệp ở dưới tờ văn bản nhận nợ này. Vì
không có khả năng trả được nợ nên vợ chồng anh Khoa đã đồng ý cắt đất giao cho bà Phương.
Diện tích đất giao được 2 bên xác định tương đương với số vàng và tiền anh Khoa vay vào thời
điểm vay. Anh Khoa đã tự nguyện làm hàng rào để xác định ranh giới đất giao cho bà Phương.
Sau đó bà Phương cùng vợ chồng chị Hà Minh tiến hành xây dựng nhà, việc xây dựng nhà kéo
dài 2 tháng, anh Khoa không ngăn cản, đồng thời cũng không bị cơ quan chức năng xử phạt vi
phạm hành chính. Bà Phương cho rằng bà không lấn chiếm đất của anh Khoa. Đây là sự thỏa
thuận đồng tình chuyển nhượng đất bằng miệng. Bà Phương yêu cầu anh Khoa tiếp tục lập thủ
tục sang tên đất cho bà.
Anh Khoa không thừa nhận số nợ 35.000.000 đồng như bà Phương khai. Anh Khoa chỉ
thừa nhận có nợ 13 chỉ vàng 24 K, vợ chồng anh đã trả lãi đến năm 2. Việc anh đưa sổ nông
nghiệp kê khai nộp thuế cho bà Phương để làm tin không thể xem là thế chấp và nếu thế chấp
cũng trái pháp luật. Anh Khoa khẳng định không hề cắt đất để cấn trừ nợ cho bà Phương, không
có bất kỳ một văn bản nào thể hiện sự thỏa thuận về việc chuyển nhượng đất giữa hai bên. Thực
tế, anh Khoa vẫn đứng tên chủ sử dụng hợp pháp diện tích đất tranh chấp này.
Câu hỏi 5: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy xác định trọng tâm vấn đề cần hỏi và tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm.
Tình tiết bổ sung
Tại phiên tòa, chị Diệp không thừa nhận chữ viết trên giấy tính nợ mà bà Phương xuất
trình cho Hội đồng xét xử là của chị Diệp. Vì vậy, bà Phương đề nghị Hội đồng xét xử hoãn
phiên tòa để giám định chữ viết của chị Diệp làm căn cứ để giải quyết vụ án.
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Theo anh (chị) yêu cầu này của bà Phương có được Hội đồng xét xử chấp nhận hay không?
Tình tiết bổ sung
Tại phiên tòa, luật sư bảo vệ quyền lợi cho bà Phương phân tích rằng: Có việc vay nợ tiền
vàng giữa anh Khoa và chị Phương. Sau đó anh Khoa cắt đất cấn trừ nợ, hiện tại bà Phương và
vợ chồng chị Hà Minh đã xây dựng nhà kiên cố và cho ông Luật thuê làm cơ sở hàn gò. Việc xây
dựng nhà của bà Phương phía nguyên đơn không xuất trình được bất cứ một giấy tờ gì để chứng
minh bị cơ quan chức năng xử phạt vi phạm hành chính đối với việc xây dựng của bà Phương. Vì
vậy, có căn cứ để xác định có việc thỏa thuận chuyển nhượng đất miệng giữa bà Phương và vợ
chồng anh Khoa, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào mục b3, tiểu mục 2.3, mục 2, phần II, Nghị
quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC buộc anh Khoa
tiếp tục thực hiện hợp đồng.
Câu hỏi 7: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy trình bày bản luận cứ để bảo vệ quyền lợi cho vợ chồng anh Khoa tại phiên
tòa sơ thẩm.
Tình tiết bổ sung
Bản án sơ thẩm số 259/DSST ngày 29/12/X của TAND huyện C, Tiền Giang đã quyết
định:
“1. Bác yêu cầu khởi kiện của anh Khoa;
Buộc anh Khoa phải có nghĩa vụ lập thủ tục tách quyền sử dụng đất cho bà Phương diện
tích 500m2 đất trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01041/QSDĐ/1541/QĐ-UB ngày
30/5/1998 cấp cho hộ anh Khoa (kèm theo sơ đồ);
2. Bà Phương được quyền đăng ký kê khai diện tích đất theo quyết định đã tuyên. Thời
gian thực hiện khi án có hiệu lực pháp luật;
3. Kiến nghị UBND huyện C điều chỉnh diện tích đất theo khoản 3 của quyết định này;
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự”.
Anh Khoa không đồng ý với toàn bộ quyết định của bản án sơ thẩm số 259/DSST ngày
29/12/X của TAND huyện C, Tiền Giang và muốn kháng cáo toàn bộ bản án này.
Câu hỏi 8: (1 điểm)
Anh (chị) hãy giúp anh Khoa soạn thảo đơn kháng cáo.
(Học viên được sử dụng các văn bản pháp luật)
HỌC VIỆN TƯ PHÁP
Đề thi môn: Kỹ năng tranh tụng cña LuËt s trong c¸c vụ việc dân sự
Mã số: LS.DS/TN-08/240
-----------------*--------------Theo lời trình bày của Bà Kim: Căn nhà số 4/61 Lê Đức Thọ, phường X, quận G, Tp. H có
nguồn gốc là của ông Hoàng Văn Nam và bà Phan Thị Khánh. Bà Khánh chết ngày 08/8/2002,
ông Nam chết ngày 01/6/2004. Ông Nam, bà Khánh có hai con chung là chị Thu hiện cư trú tại
số nhà 38 phố T, quận M, Tp. H và anh Hoàng Văn hiện đang định cư tại Hoa Kỳ.
Ngày 01/8/2004 chị Thu và bà Kim có thỏa thuận lập hợp đồng chuyển nhượng căn nhà số
4/61 Lê Đức Thọ, phường X, quận G, Tp. H cho bà Kim, trị giá nhà bán là 1 tỷ đồng. Hợp đồng
được lập thành văn bản nhưng không có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Theo
thỏa thuận hợp đồng bà Kim đã trả trước cho chị Thu số tiền 650.000.000 đồng (sáu trăm năm
mươi triệu đồng). Sau khi nhận được khoản tiền này chị Thu có giao cho bà Kim 01 (bản sao)
giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà đứng tên ông Hoàng Văn Nam (giấy chứng nhận quyền sở
hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 7135/2002 ngày 18/3/2002); 01 tờ khai sử dụng đất ngày
23/5/2003; tờ cam kết ngày 01/8/2004 đã được sự thỏa thuận đồng ý của em chị Thu là anh
Hoàng Văn cho chị Thu được toàn quyền định đoạt căn nhà này. Sau khi bà Kim giao tiền, chị
Thu viết giấy biên nhận tiền và hẹn 02 tháng khi làm xong giấy tờ nhà giao cho bà Kim thì bà
Kim trả hết số tiền còn lại cho chị Thu là 350.000.000 đồng (ba trăm năm mươi triệu đồng). Chị
Thu cam kết: “Nếu có gì thay đổi không thực hiện đúng như thỏa thuận trong hợp đồng thì chị
Thu sẽ chịu trách nhiệm trước pháp luật và bồi thường cho bà Kim thỏa đáng”.
Sau 2 tháng kể từ ngày ký hợp đồng, chị Thu đã không thực hiện các thỏa thuận trong hợp
đồng. Bà Kim đã nhiều lần đàm phán yêu cầu chị Thu thực hiện hợp đồng nhưng chị Thu đưa ra
nhiều lý do về việc chậm thực hiện nghĩa vụ của mình. Ngày 06/5/2005 chị Thu thương lượng
với bà Kim đề nghị đưa thêm 85.000.000 đồng (tám mươi lăm triệu đồng), chị Thu hứa sẽ giao
nhà vào cuối tháng 7/2005 và tự ý viết giấy thực hiện giao tiền lần 2 đưa cho bà Kim cùng với
giấy đồng ý để bà Kim đến gặp bà Đồng Thị Thảo (người đã nhận cầm giấy tờ nhà của chị Thu)
để bà Kim đến chuộc lại giấy tờ nhà nói trên và khi giao nhà thì bà Kim chỉ còn phải giao nốt số
tiền mua nhà là 260.000.000 đồng (hai trăm sáu mươi triệu đồng). Do chị Thu đã không thực
hiện đúng việc thỏa thuận ban đầu nên bà Kim đã không chấp nhận đề nghị này của chị Thu.
Ngày 20/7/X bà Kim muốn khởi kiện ra Tòa xin hủy hợp đồng mua bán nhà, yêu cầu chị
Thu thanh toán lại số tiền đã nhận cho bà là 650.000.000 đồng (sáu trăm năm mươi triệu đồng).
Câu hỏi 1: (1 điểm)
Anh (chị) hãy xác định Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp này?
Câu hỏi 2: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy giúp bà Thu soạn thảo đơn khởi kiện và chuẩn bị hồ sơ khởi kiện cho phía
nguyên đơn
Tình tiết bổ sung
Tòa án thụ lý vụ án, sau khi nhận được thông báo về vụ kiện. Chị Thu có đơn trình bày gửi
Tòa với nội dung: Căn nhà 4/61 Lê Đức Thọ là của cha mẹ chị là ông Hoàng Văn Nam và bà
Phan Thị Khánh đã chết để lại, chị không có quyền quyết định. Năm 2003 chị Thu đã thế chấp
giấy tờ nhà 4/61 Lê Đức Thọ, phường X, quận G, Tp. H cho bà Đồng Thị Thảo để vay số tiền
80.000.000 đồng (tám mươi triệu đồng) với lãi suất 13%/tháng. Chị Thu xác nhận có ghi hợp
đồng bán nhà cho bà Kim với giá 1.000.000.000 đồng (một tỷ đồng), theo hợp đồng chị Thu đã
nhận trước 650.000.000 đồng (sáu trăm năm mươi triệu đồng) nhưng thực tế chị Thu cho rằng
chị không nhận số tiền này. Chị Thu khẳng định chỉ có nợ của bà Kim số tiền 70.000.000 đồng
(bảy mươi triệu đồng), không có giấy nợ. Nay chị Thu chỉ đồng ý trả nợ cho bà Kim số tiền
70.000.000 đồng bằng cách trả góp mỗi tháng 2 triệu đồng.
Anh Hoàng Văn gửi đơn trình bày với nội dung: Hợp đồng mua bán nhà ngày 01/8/2004
do chị Thu lập là không hợp lệ, anh Văn không hề có sự ủy quyền nào cho chị Thu được toàn
quyền định đoạt căn nhà này. Anh được biết chị Thu viết giấy mua bán nhà theo yêu cầu của bà
Kim, thực tế chị Thu không nhận tiền. Nay có việc tranh chấp giữa bà Kim với chị Thu về việc
đòi tiền, anh Văn không liên quan.
Câu hỏi 3: (1 điểm)
Anh (chị) hãy xác định tư cách đương sự trong vụ án này?
Câu hỏi 4: (1 điểm)
Anh (chị) hãy xác định trọng tâm vấn đề cần chứng minh trong vụ án này?
Tình tiết bổ sung
Theo lời trình bày của bà Thảo: Ngày 20/7/2003 chị Thu có nhờ bà vay số tiền 80.000.000
đồng. Khi vay chị Thu có thế chấp giấy tờ nhà do ông Hoàng Văn Nam đứng tên chủ quyền, 01
tờ khai sử dụng đất, 01 giấy chứng minh nhân dân của chị Thu. Đến nay chị Thu cũng chưa trả
nợ cho bà nên bà Thảo đã thế chấp toàn bộ giấy tờ nhà trên cho bà Lê Thủy Tiên để vay số tiền
120.000.000 đồng thanh toán nợ mà bà đã vay. Nay chị Thu muốn bán nhà thì phải trả số tiền nợ
trên để nhận lại toàn bộ giấy tờ nhà.
Bà Lê Thủy Tiên khai: Ngày 20/6/2004 bà có cho bà Đồng Thị Thảo vay số tiền
120.000.000 đồng (một trăm hai mươi triệu đồng), lãi suất 1,5%/tháng. Bà Thảo có giao cho bà
một số giấy tờ nhà 4/61 Lê Đức Thọ phường X, quận G, Tp. H (bản chính). Bà Thảo hẹn vài
tháng sẽ trả nợ nhưng từ đó đến nay cũng chưa trả nợ vốn và lãi cho bà. Nay, bà Tiên đồng ý giao
toàn bộ hồ sơ nhà lại cho bà Thảo với điều kiện bà Thảo phải trả lại tiền nợ vay cho bà. Đối với
việc tranh chấp hợp đồng mua bán nhà giữa bà Kim với chị Thu, bà không liên quan.
Theo đơn trình bày của anh Hoàng Văn, anh đề nghị Tòa án giải quyết thu hồi toàn bộ giấy
tờ nhà 4/61 Lê Đức Thọ phường X, quận G, Tp. H do chị Thu đã thế chấp vay nợ của bà Đồng
Thị Thảo năm 2003 số tiền 80.000.000 đồng.
Câu hỏi 5: (1 điểm)
Theo anh (chị) yêu cầu này của anh Hoàng Văn có được giải quyết ngay trong vụ án này
không?
Tình tiết bổ sung
Tại phiên tòa, chị Thu cho rằng khi chị viết hợp đồng mua bán nhà với bà Kim là do chị bị
áp lực và do bà Kim ép buộc. Việc ép buộc này có chính quyền địa phương biết. Thực tế chị Thu
không có nhận số tiền như chị đã ghi trong hợp đồng là đã nhận trước số tiền của bà Kim giao là
650.000.000 đồng. Chị Thu chỉ thừa nhận nợ của bà Kim số tiền 70.000.000 đồng. Nay chị Thu
xin trả dần mỗi tháng 2 triệu đồng.
Hội đồng xét xử công bố các chứng cứ có trong hồ sơ, ngoài hợp đồng mua bán nhà ngày
01/8/2004, ngày 24/11/2004 chị Thu có làm giấy hẹn là “tháng 2/2005 chị Thu sẽ giao giấy tờ
nhà, bà Kim sẽ giao tiền cho chị Thu và chị Thu giao nhà cho bà Kim”; ngày 06/5/2005 chị Thu
lập hợp đồng mua bán nhà tiếp tục giao tiền lần hai với số tiền là 85.000.000 đồng. Hẹn 01 tháng
kể từ ngày nhận tiền lần hai sẽ sang tên chính thức chủ quyền nhà 4/61 Lê Đức Thọ cho bà Kim
và bà Kim sẽ giao hết số tiền còn lại 260.000.000 đồng, hẹn cuối tháng 7 sẽ giao nhà cho bà
Kim. Chị Thu đề nghị hoãn phiên tòa để xác minh tại chính quyền địa phương về việc hợp đồng
giao kết giữa chị Thu với bà Kim là bị áp lực và do ép buộc.
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Theo anh (chị) yêu cầu của chị Thu có được Hội đồng xét xử chấp nhận hay không?
Câu hỏi 7: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy xác định trọng tâm vấn đề cần hỏi và tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm.
Tình tiết bổ sung
Qua xác minh tại ủy ban nhân dân phường X, quận G, Tp. H : UBND không biết việc bà
Kim dùng áp lực buộc chị Thu phải viết giấy bán nhà. Ủy ban nhân dân phường không nhận
được đơn khiếu nại nào của chị Thu về việc này.
Tại phiên tòa, Luật sư của chị Thu xuất trình xác nhận của Công an phường X, quận G, TP.
H xác nhận ngày 16/8/2005, chị Thu có gởi đơn tố cáo bà Kim đe dọa và ép buộc chị Thu ký kết
hợp đồng. Tuy nhiên, Công an phường X xét thấy không thuộc thẩm quyền giải quyết nên Công
an phường không thụ lý vụ việc. Luật sư của chị Thu cho rằng, bà Kim hoàn toàn có lỗi trong
việc thực hiện giao dịch chuyển nhượng này.
Câu hỏi 8: (2 điểm)
Anh (chị) hãy trình bày bản luận cứ để bảo vệ quyền lợi cho bà Kim tại phiên tòa sơ thẩm.
(Học viên được sử dụng các văn bản pháp luật)
HỌC VIỆN TƯ PHÁP
Đề thi môn: Kỹ năng tranh tụng cña LuËt s trong c¸c vụ việc dân sự
Mã số: LS.DS/TN-09/240
-----------------*--------------Bà Hà Thị Xuân và ông Bùi Văn Tuấn kết hôn năm 1993 có đăng ký kết hôn. Sau khi kết
hôn vợ chồng ông bà chung sống hạnh phúc đến năm 1998 thì nảy sinh mâu thuẫn, nguyên nhân
do bất đồng về quan điểm sống và do trong thời gian ông Tuấn đi làm ăn ở nước ngoài bà Xuân ở
nhà có quan hệ ngoại tình. Do mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, vì vậy ngày 23/6/2000 vợ chồng
bà Xuân, ông Tuấn đã làm đơn khởi kiện ra Tòa xin thuận tình ly hôn. Ông bà thoả thuận không
yêu cầu phân chia tài sản tại Tòa án nhân dân.
Sau khi có quyết định công nhận thuận tình ly hôn. Tháng 1 năm 2001, bà Xuân và ông
Tuấn tự thoả thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng trong đó có căn nhà số 46 đường
Nguyễn Trãi, phường X, quận 1, thành phố H. Ông Tuấn xác định căn nhà này trị giá 50 lượng
vàng để tính phân chia. Việc thỏa thuận được lập thành văn bản và có xác nhận của UBND
phường X, quận 1, TP. H nơi ông bà cư trú. Theo nội dung văn bản thỏa thuận, ông Tuấn nhận
nhà và thanh toán cho bà Xuân 25 lượng vàng. Phía bà Xuân đã nhận 25 lượng vàng SJC và 385
đôla Mỹ (tương đương với 6 triệu đồng) trị giá phân chia của các tài sản khác. Nay, bà Xuân cho
rằng vào thời điểm tự thoả thuận, căn nhà chưa có giấy tờ sở hữu hợp pháp, bà Xuân bị bệnh tâm
thần không minh mẫn, ông Tuấn đã đe dọa ký thoả thuận. Vì vậy, ngày 20/4/X bà Xuân muốn
làm đơn khởi kiện ra Tòa đề nghị Tòa án giải quyết chia tài sản chung của ông bà.
Bà Xuân đến gặp anh (chị), nhờ anh (chị) là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
trong vụ kiện.
Câu hỏi 1: (1 điểm)
Anh (chị) cần trao đổi với bà Xuân những vấn đề gì trước khi khởi kiện?
Câu hỏi 2: (1 điểm)
Anh (chị) hãy giúp bà Xuân soạn thảo đơn khởi kiện và chuẩn bị hồ sơ khởi kiện cho phía
Nguyên đơn.
Tình tiết bổ sung
Căn cứ theo yêu cầu khởi kiện của bà Xuân, liên quan đến việc xác định quan hệ pháp luật
tranh chấp, có ý kiến cho rằng :
1. Đây là quan hệ pháp luật “Chia tài sản thuộc sở hữu chung”.
2. Ý kiến khác cho rằng đây là quan hệ pháp luật về “Chia tài sản chung của vợ chồng
sau khi ly hôn”
3. Có ý kiến lại cho rằng đây là quan hệ pháp luật về “Yêu cầu tuyên bố thỏa thuận chia
tài sản chung vô hiệu”.
Câu hỏi 3: (1 điểm)
Nêu ý kiến của anh (chị) về việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp?
Tình tiết bổ sung
Tòa án nhân dân quận 1, TP. H đã thụ lý giải quyết vụ án. Có quan điểm cho rằng TAND
quận 1 phải ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án này vì: “Căn cứ theo quy định tại khoản 1
Điều 145 BLDS 1995 thì yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là một năm, kể từ khi phát
sinh giao dịch. Việc phân chia tài sản của bà Xuân, ông Tuấn được thực hiện từ tháng 1 năm
2001, đến nay bà Xuân mới khởi kiện là quá thời hiệu khởi kiện”.
Câu hỏi 4: (1 điểm)
Anh (chị) có đồng ý với ý kiến này không? Tại sao?
Tình tiết bổ sung
Theo lời trình bày của ông Bùi Văn Tuấn: Ông Tuấn không đồng ý với yêu cầu của bà
Xuân. Ông Tuấn cho rằng thoả thuận phân chia tài sản chung của ông và bà Xuân hoàn toàn trên
cơ sở tự nguyện. Việc thỏa thuận được lập thành văn bản và có chứng thực của Uỷ ban nhân dân
phường X, quận 1, TP.H. Vì vậy, không thể coi việc phân chia tài sản là vô hiệu khi tại thời điểm
phân chia căn nhà chưa có giấy tờ sở hữu hợp pháp là tài sản không hợp pháp. Thực tế, ông và bà
Xuân đã thực hiện xong thoả thuận này.
Câu hỏi 5: (1 điểm)
Anh (chị) hãy xác định trọng tâm vấn đề cần chứng minh trong vụ án này?
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Anh (chị) hãy xác định những nội dung chính của kế hoạch hỏi tại phiên tòa sơ thẩm?
Tình tiết bổ sung
Tòa án nhân dân quận 1, TP. H đã quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tại phần xét hỏi, bà
Xuân xuất trình bản sao hồ sơ bệnh án và giấy chứng nhận của bệnh viện tâm thần X với nội
dung: Vào thời điểm bà Xuân ký văn bản thỏa thuận (tháng 1/2001) bà Xuân là bệnh nhân đang
điều trị ngoại trú ở Bệnh viện tâm thần X.
Luật sư của ông Tuấn đề nghị Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa để giám định
tâm thần đối với bà Xuân.
Câu hỏi 7: (1 điểm)
Theo anh (chị) đề nghị này của Luật sư phía bị đơn có được Hội đồng xét xử chấp nhận
hay không? vì sao ?
Tình tiết bổ sung
Tại phiên tòa, bà Xuân và ông Tuấn đều khẳng định tình trạng nhà số 46 đường Nguyễn
Trãi, quận 1, thành phố H vào thời điểm bà Xuân và ông Tuấn thoả thuận chia, chưa có giấy tờ
hợp pháp. Tháng 3 năm 2005 nhà và đất này mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đứng tên chủ sử dụng là hộ gia đình ông Bùi Văn Tuấn. Bà Xuân thừa nhận đã nhận của ông
Tuấn số vàng 25/50 lượng vàng trị giá nhà tại thời điểm ông bà chia tài sản năm 2001. Tuy
nhiên, tại thời điểm thỏa thuận bà Xuân cho rằng mình đang bị bệnh tâm thần nên không điều
chỉnh được hành vi của mình.
Bà Xuân yêu cầu Tòa án tuyên bố thỏa thuận chia tài sản chung của bà Xuân và ông
Tuấn bị vô hiệu. Bà Xuân đề nghị chia lại giá trị căn nhà số 46 đường Nguyễn Trãi, quận 1,
thành phố H theo quyết định của Hội đồng định giá xác định giá trị căn nhà theo giá thị trường
tại thời điểm xét xử sơ thẩm là 122 lượng vàng.
Câu hỏi 8: (1 điểm)
Anh (chị) hãy nêu những đánh giá của mình về thỏa thuận phân chia tài sản của bà Xuân
và ông Tuấn năm 2001?
Câu hỏi 9: (1 điểm)
Anh (chị) hãy trình bày những nội dung cơ bản của bản luận cứ để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của bà Xuân tại phiên tòa sơ thẩm.
Tình tiết bổ sung
Bản án sơ thẩm số 29/HNST ngày 17/12/X của Toà án nhân dân quận 1, TP. H quyết
định:
1/ Bác yêu cầu của bà Hà Thị Xuân đòi phân chia giá trị căn nhà số 46 đường Nguyễn
Trãi, quận 1, thành phố H theo giá trị tại thời điểm xét xử sơ thẩm.
2/ Tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Bà Xuân không đồng ý với toàn bộ quyết định của bản án số 29/HNST ngày 17/12/X của
Toà án nhân dân quận 1, TP. H.
Câu hỏi 10: (1 điểm)
Anh (chị) hãy giúp bà Xuân soạn thảo đơn kháng cáo bản án số 29/2005/HNST .
(Học viên được sử dụng các văn bản pháp luật)
HỌC VIỆN TƯ PHÁP
Đề thi môn: Kỹ năng tranh tụng cña LuËt s trong c¸c vụ việc dân sự
Mã số: LS.DS/TN-10/240
-----------------*--------------Căn nhà số 51 Phường X - Quận T - Tp B do ông Kha mua hóa giá nhà của Nhà nước
năm 1991 và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu số 1677/HGN ngày 14.12.1991 mang
tên chủ sử dụng là ông Nguyễn Kha. Sinh thời, ông Kha có vợ là bà Trân, hai người không có
con. Bà Trân chết năm 1971.
Ngày 28.5.1991 ông Kha lập di chúc thứ nhất tại Phòng Công chứng Nhà nước Tp. B
định đoạt toàn bộ tài sản của mình cho anh Nguyễn Ngọc. Ngày 22.6.1992 ông Kha lập tờ hủy
bỏ di chúc ngày 28.5.1991 tại Phòng Công chứng nhà nước Tp. B, không để di sản lại cho anh
Nguyễn Ngọc nữa vì anh Ngọc hiện đang ở nước ngoài không có ý định về nước sinh sống.
Đến ngày 11.8.1995 ông Kha lập tờ di chúc thứ hai để lại di sản là căn nhà 51 - Phường X
- Quận T - Tp. B cho chị Soan. Ngày 25.12.1997 ông Kha lại ra UBND Phường X - Quận T - Tp.
B lập di chúc thứ 3 để lại tài sản là căn nhà 51 Phường X - Quận T - Tp. B cho anh Nguyễn Ngọc
được toàn quyền sở hữu sau khi ông Kha chết.
Ngày 19.7.2005 Ông Kha chết (Giấy chứng tử số 47/2000 Quyển số 10/P.C ngày
20.7.2005). Ngày 20/3/X Ngọc muốn khởi kiện ra Tòa yêu cầu công nhận quyền thừa kế căn nhà
51 Phường X - Quận T - Tp. B là của anh Ngọc. Căn nhà này hiện anh Hiền (cháu ruột của ông
Kha đang ở, ông Kha cho anh Hiền ở nhờ từ năm 1947 cho đến nay). Toàn bộ bản chính giấy tờ
nhà này hiện chị Soan đang giữ. Anh Ngọc yêu cầu chị Soan phải trả lại toàn bộ giấy tờ nhà và
đề nghị anh Hiền phải trả lại nhà cho anh Ngọc.
Giả sử anh (chị) được anh Ngọc nhờ tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của phía Nguyên đơn trong vụ kiện.
Câu hỏi 1: (1 điểm)
Xác định Tòa án có thẩm quyền thụ lý giải quyết vụ án này?
Câu hỏi 2: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy giúp anh Ngọc soạn thảo đơn khởi kiện và chuẩn bị hồ sơ khởi kiện.
Tình tiết bổ sung
Căn cứ theo yêu cầu khởi kiện của anh Ngọc, liên quan đến việc xác định quan hệ pháp
luật tranh chấp, có ý kiến cho rằng :
1. Đây là quan hệ pháp luật “Tranh chấp về quyền thừa kế”.
2. Có ý kiến cho rằng đây là quan hệ pháp luật về “Đòi giấy tờ nhà và đòi thừa kế”
3. Ý kiến khác lại cho rằng đây là quan hệ pháp luật về “Đòi tài sản” vì sau khi ông Kha
chết (19.7.2005) di chúc ngày 25.12.1997 – “để lại tài sản là căn nhà 51 Phường X - Quận T Tp. B cho anh Nguyễn Ngọc được toàn quyền sở hữu” phát sinh hiệu lực pháp luật. Vì vậy, anh
Ngọc trở thành chủ sở hữu hợp pháp căn nhà số 51 Phường X - Quận T - Tp B. Anh Ngọc được
quyền đòi lại tài sản của mình.
Câu hỏi 3: (1 điểm)
Nêu ý kiến của anh (chị) về việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp?
Tình tiết bổ sung
Sau khi nhận được thông báo của Tòa án về việc kiện. Chị Soan gửi văn bản trình bày với
nội dung cụ thể như sau:
Căn nhà số 51 Phường X - Quận T - Tp. B là tài sản riêng của ông Kha. Ngày 22.6.1992
Ông Kha lập tờ hủy bỏ di chúc ngày 28.5.1991 tại Phòng Công chứng Nhà nước Tp. B, không để
di sản lại cho anh Nguyễn Ngọc nữa. Đến ngày 11.8.1995 thì ông Kha lập tờ di chúc để lại di sản
là căn nhà này cho chị Soan. Vì vậy, chị Soan cho rằng di chúc lần 1 lập tại Phòng công chứng
Nhà nước Tp. B ngày 28.5.1991 đã bị hủy bỏ và tờ di chúc ngày 25.12.1997 lập tại UBND
phường X- Quận T - Tp. B do anh Ngọc đưa ra để đòi thừa kế là giả mạo và vô hiệu vì di chúc
này lập tại UBND Phường và do Ủy viên văn phòng ký xác nhận là không có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật. Chị Soan đề nghị Tòa án bác yêu cầu của phía Nguyên đơn, công nhận
quyền thừa kế căn nhà số 51 Phường X - Quận T - Tp B là của chị Soan.
Về phía anh Hiền (người đang ở tại căn nhà này) cũng có đơn trình bày gửi Tòa: Anh là
cháu của ông Kha, được ông Kha cho ở nhờ từ năm 1947 đến nay. Anh Hiền không yêu cầu tranh
chấp gì đối với căn nhà này và cũng không có ý kiến gì về việc tranh chấp giữa anh Ngọc và chị
Soan. Anh Hiền xin vắng mặt trong tất cả các buổi làm việc và xét xử của Tòa án.
Câu hỏi 4: (1 điểm)
Anh (chị) hãy xác định trọng tâm vấn đề cần chứng minh trong vụ án này?
Tình tiết bổ sung
Sau khi Tòa thụ lý giải quyết vụ án theo yêu cầu của anh Ngọc. Bà Vân có đến Tòa trình
bày: Bà và Ông Kha có quan hệ tình cảm với nhau từ năm 1966 và có con chung là anh Nguyễn
Ngọc. Do thời điểm bà chung sống với ông Kha, bà Trân (vợ chính thức của ông Kha) vẫn còn
sống nên quan hệ của ông bà không được công khai và không có đăng ký kết hôn. Khi ông Kha
mua hóa giá nhà, bà Vân có đưa cho ông Kha 21 lượng vàng SJC để đóng tiền hóa giá nhà,
nhưng do quan hệ tình cảm nên không lập văn bản về việc đưa vàng này. Bà Vân yêu cầu được
quyền hưởng ½ trị giá căn nhà 51 Phường X - Quận T - Tp. B.
Tòa án có thông báo yêu cầu bà Vân nộp tạm ứng án phí đối với yêu cầu của mình,
nhưng Bà Vân không nộp.
Câu hỏi 5: (1 điểm)
Anh (chị) hãy xác định tư cách đương sự trong vụ án?
Tình tiết bổ sung
Tại phiên tòa, anh Ngọc cho rằng: Tờ di chúc do Ông Kha lập sau cùng vào ngày
25.12.1997 đã phát sinh hiệu lực pháp luật. Di chúc này do Ông Kha lập tại UBND Phường X Quận T – Tp.B trong tình trạng sức khỏe còn minh mẫn sáng suốt (có giấy chứng nhận sức khỏe)
và đã được đóng dấu xác nhận của UBND Phường, như vậy đã thể hiện ý chí của Ông Kha là để
lại di sản cho anh Nguyễn Ngọc.
Phía chị Soan thì cho rằng: Tờ di chúc thứ 3 lập tại UBND Phường X - Quận T - Tp B
không có hiệu lực do ông Nguyễn Đức là ủy viên văn phòng ký tên đóng dấu là trái thẩm quyền,
vì chỉ có Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch mới có thẩm quyền theo quy định được ký chứng nhận di
chúc.
Xem xét nội dung của các tờ di chúc. Tờ di chúc thứ nhất ngày 28.5.1991 để lại di sản
cho anh Nguyễn Ngọc, sau đó tờ di chúc này bị hủy bỏ với lý do là “con trai tôi đã ra nước
ngoài sinh sống”. Đồng thời trong tờ di chúc này ông Kha cũng xác nhận anh Nguyễn Ngọc là
con ruột của ông Kha và bà Vân. Trong tờ di chúc thứ hai thì ông Kha xác định chị Soan là con
nuôi và định đoạt tài sản cho chị Soan. Tờ di chúc thứ 3 định đoạt toàn bộ di sản cho anh Nguyễn
Ngọc. Tờ di chúc này không có người làm chứng, được đánh máy dưới có xác nhận của ông
Nguyễn Đức ủy viên văn phòng phường X, quận T, TP. B ký tên, đóng dấu.
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Anh (chị) hãy nêu đánh giá của mình về tính hợp pháp của 3 bản di chúc:
(i) Di chúc lập ngày 28.5.1991 ông Kha tại Phòng Công chứng Nhà nước Tp. B;
(ii) Di chúc lập ngày 11.8.1995 định đoạt tài sản cho chị Soan;
(iii) Di chúc lập ngày 25.12.1997 tại UBND phường X - Quận T - Tp. B định đoạt toàn
bộ di sản của ông Kha cho anh Ngọc.
Câu hỏi 7: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy chuẩn bị bản luận cứ để bảo vệ quyền lợi cho anh Nguyên Ngọc.
Tình tiết bổ sung
Tại bản án số 69/DSST ngày 19/12/X của TAND quận T, TP. B đã xử :
Xác định di sản thừa kế của ông Kha là căn nhà số 51 Phường X - Quận T - Tp B:
1/ Chấp nhận yêu cầu phản tố của chị Soan. Công nhận chị Soan được hưởng thừa kế
toàn bộ căn nhà số 51 Phường X - Quận T - Tp B. Buộc anh Hiền phải giao trả căn nhà số 51
Phường X - Quận T - Tp.B cho chị Soan.
2/ Bác yêu cầu của nguyên đơn anh Ngọc đòi hưởng thừa kế di sản là căn nhà số 51
Phường X - Quận T - Tp B.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Anh Nguyễn Ngọc không đồng ý với toàn bộ quyết định của bản án dân sự sơ thẩm số
69/DSST ngày 19/12/2005 của TAND quận T, TP. B.
Câu hỏi 8: (1 điểm)
Anh (chị) thấy có cần thiết trao đổi vấn đề gì với anh Ngọc về yêu cầu kháng cáo?
Câu hỏi 9: (1 điểm)
Hãy giúp anh Ngọc viết đơn kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm số 69/DSST ngày 19/12/X
của TAND quận T, TP. B.
(Học viên được sử dụng các văn bản pháp luật)