Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

ĐỀ CƯƠNG ôn THI môn NGHIỆP vụ sư PHẠM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.41 KB, 15 trang )

MÔN NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM
Câu 1: Thế nào là đọc đúng? Các yêu cầu của việc luyện kĩ
thuật đọc thành tiếng?
Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc 1 cách chính
xác, không có lỗi. Đọc đúng là không đọc thừa, không sót từng âm,
vần, tiếng. Đọc đúng phải thể hiện đúng hệ thống ngữ âm chuẩn,
nghĩa là rèn luyện để đọc đúng chính âm.
- Chính âm: là các chuẩn mực phát âm của 1 ngôn ngữ có giá trị
và hiệu lực về mặt xã hội. VD: Về lỗi chính âm: ngá – ngã (đúng
chính âm là đúng các âm, các thanh).
Các yêu cầu của việc rèn luyện kĩ thuật đọc thành tiếng
- Đọc rõ tiếng, rõ lời và đúng chính âm: là tự điều chỉnh cách
phát âm của bạn sao cho đúng chuẩn. Đây là việc làm không dễ vì thói
quen phát âm của cá nhân, của địa phương rất khó xử. Nó đòi hỏi 1 sự
tự ý thức, tự giác, kiên nhẫn và nghiêm khắc tự rèn luyện lâu dài của
người giáo sinh.
- Ngắt giọng đúng chỗ: Cần dựa vào nghĩa, vào quan hệ ngữ pháp
giữa các tiếng, từ để ngắt hơi cho đúng. Khi đọc, không được ngắt từ
ra làm hai.
VD: Không ngắt hơi: Ông già bẻ gãy từng chiếc 1 / cách dễ dàng.
+ Không tách danh từ chỉ loại với danh từ mà nó đi kèm.
VD: Trăm cô/ gái tựa tiên ra.
+ Không tách giới từ với danh từ đi sau nó
VD: Nhảy trên / đường vàng.
+ Không tách động từ - hệ từ “là” với danh từ đi sau nó.
VD: Mẹ là / ngọn gió của con suốt đời.
Việc dựa vào nghĩa và quan hệ cú pháp giúp chúng ta xác định
đúng cách ngắt nhịp của các âm.
VD: Yêu thương / em ngắm mãi (Không ngắt Yêu thương em /
ngắm mãi).
Hệ quả: Ngắt không đúng chỗ làm người nghe không hiểu.


- Việc ngắt hơi phải đúng với dấu câu:
+ Nghỉ ít ở dấu phải, nghỉ lâu hơn ở dấu chấm, nghỉ nhiều hơn
dấu phẩy và ít hơn dấu chấm đối với dấu chấm phẩy.
+ Đọc đúng các ngữ điệu câu, lên giọng ở cuối câu hỏi, hạ giọng
ở cuối câu kể, thay đổi giọng cho phù hợp để thấy rõ nội dung cầu
khiến khác nhau. Ngoài ra còn phải hạ giọng khi đọc bộ phận giải
thích của câu.
1


- Tốc độ, âm lượng đọc phù hợp:
+ Người đọc phải làm chủ được tốc độ đọc (độ nhanh, chậm, chỗ
ngân hay là việc dẫn nhịp đọc…), không nên đọc chậm, êa, ậm ờ …
hay ngược lại, đọc quá nhanh, liến thoắng, nuốt tiếng,… làm cho
người nghe khó tiếp nhận đúng, rõ và dễ dàng văn bản đọc.
+ Người đọc cần làm chủ được cường độ giọng (đọc to hay nhỏ,
nhấn giọng hay không…) không nên đọc gào to những cũng không
nên đọc quá nhỏ. Việc sử dụng âm lượng phù hợp cũng là điều cần
quan tâm. Cũng cần chú ý đến đối tượng nghe về số lượng (ít hay
nhiều), về trường, lớp, địa điểm, không gian nghe (lớp đơn hay giảng
đường), phương tiện nói (có hay không có mi –cro), như vậy ta mới
không phí sức mà người nghe cũng không khó chịu vì phải tiếp nhận
những âm thanh không đúng âm lượng thích hợp.
- Quy trình luyện đọc
Chuẩn bị:
+ Đọc thầm trước toàn bộ văn bản.
+ Xác định thể loại, phong cách toàn văn bản (phong cách hoàn
chỉnh, phong cách báo chí, phong cách chính luận, phong cách nghệ
thuật: văn / thơ, miêu tả / kể chuyện / nghị luận…)
+ Xác định mục đích đọc (đọc để nhận biết thông tin, để thông

báo những tin tức vừa mới nhận, để kêu gọi…)
+ Xác định đối tượng nghe (HS trong lớp, phụ huynh HS hay
đồng nghiệp).
+ Xác định cách thức trình bày cho phù hợp (ngữ điệu, cao độ,
cường độ, âm lượng…).
+ Xử lí thông tin chứa trong văn bản (suy ra nội dung chính yếu,
thứ yếu, các điểm cần triển khai, nói thêm cho rõ, nếu là văn bản dài
nên tóm tắt, rút ra dàn ý).
+ Cần chuẩn bị ra giấy hoặc bổ sung ngay bên cạnh điều cần mở
rộng. Có thể ghi thêm những ý kiến, đánh giá, nhận xét của cá nhân.
Rèn kĩ năng đọc: Có 3 cách đọc văn bản
+ Chỉ đọc nội dung văn bản, không có ý kiến diễn giải cá nhân.
+ Đọc trọn vẹn nội dung văn bản rồi góp ý kiến giải thích, bàn
luận.
+ Vừa đọc, vừa xem lời chú dẫn, bàn luận về nội dung bài học.
Câu 2: Những yêu cầu về mặt rèn luyện kỹ năng đặt câu hỏi
minh họa bằng ví dụ cụ thể. Những loại câu hỏi thường dùng
trong dạy học TV ở trường Tiểu học hiện nay.
1. Những yêu cầu về mặt rèn luyện kỹ năng đặt câu hỏi
2


*) Câu hỏi cần được đa dạng hóa và sử dụng 1 cách linh hoạt,
sinh động, phù hợp với từng đối tượng HS: có loại tương đồng dễ trả
lời, dùng cho HS trung bình và yếu, có loại đòi hỏi ở mức độ cao hơn,
cần đến kiến thức sâu, rộng và khả năng lập luận, dùng cho HS khá và
giỏi. Có loại có thể dựa ngay vào nội dung bài học để trả lời, lại có
loại phải cần đến các thao tác suy ý, liên hội, khái quát hóa… Cách
đặt câu hỏi này làm cho HS cả lớp cùng phải “vận động”, phải làm
việc tích cực, không có khoảng trống thụ động.

VD: Khi dạy bài tập đọc “Mẩu giấy vụn” ở TV 2 tập 1. GV đưa ra
1 loạt câu hỏi để HS trả lời liên quan đến bài tập đọc và dựa vào nội
dung của bài tập đọc sẽ trả lời được các câu hỏi đó:
- Mẩu giấy vụn nằm ở đâu ? (MGV ở ngay giữa lối ra vào của lớp
học).
- Có dễ thấy không ? (Rất dễ thấy, vì lớp học rộng rãi, sáng sủa và
sạch sẽ nhưng không biết ai vứt 1 mẩu giấy ngay giữa lối ra vào).
- Cô giáo yêu cầu cả lớp làm gì ? ( Cô giáo yêu cầu cả lớp nghe
xem mẩu giấy nói gì? Nào các em hãy lắng nghe và cho cô biết mẩu
giấy đang nói gì nhé).
- Bạn gái đứng lên làm gì ? (Bạn gái nghe thấy mẩu giấy bảo:
“Các bạn ơi ! Hãy bỏ tôi vào sọt rác !”).
Có thể đưa ra những câu hỏi:
- Em hiểu ý cô giáo nhắc nhở HS điều gì ? (Cô giáo nhắc nhở HS
phải vứt rác đúng nơi quy định, không được vứt rác bừa bãi…)
*) Câu hỏi cần gắn với nội dung bài học phải xuất phát từ mục
đích yêu cầu của mỗi bài học cụ thể: Mỗi môn học, mỗi bài học đều
có tính đặc thù và có những yêu cầu hình thành kiến thức rèn luyện kỹ
năng riêng. Bài dạy lý thuyết sẽ không giống bài học thực hành, bài
dạy tập đọc sẽ khác với bài dạy chính tả, kể chuyện, tập viết, tập làm
văn… Nhưng dù bài dạy theo cách nào thì câu hỏi cũng phải “xoáy”
vào trọng tâm của bài giảng, giúp HS thấy được đâu là kiến thức phụ
có thể lướt qua. Các câu hỏi phải có tác dụng “móc xích” “xâu chuỗi”
những kiến thức cần nắm vững, cần thiết quan trọng đối với nhận thức
của HS. Ngoài ra, khi đặt câu hỏi, chúng ta cần chú ý đến yêu cầu rèn
luyện kĩ năng cụ thể của mối bài (kĩ năng phân tích câu, kĩ năng phân
tích nghĩa của từ, kĩ năng dọc hiểu văn bản…).
VD: Khi dạy LT&C bài “Dấu hai chấm” TV4- Tập 1, không nên
đặt câu hỏi: Thế nào là dấu hai chấm ? (vì câu này đã có sẵn câu trả lời
được trả lời trong SGK ở phần ghi nhớ). Mà nên đặt câu hỏi: Trong

câu văn sau, dấu hai chấm có tác dụng gì ?
3


Chủ tịch HCM nói: “Tôi chỉ có 1 sự ham muốn, ham muốn tột
bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Nguyện vọng đó chi phối mọi ý
nghĩ và hành động trong suốt cuộc đời của người.
(Tác dụng của dấu hai chấm báo hiệu phần sau là lời nói của Bác
Hồ. Dấu hai chấm được dùng phối hợp với dấu ngoặc kép).
- Vậy dấu hai chấm có tác dụng gì ? (Dấu 2 chấm báo hiệu bộ
phận câu đứng sau nó là lời nói của 1 nhân vật hoặc là lời giải thích
cho bộ phận đứng trước)
- Khi báo hiệu lời nói của nhân vật, dấu 2 chấm được dùng phối
hợp với dấu ngoặc kép hay dấu gạch đầu dòng).
*) Câu hỏi phải đặt trong mối tương quan với phương pháp
truyền giảng ở từng bài học: Phương pháp phân tích ngôn ngữ trong
phân môn học vần, chính tả, tập viết, LT&C… đòi hỏi 2 loại câu diễn
dịch; câu hỏi nêu chi tiết mục tiêu của bài học; phương pháp khái quát
hóa cần đến loại câu hỏi khái quát – tổng hợp dùng để củng cố, tổng
kết bài, để ôn tập… Phương pháp gợi mở lại được bắt đầu bằng hệ
thống câu hỏi giúp HS hiểu bài sâu hơn bằng những câu hỏi gợi mở có
ý nghĩa thích hợp kiến thức, dẫn dắt tư duy của HS… Mỗi loại câu hỏi
như thế đều có giá trị riêng nhưng nó lại mang tính đồng bộ khi đặt
trong hệ thống, trong sự gắn bó phù hợp với phương pháp dạy học, nó
mới phát huy tác dụng.
VD: Trong giờ học vần – TV1 tập 2: Bài 84: op, ap GV đưa ra 1
hệ thống câu hỏi để HS trả lời:
- Trong vần op gồm những âm nào?
- Âm nào đứng trước ? Âm nào đứng sau?

- Trong tiếng họp gồm vần gì và âm gì ghép lại với nhau ? có dấu
thanh gì ? (dấu nặng) Dấu nặng được đặt ở đâu ? (được đặt ở dưới vần
op).
*) Câu hỏi cần phải được chuẩn bị kỹ lưỡng về mặt ngôn ngữ
tránh gây mơ hồ, khó hiểu và có thể giúp HS định hướng được ngay
nội dung được hỏi và trả lời cho đúng.
VD: Khi dạy về tính đa nghĩa của từ không nên đặt câu hỏi: Em
nào có thể tìm ra nghĩa của từ “ăn” ? mà phải đặt câu hỏi cho rõ ràng
là: Em nào có thể tìm ra những nghĩa khác nhau của từ “ăn” ? hay từ
“ăn” có những nghĩa nào ?
*) Câu hỏi cần phải phù hợp với đối tượng HS, phân chia câu hỏi
trả lời cho tất cả HS trong lớp.
4


Mỗi 1 bài học có mục tiêu khác nhau – hệ thống câu hỏi phải
hướng tới nội dung đó.
Sử dụng phương pháp phân tích, đối chiếu, so sánh..=> cung cấp
kiến thức cho HS.
2. Những loại câu hỏi thường dùng trong dạy học TV ở
trường Tiểu học hiện nay.
1 là: Câu hỏi về kiến thức cơ bản: Là loại câu hỏi có tác dụng
kiểm tra và củng cố kiến thức mà HS bắt buộc phải ghi nhớ, để vận
dụng cho đúng. Muốn trả lời được những câu hỏi khó, phải bắt đầu từ
những câu hỏi về kiến thức cơ bản. Loại này dành cho tất cả các đối
tượng HS nên cách diễn đạt cần ngắn gọn, dễ hiểu, đi thẳng vào vấn
đề câu hỏi.
VD: Khi học LT&C TV2 –Tập 1. Bài: Từ chỉ hoạt động, trạng
thái – dấu phẩy ở bài tập 3: có thể đặt dấu phẩy vào những chỗ nào
trong mỗi câu sau:

a. Lớp em học tập tốt lao động tốt.
b. Cô giáo lớp em rất yêu thương, quý mến HS.
c. Chúng em luôn kính trọng, biết ơn các thầy giáo, cô giáo.
- Tại sao em đặt dấu phẩy ở đây?
- Khi chúng ta đặt dấu phẩy vào trong câu có cần hiểu nghĩa của
câu không ?
2 là: Câu hỏi nêu chi tiết của bài học (còn gọi là câu hỏi diễn
dịch): là loại câu hỏi nhằm tái hiện nội dung cụ thể trong các phần của
bài học đi vào những khía cạnh, những mặt khác nhau của đối tượng
đang khảo sát giúp cho việc định hướng kiến thức trong bài, nhận
diện, miêu tả, phân tích các đặc trưng của 1 khái niệm hay 1 quy tắc
ngôn ngữ. VD Khi dạy bài tập đọc “Có công mài sắt, có ngày nên
kim” TV2 tập 1. GV đưa ra hệ thống câu hỏi: - Lúc đầu, cậu bé học
hành thế nào ?. – Cậu bé thấy bà cụ đang làm gì ? – Bà cụ giảng giải
như thế nào ?. - Qua câu chuyện khuyên em điều gì ?.
3 là: Câu hỏi so sánh, đối chiếu: là loại câu hỏi thường dùng để
đối chiếu các cặp phạm trù, các cặp khái niệm (và quy tắc) ngôn ngữ
có tính chất sóng đôi (VD: Câu đơn – câu ghép, từ đơn – từ phức, câu
– phát ngôn, ẩn dụ- hoán dụ…); đối chiếu các hiện tượng ngôn ngữ có
1 đặc điểm chung nào đó giống nhau (hoặc về mặt nội dung biểu đạt,
hoặc về hình thức thể hiện) nhằm giúp HS tìm ra những điểm tương
đồng và khác biệt giữa chúng nhờ phân biệt được những đối tượng
đồng loạt và khác loại như thế, những suy luận, những phán đoán của
HS mới trở nên chính xác, có cơ sở khoa học và việc sử dụng tiếng
5


việt mới có hiệu quả. Những kiến thức được tiếp thu bằng cách này sẽ
được tích lũy 1 cách nhanh chóng hơn, phong phú hơn.
VD: Thế nào là câu đơn ? Thế nào là câu ghép ?. Câu đơn và câu

ghép giống và khác nhau ở những điểm gì ?. Giống nhau: đều do cụm
C-V tạo thành. Khác nhau: Câu đơn: là câu do 1 cụm chủ ngữ- vị ngữ
(ọi tắt là cụm chủ vị) tạo thành, Vd: em / đi học
C
V
Câu ghép là câu do 2 hay nhiều cụm chủ vị tạo thành.
Vd: Mùa xuân /đã đến, cây cối /đơm chồi nảy lộc
C1
V1
C2
V2
4 là: Câu hỏi khái quát, tổng hợp (còn gọi là câu hỏi quy nạp):
là loại câu hỏi giúp HS hệ thống hóa bài học, có cách đánh giá, nhận
thức đầy đủ, bao quát về 1 vấn đề 1 đối tượng trước khi vận dụng nó
vào thực tế. Đi từng bước, trên cơ sở tìm hiểu các mặt khác nhau của
đối tượng, phân tích các thuộc tính khác nhau của nó, cuối cùng, mục
đích mà hoạt động nhận thức cần đạt tới là phải khái quát được bản
chất của đối tượng. Năng lực khái quát hóa là vấn đề rất quan trọng,
HS khi tiếp thu kiến thức không chỉ dừng lại ở mức độ hiểu biết về
những đặc điểm, đơn lẻ, riêng biệt ở bên ngoài đối tượng mà phải đi
sâu nắm được mối quan hệ bên trong cùng với những thuộc tính cơ
bản của nó. Việc cung cấp kiến thức đạt được ở mức độ như vậy mới
được xem là hoàn thiện.
VD: Khi dạy tập làm văn bài: Nhân vật trong truyện TV 4- tập 1.
GV đưa ra hệ thống câu hỏi trước khi hình thành khái niệm nhân vật
trong truyện.
- Trong tuần trước, các em đã được học những bài tập đọc nào
(Dế Mèn bênh vực kẻ yếu và Sự tích Hồ Ba Bể)
- Kể tên những nhân vật là người, là vật trong 2 bài tập đọc các
em vừa học trong tuần trước.

+ Nhân vật là người:
+ Nhân vật là vật (con vật, đồ vật, cây cối...).
- Em có nhận xét gì về tính cách của Dế Mèn trong truyện Dế
Mèn bênh vực kẻ yếu.
- Em có nhận xét gì về tính cách của 2 mẹ con bà nông dân trong
truyện sự tích Hồ Ba Bể.
- Vậy nhân vật trong truyện có thể là người, là con vật, đồ vật, cây
cối... được nhân hóa.
Hành động, lời nói, suy nghĩ... của nhân vật nói lên tích cách của
nhân vật ấy.
6


5 là: Câu hỏi gợi mở dẫn dắt: Câu hỏi này đặt ra không nhằm
mục đích để HS trả lời các tri thức đã tiếp thu và ghi nhớ mà hướng
dẫn các em cách trình bày, cách hiểu tri thức và phương pháp chiếm
lĩnh tri thức. Trong những tiêu trí đánh giá trình độ tiếp thu của HS
như: biết- hiểu- phân tích- tổng hợp- bình giá, vận dụng... thì 4 tiêu chí
sau quan trọng hơn vì nó đánh giá được năng lực của người học.
Câu hỏi gợi mở có chức năng bổ sung thông tin, hoàn thiện và
phát triển tư duy, giúp HS cách khai thác kiến thức, đào sâu bản chất
của vấn đề, phân tích các khía cạnh và tìm ra lôgic của chúng. Dựa
vào tâm lí nhận thức của người học, loại câu hỏi này thường đi từ yêu
cầu thuộc về kỹ năng mà người học cần luyện tập từ nhận diện, phân
tích đến tổng hợp, so sánh và vận dụng từ những hiểu biết về hình
thức đến nội dung của đối tượng, từ vấn đề có ý nghĩa hẹp, chi tiết đến
vấn đề có ý nghĩa rộng và bao quát hơn.
VD: Khi dạy LT&C- TV 4- tập 1, bài: Từ đơn và từ phức. Sau đây
có 14 từ, mỗi từ được phân cách bằng 1 dấu gạch chéo: Nhờ /bạn /
giúp đỡ /, lại / có / chí / học hành /, nhiều / năm / liền /Hoa /là /HS

/tiên tiến.
Hãy chia các từ trên thành 2 loại: Tiếng dùng để làm gì ? (tiếng
dùng để cấu tạo nên từ).
- Từ chỉ gồm 1 tiếng: Vd: Nhờ...
- Từ gồm nhiều tiếng, VD: giúp đỡ...
- Vậy thế nào là từ đơn ? (từ chỉ gồm 1 tiếng là từ đơn).
- Thế nào là từ phức ? (từ gồm 2 hay nhiều tiếng gọi là từ phức).
- Từ dùng để làm gì ? (từ dùng để tạo nên câu).
6 là: Câu hỏi nêu vấn đề: loại câu hỏi này là 1 trong những yêu
cầu sư phạm có ý nghĩa quan trọng trong quá trình dạy học tích cực,
dạy học hướng vào hoạt động học của chủ thể HS. Tuy nhiên, không
phải tất cả các câu hỏi đều “có vấn đề” phải là những “mâu thuẫn” của
tư duy mà dựa vào đây, GV có thể cài đặt thông tin cần thiết, tạo nên
vấn đề câu hỏi. Có thể nói đây là loại câu hỏi có ý nghĩa tích cực vì nó
không chỉ khơi nguồn cho tư duy mà nó còn tập trung “năng lượng”,
và “cường độ” tư duy của HS trước những vấn đề được xem là “hóc
búa”, “nghịch lí” , chưa có lời giải từ trước.
VD: Hôm nay em đi học. Có 2 ý kiến: 1. Hôm nay là thành phần
trạng ngữ trong câu. 2. Hôm nay không phải là thành phần trạng ngữ
trong câu.
Ý kiến của em ?
7


Câu 3: Những yêu cầu của việc rèn kĩ năng viết chữ:
*) Viết đúng mẫu chữ:
- Bắt đầu từ lớp, 1 năm học 2002- 2003, việc dạy và học viết chữ
trong trường TH trên toàn quốc được thực hiện theo mẫu chữ ban
hành kèm theo quyết định số 31/2002/QĐBGD&ĐT, ngày 14/6/2002
của Bộ trưởng bộ GD&ĐT, các chữ cái viết thường, dấu thanh, chữ

cái viết hoa và các chữ số trong bảng mẫu chữ kèm theo quyết định
nói trên có nhiều đặc điểm.
*) Viết đúng chính tả:
- Chính tả là hệ thống các quy tắc về cách viết thống nhất cho các
từ của 1 ngôn ngữ, cách viết hoa tên riêng, cách phiên âm tên riêng
nước ngoài... Nói cách khác, chính tả là những quy ước của xã hội
trong ngôn ngữ, mục đích của nó là làm phương tiện truyền đạt thông
tin bằng chữ viết, bảo đảm cho người viết và người đọc đều hiểu
thống nhất nội dung văn bản.
- Chính tả trước hết là sự quy định có tính chất xã hội, nó không
cho phép vận dụng quy tắc 1 cách linh hoạt, có tính chất sáng tạo cá
nhân.
- Giống như các phân môn khác trong môn TV, tính chất nổi bật
của phân môn chính tả là tính thực hành, bởi chỉ có thể hình thành các
kĩ năng, kĩ xảo chính tả thông qua việc thực hành luyện tập.
*) Viết đẹp:
- Nắm được hình dáng, đặc điểm từng chữ cái, nắm được các thao
tác viết các nhóm chữ và từng chữ (thao tác viết nhóm chữ nét cong
khác thao tác với nhóm chữ nét khuyết...)
- Khắc sâu biểu tượng về chữ cho HS bằng nhiều con đường kết
hợp mắt nhìn, tai nghe, tay luyện tập. Mẫu chữ là hình thức trực quan
ở tất cả các bài tập viết, tiêu chuẩn cơ bản của chữ mẫu là phải đúng
mẫu chữ quy định, rõ ràng và đẹp. Chữ mẫu của GV viết trên bảng
giúp cho HS nắm được thứ tự viết các nét của từng chữ cái, cách nối
các chữ cái (.) 1 chữ nhằm đảm bảo yêu cầu viết liền mạch viết nhanh.
- Chữ của GV khi chữa bài, chấm bài cũng được HS quan sát như
1 loại chữ mẫu vì thế, GV cần có ý thức viết chữ đẹp, đúng mẫu rõ
ràng.
Đặc điểm của các chữ cái viết thường, chữ cái viết hoa, chữ số
(.) mẫu chữ viết hiện nay ở trường TH.

Mẫu chữ cái viết thường:
- Các chữ cái: b, g, h, k, l, y được viết với chiều cao 2,5 đơn vị.
- Chữ cái t được viết với chiều cao 1,5 đơn vị.
8


- Các chữ cái r, s được viết với chiều cao 1,25 đơn vị.
- Các chữ cái d, đ, p, q được viết với chiều cao 2 đơn vị.
- Các chữ còn lại o, ô, ơ, a, ă, â, e, ê, i, u, ư, n, m, v, x có chiều
cao 1 đơn vị (có thêm dấu phụ ở các chữ ă, â, ư, ô, ê, ơ).
- Các dấu thanh được viết trong phạm vi 1 ô vuông có cạnh là 0,5
đơn vị.
Mẫu chữ cái viết hoa:
- Chiều cao của các chữ cái viết hoa là 2,5 đơn vị, riêng 2 chữ cái
viết hoa y, g được viết với chiều cao 4 đơn vị..
Mẫu chữ số: Chiều cao của các chữ số là 2 đơn vị.
Câu 4: Vai trò chức năng của thiết bị dạy học trong việc nâng
cao chất lượng dạy và học ở tiểu học hiện nay.
* Vai trò:
- Thiết bị dạy học là công cụ lao động của GV và HS.
- Thiết bị dạy học bao gồm nhiều loại hình khác nhau: tranh ảnh,
bản đồ, biểu bảng, mô hình mẫu vật, hóa chất dụng cụ thí nghiệm,
băng ghi âm, băng ghi hình, phím đèn chiếu, phím nhựa, đĩa mềm vi
tính... mỗi loại hình thiết bị giáo dục này đều phát huy tính năng tác
dụng khác nhau. Trong quá trình dạy học nói chung và từng môn học
nói riêng.
- Phương pháp sử dụng thiết bị dạy học mang lại sức sống mới
cho nền giáo dục đóng vai trò cung cấp nguồn thông tin học tập, tạo ra
nhiều khả năng để GV trình bày nội dung bài học 1 cách sâu sắc,
thuận lợi, hình thành cho HS những phương pháp học tập tích cực chủ

động.
- Sử dụng thiết bị dạy học ở bậc tiểu học cần coi trọng xây dựng
cho HS biết quan sát 1 cách có tổ chức, không quan có suy nghĩ, biết
tư duy 1 cách độc lập, linh hoạt sáng tạo, biết ghi nhớ 1 cách hợp lý,
khoa học biết tưởng tượng đúng hướng phong phú.
* Chức năng:
- Chức năng minh họa: Thiết bị dạy học có thể minh họa cho lời
bình giảng của GV giúp HS cảm thụ được vẻ đẹp của thiên nhiên đất
nước như sông Hương, núi Ngự, Vịnh Hạ Long, bãi biển...
Ngoài ra thiết bị dạy học còn hỗ trợ, bổ sung thêm những thông
tin hình ảnh mà GV không thể trình bày rõ = ngôn ngữ.
Mặt khác, nó còn có tác dụng hợp lý hóa lao động của GV, HS
làm cho tiết dạy sinh động lên.
- Chức năng thông tin: Trong nhiều kiểu bài, thiết bị dạy học
không chỉ đóng vai trò minh họa mà còn là nội dung bài học.
9


VD: giờ TNXH, giờ tiếng việt (quan sát tranh và trả lời câu hỏi ở
lớp 2 (10 bài, lớp 3 (4 bài), TLV miêu tả đồ vật, động vật, thực vật).
- Chức năng định hướng:Tranh minh họa có tác dụng định
hướng = hình ảnh thị giác, chúng giúp HS thấy rõ hơn hình dáng, diện
mạo, cử chỉ, hành động cũng như môi trường hoạt động của nhân vật,
điều chỉnh cho bức tranh tự minh họa trong tưởng tượng của mỗi em
đúng hướng, phù hợp với nội dung tác phẩm, khắc phục được tình
trạng hiện đại hóa, địa phương hóa các nhân vật, sự kiện... theo sự
hiểu biết hạn chế của mình.
- Chức năng bồi dưỡng:
+ Bồi dưỡng vốn sống: thông qua thiết bị dạy học (tranh ảnh,
phim...) HS như được tham quan trực tiếp các danh lam thắng cảnh,

các sinh hoạt của nhân dân các dân tộc (.) nước và ngoài nước. Thiết
bị dạy học góp phần bồi dưỡng cho HS = những hình tượng sinh động,
phong phú.
+ Bồi dưỡng mĩ cảm: Thông qua nội dung các bài thơ văn, HS
rung cảm với cái đẹp của cảnh sắc thiên nhiên, đất nước, cái đẹp của
cuộc sống mới, con người, cái đẹp của người và văn học dân tộc
nhưng nếu không có thiết bị dạy học hỗ trợ HS không thể rung cảm
sâu sắc trọn vẹn hơn.
+ Bồi dưỡng năng lực trí tuệ: Khi sử dụng thiết bị dạy học, GV
thường gợi mở, dẫn dắt HS phương pháp quan sát phân tích, so
sánh...để rút ra kết luận. Đó cũng chính là con đường giúp HS phát
triển tư duy, ngôn ngữ trí nhớ và kĩ năng thực hành.
+ Bồi dưỡng tư duy tình cảm: Các thiết bị dạy học tạo điều kiện
tốt để HS cảm thụ cái hay, cái đẹp (.) bài học, từ đó tiếp thu các tư
tưởng, tình cảm (.) sáng toát ra từ tác phẩm văn học cũng như từ nghệ
thuật tạo hình, âm thanh.
Câu 5: Thế nào là giao tiếp sư phạm? Phân tích những điều
cần quan tâm về kỹ năng giao tiếp với HS của người GV ở trường
TH.
*) Giao tiếp sư phạm là: sự tiếp xúc, bày tỏ, trao đổi, truyền đạt,
tìm hiểu, cảm thương có nội dung liên quan đến hoạt động sư phạm
giữa GV với HS, GV với phụ huynh HS, GV với GV.
VD: GV chủ nhiệm đến nhà HS trao đổi với phụ huynh HS về
tình hình học tập của HS đó ở trong lớp.
- Kỹ năng giao tiếp sư phạm có 2 dạng:
+ Kỹ năng sử dụng ngôn ngữ giao tiếp sư phạm
+ Kỹ năng giao tiếp sư phạm phi ngôn ngữ (ánh mắt...)
10



* Phân tích những điều cần quan tâm về kỹ năng giao tiếp với
HS của người GV ở trường TH.
1 là: Kỹ năng làm quen với trẻ em lứa tuổi tiểu học
- Làm quen với HS tiểu học không phải lúc nào cũng dễ dàng (có
những trẻ học với cô giáo A suốt 1 thời gian dài không mở miệng đáp
1 lời, nhưng khi chuyển sang học với cô giáo B thì hăng hái phát biểu,
học tập rất tốt)
- Làm quen có vai trò định hướng, GV nên gây 1 ấn tượng ban
đầu tốt đẹp đối với trẻ vì trẻ rất nhạy bén, có thể có thiện cảm hay ác
cảm với GV ngay từ lần gặp đầu tiên. Do đó, ngay từ lần giao tiếp
đầu, GV nên chuẩn bị cho mình 1 phong thái đàng hoàng.
+ Ăn mặc tươm tất, gọn gàng, đẹp đẽ nhưng không diêm dúa càng
tốt. (HS phải tin tưởng cô giáo).
+ Giọng nói: dịu dàng, nhẹ nhàng tránh quát nạt trẻ.
+ Nét mặt vui tươi, thân thiện với thái độ trìu mến ân cần, tránh
không nên trừng mắt hay cau mày...
Như thế sẽ dễ dàng làm cho trẻ tin tưởng và có nhiều thiện cảm
dẫn đến xem thầy cô giáo như thần tượng.
2 là: Kỹ năng phân tích 1 tình huống sư phạm
- Trong giao tiếp hàng ngày của GV, loại trừ những cuộc giao tiếp
không liên quan đến hoạt động giáo dục, còn lại là những cuộc giao
tiếp thuộc các dạng quan hệ: thầy- trò, thầy- thầy, thầy- phụ huynh đều
được coi là tình huống sư phạm.
- Việc phân tích kĩ các tình huống sư phạm đã xảy ra sẽ giúp GV
tự rút kinh nghiệm cho những tình huống tương tự, khi ấy thầy cô giáo
sẽ biết cần chọn cách ứng sử nào cho phù hợp.
- Khi giao tiếp cho 1 tình huống sư phạm, GV cần phải:
+ Xác định được vai trò chủ thể của mình- xác định được đối
tượng là ai.
+ Cần có sự ứng xử kịp thời.

+ Để phân tích 1 tình huống sư phạm cần làm rõ (những tình
huống liên quan đến hoạt động học tập )
+ Những thành viên tham gia: là 1 hay nhiều người, họ có vai trò
gì trong cuộc giao tiếp.
+ Bối cảnh sư phạm – tình huống: là môi trường sư phạm (ở
trường, lớp) hay ở đâu ?
+ Những đặc điểm sư phạm làm nảy sinh tình huống.
+ Mục đích sư phạm được lựa chọn để ứng xử.
11


+ Các biểu hiện cụ thể của ứng xử (chú ý các biểu hiện ngôn ngữ
giao tiếp)
3 là: Kĩ năng giải quyết 1 tình huống sư phạm:
- Người GV có thể vận dụng phương pháp nhập vai để luyện tập
+ Trước hết, cần đọc kĩ toàn bộ các chi tiết của 1 tình huống được
nêu ra.
+ Rồi tự chọn 1 vai (.) tình huống đó và diễn lại tình huống.
+ Tự nhận biết các biểu hiện về nét mặt, cử chỉ lời nói của mình
khi đóng từng vai hoặc qua sự nhận xét, góp ý của các bạn.
+ Quan sát người khác nhập vai.
- Mỗi tình huống xảy ra, dù có 1 số nguyên tắc ứng xử cơ bản,
nhưng thực tế cuộc sống rất đa dạng, phong phú, do đó với đối tượng
HS mới, (.) những tình huống mới đòi hỏi GV phải biết vận dụng sáng
tạo và luôn có ý thức tìm hiểu rút kinh nghiệm. 1 ứng xử sư phạm
được hiểu là sự kết hợp của:
+ Cách giải quyết trong suy nghĩ của nhà giáo dục.
+ Cách thể hiện phù hợp trên nét mặt, điệu bộ, cử chỉ, giọng nói
và lời nói.
+ Cách chọn hành động để giải quyết tình huống đặt ra.

VD: Tình huống: Trong lớp 4 B cô giáo Thảo chủ nhiệm có 1 em
HS vốn học rất giỏi và chăm chỉ, luôn giúp đỡ những bạn học kém
hơn mình, nhưng thời gian gần đây điểm của em đó sút kém lạ thường
và em thường không học bài và hoàn thành bài tập về nhà. Nếu bạn là
cô giáo Thảo, bạn sẽ làm gì, tại sao bạn xử lí như vậy ? (Tìm hiểu
nguyên nhân thăm hỏi gia đình HS đó và cùng phối hợp với gia đình
HS đó động viên, giúp đỡ em...).
Câu 6: Cách sử dụng thiết bị dạy học khi dạy các môn tiếng
việt ở tiểu học hiện nay. Minh họa bằng ví dụ cụ thể:
*) Sử dụng thiết bị dạy học trong phân môn học vần
- GV cần có:
+ Một số thiết bị dạy học gồm tranh, ảnh, mô hình, vật mẫu... để
giới thiệu từ khóa, từ ứng dụng, giảng nội dung.
+ Một bộ bảng con.
+ Một giá treo có đính bảng (.) (bằng mica hoặc bằng plastic) để
đặt các bảng nội dung in sẵn.
+ Một bộ chữ cái và bảng gài.
+ Một số tranh cắt dời cùng với những từ ứng dụng để kiểm tra,
củng cố, luyện tập...
- HS cần có:
12


+ Một bọ chữ rời – một số bộ chữ rời.
+ Một bảng gài
+ Một bảng con.
Trong môn học vần thiết bị dạy học được sử dụng nhằm giúp cho
HS hiểu được nghĩa của từ mẫu, câu mẫu, từ, câu ứng dụng, củng cố,
có biểu tượng đúng về các sự vật, hiện tượng.
- Sử dụng mẫu vật, mô hình: Tăng cường thiết bị dạy học thực

hành theo hướng “vừa học, vừa chơi”.
+ Trò chơi điền ô chữ
+ Bàn cờ tiếng việt.
+ Bộ bài tiếng việt thực hành: có thể chơi kết bạn, điểm binh, tiếp
sức.
+ Trò chơi “đưa thư đúng yêu cầu”
*) Sử dụng thiết bị dạy học trong phân môn Tập đọc, Học
thuộc lòng
Dạy học Tập đọc có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau,
trong đó có phương pháp trực quan. Đó là trực quan nghe (giọng nói,
giọng đọc của giáo viên, băng ghi âm..., trực quan nhìn (quan sát
tranh, ảnh, vật mẫu, mô hình, dáng điệu, động tác của GV...), trực
quan nghe nhìn (phim đèn chiếu, băng ghi hình..)
- Sử dụng tranh ảnh trong giờ Tập đọc, Học thuộc lòng.
+ Sử dụng tranh ảnh minh họa giúp cho việc hiểu và cảm thụ bài
đọc thêm sâu sắc.
+ Giúp cho việc giảng giải từ ngữ trong bài tập đọc đạt hiệu quả.
Tranh ảnh giới thiệu người thực, việc thực làm cho giá trị chân
thực của nội dung được khẳng định, tính thuyết phục, sức truyền cảm
của nội dung được nâng cao.
- Sử dụng mẫu vật, mô hình trong giờ Tập đọc, Học thuộc lòng.
Ví dụ: thảo quả, sầu riêng, đàn tơ rưng...
- Sử dụng bản đồ. VD: Bản đồ địa lý Việt Nam, bản đồ hành
chính VN...
- Sử dụng băng ghi âm. VD: Tiếng gà gáy, giọng ngâm thơ, ca hát
- Có thể sử dụng băng ghi hình, máy chiếu.. để minh họa những
hình ảnh động.
*) Sử dụng thiết bị dạy học trong phân môn Kể chuyện
Tác dụng của thiết bị dạy học
- Thiết bị dạy học góp phần bồi dưỡng óc tưởng tượng cho HS.

- Tranh ảnh minh họa là những điểm tựa quan trọng để HS ghi
nhớ nội dung truyện.
13


- Thiết bị dạy học giúp cho việc thực hành, rèn luyện kĩ năng kể
chuyện một cách có hiệu quả.
- Thiết bị dạy học giúp cho khâu giảng giải từ ngữ thuận lợi, dễ
hiểu, nhất là các từ ngữ chỉ các sự vật, hiện tượng xa lạ với vốn sống,
vốn hiểu biết của HS.
GV nêu chú ý sử dụng tranh ảnh (động hay tĩnh) băng ghi hình,
mặt nạ... để hướng dẫn HS kể. Nếu có điều kiện có thể dùng over
head, video... để hấp dẫn HS hơn.
Tuy nhiên không nhất thiết truyện nào cũng cần có đồ dùng dạy
học minh họa, nếu như đó là những truyện có hình tiết đơn giản gần
gũi với HS.
*) Sử dụng thiết bị dạy học trong phân môn Tập viết
- Mỗi phòng học cần có 1 bảng mẫu chữ cái phóng to treo trên
tường để HS ôn luyện cách viết hàng ngày.
- GV cần có bộ chữ rời, tranh ảnh minh họa hoặc máy over head
chiếu mẫu chữ.
- Khi sử dụng bộ chữ để hướng dẫn tập viết cần lưu ý.
Giới thiệu khung chữ (màu đỏ) để HS xác định đúng tỉ lệ, kích
thước từng nét chữ.
Khi hướng dẫn quy trình viết GV treo chữ mẫu, hướng dẫn HS
quan sát tổng quát. Sau đó GV dùng que tô màu theo từng nét, vừa
giảng dạy kĩ cách rê bút, lia bút. Rồi dùng phấn màu viết lại 1 lần nữa
để khắc sâu.
*) Sử dụng thiết bị dạy học trong phân môn Chính tả
- GV cần có tranh ảnh minh họa nội dung bài chính tả để giới

thiệu vào bài hay để giảng giải về nội dung, bảng phụ chép sẵn bài cho
HS dò lại, bắt lỗi.
- Có thể dùng máy over head chiếu các chữ viết đúng khi hướng
dẫn luyện viết từ khó hoặc viết trên giấy, bảng phụ sẵn rồi gắn lên
bảng chính.
*) Sử dụng thiết bị dạy học trong phân môn Luyện từ & câu
- Sử dụng thiết bị dạy học: mang lại hiệu quả rất cao, giúp HS
hiểu và nhớ lâu ý nghĩa, nội dung những từ ngữ, những mô hình câu
đã học.
- Một số điều cần lưu ý khi sử dụng thiết bị dạy học:
+ Cần cho HS hiểu được nghĩa cơ bản của từ chỉ sự vật, hiện
tượng (.) văn cảnh cụ thể, VD: bộ đội phòng không chuyên làm nhiệm
vụ gì?..
14


+ Cần sử dụng thiết bị dạy học kèm giảng gợi mở, định nghĩa...
phù hợp với đối tượng HS từng vùng miền.
+ Tăng cường các thiết bị dạy học thực hành cho giờ luyện từ và
câu.
+ Tổ chức cho HS đi tham quan, thâm nhập thực tế.
+ Sử dụng tranh, ảnh (.) giảng dạy từ loại, luyện câu.
+ Dùng sơ đồ để lập mô hình phân tích câu.
+ Sử dụng mô hình: nhằm hệ thống hóa kiến thức, dạy ôn luyện.
+ Dùng bảng tóm tắt để sơ kết chương, tổng kết từng vấn đề.
+ Dùng thiết bị dạy học tạo ra 1 số trò chơi để các em học tập 1
cách hứng thú.
*) Sử dụng thiết bị dạy học trong phân môn Tập làm văn
Thiết bị dạy học (.) môn TLV bao gồm nhiều loại hình khác nhau:
vật thật, tranh ảnh, băng ghi hình...Song tùy theo yêu cầu của mỗi kiểu

bài TLV mà chúng được sử dụng theo những mức độ khác nhau. Cũng
có loại không cần có tranh ảnh minh họa mà chỉ dùng lời để giúp HS
phát triển óc tưởng tượng, tư duy hình tượng, tư duy lô gic.
- Sử dụng sơ đồ, mô hình nhằm thể hiện dàn ý, cách bố cục bài
văn.
- Sử dụng vật thật: nên dùng nhiều để giúp HS có thể quan sát
đồng thời = nhiều giác quan khác nhau, tạo cảm xúc sâu sắc để làm
văn hay. VD: tả cái cặp, cây hoa hồng.
- Sử dụng tranh ảnh gợi HS tái hiện những đặc điểm của sự vật đã
quan sát trước giờ học. VD: Giàn mướp, đàn gà mới nở.
Trong giờ học làm văn kể chuyện, bộ tranh (được xếp theo thứ tự
hay không) cũng cần thiết để giúp các em có điểm tựa kể lại cho sinh
động.
Câu 7: Sử dụng đồ dùng dạy học để dạy đọc hiểu và nắm
nghĩa từ cho HS tiểu học như thế nào?

15



×