Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

Chính sách lãi suất của ngân hàng nhà nước việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.38 KB, 53 trang )

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH LÃI
SUẤT CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
1.1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÃI SUẤT
1.1.1 KHÁI NIỆM LÃI SUẤT
Lãi suất được hiểu là tỷ lệ phần trăm so sánh giữa số tiền lãi (lợi tức) thu
được với số vốn cho vay phát ra trong một kỳ nhất định. Nó phản ánh giá cả của
tín dụng, cho biết số tiền mà người đi vay phải trả hàng kỳ để “thuê” một lượng
tín dụng từ người cho vay.
Lãi suất là một loại giá cả đặc biệt vì nó thể hiện giá cả của quyền sử dụng
vốn chứ không như các trường hợp thông thường thường khác, giá cả phải trả
khi mua một hàng hóa là giá cả của quyền sở hữu hàng hóa đó.
1.1.2 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LÃI SUẤT
- Tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế: càng nhiều cơ hội đầu tư sinh lời
cao thì nhu cầu vay vốn tăng đẩy lãi suất thị trường lên cao.
- Lạm phát dự tính: Nếu dự báo lạm phát sẽ tăng, người dân sẽ đầu tư vào các
kênh khác thay về gửi tiền làm cung vốn giảm. Trong khi đó lạm phát tăng làm
lãi suất thực giảm khiến giá cả của khoản vay giảm làm cầu vốn tăng, từ đó đẩy
lãi suất thị trường lên cao
- Mức độ rủi ro: Rủi ro tăng làm việc cho vay trở nên kém hấp dẫn hơn so với
nắm giữ các tài sản khác, cung vốn giảm làm dịch chuyển cung vốn sang trái,
khiến lãi suất thị trường tăng
- Tính lỏng của các công cụ nợ: tính lỏng càng cao thì nhu cầu nắm giữ càng cao
làm cầu về tài sản này càng cao. Do đó khi tăng cầu về các công cụ nợ đồng
nghĩa với việc cung vốn tăng làm lãi suất thị trường giảm.
- Tỷ suất lợi tức của các công cụ nợ: tỷ suất lợi tức của các công cụ nợ phụ thuộc
vào lãi suất và giá của các công cụ nợ trên thị trường. Khi lãi suất thị trường dự
tính giảm làm tăng giá các công cụ nợ, lợi tức dự tính tăng, nhu cầu nắm giữ các
công cụ nợ dài hạn tăng, dẫn đến cung vốn tăng và lãi suất thị trường giảm
1




- Mức thâm hụt ngân sách Nhà nước và chính sách tài khóa của Chính phủ: Khi
Ngân sách thâm hụt, Chính phủ có nhu cầu vay để bù đắp làm dịch đường cầu
vốn ra ngoài đẩy lãi suất lên cao.
- Chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương: Khi NHTƯ tăng cung tiền( nhằm
mục đích giảm lãi suất) nhưng lại tăng quá nhiều có thể đẩy lạm phát lên cao làm
tăng cầu tiền và lãi suất thị trường tăng.
- Các yếu tố kinh tế - xã hội khác: sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại,
tâm lý,…
Trong phạm vi bài viết, người viết chỉ đề cập tới tác động của nhân tố chính
sách tiền tệ của ngân hàng trung ương, mà cụ thể là chính sách lãi suất.
1.1.3 PHÂN LOẠI LÃI SUẤT
Lãi suất có thể được phân loại một cách đa dạng dựa trên các cách tiếp cận khác
nhau. Ở đây, dựa trên nội dung đề tài, người viết tiến hành phân chia lãi suất trên
cơ sở tiêu thức quản lý, cụ thể bao gồm:
1.1.3.1 Lãi suất chỉ đạo do ngân hàng trung ương quy định:
a. Lãi suất cơ bản:
Lãi suất cơ bản được coi là lãi suất xương sống của nền kinh tế, là lãi suất
tham chiếu để dựa trên đó các ngân hàng thương mại ấn định lãi suất kinh doanh
của mình. Trên thực tế, lãi suất cơ bản có nguồn gốc hình thành khác nhau ở các
nước khác nhau, song tại Việt Nam, lãi suất cơ bản do ngân hàng trung ương quy
định nhưng dựa trên sự cân nhắc nhiều yếu tố như: lãi suất liên ngân hàng, lãi
suất nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất huy động đầu vào của tổ chức tín dụng, xu
hướng biến động của cung và cầu vốn. Theo Luật Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
năm 2010, lãi suất này chỉ áp dụng với Đồng Việt Nam và là cơ sở để các tổ
chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh. Theo Luật Dân sự Việt Nam, các tổ
chức tín dụng không được cho vay với lãi suất cao gấp rưỡi lãi suất cơ bản.1
b. Lãi suất tái chiết khấu:
Trước hết, để hiểu về lãi suất tái chiết khấu, chúng ta cần nắm được khái

niệm về lãi suất chiết khấu.
1 Theo giáo trình Tiền tệ - Ngân hàng, trang 248. Nhà xuất bản Thống kê, 2012

2


Lãi suất chiết khấu được áp dụng với các đối tượng là thương phiếu hoặc
các giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán của khách hàng bởi ngân hàng thương
mại. Trước ngày đáo hạn của các tài sản tài chính này, các ngân hàng thương mại
đồng ý chiết khấu lại chúng nhằm đạt được một khoản lợi nhuận chênh lệch do
lãi suất chiết khấu tạo nên.
Sau đó, do thiếu thanh khoản, ngân hàng thương mại lại “nhượng lại”
khoản nợ đó của mình bằng cách thế chấp các giấy tờ có giá trên cho ngân hàng
trung ương trước ngày các giấy tờ đó đáo hạn. Ngân hàng trung ương sẽ chấp
nhận “gánh” khoản nợ đó cho ngân hàng thương mại với mức lãi suất gọi là lãi
suất tái chiết khấu.
Mục đích của hoạt động tái chiết khấu là để cứu cánh cho các ngân hàng
thương mại trong hoàn cảnh thiếu thốn tiền mặt bằng cách cung ứng vốn cho các
ngân hàng đó, vì vậy lãi suất tái chiết khấu thường thấp hơn lãi suất chiết khấu.
Tuy nhiên, trong trường hợp ngân hàng trung ương muốn kiềm chế lạm phát, lãi
suất tái chiết khấu có thể được điều chỉnh bằng hoặc cao hơn lãi suất chiết khấu
để giảm lượng tiền trong lưu thông. Bên cạnh đó, lãi suất tái chiết khấu cũng
đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn hiệu ứng domino do rủi ro hệ thống
gây ra bởi ngân hàng trung ương đóng vai trò là người cho vay, chống đỡ cuối
cùng. Do vậy, lãi suất tái chiết khấu của ngân hàng trung ương có sức ảnh hưởng
lớn tới việc quy định các lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng.
c. Lãi suất tái cấp vốn:
Về bản chất, lãi suất tái cấp vốn cũng giống như lãi suất tái chiết khấu
song sự khác biệt nằm ở đối tượng áp dụng của chúng. Nếu như lãi suất tái chiết
khấu áp dụng với các chứng từ có giá thì lãi suất tái cấp vốn lại có hiệu lực với

các khoản cho vay của ngân hàng thương mại, khi các ngân hàng thương mại
“nhượng” lại chúng cho ngân hàng trung ương. Cũng như lãi suất tái chiết khấu,
lãi suất tái cấp vốn được ngân hàng trung ương áp dụng để khai thông khả năng
thanh toán cho ngân hàng thương mại.
3


d. Lãi suất trần, sàn:
Để bảo vệ quyền lợi của các bên trong các hoạt động cho vay và huy động
tiền gửi, NHNN sẽ gián tiếp quản lý các lãi suất này bằng việc quy định một
khung lãi suất cụ thể cho từng loại. Theo đó, lãi suất cho vay hay lãi suất huy
động sẽ không được lớn hơn mức lãi suất quy định cao nhất là lãi suất trần và
không được thấp hơn mức lãi suất quy định thấp nhất là lãi suất sàn.
Trong hoạt động cho vay, trần lãi suất có tác dụng bảo vệ người đi vay
khỏi nguy cơ phải chịu đựng những mức lãi suất cho vay “cắt cổ”, qua đó đảm
bảo cho khả năng tiếp cận vốn của người đi vay. Bên cạnh đó, bên cho vay được
bảo vệ bằng mức sàn lãi suất để tránh trường hợp lợi nhuận từ việc cho vay còn
thấp hơn chi phí cho vay tiền.
Trong hoạt động huy động, trần lãi suất được đưa ra để khống chế sự cạnh
tranh tiêu cực về lãi suất giữa các bên huy động. Đồng thời, đây cũng là một
biện pháp đảm bảo tính thanh khoản cho người nhận vốn, giúp kiểm soát lãi suất
trong khả năng trả nợ của họ. Sàn lãi suất huy động, ngược lại, được sử dụng để
bảo vệ người cho vay, đảm bảo cho lợi ích của họ khi là người cung cấp vốn.
1.1.3.2 Lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng (ngân hàng thương mại):
a. Lãi suất tiền gửi ngân hàng:
Lãi suất tiền gửi ngân hàng là lãi suất ngân hàng trả cho các khoản tiền gửi
vào ngân hàng. Đây là chi phí chủ yếu của ngân hàng thương mại.
b. Lãi suất tiền vay ngân hàng:
Lãi suất tiền vay ngân hàng là lãi suất mà những người vay tiền của ngân
hàng phải chịu. Đây là nguồn thu nhập chủ yếu của ngân hàng thương mại.

c. Lãi suất liên ngân hàng:

4


Lãi suất liên ngân hàng được áp dụng trong các giao dịch cho vay lẫn nhau
giữa các ngân hàng thương mại. Nó được hình thành trong quan hệ cung – cầu
vốn vay trên thị trường liên ngân hàng và chịu ảnh hưởng từ lãi suất tái chiết
khấu của ngân hàng trung ương. Lãi suất liên ngân hàng được coi là tín hiệu
quan trọng cho biết tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại, để
ngân hàng trung ương dựa vào đó và đưa ra quyết định bơm thêm hay rút bớt
tiền khỏi thị trường.
1.1.4 VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
a) Vai trò của lãi suất ở tầm vĩ mô
_ Sự biến động của lãi suất sẽ tác động lên hành vi tiết kiệm. Đối với các hộ gia
đình, thu nhập được chia thành tiết kiệm và tiêu dùng. Khi lãi suất thị trường
tăng cao sẽ kích thích việc tiết kiệm đồng đồng thời giảm tiêu dùng hiện tại. Lúc
này, lãi suất là chi phí cơ hội của việc tiêu dùng. Nó quyết định việc người tiêu
dùng sẽ mua một hàng hóa nào đó để gia tăng ích lợi của bản thân hay tiết kiệm
khoản chi đó để nhận được một khoản tiền lớn hơn trong tương lai với kỳ vọng
nhận về một mức ích lợi cao hơn. Khi chi phí cận biên lớn hơn ích lợi cận biên,
người tiêu dùng sẽ dừng chi tiêu cho hàng hóa đó. Khi tiết kiệm tăng, lượng cung
vốn cho thị trường cũng tăng. Như vậy lãi suất là một biến số tỷ lệ thuận với tiết
kiệm.
_ Đầu tư cũng là một nhân tố chịu tác động từ sự thay đổi lãi suất. Hai biến số
này vận động với xu hướng ngược chiều nhau. Khi lãi suất thấp, ích lợi của việc
gửi tiết kiệm giảm sẽ khuyến khích người dân tham gia vào các hoạt động có rủi
ro lớn hơn nhưng lợi nhuận cao hơn như mua cổ phiếu, trái phiếu hoặc kinh
doanh,… Những hoạt động đầu tư này góp phần tăng tổng sản phẩm của nền
kinh tế cũng như tạo thêm công ăn việc làm. Như vậy, lãi suất giảm làm tăng đầu

5


tư từ đó kích thích tăng trưởng kinh tế và giảm tỷ lệ thất nghiệp. Ngược lại, khi
lãi suất thực tế tăng lên làm tăng chi phí cơ hội của hoạt động đầu tư. Chi phí
tăng khiến lợi nhuận kỳ vọng giảm xuống dẫn đến nhu cầu đầu tư giảm.
_ Lãi suất là một công cụ quan trọng mà các NHTƯ sử dụng để kiểm soát lạm
phát. Về mặt lý thuyết, lạm phát có thể gây ra nhiều hậu quả tiêu cực cho nền
kinh tế tuy nhiên với những nước đang phát triển lạm phát luôn luôn tồn tại và có
một số tác động tích cực để kích thích sự tăng trưởng cho nên các chính sách sử
dụng lãi suất cũng như các chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lãi suất luôn cần sự
linh hoạt và kịp thời. Theo Fisher, lạm phát và lãi suất có mối quan hệ tỷ lệ với
nhau theo phương trình:
Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực + Tỷ lệ lạm phát
Lãi suất danh nghĩa thường tỷ lệ thuận với tỷ lệ lạm phát. Khi nền kinh tế
rơi vào lạm phát cao, NHTƯ sẽ tăng lãi suất tái chiết khấu đối với các ngân hàng
thương mãi. Khi không thể vay tiền của NHTƯ để kinh doanh thì các ngân hàng
thương mại sẽ phải tăng lãi suất để thu hút vốn nhàn rỗi trong dân chúng dẫn đến
lượng tiền gửi tăng. Lượng tiền gửi tăng làm giảm lượng tiền trong lưu thông và
từ đó giảm lạm phát.
_ Tỷ giá hối đoái cũng là một yếu tố quan trọng chịu ảnh hưởng từ các chính
sách lãi suất. Khi lãi suất của đồng nội tệ cao hơn lãi suất ngoại tệ, cầu nội tệ
tăng trong khi cầu ngoại tệ giảm dẫn đến sự tăng giá của đồng nội tệ. Lấy ví dụ
về mối quan hệ giữa VNĐ và USD. Khi lãi suất của VNĐ tăng cao hơn lãi suất
của USD với giả định các nhân tố khác không đổi, người dân có xu hướng
chuyển sang nắm giữ VNĐ nhiều hơn làm cho cầu VNĐ tăng trong khi cầu USD
giảm dẫn đến VNĐ lên giá và tỷ giá hối đoái giảm.

6



_ Một sự ổn định về lãi suất sẽ góp phần tạo nên sự ổn định của thị trường. Lãi
suất tác động lên nhiều yếu tố của nền kinh tế như tiết kiệm, đầu tư, lạm phát, tỷ
giá hối đoái,… nên khi lãi suất biến động sẽ gây ra những hậu quả khó dự đoán
cho nền kinh tế. Một thị trường ổn định sẽ góp phần tạo niềm tin đối với các tác
nhân trong nền kinh tế trước khi họ đưa ra bất cứ quyết định nào. Khi những rủi
ro tiềm tàng giảm, các hoạt động đầu tư quy mô lớn và dài hạn sẽ tăng lên. Giá
cả ổn định còn góp phần phân bổ các nguồn lực có hiệu quả hơn nhất là ở thị
trường tài chính. Từ đó, lãi suất ổn định tạo thành nền tảng cho sự tăng trưởng
kinh tế trong dài hạn.
b) Vai trò của lãi suất ở tầm vi mô
_Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn nên nó còn tác động đến những chủ
thể có cầu về vốn trên thị trường đặc biệt là các doanh nghiệp. Đối với các doanh
nghiệp, họ sẽ chỉ sẵn sàng vay vốn khi tỷ suất sinh lời từ mỗi đồng vốn vay lớn
hơn lãi suất phải trả. Nói cách khác, vốn vay để mua máy móc thiết bị, nhà
xưởng,… sẽ là chi phí đầu vào trong hoạt động của doanh nghiệp. Chỉ khi doanh
thu của doanh nghiệp lớn hơn mức chi phí phải trả, họ mới có thể tiếp tục hoạt
động. Một mức lãi suất tín dụng thấp sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp mở
rộng hoạt động kinh doanh và tăng lợi nhuận. Ngược lại, khi lãi suất thực tế cao
hơn sẽ tạo sức ép lên các doanh nghiệp khiến họ sử dụng đồng vốn có hiệu quả
hơn từ đó tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp. Tuy nhiên lãi suất cao trong
thời gian dài sẽ khiến nhiều doanh nghiệp kinh doanh không thật sự hiệu quả
phải đóng cửa sản xuất và điều đó gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực hơn cho nền
kinh tế.
Một loại doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh bằng tiền tệ là các ngân hàng
thương mại sẽ chịu tác động nhiều nhất từ các chính sách lãi suất cũng như tác
động lên hoạt động của thị trường tài chính. Ngân hàng thương mại huy động
7



tiền nhàn rỗi trên thị trường bằng một mức lãi suất tiền gửi và sau đó lại cho vay
đi lượng tiền huy động được bằng mức lãi suất tín dụng. Lãi suất tín dụng sẽ
luôn cao hơn lãi suất tiền gửi và khoản chênh lệch giữa chúng là lợi nhuận của
ngân hàng. Chính vì kinh doanh bằng công cụ lãi suất nên lãi suất trên thị trường
có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại và các mức
lãi suất mà ngân hàng thương mại công bố sẽ tác động ngược trở lại lãi suất của
nền kinh tế. Các ngân hàng thương mại khi cạnh tranh trong kinh doanh sẽ có hai
hướng đó là cạnh tranh bằng lãi suất hoặc cạnh tranh bằng dịch vụ. Khi ngân
hàng thương mại cạnh tranh bằng lãi suất sẽ đẩy lãi suất lên rất cao và tiềm ẩn
nhiều rủi ro. Vì thế xu hướng của nhiều nền kinh tế phát triển trên thế giới là các
ngân hàng thương mại sẽ cạnh tranh bằng dịch vụ. Khi lãi suất phản ánh đúng
cung cầu trên thị trường chứ không phải phản ánh tâm lý của các ngân hàng
thương mại thì sẽ thúc đẩy sự hoạt động ổn định của các ngân hàng thương mại.
1.2 CÔNG CỤ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA NHNN VIỆT
NAM
Lãi suất vừa là một mục tiêu trung hạn vừa là một công cụ trong chính sách
tiền tệ của NHTƯ để đạt được các mục tiêu trung và dài hạn. Vì thế các công cụ
để thực hiện chính sách lãi suất chính là các công cụ của chính sách tiền tệ.
1.2.1 NHÓM CÔNG CỤ GIÁN TIẾP
a) Nghiệp vụ thị trường mở (OMO)
OMO là nghiệp vụ trong đó NHTƯ mua-bán chứng khoán trên thị trường mở để
thay đổi dự trữ của NHTM, từ đó tác động đến cơ số tiền và lãi suất thị trường.
_Cơ chế tác động: NHTƯ thực hiện mua chứng khoán trên thị trưởng mở làm
tăng dự trữ không vay ở các ngân hàng thương mại, do đó cung dự trữ tăng, mức
lãi suất liên ngân hàng giảm. Khi dự trữ ở các ngân hàng thương mại tăng, lượng
8


tiền cơ sở cũng tăng làm cung tiền tăng. Hiệu ứng trên sẽ ngược lại khi NHTƯ
bán chứng khoán trên thị trường mở.

_ Ưu, nhược điểm của công cụ này:
Khả năng tác động nhanh, linh hoạt và chính xác vì nó không chịu tác động của
nhân tố nào khác. Điều này giúp NHTƯ can thiệp kịp thời đến cung tiền và lãi
suất ngắn hạn vì thế nó là một công cụ hữu hiệu nhất của chính sách tiền tệ.
Công cụ này đòi hỏi thị trường tài chính cần sự phát triển tương đối. NHTƯ cần
có khả năng dự đoán và kiểm soát sự biến động của lượng vốn khả dụng trong hệ
thống ngân hàng.
b) Chính sách tái chiết khấu
Là chính sách trong đó NHTƯ cho các ngân hàng thương mại vay dưới hình
thức chiết khấu các chứng từ có giá ngắn hạn.
_ Cơ chế tác động:
Khi NHTƯ tăng lãi suất chiết khấu, chi phí đi vay của ngân hàng thương mại
tăng lên nên để đảm bảo lợi nhuận, ngân hàng thương mại sẽ tăng lãi suất tín
dụng.
Mặt khác, NHTƯ có thể thay đổi khối lượng cho vay thông qua hạn mức chiết
khấu với ngân hàng thương mại. Khi khối lượng cho vay giảm, khả năng tạo tiền
của ngân hàng thương mại sẽ giảm và từ đó giảm lượng cung tiền, lãi suất thị
trường tăng.
_ Ưu, nhược điểm của công cụ này:
Do các khoản vay chiết khấu được đảm bảo bằng các giấy tờ có giá nên khả năng
thu hồi nợ của NHTƯ cao.
9


Công cụ này chỉ phát huy tác dụng khi lãi suất tái chiết khấu nhỏ hơn lãi suất liên
ngân hàng. Tác động của chính sách này lớn hay nhỏ còn tùy thuộc vào sự phụ
thuộc của ngân hàng thương mại với NHTƯ bởi khi thị trường tài chính phát
triển, ngân hàng thương mại có thể tìm kiếm các nguồn vay khác. Ngoài ra sử
dụng công cụ không hợp lý sẽ khó khăn để sửa chữa và đảo ngược tình hình.
Chính sách tái chiết khấu có độ trễ nhất định vì nó sẽ tác động đến lãi suất và

cung tiền thông qua hành vi của các ngân hàng thương mại.
c) Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các ngân hàng thương mại phải duy trì trong một
tài khoản đặt tại NHTƯ. Mức dự trữ này do NHTƯ quy định và được xác định
bằng một tỷ lệ nhất định trên tổng số dư tiền gửi của ngân hàng thương mại.
_Cơ chế tác động:
Khi NHTƯ tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lượng dự trữ bắt buộc tăng làm cầu dự trữ
dịch phải, lãi suất liên ngân hàng tăng làm tăng lãi suất trên thị trường.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng làm giảm số nhân tiền, từ đó cung tiền giảm.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng làm giảm dự trữ vượt mức của ngân hàng thương mại,
làm giảm quy mô cho vay của hệ thống ngân hàng, làm giảm quy mô tiền gửi và
cung tiền giảm.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng làm giảm khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại
nên để duy trì lợi nhuận ngân hàng thương mại sẽ tăng lãi suất tín dụng.
_Ưu, nhược điểm của công cụ:
Đây là một công cụ rất nhạy cảm với lượng cung tiền vì thế sẽ có tác động tương
đối nhanh đến cung tiền trong nền kinh tế
10


Nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng cao làm tỷ lệ dự trữ vượt mức của ngân hàng
thương mại xuống rất thấp sẽ gây khó khăn cho khả năng thanh khoản của các
ngân hàng thương mại.
Nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc không ổn định gây bất ổn cho hoạt động của ngân hàng
thương mại.
1.2.2 NHÓM CÔNG CỤ TRỰC TIẾP
a) Hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà mỗi tổ chức tín dụng được phép duy
trì theo quy định của NHTƯ qua từng thời kỳ
_ Cơ chế tác động: Tác động trực tiếp vào khối lượng tín dụng cung cấp cho nền

kinh tế trong một thời gian nhất định. Từ đó ảnh hưởng đến một số nhân tố khác.
_ Điều kiện áp dụng:
Khi các công cụ gián tiếp không phát huy tác dụng.
Khi thị trường tiền tệ chưa thật sự phát triển và cầu tiền không nhạy cảm với lãi
suất.
Khi NHTƯ không kiểm soát được lượng vốn khả dụng của NHTM.
Khi nền kinh tế có lạm phát cao.
b) Ấn định lãi suất, khung lãi suất
Ấn định lãi suất là việc NHTƯ quy định lãi suất hoặc khung lãi suất tiền gửi,
hoặc cho vay và buộc các NHTM kinh doanh phải thi hành.
_Cơ chế tác động:
Nếu lãi suất quy định cao sẽ thu hút được tiền gửi làm tăng nguồn vốn cho vay.
11


Nếu lãi suất quy định thấp sẽ làm giảm tiền gửi, giảm khả năng mở rộng kinh
doanh tín dụng.
_ Hoàn cảnh áp dụng chính sách kiểm soát lãi suất:
Khi thị trường tài chính còn kém phát triển, các công cụ gián tiếp của chính sách
tiền tệ chưa phát huy được hiệu quả như mong muốn.
Năng lực quản lý, điều tiết kinh tế vĩ mô của NHTƯ còn yếu kém, thiếu linh
hoạt. Chính sách kiểm soát lãi suất trực tiếp lại dễ thực hiện.
Nguồn vốn tín dụng từ NHTƯ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng lượng vốn của nền
kinh tế.
Nền kinh tế đang trong thời kỳ tăng trưởng còn nhiều biến động, áp đặt chính
sách kiểm soát lãi suất để ngăn chặn những thay đổi đột ngột gây cú sốc cho thị
trường.
_ Hậu quả của chính sách kiểm soát lãi suất:
c) Ấn định tỷ giá hối đoái và biên độ giao động tỷ giá hối đoái
Ấn định tỷ giá hối đoái là việc NHTƯ quy định mức tỷ giá tối đa và tối thiểu mà

các ngân hàng được phép áp dụng khi kinh doanh ngoại hối.
_ Cơ chế tác động: Công cụ này tác động trực tiếp đến tỷ giá trên thị trường
thông qua mệnh lệnh hành chính dẫn tới những biến động không mong muốn về
tỷ giá hối đoái cũng như phản ứng của thị trường.
_ Hạn chế:
Công cụ này mang tính cứng nhắc vì thế chỉ được sử dụng trong trường hợp
khẩn cấp và thời gian thực hiện ngắn.

12


Việc ấn định tỷ giá hối đoái trong điều kiện tự do hóa nguồn vốn sẽ làm vô hiệu
hóa chính sách tiền tệ.

13


CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ TÁC ĐỘNG CỦA
NÓ TỚI NỀN KINH TẾ GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2000 ĐẾN NỬA ĐẦU
NĂM 2016
2.1 KHÁI QUÁT CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TRƯỚC NĂM 2000
Trước năm 2000, thị trường tài chính nói chung và chính sách lãi suất nói riêng
của Việt Nam nằm trong tầm kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước mặc dù đã bước
vào thời kỳ mở cửa. Cụ thể:
- Trước năm 1988: Việt Nam vẫn chưa hình thành chính sách lãi suất thực sự. Lãi
suất được ấn định thoát ly diễn biến lãi suất thế giới và các yếu tố thị trường,
không có mục đích cụ thể.
- Giai đoạn 03/1989 – 05/1992: Chính sách lãi suất “thực âm” được thi hành để
đối phó với lạm phát và hỗ trợ sản xuất kinh doanh từ 1989 – 1990. Trong 2 năm

sau, chính sách lãi suất có hơi hướng dịch chuyển sang lãi suất “thực dương”.
- Giai đoạn 06/1992 – 1995: Sự phân cấp hệ thống ngân hàng đã cho phép các
ngân hàng thực hiện kinh doanh, đòi hỏi khối lượng tín dụng lớn. Chính sách lãi
suất “thực dương” được tiến hành để đưa hoạt động ngân hàng vào ổn định.
Ngân hàng Nhà nước tiến hành áp đặt khung lãi suất với sàn lãi suất tiền gửi và
trần lãi suất cho vay.
- Giai đoạn 01/1996 – 08/2000: Sự kiểm soát lãi suất vẫn được duy trì nhưng có
nới lỏng hơn giai đoạn trước với mức sàn lãi suất tiền gửi được bãi bỏ, chỉ còn
áp dụng mức trần lãi suất cho vay.

14


Như vậy, có thể thấy, mặc dù là thời kỳ kiểm soát nhưng Việt Nam vẫn có xu
hướng ngày càng tiến tới việc tự do hóa lãi suất. Sở dĩ, việc tự do hóa lãi suất
không thể tiến hành ngay là bởi những lý do sau:
- Lý do khách quan: Tại thời điểm những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ
trước, Việt Nam liên tục đối mặt với tình trạng lạm phát cao ở mức hai, ba con
số. Chính vì vậy, nếu tiến hành thả nổi lãi suất ngay tại thời điểm đó, các ngân
hàng sẽ lập tức tiến hành cạnh tranh lãi suất và đẩy mức lãi suất tăng mạnh, gây
sốc cung cho các doanh nghiệp và ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự ổn định của
nền kinh tế. Bên cạnh đó, thời gian này cũng là giai đoạn chuyển giao của nền
kinh tế, chuyển mình từ cơ chế quản lý Nhà nước sang cơ chế thị trường. Do vậy,
khả năng chịu đựng các cú sốc do lãi suất là chưa có.
- Lý do chủ quan: Do sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, NHNN buộc phải làm
quen với việc điều hành các yếu tố trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc thị trường.
Tuy nhiên điều này là không dễ dàng bởi NHNN chưa hề có kinh nghiệm trong
vấn đề này. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, mọi mệnh lệnh của Nhà nước
là tối cao, vấn đề thị trường bị coi nhẹ. Do đó, cần phải có thời gian để NHNN
thích nghi với nhiệm vụ mới.

Tuy nhiên, hậu quả do lãi suất bị kiểm soát gây ra cũng tương đối lớn. Nguy
hiểm nhất là việc lãi suất thoát ly thị trường làm vốn không được phân bổ hiệu
quả như trong giai đoạn lãi suất “thực âm”. Do lãi suất huy động quá cao để đối
phó với lạm phát dẫn tới lãi suất cho vay cao, hoạt động đầu tư sản xuất bị đình
trệ, làm nền kinh tế không thể tiến triển. Đây cũng là một trong những điều kiện
tốt cho thị trường ngầm sinh sôi, khiến nhiều doanh nghiệp chịu cảnh điêu đứng
với mức lãi suất “cắt cổ”. Ngược lại, khi lãi suất được ấn định quá thấp so với
mức cân bằng sẽ không khuyến khích được hành vi tiết kiệm, dân chúng chuyển
sang đầu tư vào những kênh khác như nắm giữ vàng hay các tài sản có giá khác.
15


Nền kinh tế hoạt động kém năng động, ngân hàng thương mại không huy động
được vốn nên hoạt động thua lỗ khiến NHTƯ phải bù đắp bằng cách in thêm tiền
từ đó đẩy lạm phát lên cao. Như vậy lại tạo thành một vòng luẩn quẩn, kiểm soát
lãi suất để kiềm chế lạm phát nhưng cuối cùng lại khiến lạm phát tăng cao.
Như vậy, chính sách lãi suất bị kiểm soát trong thời gian dài sẽ gây nhiều hậu
quả tiêu cực, ngăn cản sự phát triển lành mạnh, minh bạch của nền kinh tế và
tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng cao. Đó là cơ sở để Việt Nam đẩy mạnh hơn tiến
trình tự do hóa lãi suất giai đoạn sau năm 2000.
2.2 CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CƠ BẢN GIAI ĐOẠN 08/2000 – 05/2002:
a) Khái niệm:
Chính sách lãi suất cơ bản ở đây được hiểu là việc NHNN xóa bỏ mọi
ràng buộc trần sàn với các loại lãi suất, tiến hành khống chế lãi suất ở một mức
lãi suất cơ bản nhất định. Lãi suất cơ bản được coi là lãi suất tham chiếu cho các
ngân hàng thương mại xác định lãi suất kinh doanh của mình.
b) Quá trình thực hiện và tác động:
- Trước năm 2000, NHNN thực hiện chính sách trần lãi suất. Tuy nhiên, năm
1999, khi NHNN giảm mức trần lãi suất xuống để phù hợp với lạm phát, các
ngân hàng thương mại không kịp điều chỉnh dẫn đến lãi suất cho vay ngắn hạn

vượt trần lãi suất. Trước sự bất cập này, tháng 08/2000, NHNN thay thế trần lãi
suất bằng một cơ chế mới theo lãi suất cơ bản áp dụng cho nội tệ.
Bên cạnh đó, cũng có ý kiến phê bình rằng các lãi suất tái cấp vốn, tái
chiết khấu của NHNN thực chất là lãi suất chỉ định, chỉ mang tính hình thức. Lãi
suất thị trường cũng chịu ràng buộc của các quy định trần – sàn nên cũng không
phản ánh đúng diễn biến thị trường. Chính vì vậy, việc tồn tại một lãi suất để

16


định hướng cho hoạt động của nền kinh tế là hết sức cần thiết. Đây có thể coi là
một lí do dẫn tới sự ra đời của chính sách này.
- Từ năm 1997, khái niệm lãi suất cơ bản đã xuất hiện trong luật NHNN với định
nghĩa là “lãi suất do NHNN công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định
lãi suất kinh doanh”. Tuy nhiên phải đến tháng 08/2000, nó mới chính thức đi
vào thực tiễn. Mức trần lãi suất cho vay được áp dụng từ giai đoạn trước bị dỡ
bỏ. Cơ chế lãi suất cơ bản được thiết lập.
- Ngày 2/8/2000, thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành quyết
định số 241/2000/QĐ-NHNN1 về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay
của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Theo đó, lãi suất cho vay không
phải chịu ràng buộc về trần sàn nhưng phải xoay quanh mức lãi suất cơ bản trong
vòng “bán kính” biên độ được quy định theo thời kỳ. Lãi suất cơ bản được xác
định trên cơ sở lãi suất cho vay thương mại với khách hàng tốt nhất của các tổ
chức do thống đốc NHNN lựa chọn.
- Cùng ngày, tại quyết định số 242/2000/QĐ-NHNN, mức lãi suất cơ bản được
công bố là 0,75%/tháng với các giao dịch cho vay bằng Việt Nam đồng. Biên độ
được xác định trên cơ sở thời gian của khoản vay, cụ thể là 0,3%/tháng với cho
vay ngắn hạn; 0,5%/tháng với cho vay trung và dài hạn. Mức biên độ này đã tạo
điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại thỏa thuận lãi suất với khách
hàng và thiết lập mức lãi suất riêng phù hợp với hoạt động của mình.

- Chỉ trong khoảng 2 năm, lãi suất cơ bản liên tục giảm để mở rộng tín dụng và
kích thích tăng trưởng do tình trạng thiểu phát vẫn chưa chấm dứt với lạm phát
trung bình thời kỳ các năm 2000 – 2002 lần lượt là -1,6%, -0,4% và 4,0%. Các
lần điều chỉnh lãi suất cơ bản cụ thể như sau:
STT

Quyết định số

Ngày

ban Ngày áp dụng Mức lãi suất
17


hành
(%/năm)
1
242/2000/QĐ-NHNN
02/08/2000
05/08/2000
9
2
154/2001/QĐ-NHNN
27/02/2001
01/03/2001
8,7
3
237/2001/QĐ-NHNN
28/03/2001
01/04/2001

8,4
4
557/2001/QĐ-NHNN
26/04/2001
01/05/2001
7,8
5
1247/2001/QĐ-NHNN 28/09/2001
01/10/2001
7,2
6
792/2002/QĐ-NHNN
26/07/2002
01/08/2002
7,44
Bảng 1. Các lần thay đổi lãi suất cơ bản giai đoạn 2000 – 2002
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước.
Chính sách lãi suất cơ bản là một bước tiến sâu hơn của Việt Nam trên con
đường tự do hóa lãi suất. Do được xác định trên cơ sở thị trường, chính sách này
đã khắc phục được những áp chế chủ quan của NHNN đối với lãi suất trong các
chính sách trước đây, mang đến cho các tổ chức tín dụng nhiều cơ hội linh hoạt
hơn. Bên cạnh đó, việc thực hiện chính sách lãi suất cơ bản có thể nói là một
bước đệm hợp lý để một nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi từ cơ chế
quản lý tập trung sang cơ chế thị trường như kinh tế Việt Nam thích nghi dần với
tình trạng tự do hóa lãi suất, tránh được những cú sốc cung bất lợi.
2.3 CHÍNH SÁCH TỰ DO HÓA LÃI SUẤT HOÀN TOÀN GIAI ĐOẠN
06/2002 – 11/2006:
a) Khái niệm:
Tự do hóa lãi suất là một trong những công cụ nội địa để tiến tới tự do hóa
tài chính. Đây là quá trình giảm thiểu và đi đến dỡ bỏ sự can thiệp của Nhà nước

vào hoạt động tài chính để các hoạt động này được tự do vận động theo cung cầu
thị trường.
b) Quá trình thực hiện và tác động:
* Từ 2001, lãi suất với ngoại tệ đã được giải phóng. Sau đó, theo quyết định số
546/2002/QĐ-NHNN ban hành ngày 30/05/2002, có hiệu lực từ 01/06/2002, cơ
18


chế lãi suất thỏa thuận chính thức được áp dụng với các hoạt động tín dụng bằng
nội tệ. Theo điều 1 của quyết định, “Tổ chức tín dụng xác định lãi suất cho vay
bằng Đồng Việt Nam trên cơ sở cung cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm đối
với khách hàng vay là các pháp nhân và cá nhân Việt Nam, pháp nhân và cá nhân
nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.”
Ngày 07/10/2002, theo quyết định số 1085/2002/QĐ- NHNN, lãi suất cho vay
qua đêm bắt đầu được áp dụng trong thanh toán điện tử liên ngân hàng. Đây là
lãi suất được áp dụng trong các hoạt động cho vay giữa các ngân hàng vào cuối
ngày để đảm bảo mức dự trữ bắt buộc, chỉ kéo dài trong 24h.
Như vậy, chế độ lãi suất cơ bản và biên độ bị dỡ bỏ, chỉ còn mang tính chất tham
khảo. Yếu tố dẫn dắt và định hướng cho các hoạt động kinh doanh lúc này là yếu
tố thị trường. Các ngân hàng thương mại chủ động xác định lãi suất kinh doanh
dựa trên hoàn cảnh cung – cầu vốn trên thị trường.
* Trong bối cảnh tự do hóa lãi suất, vai trò của lãi suất cơ bản đã trở nên mờ
nhạt. Chính vì vậy, các kênh như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu và
nghiệp vụ thị trường mở có tác động mạnh đối với lãi suất của nền kinh tế cũng
như sự hoạt động của hệ thống ngân hàng.
- Về hoạt động thị trường mở:
Những năm 2005 – 2006 đánh dấu thời gian hoạt động rất sôi nổi và hiệu
quả của nghiệp vụ thị trường mở. Số lượng phiên đấu thầu năm 2006 tăng gấp
đôi 2005 (97 phiên so với 48 phiên) với khối lượng giao dịch gần 150.000 tỷ
đồng. Lãi suất trên thị trường mở diễn biến nhịp nhàng với lãi suất thị trường.

Trong năm 2006, lãi suất trúng thầu khi mua vào là khoảng 4,9%/năm (tăng gần
1% so với 2001) và khi bán ra là 4,7%/năm (giảm 0,54% so với 2005) đã tạo
điều kiện cho các ngân hàng giảm lãi suất.
19


Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn tồn tại nhiều bất cập trong hoạt động này. Sự thiếu
linh hoạt trong chỉ đạo lãi suất và khối lượng tại các phiên đấu thầu hay lãi suất
cho vay cầm cố kém năng động so với lãi suất mua các giấy tờ có giá kỳ hạn trên
30 ngày là những lí do khiến nhiều tổ chức tín dụng không mặn mà với kênh này.
- Về lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu:
Về mặt bằng chung, lãi suất tái chiết khấu và tái cấp vốn ở đầu giai đoạn
được điều chỉnh tương đối ổn định để tránh biến động cho thị trường. Từ 2003
đến 2005, lãi suất tái chiết khấu tăng nhẹ 0,5% mỗi lần, từ 3% đến 4,5%/năm.
Lãi suất tái cấp vốn sau khi tăng mạnh từ 4,8% lên 6,6%/năm vào năm 2003 đã
dao động ổn định từ 5% - 6,5%/năm đến 2005. Tới năm 2006, lãi suất tái cấp
vốn và tái chiết khấu lần lượt là 6,5%/năm và 4,5%/năm.
* Hệ quả tự do hóa lãi suất:
Hệ quả tất yếu của chính sách tự do hóa lãi suất là việc các ngân hàng
thương mại tiến hành chạy đua lãi suất huy động để hút vốn về ngân hàng mình.
Một xu hướng tăng lãi suất đầu vào mang tính hệ thống đã bùng nổ trong giai
đoạn này khi các ngân hàng liên tục đưa ra các chiến lược lãi suất hấp dẫn: Năm
2003, Ngân hàng Công thương phát hành đợt kỳ phiếu đầu tiên, Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển nối tiếp phát hành chứng chỉ tiền gửi bằng nội tệ với lãi suất trả
trước quy theo trả sau là 8,4% - 9%/năm, thu về 3000 tỷ đồng trong chưa đầy
một tháng. Ngân hàng Ngoại Thương nhập cuộc bằng “Đợt kỳ phiếu đặc biệt”
với lãi suất bậc thang lên tới 8,61%/năm cho mức tiền gửi kỳ hạn một năm.
Nhiều ngân hàng mới gia nhập hệ thống cũng buộc phải “dấn thân” vào trào lưu
này, nếu không không thể tổn tại.
Chính sách tự do hóa lãi suất rõ ràng đã hợp pháp hóa cho “cuộc đua” này,

song những hậu quả để lại là không nhỏ. Lãi suất huy động liên tục tăng cao
20


nhưng mặt khác, lãi suất cho vay lại không thể vô tư điều chỉnh như vậy để tránh
sốc cung cho doanh nghiệp. Cho đến khoảng tháng 12/2007, lãi suất huy động
phổ biến mức 8,5%/năm, trong khi lãi suất cho vay chỉ nhỉnh hơn ở mức
9%/năm, lợi nhuận từ việc cho vay là rất thấp.
Trong dài hạn, các ngân hàng cũng buộc phải tăng lãi suất cho vay, dẫn tới
sự gia tăng giá thành sản phẩm của các doanh nghiệp để tương xứng với chi phí
vốn. Điều này khiến việc kinh doanh gặp nhiều bất lợi và dễ đi vào khủng hoảng,
dẫn tới một thực tế mà không ngân hàng nào mong muốn – sự gia tăng của tình
trạng nợ quá hạn. Từ năm 2001 đến 2003, tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ của
hệ thống đều ở mức cao trên 8% (lần lượt là 8,7% - 8,15% - 8,02%). Tổng số nợ
quá hạn năm 2004 là trên 13000 tỷ đồng, năm 2005 tăng lên thành 17500 tỷ đồng
và đến 2006 được ước tính là trên 20000 tỷ đồng.
Chính sách tự do hóa lãi suất đã đưa nền kinh tế Việt Nam tiệm cận hơn
với cơ chế thị trường, đảm bảo sự vận hành khách quan, tôn trọng quy luật cung
cầu. Nó cũng góp phần làm sôi động trở lại các hoạt động cho vay và huy động
vốn của các ngân hàng thương mại sau thời gian dài chịu sự kiểm soát. Tuy
nhiên, chính sách này chỉ được duy trì trong khoảng 3 năm do gây ra nhiều hậu
quả như đã phân tích. Nguyên nhân thất bại được cho là bởi Việt Nam không đáp
ứng được cả hai yêu cầu của một nền tài chính tự do, đó là lãi suất phản ánh
cung cầu thực tế (thực chất các ngân hàng thương mại điều chỉnh theo tâm lý tạo
lợi nhuận cho mình) và kiểm soát lãi suất phù hợp với sức chịu đựng của nền
kinh tế (thực tế các doanh nghiệp quá yếu, không chịu được cú sốc lãi suất).
Chính vì vậy, NHNN buộc phải xem xét lại việc thực hiện chính sách tự do hóa
lãi suất của mình và thực tế chỉ tiến hành chính sách này trong khoảng hơn 3
năm. Sau đó, chính sách lãi suất về cơ bản lại trở lại trong tầm kiểm soát của
NHNN và được điều chỉnh hết sức thận trọng.

21


2.4 CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT LINH HOẠT GIAI ĐOẠN 2007 – NAY:
2.4.1 CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ THẮT CHẶT GIAI ĐOẠN CUỐI 2007 –
09/2008:
a) Khái niệm:
Chính sách tiền tệ thắt chặt là một trong hai hướng triển khai của chính sách tiền
tệ nhằm làm giảm lượng cung tiền trong lưu thông. Mục tiêu sâu xa của chính
sách này là để đối phó với tình trạng lạm phát cao khi cung tiền lớn hơn cầu tiền.
b) Quá trình thực hiện và tác động:
- Ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới WTO. Sau bước ngoặt lịch sử này, Việt Nam trở thành địa
điểm hút vốn đầu tư lý tưởng với lượng vốn đầu tư nước ngoài tăng ngoạn mục
(tăng 20 tỷ USD cùng năm). Mặt trái của bước tiến này là sự thặng dư lớn của
cán cân thanh toán (trên 10 tỷ), cung tiền vượt quá cầu tiền của thị trường dẫn
đến tình trạng lạm phát cao (lạm phát từ năm 2007 đến tháng 06/2008 dao động
từ khoảng 15% - 20%) và tăng trưởng nóng. Do vậy chính sách tiền tệ thắt chặt
được triển khai.
- Ngày 01/06/2007, NHNN bơm 130 ngàn tỷ đồng vào lưu thông để mua 8,1 tỷ
USD, điều này càng làm trầm trọng hơn tình trạng lạm phát.
- Tháng 02/2008, theo quyết định số 187/QĐ-NHNN, mức dự trữ bắt buộc được
nâng lên thành 11% với cả nội tệ và ngoại tệ (đôla Mỹ), áp dụng với mọi loại kỳ
hạn.
- Ngày 17/03/2008, theo quyết định 346/QĐ-NHNN, tín phiếu bắt buộc của Nhà
nước được phát hành với tổng giá trị trên 2000 tỷ đồng, lãi suất 7,8%/năm nhằm
rút một khối lượng lớn tiền mặt khỏi lưu thông.
22



- Trong một thời gian dài từ 01/12/2005 đến 01/01/2008, lãi suất cơ bản được
duy trì tại mức 8,25%/năm. Kể từ tháng 02/2008, để giảm lượng tiền tệ lưu
thông, lãi suất cơ bản được điều chỉnh tăng dần từ 8,75%, lên 12% và đỉnh điểm
là 14% từ tháng 6 đến tháng 10/2008. Kết quả là vào năm 2009, lạm phát đã
được kiềm chế xuống mức một con số.
- Dưới ảnh hưởng của chính sách tiền tệ thắt chặt, các ngân hàng thương mại
điều chỉnh lãi suất huy động tăng dần để đảm bảo khả năng thanh toán. Một cuộc
chạy đua lãi suất ráo riết đã nhen nhóm từ 2007 và dâng lên cao trào vào đầu
2008 giữa các ngân hàng, gây nên hiện tượng “lãi suất căng như dây đàn”. Lãi
suất huy động liên tục được đẩy vượt mức 10%, cao nhất là 19,2%. Lãi suất liên
ngân hàng cũng vượt ngưỡng 20%, có lúc lên đến 27%/năm. Cuộc đua bớt cam
go và có dấu hiệu chùng xuống sau cuộc họp của Hiệp hội ngân hàng và sự vào
cuộc của NHNN.
Thời

điểm

áp Lãi suất cơ bản

Lãi suất tái cấp Lãi suất tái chiết

dụng
vốn
khấu
01/12/2005
8,25
6,50
4,50
01/02/2008
8,75

7,50
6,00
19/05/2008
12,00
13,00
11,00
11/06/2008
14,00
15,00
13,00
Bảng 2. Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về các
loại lãi suất giai đoạn cuối 2007 – 2008
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
2.4.2 CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ NỚI LỎNG GIAI ĐOẠN 09/2008 – 02/2009:
a) Khái niệm:
Chính sách tiền tệ nới lỏng hay mở rộng là một hướng đi khác của chính
sách tiền tệ. Ngược với tiền tệ thắt chặt, chính sách nới lỏng tiền tệ chủ trương
tăng lượng cung tiền trong nền kinh tế thông qua việc ngân hàng trung ương mua
23


lại các tài sản tài chính của các ngân hàng thương mại, thực chất là để bơm tiền
cho các ngân hàng này. Mục tiêu sâu xa của chính sách tiền tệ mở rộng là tăng
cung vốn cho cho thị trường, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh, giải
quyết thất nghiệp và đưa kinh tế phát triển.
b) Quá trình thực hiện và tác động:
- Năm 2008, cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ (vốn là khủng hoảng tín dụng và
bất động sản gây nên bởi tình trạng cho vay dưới chuẩn của các ngân hàng
thương mại Mỹ) đã lan ra thành cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Chịu ảnh
hưởng không nhỏ từ điều này, hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam

chứng kiến sự suy giảm mạnh của lợi nhuận và sự gia tăng của nợ xấu. Kinh tế
đất nước đứng trước nguy cơ suy yếu. Trước tình hình đó, chính sách tiền tệ nới
lỏng được triển khai để gia tăng cung tiền cho nền kinh tế.
- Từ tháng 12/2008, các loại lãi suất đã đồng loạt được cắt giảm:
+ Mức trần lãi suất cho vay bằng nội tệ của các tổ chức với khách hàng còn
12,75%/năm (trức là 15%/năm).
+ Lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu còn 9,5%/năm (trước là 11%/năm) và
7,5%/năm (trước là 9,0%/năm).
+ Lãi suất của tín phiếu bắt buộc giảm sâu từ 13%/năm xuống 4,5%/năm.
+ Tỷ lệ dự trữ bắt buộc với các khoản tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 12
tháng là từ 2% - 5% trên tổng số dư tiền gửi; với các khoản trên 12 tháng là từ
1% - 2% trên tổng số dư tiền gửi (tùy từng ngân hàng).
Thời

điểm

dụng
21/10/2008
05/11/2008

áp Lãi suất cơ bản
14,00
12,00

Lãi suất tái cấp Lãi suất tái chiết
vốn
15,00
13,00
24


khấu
13,00
11,00


21/11/2008
11,00
12,00
10,00
05/12/2008
10,00
11,00
9,00
22/12/2008
8,50
9,50
7,50
01/02/2009
7,00
8,00
6,00
Bảng 3. Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về các
loại lãi suất giai đoạn 2008 – 2009
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước.
- Ngày 04/04/2009, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định 443/QĐ-TTg về việc hỗ
trợ lãi suất cho các khoản vay trung và dài hạn với mục tiêu sản xuất kinh doanh
ở mức hỗ trợ là 4%/năm. Đây là một trong những hoạt động của việc thực hiện
hai gói kích cầu hàng ngàn tỷ vào đầu năm 2009. Hiệu quả là niềm tin của công
chúng vào năng lực quản lý của Nhà nước được củng cố. Chi phí vốn của các
doanh nghiệp giảm, các hoạt động đầu tư và kinh doanh được kích thích phát

triển. Mức tăng trưởng GDP 4% trong 8 tháng đầu năm 2009, mặc cho các yếu tố
về đầu tư nước ngoài, xuất khẩu đều giảm mạnh là 70% và 14,2%. Tốc độ tăng
trưởng GDP cuối năm chạm ngưỡng 5,32%, cao hơn mức mục tiêu 5% của kỳ
họp thứ 5 Quốc hội khóa XII.
Tuy vậy, một hạn chế của các gói kích cầu là việc hỗ trợ diễn ra theo cơ chế xincho dẫn đến việc mục đích bị bóp méo và lạm dụng. Khu vực trung gian được
hưởng lợi nhiều hơn khu vực sản xuất, số lượng doanh nghiệp đạt lãi lớn còn hạn
chế chứng tỏ các gói kích cầu vẫn chưa đạt được hiệu quả tối ưu.
2.4.3 CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT LINH HOẠT, THẬN TRỌNG GIAI ĐOẠN
CUỐI 2009 – NAY:
a) Khái niệm:
Từ cuối 2009, chính sách lãi suất được điều chỉnh linh hoạt, thận trọng nhằm
kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng.
b) Quá trình thực hiện và tác động:
25


×