Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

chính sách lãi suất của việt nam từ 2007 nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.06 KB, 26 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Lãi suất là một yếu tố rất nhạy cảm đối với nền kinh tế của các nước. Ở Việt
Nam, Ngân hàng nhà nước đã rất linh hoạt trong việc sử dụng công cụ lãi suất nhằm
tác động tích cực nên kinh tế trong quá trình chuyển đổi và phát triển. Sau những thất
bại kinh tế từ năm 1998 đến năm 2004, việc hạ lãi suất để kích thích đầu tư gần như
không hiệu quả. Cho đến năm 2004, sau những cố gắng vực dậy nền kinh tế Việt Nam
đã có những bước đầu phục hồi tạo cơ sở cho việc tiếp tục phát triển, đổi mới hệ thống
tài chính, cải cách chính sách lãi suất.
Hiện nay, chúng ta đã nhận rõ được tầm quan trọng của công cụ lãi suất trong
nền kinh tế, tác động và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế của đất nước trong
bối cảnh Việt Nam đang tham gia ngày càng sâu rộng hơn và liên kết khu vực, hội
nhập quốc tế. Với những kiến thức đang được học trong môn Tiền tệ - Ngân hàng, đặc
biệt là lãi suất, chúng em đã chọn đề tài “ Chính sách lãi suất của Việt Nam từ năm
2007 – Nay” để hiểu sâu hơn về lãi suất và việc điều tiết chinh sách lãi suất của Ngân
hàng nhà nước. Những thực trạng, tác động của chính sách lãi suất tới nền kinh tế, từ
đó rút ra các bài học và kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc điều hành hệ thống tài
chính nói chung và cải cách chính sách lãi suất nói riêng. Nội dung đề tài gồm ba
phần:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về lãi suất và chính sách lãi suất của Ngân hàng
trung ương.
Chương 2: Chính sách lãi suất của Việt Nam từ 2007 – nay
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả chính sách lãi suất trong thời gian
tới
Đề tài của chúng em cố gắng phác thảo một cách chung nhất về những gì liên
quan tới chính sách lãi suất thông qua việc tìm hiểu thực tế chính sách lãi suất của Việt
Nam. Do kiến thức còn hạn chế nên không thể tránh khỏi sai sót, vậy nên chúng em rất
mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn để có thể nâng cao kiến thức cũng
như hoàn thiện hơn.
Chúng em xin cảm ơn !



NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lý luận chung về chính sách lãi suất của Ngân hàng trung
ương.
1.1. Khái niệm chính sách lãi suất:
Chính sách lãi suất (CSLS) là một bộ phận của chính sách tiền tệ (CSTT) mà ở
đó Ngân hàng trung ương (NHTW) (hay một cơ quan tương đương) sử dụng các công
cụ của mình để quản lý và điều tiết lãi suất thị trường; kiểm soát lượng cung tiền, lạm
phát và duy trì sự ổn định của một số biến số kinh tế quan trọng khác; nhằm thực hiện
những mục tiêu nhất định của CSTT trong từng thời kỳ như ổn định giá trị tiền tệ, tăng
trưởng kinh tế, cũng như các mục tiêu xã hội hợp lý khác.
1.2. Mục tiêu của chính sách lãi suất:
Kiểm soát lạm phát: Trong nền kinh tế thị trường, kiểm soát lạm phát, ổn định
sức mua của đồng tiền là yếu tố cơ bản giúp ổn định nền kinh tế, tạo đà cho sự tăng
trưởng. Trong thực tế, cứ tăng trưởng kinh tế cao thì thường kéo theo lạm phát. Hiện
tượng này gần như là một nguyên lý mà các nhà kinh tế, kế hoạch, tài chính quốc gia
phải luôn luôn quan tâm để hài hoà giữa phát triển và kiểm soát lạm phát, trong đó
việc cân đối liều lượng, thời điểm, phương thức áp dụng các biện pháp là rất quan
trọng. Nếu như lạm phát không được kiểm soát sẽ dẫn đến những hậu quả không chỉ
về kinh tế mà còn cả về xã hội cho quốc gia, triệt tiêu hiệu quả của tăng trưởng kinh tế.
Mục tiêu kiểm soát lạm phát, do vậy là một trong những mục tiêu rất quan trọng
của CSLS của NHTW cũng như CSTT nói chung. Thông qua các công cụ của CSLS,
NHTW có thể thực thi CSTT thắt chặt hay nới lỏng trong từng thời kỳ để điều tiết và
khống chế tỷ lệ lạm phát ở một mức độ hợp lý.
Ổn định tỷ giá, đảm bảo sức mua đối ngoại của đồng tiền: Thông qua CSLS,
NHTW có thể duy trì hoặc điều chỉnh tỷ giá hối đoái theo mục tiêu kinh tế - xã hội góp
phần đảm bảo sức mua đối ngoại của đồng tiền quốc gia, tạo sự nền tảng ổn định cho
các hoạt động kinh tế , đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu.
Ổn định hệ thống các TCTD và thị trường tài chính: CSLS của NHTW phải đảm
bảo sự hoạt động ổn định của hệ thống các TCTD, và thông qua đó là sự ổn định
,thông suốt của thị trường tài chính trong mọi điều kiện kinh tế. Hoạt động của hệ

thống các TCTD cũng như thị trường tài chính có vai trò đặc biệt với nền kinh tế
trong sự phân bổ nguồn lực và thực hiện các mục tiêu được hoạch địn`h của CSTT.
1


Tăng trưởng kinh tế: CSTT nói chung và CSLS nói riêng về cơ bản và lâu dài
phải đảm bảo được sự tăng lên của GDP thực tế. Một nền kinh tế phồn thịnh với tốc độ
tăng trưởng ổn định là mục tiêu của bất cứ một chính sách kinh tế vĩ mô nào. Sự tăng
trưởng kinh tế là nền tảng cho những thay đổi về chất của nền kinh tế hay quá trình
hoàn thiện về mọi mặt bao gồm kinh tế, xã hội, môi trường, thể chế.
Ổn định giá cả trong dài hạn: Ổn định giá cả trong dài hạn là mục tiêu hàng đầu
của CSTT và do đó, cũng là một mục tiêu tối quan trọng của CSLS. Sự cam kết của
NHTW về mục tiêu này sẽ thể hiện bởi sự ổn định giá trị tiền tệ về mặt dài hạn mà
không tập trung điều chỉnh sự biến động giá cả trong ngắn hạn.Ổn định giá cả trong
dài hạn có tầm quan trọng đặc biệt cho sự phát triển kinh tế của quốc gia vì nó tạo nên
một môi trường đầu tư ổn định và sự phân bổ nguồn lực có hiệu quả.
Giảm tỷ lệ thất nghiệp: CSLS cũng hướng đến khả năng tạo công ăn việc làm,
giảm áp lực xã hội của thất nghiệp. Mục tiêu này có ý nghĩa quan trọng bởi chỉ số thất
nghiệp là một trong những chỉ tiêu phản ánh sự thịnh vượng của xã hội cũng như khả
năng sử dụng có hiệu quả nguồn lực xã hội. Giảm tỷ lệ thất nghiệp đồng thời cũng làm
giảm tình trạng căng thẳng ngân sách Nhà Nước, tránh sự thay đổi cơ cấu chi tiêu ngân
sách do sự tăng lên của các khoản trợ cấp thất nghiệp.
1.3.

Các loại chính sách lãi suất:

- Chính sách lãi suất trần: CSLS trần là chính sách chỉ ấn định lãi suất cho vay tối
đa. Chính sách này khuyến khích việc huy động vốn và tăng khả năng kiểm soát của
chính phủ. Chính phủ đưa ra một mức lãi suất nhất định và áp đặt chung cho toàn bộ
hệ thống Ngân hàng và cho toàn bộ nền kinh tế.

- Chính sách lãi suất cố định: Lãi suất cố định là lãi suất mà Ngân hàng Nhà nước
khống chế NHTM cả về lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Theo chính sách này thì
sẽ không có sự cạnh tranh về lãi suất trên thị trường tài chính tín dụng và do đó không
thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
- Chính sách lãi suất tự do: Chính sách tự do hóa lãi suất là chính sách mà chính
phủ sẽ can thiệp khi mức lãi suất vượt quá mức lãi suất chung.Lãi suất tăng giảm hoàn
toàn do những biến đổi trong cung và cầu về vốn vay trên thị trường.Tuy nhiên, nó chỉ
thực hiện được trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo. Như Việt Nam thì hiện tại
chúng ta đang sử dụng CSLS thoả thuận. Các TCTD được sử dụng cơ chế lãi suất thoả
2


thuận trong hoạt động thương mại, thay thế cơ chế điều hành LSCB bằng VNĐ. Về
dài hạn thì việc xoá bỏ “trần” lãi suất cho vay khiến các TCTD có thể mở rộng phương
thức huy động vốn, cho vay và huy động với mức lãi suất phù hợp với cung cầu trên
thị trường tín dụng. Điều này đặc biệt có lợi đối với các tổ chức kinh tế và người sản
xuất ở khu vực nông thôn, nhất là trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng đang nhanh hơn
nhiều so với tăng trưởng huy động vốn. Theo như NHNN, cơ chế lãi suất này sẽ tạo ra
điều kiện thuận lợi cho công cuộc cải cách hệ thống Ngân hàng theo định hướng thị
trường. Theo đó sẽ xoá bỏ những “dị biệt” trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam để dần
tiến tới hội nhập thị trường tín dụng Quốc tế.
- Chính sách lãi suất ưu đãi: CSLS ưu đãi là chính sách dành cho một số đối
tượng đặc biệt như người nghèo, gia đình chính sách...với lãi suất thấp. Việc thực hiện
chính sách này làm người đi vay không hoặc ít chú ý đến hiệu quả dẫn đến việc dùng
vốn đổ vào những dự án không mấy hiệu quả. Điều đó không giúp tăng trưởng vốn và
phần lớn chính sách này lấy từ Ngân sách nhà nước. Các đối tượng được vay vốn với
lãi suất ưu đãi thường là những hộ nghèo,các khu vực ở vùng sâu vùng xa, hải đảo,
miền núi... Việc vay vốn với lãi suất ưu đãi tuy tạo điều kiện cho người vay, nhưng lại
hạn chế phát triển thị trường vốn vay.
1.4.


Cơ chế điều hành chính sách lãi suất của NHTW:

CSLS có thể được NHTW sử dụng nhằm tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới
mức cung cầu tiền tệ từ đó đạt được các mục tiêu cụ thể để ra trong từng thời kỳ.
1.4.1.

Cơ chế trực tiếp: Tác động trực tiếp thông qua công cụ lãi suất tiền

gửi và lãi suất cho vay:
- Ấn định lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay: nếu lãi suất tiền gửi qui định cao,
sẽ thu hút được nhiều tiền gửi, làm gia tăng nguồn vốn cho vay, giảm tỷ lệ lạm phát.
Nếu lãi suất tiền gửi thấp, sẽ làm giảm tiền gửi, giảm khả năng mở rộng tín
dụng.Nếu lãi suất cho vay qui định thấp, các doanh nghịêp có cơ hội vay được nhiều
vốn cho sản xuất kinh doanh và ngược lại. Nhược điểm của biện pháp điều tiết này là
làm cho các NHTM mất đi tính linh hoạt và quyền tự chủ trong kinh doanh, nó dể dẫn
đến tình trạng ứ đọng vốn trong ngân hàng nhưng lại thiếu vốn đầu tư hoặc khuyến

3


khích dân cư dùng tiền vào dự trữ ngoại tệ, bất động sản trong khi ngân hàng hụt hẫng
về tiền mặt cũng như nguồn vốn cho vay.
- Ấn định khung lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay: NHTW có thể ấn định
khung lãi suất dưới nhiều hình thức như lãi suất sàn, lãi suất trần và mức chênh lệch
giữa lãi suất cho vay bình quân với mức lãi suất tiền gửi bình quân, lãi suất trần,
LSCB vv…và bắt buộc các NHTM phải xây dựng biểu lãi suất kinh doanh nằm trong
khung lãi suất. Biện pháp điều tiết này có ưu điểm là các NHTM được phép xây dựng
mức lãi suất linh hoạt hơn và bước đầu có quyền tự chủ qui định mức lãi suất kinh
doanh. Đồng thời giúp cho các NHTM lựa chọn dự án kinh tế tối ưu để cho vay, loại

bỏ những dự án kém hiệu quả. Nhìn chung việc ấn định khung lãi suất tiền gửi và cho
vay ngày càng ít được áp dụng ở các nước theo cơ chế thị trường. Bởi vì trong cơ chế
thị trường, lãi suất rất nhạy cảm với vốn đầu tư, nó phải được vận động theo quan hệ
cung cầu vốn trên thị trường.
1.4.2.

Cơ chế gián tiếp: tác động thông qua công cụ lãi suất tái chiết khấu,

tỷ lệ DTBB và nghiệp vụ thị trường mở:
-Tỷ lệ dự trữ bắt buộc: NHTW quy định tỷ lệ phần trăm giữa số tiền DTBB và
tổng số dư tiền gửi phải tính DTBB mà các NHTM thu hút được trong một khoảng
thời gian nhất định. Việc qui định tỷ lệ DTBB tạo điều kiện để NHTW kiểm soát quá
trình tạo tiền của hệ thống NHTM và quan trọng hơn là NHTW sử dụng để tác động
đến mức cung tiền tệ. Khi NHTW quyết định tăng hoặc giảm tỷ lệ DTBB, làm giảm
hoặc tăng khả năng cho vay của các NHTM đối với nền kinh tế. Từ đó làm giảm hoặc
tăng mức cung tiền tệ để tác động đến lãi suất thị trường.
- Lãi suất tái chiết khấu: là lãi suất cho vay ngắn hạn của NHTW đối với các
NHTM và TCTD dưới hình thức tái chiết khấu các chứng từ có giá chưa đến thời hạn
thanh toán.Với việc ấn định lãi suất tái chiết khấu, NHTW có thể tác động đến khả
năng vay của NHTM và do đó làm cho cung cầu tiền tệ tăng lên hay giảm xuống. Khi
lãi suất tái chiết khấu tăng lên, các NHTM sẽ bất lợi trong việc vay vốn của NHTW.
Trong điều kiện đó, các NHTM không có khả năng mở rộng tín dụng. Ngược lại,
khi lãi suất tái chiết khấu giảm, các NHTM có khả năng mở rộng cho vay đối với
khách hàng. Do đó, sự thay đổi lãi suất lãi suất tái chiết khấu được coi như dấu hiệu
của định hướng CSTT của NHTW. Mức độ phát huy hiệu quả các công cụ này căn cứ
4


vào mức độ phụ thuộc về vốn của NHTM vào NHTW, vì thế nó là công cụ kém chủ
động. Để khắc phục nhược điểm này, NHTW thường sử dụng nó với công cụ dừ trữ

bắt buộc.
-Nghiệp vụ thị trường mở: là nghiệp vụ mua bán các chứng từ có giá của NHTW
trên TTTT. Thông qua việc sử dụng công cụ này sẽ điều tiết mức dự trữ của các
NHTM và điều tiết mức cung tiền tệ để điều tiết lãi suất trên thị trường. Khi muốn gia
tăng khối lượng tiền trong lưu thông, mở rộng tín dụng cho nền kinh tế, NHTW thực
hiện mua các chứng từ có giá trên thị trường. Ngược lại, khi muốn giảm mức cung
tiền, thu hẹp tín dụng, NHTW bán các chứng từ có giá đang nắm giữ.
Chương 2.

Chính sách lãi suất của Việt Nam từ 2007- nay

2.1.

Thực trạng chính sách lãi suất tại Việt Nam trước năm 2007

2.1.1.

Chính sách lãi suất cơ bản 8/2000-5/2002:

Năm 2000 đánh dấy nhiều cải cách cho hệ thống ngân hàng. Trước đây, Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) ấn định một trần lãi suất trần cho vay. Nhưng thực tế trong
năm 1999, các Ngân hàng Thương mại (NHTM) đã không theo kịp đợt hạ giá trần lãi
suất của NHNN, và kết quả là lãi suất cho vay ngắn hạn bình quân vượt trên trần.
Tháng 8/2000, NHNN bỏ cơ chế “trần” cho lãi suất cho vay chuyển sang thực hiện cơ
chế lãi suất cơ bản. Theo cơ lãi suất này, lãi suát cho vay của đồng nội tệ của Ngân
hàng được điều chỉnh theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố. Các Ngân hàng này
không được tính lãi suất cho vay vượt quá lãi suất cơ bản cộng biên độ 0,3%/tháng đối
với vốn ngắn hạn và 0,5%/tháng đối với vốn trung, dài hạn. Trong năm 2000 và 2001,
lãi suất cơ bản và lãi suất cho vay đều giảm song lãi suất tiền gửi lại tăng lên trong thời
gian này. Cạnh tranh giữa các Ngân hàng làm giảm đi rõ rệt chênh lệch giữa lãi suất

huy động và lãi suất cho vay.
Tháng 6/2001, NHNN bãi bỏ lãi suất cho vay USD tối đa, các tổ chức tín dụng
(TCTD) được ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung
cầu vốn tín dụng bằng ngoại tệ ở trong nước. Đó là lần đầy tiên nhnn thả nổi một công
cụ lãi suất – một công cụ rất nhạy cảm trong việc điều chỉnh chính sách tiền tệ. bên
cạnh đó đối với đồng VNĐ thì lãi suất cơ bản này vẫn áp dụng như cũ.

5


2.1.2.

Chính sách tự do hóa lãi suất hoàn toàn 6/2002-11/2006:

Vào tháng 6/2002, NHNN bỏ quy định TCTD ấn định lãi suất cho vay theo lãi
suất cơ bản, chuyển sang cơ chế lãi suất cho vay thỏa thuận, mà theo đó, các TCTD ấn
định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam trên cơ sở cung cầu vốn thị trường và mức
độ tín nhiệm của khách hàng. NHNN tiếp tục công bố lãi suất cơ bản với mục đích
phát tín hiệu và định hướng lãi suất trên thi trường tiền tệ. Có thể nói, đó là bước tiến
quan trọng trong quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam.
Kể từ năm 2004, do sự biến động theo chiều hướng tăng mạnh của giá nguyên
vật liệu thế giới khiến chi phí sản xuất tăng lên làm cho giá cả tăng nhanh chóng, mức
tăng lãi suất không theo kịp để bù đắp cho lạm phát. Cho đến hết năm 2005 thì lãi suất
thực tế đều bị âm. Lạm phát gia tăng ở nhiều nước. Việc cục dự trữ Liên bang Mỹ
(FED) đấy lãi suất lên cao cũng ảnh hưởng tới tình hình lãi suất tại Việt Nam.
Trước tình hình kinh tế 2004-2005 có nhiều diễn biến, giá cả tăng, nhu cầu tín
dụng cho nền kinh tế cũng tăng, NHNN chủ trương ổn định lãi suất cơ bản, lãi suất
chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, sử dụng chính sách dự trữ bắt buộc để kiềm chế lạm
phát
2.2.


Giai đoạn 2007-6/2008

2.2.1.

Bối cảnh và các chính sách

- Đầu năm 2007, ngân hàng techcombank là ngân hàng đầu tiên mở đầu cuộc đua
lãi suất huy động VND, ở sản phẩm “tiết kiệm điện tử” với 9,48%/năm, và sau đó kéo
theo sự tham gia của một loạt ngân hàng cổ phần. Nhưng nhìn chung., lãi suất năm
2007 không có biết động nhiều giữa các tháng trong năm, lãi suất huy động vốn duy trì
ở mức 9,5%/năm. Ngân hàng nhà nước tiếp tục ổn định mức lãi suất cơ bản 4,5%/năm,
nhằm phát tín hiệu ổn định lãi suất thị trường, góp phần kiểm soát lạm phát. Kể từ
ngày 1/3/2007, NHNN bỏ quy định lãi suất trần tiề gửi bằng USD, ấn định theo cơ chế
thỏa thuận.
- Cuối tháng 05/2007, ngân hàng Nhà nước ban hành Chỉ thị 03/2007/CT-NHNN
ngày 28/05/2007 về việc kiểm soát quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư
kinh doanh chứng khoán nhằm kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong
đó khống chế dư nợ vốn cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư, kinh doanh
chứng khoán ở mức dưới 3% tổng dư nợ của tổ chức tín dụng, hạn chót 31/12/2007
phải đảm bảo tỷ lệ này. Trong tháng 06/2007, ngân hàng Nhà nước đã đưa vào lưu
6


thông 130 ngàn tỷ đồng để mua 8.1 tỷ USD. Ngày 01/06/2007, ngân hàng Nhà nước
đã điều chỉnh tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc lên gấp đôi đối với cả nội tệ và ngoại tệ: từ 5%
lên 10% đối với tiền gửi VND kỳ hạn dưới 12 tháng và từ 2% lên 4% đối với kỳ hạn từ
12 tháng đến 24 tháng, tăng từ 8% lên 10% đối với tiền gửi ngoại tệ kỳ hạn dưới 12
tháng và từ 2% lên 4% đối với kỳ hạn từ 12 tháng đến dưới 24 tháng.
-. Ngày 26/02/2008 thông qua công điện 02/CĐ-NHNN của ngân hàng Nhà nước

Việt Nam, các ngân hàng thương mại phải điều chỉnh lãi suất huy động vốn không
vượt quá 12%/năm; Các ngân hàng thương mại nhà nước tích cực tham gia nghiệp vụ
thị trường mở và các kênh tái cấp vốn khác của ngân hàng Nhà nước để đảm bảo khả
năng thanh toán và hỗ trợ vốn cho các ngân hàng thương mại trên thị trường liên ngân
hàng với lãi suất tối đa bằng lãi suất nghiệp vụ thị trường mở tại phiên giao dịch gần
nhất cộng với 1%/năm. Ngày 24/04/2008, ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành
công văn số 3764/NHNN-CSTT về việc tái cấp vốn dưới hình thức cho vay có bảo
đảm. Theo đó, để hỗ trợ khả năng thanh toán cho các ngân hàng thương mại, đặc biệt
là các ngân hàng thương mại có quy mô nhỏ, ngân hàng Nhà nước Việt Nam xem xét,
quyết định tái cấp vốn dưới hình thức cho vay có bảo đảm một cách kịp thời, trên cơ
sở đề nghị của ngân hàng thưương mại, điều kiện cung - cầu vốn thực tế và mục tiêu
điều hành chính sách tiền tệ, cơ chế tái cấp vốn hiện hành.
- Trong năm 2008 có thể được xem là năm của lãi suất khi lãi suất biến động trái
chiều với một biên độ lớn, NHNN phải 8 lần điều chỉnh lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp
vốn, lãi suất chiết khấu, 5 lần điều chỉnh dự trữ bắt buộc và lãi suất tiền gửi dự trữ bắt
buộc.
- Từ đầu năm 2008 đến tháng 6/2008 do chính sách thắt chặt tiện tệ của nhà nước
đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm giảm lượng tiền lưu thông từ đó dẫn đến cuộc đua
tăng lãi suất của các ngân hàng để huy động vốn và đảm bảo thanh khoản, cụ thể mức
lãi suất huy động tháng 1 là 8,5% đã lên đến đỉnh điểm và tháng 6 với lãi suất 18.5%.
2.2.2.

Đánh giá, kết quả đạt được

-Như vậy, NHNN đã điều hành CSTT kiểm soát khối lượng tiền cung ứng, tỷ giá
được xem là mục tiêu hoạt động, mục tiêu cuối cùng được điều chỉnh phù hợp với sự
thay đổi của bối cảnh kinh tế vĩ mô. Việc CSTT hướng tới nhiều mục tiêu cũng phù
hợp với quy định trong Luật. Đã có những giai đoạn CSTT chú trọng tới mục tiêu
kiểm soát lạm phát, tuy nhiên, mục tiêu này không được thực hiện một cách nhất quán
7



và luôn được đặt song song với mục tiêu về tăng trưởng kinh tế. Lý thuyết về bộ ba bất
khả thi đã chỉ ra, trong bối cảnh mở cửa nền kinh tế, các nước chỉ có thể lựa chọn một
trong hai yếu tố là CSTT hoặc là ổn định tỷ giá. Trong khi tỷ giá được duy trì hầu như
ổn định trong năm 2007, rõ ràng, hiệu lực điều hành CSTT của Việt Nam trong năm
này đã không đạt được như mong muốn trong mục tiêu kiểm soát tổng phương tiện
thanh toán, cũng như mục tiêu cuối cùng là ổn định giá cả.
2.2.3.

Hạn chế

- Bên cạnh đó, trong khi tỷ giá được duy trì hầu như ổn định trong năm 2007, rõ
ràng, hiệu lực điều hành CSTT của Việt Nam trong năm này đã không đạt được như
mong muốn trong mục tiêu kiểm soát tổng phương tiện thanh toán, cũng như mục tiêu
cuối cùng là ổn định giá cả. Bên cạnh đó, trong khi tỷ giá được duy trì ổn định, thì lạm
phát tiếp tục tăng lên trong 3 năm, sẽ gây ra những áp lực đối với tỷ giá, cũng như có
khả năng làm giảm lợi thế cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Thời kỳ
này NHNN đã không chú trọng đến việc khống chế tăng trưởng tín dụng, sự tăng
trưởng về tín dụng đã có tác động lớn đối với lượng vốn của nền kinh tế thông qua đó
tác động đến mức tăng lạm phát
2.3.

Giai đoạn 7/2008 – 11/2009

Năm 2008 có thể được xem là năm của lãi suất khi lãi suất biến động trái chiều
với một biên độ lớn chỉ trong vòng 12 tháng. NHNN phải 8 lần điều chỉnh lãi suất cơ
bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, 5 lần điều chỉnh dự trữ bắt buộc và lãi suất
tiền gửi dự trữ bắt buộc.
Diễn biến lãi suất năm 2008 được chia làm 2 giai đoạn chính: cuộc đua tăng lãi

suất của các ngân hàng vào nửa đầu năm 2008 và một cuộc đua khác theo chiều hướng
ngược lại, đua giảm lãi suất , dù mức độ quyết liệt kém hơn. Cụ thể, từ mức lãi suất
huy động tháng 1 là 8,5% đã lên đỉnh điểm vào tháng 6 với lãi suất 18,5%. Bắt đầu từ
tháng 7 trở đi, cùng với cơ chế cho vay mới, sự hỗ trợ của NHTW với nguồn vốn khả
dụng của hệ thống tăng mạnh lên, lãi suất trên thị trường bắt đầu có đợt thoái trào. Đặc
biệt từ tháng 9 đến cuối năm, gắn với những điều chỉnh các lãi suất chủ chốt của Ngân
hàng Nhà nước, cả lãi suất huy động và cho vay dồn dập giảm; ít nhất có 8 đợt điều
chỉnh trên diện rộng. Từ đỉnh điểm trên 19%/năm, lãi suất huy động VNĐ rút về quanh
mốc 8%/năm; lãi suất cho vay tối đa từ 21%/năm về còn 12,75%/năm.
8


Năm 2009, lãi suất huy động và cho vay VNĐ cùng ổn định, theo sự ổn định của
lãi suất cơ bản. Tuy nhiên, căng thẳng của lãi suất huy động bắt đầu bộc lộ từ giữa
năm. Từ thắng 7 đến thang 11, các nâng hàng thyowng mại liên tục tăng lãi suất huy
động VNĐ, tập trung từ các kỳ hạn dài và dồn ép các kỳ hạn ngắn. Mức lãi suất cao
nhất lần lượt tạo các “đỉnh” 9%, 10% và đỉnh điểm lên đến 10,5%/năm. Khái niệm
“đường cong lãi suất” bị xóa nhòa khi nhiều thành viên áp thống nhaatsmootj mức cao
cho hầu hết các kỳ hạn. Ngay sau quyết định tăng lãi suất cơ bản từ 7% lên 8% có hiệu
lực từ 1/12, các ngân hàng thương mại đồng loạt đẩy lãi suất huy động lên mức cao,
một số thành viên lên tới 10,5%/năm (chưa tính các hình thức khuyến mại, cộng
thưởng gián tiếp). Với diễn biến này, Ngân hàng Nhà nước phát thông điệp kiểm tra
toàn diện các trường hợp có lãi suất huy động từ 10,5%/năm trở lên, các thành viên
đồng loạt áp tối đa ở mức 10,49%/năm.
2.4.

Giai đoạn T12/2009- cuối 2010

2.4.1.


Bối cảnh, các chính sách

Cuối năm 2009, NHNN đã điều hành linh hoạt các công cụ của CSLS, tiếp tục
nới lỏng 1 cách thận trọng nhằm hỗ trợ nền kinh tế vượt qua suy thoái.
Lạm phát và giá cả của năm 2010 tăng cao xuất phát từ nhiều nguyên nhân.
Trong đó sự điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước và sự gia tăng lãi
suất cho vay của các ngân hàng thương mại ở những tháng cuối năm 2010 góp phần
gây sức ép làm lạm phát tăng trở lại.
9


Từ tháng 12/2009 cho đến cuối năm 2010, Chính sách lãi suất được điều chỉnh
theo hướng thắt chặt nhằm ngăn chặn nguy cơ lạm phát quay trở lại và bảo đảm an
toàn hệ thống các TCTD.
Đối với công cụ lãi suất
Lãi suất VND diễn biến khá phức tạp và có xu hướng tăng trong nửa cuối của
năm 2009. Trong đó LSCB đã được điều chỉnh từ 7%/năm lên 8%/năm (1/12/2009) .
Lãi suất tái chiết khấu được tăng từ 5% lên 6%(1/12/2009), lãi suất tái cấp vốn từ 7%
lên 8%/năm. (Nguồn: NHNNVN)
Sau 11 tháng duy trì mức lãi suất không đổi thì ngày 5/11/2010, NHNN ban hành
Quyết định số 2619/QĐ-NHNN và Quyết định số 2620/QĐ-NHNN quy định các mức
lãi suất. Cụ thể, tăng 1% lên LSCB, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất cho vay qua đêm (từ
8% lên 9%); lãi suất tái chiết khấu (từ 6% lên 7%). Ngay lập tức các NHTM đã đồng
loạt áp mức lãi suất mới từ 11% lên 12%/năm. Không dừng ở đó, lãi suất huy động
vẫn tiếp tục tăng theo từng ngày từ 13% lên 14% và đỉnh điểm là việc NH
Techcombank công bố lãi suất huy động lên tới 17% trong ngày 8/12/2010.
Bên cạnh đó ngày 26/02/2010 NHNN đã ban hành thông tư 07/2010/TT-NHNN
cho phép các ngân hàng thương mại được thực hiện lãi suất thỏa thuận đối với các
khoản vay trung dài hạn. Cơ chế này cũng áp dụng với các khoản vay ngắn hạn, trung
hạn và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn để trực tiếp phục vụ đời sống của cá nhân

và hộ gia đình của khách hàng vay; các hoạt động cho vay tiêu dùng thông qua nghiệp
vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
Lãi suất của Ngân hàng nhà nước

(Nguồn NHNNVN)
Đối với tỷ lệ dự trữ bắt buộc
10


Tiếp nối mục tiêu kích thích nền kinh tế, cuối năm 2009, NHNN tiếp tục duy trì
tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn bằng VND dưới 12 tháng ở
mức 3%, kỳ hạn 12-24 tháng là 1%. Đến hết năm 2009, lãi suất tiền gửi DTBB cũng
được duy trì ở mức 1,2%/năm. Ngoài ra, lãi suất tiền gửi vượt DTBB bằng ngoại
tệ đối với các TCTD và của kho bạc nhà nước tại NHNN cũng duy trì ở 0,1% /năm.
Ngày 18/1/2010, NHNN đã điều chỉnh DTBB bằng ngoại tệ đối với các TCTD.
Theo đó, tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi không kỳ hạn có kỳ hạn dưới 12 tháng và tỷ lệ
DTBB đối với tiền gửi từ 12 tháng trở lên bằng ngoại tệ áp dụng cho các NHTM nhà
nước (không bao gồm NHNN&PTNT), NHTMCP, ngân hàng 100% vốn nước ngoài,
ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tương ứng từ 7% và 3% xuống
còn 4% và 2% trên tổng số dư tiền gửi phải DTBB.
Nghiệp vụ thị trường mở
Trong 9 tháng đầu năm 2010, nghiệp vụ thị trường mở được điều hành nhằm hỗ
trợ vốn thanh toán VND cho các TCTD, ổn định TTTT và hỗ trợ các TCTD giảm mặt
bằng lãi suất huy động vốn: Thực hiện chào mua giấy tờ có giá với kỳ hạn 7, 14, 28
ngày; lãi suất được điều chỉnh giảm (lãi suất kỳ hạn 7 ngày giảm từ 7,8%/năm xuống
7,5%/năm và xuống 7%/năm, lãi suất kỳ hạn 14 ngày từ 8%/năm xuống 7,5%/năm, 28
ngày là 8%/năm); khối lượng chào mua bình quân khoảng 5.400 tỷ đồng/phiên, khối
lượng

trúng


thầu

bình

quân

khoảng

3.200

tỷ

đồng/phiên.

Ba tháng cuối năm, trong bối cảnh áp lực lạm phát tăng cao, tín dụng và tổng
phương tiện thanh toán vượt mục tiêu, nghiệp vụ thị trường mở được điều hành chặt
chẽ hơn nhưng đảm bảo ổn định TTTT thông qua việc giảm dần kỳ hạn chào mua từ
dài nhất là 28 ngày xuống chỉ thực hiện chào mua với kỳ hạn 7 ngày (từ ngày
10/11/2010); lãi suất chào mua kỳ hạn 7 ngày tăng từ 7,0-8,75-9,0-10%/năm; khối
lượng chào mua bình quân khoảng 7.160 tỷ đồng/phiên, khối lượng trúng thầu bình
quân khoảng 6.970 tỷ đồng/phiên.
2.4.2.

Những kết quả đạt được

NHNN thực hiện điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt nhằm tạo điều
kiện hỗ trợ tích cực cho thị trường tiền tệ -tín dụng hoạt động ổn định, góp phần hỗ trợ
tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát gia tăng những tháng cuối năm một cách
11



hiệu quả. Theo đó, NHNN đã duy trì lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam ổn định ở
mức 8% trong suốt 10 tháng đầu năm và thực hiện điều chỉnh lên mức 9% trong hai
tháng cuối năm trước sức ép của lạm phát.
Thị trường tiền tệ về cơ bản ổn định trở lại, lãi suất thị trường đã nằm trong
ngưỡng kiểm soát của NHNN, tiền gửi dân cư tăng, đầu tư của tổ chức kinh tế tăng,
chỉ tính riêng trong Quý 1/2010, dư nợ tín dụng tăng 3,34% so với cuối năm 2009,
thanh khoản và tiền mặt cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu phát triển kinh tế, lòng tin của các
tầng lớp dân cư và các tổ chức kinh tế đối với hệ thống ngân hàng và đối với chủ
trương, chính sách do hệ thống ngân hàng thực hiện ngày càng được nâng cao. Trạng
thái ngoại tệ của các NHTM trong những tháng đầu năm 2010 tương đối tốt khi các
NHTM đang tự cân đối được cung - cầu ngoại tệ của mình, diễn biến tỷ giá đã có
nhiều tín hiệu lạc quan khi tỷ giá trên thị trường chính thức duy trì xu hướng ổn định
và tỷ giá tự do đang tiến gần sát với tỷ giá chính thức; sự ổn định của thị trường ngoại
hối là nhân tốt, có tác dụng hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, ngặn chặn nguy cơ lạm phát
trước mắt và tạo được niềm tin của doanh nghiệp và người dân vào sự ổn định của tỷ
giá, khả năng can thiệp và kiểm soát thị trường ngoại hối của Nhà nước cũng được
nâng lên…
2.4.3.

Hạn chế

Chính sách lãi suất trong thời gian này có mục đích đó chính là kiềm chế lạm
phát. Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách tiền tệ nói chung và chính sách lãi suất nói
riêng dường như không mấy hiệu quả. Tỷ lệ lạm phát trong khoảng 10 tháng đầu 2010
được giữ ổn định,trong giai đoạn này thì lãi suất cũng được giảm dần. Chứng tỏ sự tác
động tức thời của lãi suất đến tỷ lệ lạm phát. Đến tháng 9/2010 sau việc tăng lãi suất
cơ bản thì lãi suất không ngừng gia tăng theo cùng tỷ lệ lạm phát cũng tăng. Lạm phát
liên tục tăng vượt quá mức chỉ tiêu, đồng thời cuối năm 2010 đến nay vẫn chưa có dấu

hiệu giảm và càng khó kiểm soát hơn. Trên thực tế chính sách lãi suất do NHNN thực
hiện giai đoạn này phần lớn chỉ chạy theo thị trường chứ không thực sự dẫn dắt thị
trường. Các biện pháp hành chính đi kèm chỉ có tác dụng tạm thời chứ chưa thực sự
hiệu quả.
Mặc dù đã đạt được những thành quả đáng khích lệ trong những tháng đầu năm
2010 nhưng đứng trước biến động không ngừng của kinh tế thế giới và trong nước,
những khó khăn thách thức đặt ra cũng không phải là nhỏ, chỉ số tiêu dùng 4 tháng đầu
12


năm tăng 4,27% so với tháng 12/2009 trong khi chỉ tiêu lạm phát cả năm 2010 là 7%
là khá cao.
Việc điều chỉnh tỷ giá thời gian vừa qua một mặt đem lại nguồn cung ngoại tệ dồi
dào, đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của thị trường và làm giảm tỷ giá, song mặt khác cũng
tiềm ẩn nguy cơ tăng nghĩa vụ trả nợ nước ngoài cũng như trả nợ vay bằng ngoại tệ
trong nước, làm tăng giá nhập khẩu.Những lo ngại liên quan đến tình trạng lạm phát
trở lại, tình trạng nhập siêu lớn và thâm hụt ngân sách ở mức cao không phải là không
có căn cứ. Theo một số chuyên gia kinh tế hiện nay lạm phát vẫn trong tầm kiểm soát
nhưng nhiều ý kiến cũng đồng tình rằng tình hình kinh tế vĩ mô vẫn chưa thật ổn định.
2.5.

Giai đoạn 2011 – nay:

2.5.1.

Bối cảnh, các chính sách

a. Năm 2011:
Bước sang năm 2011, kinh tế toàn cầu bắt đầu le lói phục hồi nhưng còn nhiều
khó khăn, tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế trong nước. Trong 6 tháng đầu năm,

lạm phát tăng 13,29% so với đầu năm và tăng 20% so cùng kỳ năm trước, gây khó
khăn cho nỗ lực kiềm chế lạm phát dưới 15% theo mục tiêu đề ra, thị trường bất động
sản và chứng khoán sụt giảm mạnh.
Đối với công cụ lãi suất,
NHNN đã có nhiều giải pháp mạnh mẽ, quyết liệt để giảm mặt bằng lãi suất
nhằm hỗ trợ sản xuất phát triển, góp phần chống suy giảm kinh tế, khống chế tốc độ
tăng trưởng dư nợ và dư nợ cho vay đối với lĩnh vực phi sản xuất trong năm 2011 lần
lượt là 20% và 16%.
Về điều hành lãi suất huy động, NHNN đã ban hành Thông tư số 02/TT-NHNN
ngày 03/3/2011 qui định trần lãi suất huy động VND của các TCTD là 14%.
Đến cuối năm 2011, tổng phương tiện thanh toán và tín dụng lần lượt tăng
khoảng 10% và 12%, các mức lãi suất trên thị trường đã được điều chỉnh phù hợp với
diễn biến kinh tế vĩ mô và chỉ đạo của Chính phủ. Việc tăng cường thanh tra, giám sát
và xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm trần lãi suất huy động đã tạo điều kiện cho
việc giảm dần mặt bằng lãi suất huy động và cho vay trong những tháng cuối năm.
Trong đó, lãi suất cho vay nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu giảm 0,51%/năm và dao động ở mức 14,5-17%/năm, thậm chí chỉ còn 13,5%/năm.
Đối với tỷ lệ dự trữ bắt buộc
13


Kể từ tháng 9/2011, tỷ lệ DTBB bằng ngoại tệ là 8%, thay vì 7% như trước đó.
Riêng Ngân hàng Nông nghiêp và Phát triển nông thôn Viêt Nam, Quỹ tín dụng nhân
dân trung ương, ngân hàng hợp tác, tỷ lệ DTBB là 7% trên tổng số dư tiền.
Đối với nghiệp vụ thị trường mở:
Trong tháng 1/2011, lãi suất mua có kỳ hạn 7 ngày đã tăng lên 11%/năm, từ ngày
22/2, tăng lên 12%, 1/4 là 13%, ngày 4/5, đã được đẩy lên mức 14%/năm, không dừng
ở đó, ngày 17/5, NHNN đã nâng lãi suất trên thị trường mở lên 15%. Từ ngày
4/7/2011, lãi suất trên nghiệp vụ thị trường mở đã giảm nhẹ xuống 14%/năm và giữ
nguyên cho đến cuối năm. Điều này cho thấy năm 2011 nền kinh tế có lạm phát cao,
NHNN thực hiện CSTT thắt chặt dẫn đến tình hình thanh khoản của các NHTM khó

khăn, đặc biệt là các NHTM cổ phần quy mô nhỏ.
b. Năm 2012:
Đối với công cụ lãi suất,
Để định hướng thị trường, ngay từ đầu năm 2012, NHNN đã đưa ra mục tiêu tiếp
tục giảm lãi suất huy động xuống còn 9-10%/năm vào cuối năm 2012, đồng thời đưa
ra lộ trình giảm trung bình mỗi quí 1%/năm. Từ tháng 5/2012, NHNN đã qui định trần
lãi suất cho vay ngắn hạn VND đối với lĩnh vực ưu tiên là nông nghiệp nông thôn,
xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp ứng dụng công
nghệ cao; trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND đối với các lĩnh vực ưu tiên được
điều chỉnh giảm từ mức 15%/năm xuống 12%/năm, phù hợp với xu hướng giảm của
trần lãi suất tiền gửi VND.
Đến cuối năm 2012, lãi suất huy động VND giảm mạnh từ 3-6%/năm, lãi suất
cho vay giảm từ 5-9%/năm so với cuối năm 2011 và trở về mức lãi suất của năm 2007.
Lãi suất cho vay ưu tiên giảm về mức 12%/năm, cho vay sản xuất kinh doanh khác và
cho vay tiêu dùng ở mức 12-15%/năm, riêng lãi suất cho vay đối với các khách hàng
tốt chỉ còn 9-11%/năm. Tổng phương tiện thanh toán và tín dụng tăng lần lượt khoảng
20% và 9%, phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát ở mức thấp (6,8%), góp phần ổn
định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Đối với tỷ lệ DTBB
Ngày 2/2/2012, giảm tỷ lệ DTBB bằng VND với 5 TCTD. NHNN có thông báo
bằng văn bản áp dụng tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng VND bằng 1/5 so với tỷ lệ
DTBB thông thường ứng với kỳ hạn tiền gửi đối với 5 TCTD. Đó là ngân hàng TMCP
14


Mê Công, NH Phát triển nhà đồng bằng Sông Cửu Long, Quỹ Tín dụng nhân dân
Trung Ương, NHNo&PTNT Việt Nam, NH TMCP Bưu Điện Liên Việt.
Đối với Nghiệp vụ thị trường mở
Năm 2012 là một trong những năm hoạt động trên thị trường mở đạt hiệu quả
nhất trở thành công cụ chủ chốt để NHNN kiểm soát cung tiền và lạm phát. Nhờ linh

hoạt hút tiền về qua phát hành tín phiếu, lẫn hút ròng qua thị trường mở, NHNN đã
trung hòa được khối lượng tiền VND trên thị trường và giúp cho CSLS được thực hiện
một cách hiệu quả.
c. Năm 2013,
Đối với công cụ lãi suất
Trên cơ sở kết quả điều hành CSTT đã đạt được, và các mục tiêu do Quốc hội và
Chính phủ đề ra trong năm 2013 về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất
kinh doanh, hỗ trợ thị trường, NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt và đồng bộ các công
cụ CSTT, chủ động điều chỉnh lượng tiền trong lưu thông nhằm đảm bảo ổn định
TTTT, ngoại hối và kiểm soát tiền tệ.
Trong năm 2013, Ngân hàng Nhà nước đã giảm 2%/năm các mức lãi suất điều
hành; giảm 3%/năm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với các lĩnh vực
ưu tiên; giảm 1%/năm lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi bằng VND, từ cuối tháng
6 cho phép các ngân hàng thương mại tự ấn định lãi suất tiền gửi VND có kỳ hạn từ 6
tháng trở lên.
Mặt bằng lãi suất tiếp tục giảm 2-5%/năm trong năm 2013 nhưng vẫn đảm bảo
mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định TTTT. Lãi suất cho vay cũng đã giảm xuống
thấp, phổ biến dưới 13%/năm đến cuối 2013. (Nguồn: baodientu.chinhphu.vn)
Đối với tỷ lệ DTBB
Năm 2013, NHNN đã tiến hành hỗ trợ nguồn vốn và giảm tỉ lệ DTBB đối với
một số TCTD để khuyến khích các TCTD tiếp tục cho vay phát triển kinh tế nông
nghiệp nông thôn và góp phần làm giảm lãi suất cho vay trên thị trường.
Đối với Nghiệp vụ thị trường mở
Năm 2013, Công cụ nghiệp vụ thị trường mở đã được NHNN sử dụng hết sức
linh hoạt và hiệu quả, điển hình với việc giảm lãi suất nghiệp vụ mua/bán lại một cách
kịp thời, phù hợp với định hướng hỗ trợ phát triển kinh tế. Hai đợt giảm lãi suất vào
tháng 3 và tháng 5 đã hỗ trợ mạnh mẽ cho việc ổn định lãi suất thị trường trong giai
15



đoạn tháng 5 và tháng 6. Đặc biệt khi tình hình kinh tế thị trường thế giới biến động
vào cuối tháng 6 thì đợt giảm tiếp lãi suất trên thị trường mở vào tháng 7 cũng đã giảm
thiểu biến động của thị trường trong nước và tạo tiền đề cho sự ổn định của các tháng
tiếp theo.
d. Năm 2014,
Để hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm và các vấn đề an sinh
xã hội khác, trong năm 2014, Ngân hàng Nhà nước điều hành linh hoạt chính sách tiền
tệ theo hướng tập trung tháo gỡ các khó khăn về mở rộng tín dụng an toàn, đáp ứng
nhu cầu vốn vay hợp lý cho các đối tượng khách hàng, giảm các loại lãi suất,… Ngân
hàng Nhà nước đã thực hiện 2 lần cắt giảm lãi suất điều hành như sau:
Lần thứ nhất, thực hiện vào ngày 17-3-2014: lãi suất tái cấp vốn từ 7%/năm
xuống 6,5%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 5%/năm xuống 4,5%/năm; lãi suất cho vay
qua đêm từ 8%/năm xuống 7,5%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không
kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng giảm từ 1,2%/năm xuống 1%/năm; lãi suất tối đa áp
dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng giảm từ 7%/năm xuống
6%/năm. Từ thời điểm này, Ngân hàng Nhà nước không khống chế lãi suất tiền gửi có
kỳ hạn từ 6 tháng trở lên như trước đó mà các tổ chức tín dụng chủ động ấn định trên
cơ sở cung - cầu vốn thị trường. Lãi suất cho vay ngắn hạn 5 lĩnh vực ưu tiên giảm từ
9%/năm xuống 8%/năm.
Lần thứ hai, thực hiện vào ngày 29-10-2014: Lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND
từ mức 6%/năm xuống 5,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6
tháng; giảm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa các lĩnh vực ưu tiên từ mức 8%/năm
xuống còn 7%/năm; giảm lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng USD từ mức 1%/năm
xuống 0,75%/năm.
Thay đổi trong điều hành lãi suất năm 2014 của Ngân hàng Nhà nước đã tác
động tích cực đến cơ cấu tiền gửi theo kỳ hạn tại các ngân hàng thương mại. Nguồn
vốn huy động có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên của các ngân hàng thương mại được gia
tăng hơn. Nhiều người lựa chọn gửi kỳ hạn tới 24 và 36 tháng vì dự báo lãi suất sẽ tiếp
tục giảm trong năm 2015. Lãi suất huy động kỳ hạn dài chênh lệch kỳ hạn ngắn từ
1,6% - 2,6%/năm, đường cong lãi suất trở về đúng với bản chất vốn có của nó.

Xem xét riêng diễn biến lãi suất bình quân của các ngân hàng thương mại nhà
nước và ngân hàng thương mại nhà nước đã cổ phần hóa, khối này chiếm trên 50% thị
16


phần huy động vốn và cho vay trong năm 2014 thì có thể thấy, lãi suất cho vay đã
giảm tới 3%, lãi suất huy động vốn cả 2 kỳ hạn đều giảm 1%. Còn nhìn dài hạn hơn,
so sánh thời điểm hiện nay thì cả lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay nội tệ của các tổ
chức tín dụng đều giảm về mức thấp hơn mặt bằng lãi suất cách đây 10 năm.
Nhìn chung, toàn bộ thị trường đến cuối tháng 12-2014, lãi suất giảm từ 1,5% 2% so với cuối năm 2013, nhưng người dân vẫn gửi tiền vào hệ thống ngân hàng
thương mại. Tính đến hết năm 2014, ước tính tổng phương tiện thanh toán tăng 16%,
huy động vốn tăng 15,5% so với cuối năm 2013; trong đó huy động vốn VND tăng
16,5%, chủ yếu ở khu vực dân cư; vốn huy động ngoại tệ tăng 8,2%. Thanh khoản của
các tổ chức tín dụng được bảo đảm và dư thừa.
Mặt bằng lãi suất huy động USD cũng giảm nhẹ. Huy động USD từ dân cư giảm
0,5% xuống mức 0,75%/năm, huy động USD từ tổ chức giữ ở mức thấp 0,25%/năm.
e. Năm 2015:
Lãi suất huy động và cho vay VNĐ đều giảm nhẹ, tạo điều kiện thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Trong năm 2015, lãi suất huy động bằng VNĐ giảm nhẹ với mức giảm
từ 0,1-0,5% tuỳ từng kỳ hạn. Trần lãi suất huy động kỳ hạn duới 6 tháng ở mức 5,5%
cũng được NHNN duy trì trong cả năm, cho thấy mặt bằng lãi suất đã ở điểm đáy khi
chênh lệch cung - cầu vốn ngày càng tăng khiến thanh khoản của các ngân hàng không
còn duy trì dồi dào như trước.
Mặt bằng lãi suất cho vay cũng tiếp tục giảm nhẹ so với năm 2014. Lãi suất cho
vay phổ biến đối với các lĩnh vực ưu tiên về cơ bản giữ nguyên ở mức 6-7%/năm đối
với ngắn hạn, còn đối với trung và dài hạn ở mức 9-10%/năm tại các NHTM nhà nước
và cao hơn khoảng 0,5-1% tại các Ngân hàng TMCP. Lãi suất cho vay các lĩnh vực sản
xuất kinh doanh thông thường giảm nhẹ 0,2-0,5%, ở mức 6,8-9%/năm đối với ngắn
hạn, 9,3-11%/năm đối với trung và dài hạn.
Lãi suất huy động USD được điều chỉnh xuống mức 0%, lãi suất cho vay USD

giữ nguyên so với năm 2014. Trong năm 2015, NHNN đã quyết định hạ mức lãi suất
huy động USD của cá nhân từ 0,75%/năm xuống còn 0,25%/năm và tiếp tục xuống
0%/năm, và của tổ chức từ 0,25% xuống 0%/năm. Mục tiêu của chính sách này là để
ngăn chặn tình trạng găm giữ ngoại tệ, chuyển từ quan hệ huy động – cho vay bằng
ngoại tệ sang quan hệ mua – bán bằng ngoại tệ, và giảm sức ép về tỷ giá trong bối

17


cảnh đồng nhân dân tệ phá giá và Fed có khả năng sẽ tăng lãi suất 4 lần trong năm
2016.
Trong khi đó, lãi suất cho vay USD tương đối ổn định so với năm 2014, phổ biến
ở mức 3-6,7%/năm. Trong đó, lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 3-5,5%/năm,
cho vay trung và dài hạn phổ biến ở mức 5,5-6,7%/năm.
f. Năm 2016
Lãi suất huy động VNĐ tăng nhẹ ở kỳ hạn dài để đáp ứng yêu cầu về tỷ lệ VNH
cho vay TDH, trong khi đó lãi suất cho vay VNĐ khá ổn định và ít biến động. So với
năm 2015, lãi suất huy động tăng khoảng 0,5-1% ở các kỳ hạn dài trên 12 tháng. Một
phần nguyên nhân là do các ngân hàng đang cạnh tranh về nguồn vốn huy động trung
dài hạn để đáp ứng Thông tư 06 yêu cầu tỷ lệ VNH cho vay TDH hạ từ mức 60%
trong năm 2016 xuống còn 50% trong năm 2017. Lãi suất có hai đợt điều chỉnh tương
đối rõ vào Quý I và cuối Quý IV. Đến cuối năm, lãi suất huy động các kỳ hạn ngắn
dưới 6 tháng phổ biến trong khoảng 4,5-5,4%/năm, từ 6 tháng đến dưới 12 tháng trong
khoảng 5,4-6,5%/năm, từ 12 tháng trở lên trong khoảng 6,4-7,2%/năm.
Trong khi đó, mặt bằng lãi suất cho vay VNĐ khá ổn định và ít biến động. Lãi
suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên giữ nguyên so năm 2014, ở mức 6-7%/năm
đối với ngắn hạn và 9-10%/năm đối với trung và dài hạn. Lãi suất cho vay các lĩnh
vực sản xuất kinh doanh thông thường giảm nhẹ khoảng 0,2%/năm, xuống mức 6,89%/năm đối với ngắn hạn, và 9,3- 11%/năm đối với trung và dài hạn. Đối với nhóm
khách hàng tốt, tình hình tài chính lành mạnh, minh bạch, lãi suất cho vay có thể từ 45%/năm.
Lãi suất huy động USD tiếp tục được giữ nguyên ở mức 0%, lãi suất cho vay

USD tiếp diễn xu hướng giảm nhẹ. Hoạt động cho vay bằng ngoại tệ tiếp tục được
kiểm soát chặt chẽ, giảm từ 0,2-0,5%/năm tùy từng kỳ hạn, nhưng các ngân hàng được
xem xét cho khách hàng vay vốn bằng ngoại tệ để thực hiện phương án sản xuất kinh
doanh hàng xuất khẩu tới cuối năm 2017. Tại thời điểm cuối năm, lãi suất cho vay
USD đối với các khoản vay ngắn hạn là 4,2-4,8%, đối với các khoản vay trung dài hạn
là 5,0-6,0%.
g. Năm 2017:
NHNN tiếp tục tập trung triển khai các giải pháp giảm lãi suất cho vay nhằm góp
phần hỗ trợ doanh nghiệp và tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện lãi suất chịu áp lực
18


gia tăng trong 6 tháng đầu năm 2017, NHNN đã nỗ lực điều hành CSTT đảm bảo
thanh khoản cho TCTD, duy trì lãi suất liên ngân hàng ở mức hợp lý, góp phần ổn
định và giảm mặt bằng lãi suất thị trường.
Từ ngày 10/7/2017, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo chỉ đạo của Chính phủ,
trên cơ sở diễn biến lạm phát có chiều hướng tăng chậm và có khả năng kiểm soát theo
mục tiêu 4% được Quốc hội đề ra, hoạt động các TCTD diễn biến tích cực, NHNN đã
giảm 0,25%/năm các mức lãi suất điều hành; giảm 0,5%/năm trần lãi suất cho vay
ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên.
Kết quả, các TCTD đã giảm 0,5%/năm lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh
vực ưu tiên; tích cực giảm lãi suất thông qua một số chương trình tín dụng hỗ trợ phát
triển doanh nghiệp với lãi suất thấp hơn trần của NHNN (thấp hơn khoảng 0,51%/năm); giảm lãi suất một số chương trình cho vay trung dài hạn đối với lĩnh vực ưu
tiên xuống còn khoảng 8%/năm; triển khai các gói tín dụng ngắn hạn và trung dài hạn
đa dạng với lãi suất ưu đãi cho các ngành thiết yếu trong phát triển kinh tế và an sinh
xã hội; áp dụng lãi suất cho vay ngắn hạn đối với khách hàng có tình hình tài chính
lành mạnh, xếp hạng tín nhiệm cao khoảng 4-5%/năm.
h. Năm 2018,
Theo Nghị quyết 01/NQ-CP của Thủ tướng Chính phủ ngày 1/1/2018 và định
hướng của Ngân hàng Nhà nước, giảm lãi suất cho vay tiếp tục là một trong những

mục tiêu trọng tâm trong năm 2018.

Tuy nhiên, lãi suất vay ngân hàng năm 2018 có xu hướng giảm không chỉ bởi có
chủ trương, chỉ đạo của Chính phủ hay Ngân hàng Nhà nước mà còn bởi sự tác động
tích cực của Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu.
Cụ thể, Nghị quyết đã mở ra cơ chế xử lý triệt để hàng trăm nghìn tỷ đồng nợ
xấu tồn tại từ nhiều năm trước. Việc giải quyết được những món nợ xấu đã góp phần
19


giúp các ngân hàng bổ sung thêm các nguồn thu lớn, tạo tiền đề tài chính vững chắc để
có thể quyết tâm giảm lãi suất.
Tuy nhiên, lãi suất huy động và tỷ giá đều có xu hướng tăng mạnh bắt đầu từ quý
III và tiếp tục kéo dài đà tăng sang các tháng của quý IV. Theo số liệu của Viện Chiến
lược ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước, đối với lãi suất huy động, tính đến hết tháng
10, lãi suất 3 tháng giảm 0,01 điểm % so với cuối năm 2017; lãi suất 6 tháng tăng từ
0,11 - 0,14 điểm % so với cuối năm 2017; lãi suất 12 tháng tăng từ 0,07 đến 0,14 điểm
% so với cuối năm 2017.
Đối với lãi suất liên ngân hàng, tính đến ngày 31/10/2018, lãi suất liên ngân hàng
đã tăng ở tất cả các kỳ hạn so với đầu năm, tăng trong khoảng từ 1,9 – 3,39 điểm phần
trăm ở các kỳ hạn ngắn và từ 0,01 – 0,62 điểm phần trăm đối với các kỳ hạn từ 3 tháng
trở lên.
Đối với lãi suất cho vay, mặc dù chịu các áp lực từ việc tăng lãi suất huy động và
lãi suất trên thị trường liên ngân hàng kể từ khi bước vào quý III nhưng với những
chính sách điều hành linh hoạt, kịp thời của Ngân hàng Nhà nước (như bơm tiền qua
OMO, phát hành tín phiếu, ổn định lãi suất USD...), thị trường tiền tệ tiếp tục ổn định,
hỗ trợ cho việc giảm mặt bằng lãi suất cho vay trong nền kinh tế. Sau 10 tháng, lãi
suất cho vay nền kinh tế đã giảm so với cùng kỳ năm ngoái, cụ thể lãi suất đã giảm
khoảng 0,8 điểm % đối với lãi suất cho vay thông thường kỳ hạn ngắn và 0,3 điểm %
đối với lãi suất cho vay thông thường kỳ hạn dài. Hiện mặt bằng lãi suất cho vay VND

phổ biến ở mức 6 - 9%/năm đối với ngắn hạn; 9 - 11%/năm đối với trung và dài hạn.
Đối với tỷ giá, trong 10 tháng, tỷ giá trung tâm được điều chỉnh tăng trong 9
tháng và giảm trong 1 tháng với tổng mức tăng là 1,33%. Tỷ giá trung tâm được điều
chỉnh tăng mạnh nhất vào tháng 9, tăng 0,16%. So với cuối năm 2017, tỷ giá trung tâm
niêm yết vào cuối tháng 10/2018 là 22.726 đồng/USD, tăng 301 đồng/USD.
Đối với Nghiệp vụ thị trường mở
Tính đến cuối năm 2018, điều hành lãi suất theo lãnh đạo NHNN là đã phù hợp
với diễn biến kinh tế vĩ mô và tiền tệ; tập trung điều tiết và đáp ứng kịp thời nhu cầu
thanh khoản cho các TCTD. Theo đó, NHNN đã điều chỉnh giảm lãi suất chào mua
OMO từ 5%/năm xuống còn 4,75%/năm để góp phần giảm chi phí vốn cho TCTD.

20


Mặt bằng lãi suất của các TCTD năm 2018 về cơ bản ổn định, lãi suất cho vay phổ
biến khoảng 6-9%/năm đối với ngắn hạn, trung- dài hạn khoảng 9-11%/năm.
Tỷ giá và thị trường ngoại tệ ổn định, thông suốt, NHNN tiếp tục mua được
ngoại tệ bổ sung dự trữ ngoại hối.
i. Năm 2019-nay
Dự đoán về triển vọng thị trường tiền tệ năm 2019, theo các chuyên gia tài chính,
lãi suất tiếp tục chịu áp lực tăng trong năm 2019 do nhiều nguyên nhân. Thứ nhất,
FED nhiều khả năng sẽ tăng tiếp lãi suất trong năm 2019, đạt mức lãi suất điều hành
dự kiến là 3,5%. Thứ hai, lạm phát trong năm 2019 có thể sẽ tăng cao hơn 2018, tạo ra
áp lực tăng lãi suất tiền gửi với hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, các yếu tố rủi ro bên
ngoài như chính sách tiền tệ tại các quốc gia trên thế giới đang theo hướng thắt chặt
hơn, trực tiếp góp phần tăng chi phí vay mượn trên quy mô toàn cầu.
2.5.2.

Những kết quả đạt được


Như vậy, trong giai doạn 2011 đến nay, NHNN đã liên tục điều chỉnh giảm lãi
suất trên TTTT, góp phần kiểm soát lạm phát, tăng trưởng tín dụng theo đúng mục tiêu
của CSTT.Điều hành CSLS của NHNN ngày càng nâng cao được chất lượng tín dụng
của nền kinh tế. Đặc biệt, từ năm 2011 đến nay, tín dụng tuy tăng chậm hơn so với giai
đoạn trước đây, nhưng chất lượng tín dụng đã tăng cao, góp phần hỗ trợ tăng trưởng
kinh tế ở mức hợp lý. Việc điều hành lãi suất đã định hướng, dẫn dắt thị trường, đồng
thời có sự điều chỉnh linh hoạt, phù hợp với những diễn biến kinh tế vĩ mô và tiền tệ;
mặt bằng lãi suất cho vay và huy động đã giảm mạnh so với cuối năm 2010. Điều này
cho thấy, điều hành CSLS và tín dụng đã gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo
hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế, phù hợp với chủ trương giảm
dần tỉ trọng cung cấp vốn cho đầu tư phát triển từ hệ thống các TCTD, tập trung vốn
tín dụng ngân hàng cho lĩnh vực sản xuất, kinh doanh
2.5.3.

Những hạn chế trong việc điều hành chính sách lãi suất

Thứ nhất, hiệu lực, hiệu quả của các cơ chế điều hành lãi suất chưa cao. Nguyên
nhân là do năng lực tài chính, năng lực quản trị, khả năng cạnh tranh của các TCTD
không đồng đều, tính bền vững trong phát triển chưa cao. Trên thị trường có sự cạnh
tranh không lành mạnh, biểu hiện là tình trạng đua nhau tăng lãi suất cho vay và lãi

21


suất huy động của các NHTM, thậm chí có khi còn vượt trần lãi suất cho phép của
NHNN bằng việc sử dụng kỳ hạn ngắn.
Thứ hai, CSLS với các chính sách kinh tế vĩ mô khác chưa có sự phối hợp đồng
bộ, mâu thuẫn giữa mục tiêu của các chính sách vẫn thường xảy ra.
Bên cạnh đó, NHNN cũng không nắm được các khoản thu chi lớn của ngân sách
nhà nước, nên bị động trong việc kiểm soát cung tiền trước tác động của các dòng tiền

trong khu vực Chính phủ.
Thứ ba, việc điều hành CSLS của NHNN còn mang nặng tính hành chính. Trong
thời gian vừa qua, mặc dù đóng vai trò là một trong những công cụ quan trọng trong
việc bình ổn và định hướng thị trường trong điều kiện kinh tế bất ổn nhưng công cụ
LSCB đi đôi với cơ chế trần lãi suất vẫn là công cụ can thiệp trực tiếp đối với lãi suất
kinh doanh của NHTM. Chính vì vậy mà nó không tránh khỏi những hạn chế nhất
định.
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả của chính sách lãi suất trong thời gian
tới
3.1. Cần có sự phối hợp đồng bộ giữa chính sách lãi suất với các chính sách
kinh tế vĩ mô khác:
Hiện nay việc thực hiện CSLS nói riêng, CSTT nói chung còn tồn tại nhiều mâu
thuẫn và thiếu đồng bộ với chính sách tài khóa gây cản trở lớn cho việc thực hiện mục
tiêu chung của các chính sách kinh tế vĩ mô là thúc đẩy tăng trường kinh tế và kiềm
chế lạm phát. Tình trạng CSLS thì thắt chặt trong khi chính sách tài khóa lại nới lỏng
như đã từng xảy ra không những làm tính hiệu quả của công tác điều hành mà thậm
chí còn gây nên những hiệu ứng tiêu cực đối với nền kinh tế. Các giải pháp thực thi
chính sách tài khóa nếu được cân nhắc và phối hợp kịp thời với CSTT nói chung,
CSLS nói riêng thì các mục tiêu chính sách tài khóa đạt được sẽ là bước đệm tạo điều
kiện hỗ trợ tích cực cho việc thực thi CSLS.
3.2. Đảm bảo điều hành chính sách lãi suất linh hoạt và kịp thời:
Trong quá trình điều hành CSLS, lãi suất phải được điều hành một cách linh
hoạt, kịp thời, giảm thiểu các tác động tiêu cực đến tăng trưởng và tăng cường các tác
động nhằm kiềm chế lạm phát. Muốn vậy, NHNN cần có những quyết định nhanh

22


nhạy, sử dụng các công cụ một cách linh hoạt, hạn chế các biện pháp trực tiếp gây
sốc nền kinh tế.

Bên cạnh đó, cần phải xây dựng NHTW mạnh có tính độc lập cao so với chính
phủ. Thực tế cho thấy NHNN Việt Nam có mức độ độc lập thấp và chịu sự can thiệp
hành chính toàn diện của Chính phủ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm
hạn chế hiệu quả hoạt động của NHNN, nhất là trong việc thực hiện mục tiêu kiểm
soát lạm phát và ổn định TTTT thời gian qua. Vì vậy, nâng cao tính độc lập của
NHNN là một trong những điều kiện tiên quyết để tạo tiền đề căn bản trong hiệu quả
hoạt động và là nền tảng quan trọng bảo đảm trước hết NHNN thực sự là NHTW và
sau đó là tiến tới một NHTW hiện đại. Để làm được điều này, cần đổi mới cơ chế tổ
chức và cách thức hoạt động NHNN.
3.3. Tiến tới tự do hóa lãi suất ở Việt Nam:
Trong nền kinh tế hiện đại, tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế là vấn đề
mang tính chiến lược và là xu thế phát triển tất yếu, trong đó tự do hóa lãi suất đóng
vai trò là hạt nhân và làm cho các nguồn tài chính lưu thông thông suốt, từ đó thúc đẩy
kinh tế-tài chính VN hội nhập kinh tế thế giới. Tuy nhiên quá trình tự do hóa lãi suất
phải được xem xét kĩ lưỡng và tiến hành một cách thận trọng trong khi vẫn tiếp tục kết
hợp với những giải pháp nhằm hoàn thiện dần môi trường tự do hóa lãi suất.
Thứ nhất, việc tự do hóa lãi suất tiền gửi và cho vay ngoại tệ đã được tiến hành
tuy nhiên vẫn chưa thực sự đem lại hiệu quả cao. Hiện nay, các quy định khống chế lãi
suất tiền gửi tối đa bằng USD của khách hàng tại các TCTD là một rào cản đối với quá
trình tự do hóa lãi suất đã được bãi bỏ, tuy nhiên môi trường pháp lý cho việc tự do
hóa lãi suất ngoại tệ vẫn còn chồng chéo, chưa được nới lỏng, chưa thật sự thu hút
người gửi tiền và người đi vay.
Thứ hai, trên thị trường nội tệ lãi suất cho vay bằng đồng tiền VN không còn
bị khống chế song vẫn chưa được tự do hóa. Do vậy cần hình thành và hoàn thiện cơ
chếđiều hành lãi suất trên TTTT song song với việc thực hiện nhiều giải pháp nhằm
phát triển thị trường tiền tệ, đồng thời tiếp tục nâng cao hiệu quả của các công cụ lãi
suấtthông qua lựa chọn lãi suất định hướng phù hợp với mức độ phát triển của TTTT.

23



KẾT LUẬN
Diễn biến của CSLS qua từng thời kỳ đã cho thấy những bước phát triển nhất
định. Cơ chế điều hành đã dần chuyển từ kiểm soát trực tiếp sang kiểm soát gián tiếp,
phù hợp hơn với cơ chế thị trường và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, từng bước
tiến tới tự do hoá lãi suất. Tuy nhiên, điều hành CSLS còn bộc lộ nhiều tồn tại như
chậm thay đổi, kém linh hoạt, không sát sao với diễn biến vĩ mô của nền kinh tế; vẫn
còn nhiều can thiệp trực tiếp mang tính hành chính, các công cụ gián tiếp còn tỏ ra
kém hiệu quả. Do đó, bên cạnh những mặt tích cực đạt được thì có thể đánh giá hiệu
quả tác động của nó lên các biến số vĩ mô của nền kinh tế trong thời gian qua còn khá
hạn chế.
Trong thời gian trước mắt, NHNN cần tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp
điều hành CSLS nhằm hài hoà mục tiêu kiểm soát lạm phát và tăng trưởng kinh tế, đưa
nền kinh tế ra khỏi suy thoái, phục hồi và ổn định. Song song với đó, một điều rất quan
trọng là phải hoàn thiện cơ chế hình thành LSCB để xây dựng được một LSCB định
hướng thị trường. Do đó, về dài hạn, chúng ta phải xây dựng một hệ thống tài chính
minh bạch, vững mạnh cũng như một hệ thống thông tin chính xác, nhanh nhạy. CSLS
cũng phải được xây dựng trên nguyên tắc, ổn định trong dài hạn, linh hoạt kịp thời
trong ngắn hạn. Việc điều hành CSLS cũng phải hướng tới điều hành theo mục tiêu
lạm phát, tăng cường tính hiệu quả của các công cụ gián tiếp cũng như tăng tính độc
lập của NHNN; phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng với các chính sách vĩ mô khác đặc biệt
là chính sách tài khóa. Như vậy, CSLS sẽ đảm bảo được sự linh hoạt mà ổn định, nền
tảng cho một môi trường đầu tư và kinh doanh tốt cũng như cho sự tăng trưởng của
nền kinh tế.

24


×