Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp việt nam trong xu hướng toàn cầu hóa kinh tế hiện nay FTU nguyen thi phuong anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.42 KB, 16 trang )

PHẦN NỘI DUNG
I.

Một số vấn đề lý luận về toàn cầu hóa kinh tế
I.1.

Khái niệm về toàn cầu hóa kinh
tế

Xét về bản chất, TCH KT là sự gia tăng một cách mạnh mẽ và vượt ra khỏi biên
giới quốc gia mối liên kết các quan hệ và các hoạt động kinh tế trên một chỉnh
thể thị trường toàn cầu.
I.2.

Những biểu hiện chủ yếu của
toàn cầu hóa kinh tế

TCH KT là kết quả của sự phát triển kinh tế thế giới dưới tác động của cách
mạng khoa học công nghệ, sự phát triển và lớn mạnh không ngừng của các công
ty xuyên quốc gia, sự ra đời và vai trò ngày càng tăng của các tổ chức kinh tế thế
giới. TCH KT diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh, quy mô ngày càng lớn, mở
rộng ra hầu hết các lĩnh vực, lôi kéo hầu hết các nước trên thế giới tham gia.
TCH KT có các biểu hiện chủ yếu sau:
 Các nền kinh tế quốc gia đan xen tác động và tùy thuộc lẫn nhau ngày càng
chặt chẽ.
Có thể nói như trên bởi hiện nay, những vấn đề phát sinh tại một nước, trong
một khu vực không còn là vấn đề của riêng quốc gia hay khu vực đó, nó đã trở
thành vấn đề chung, mang tính toàn cầu và cần sự góp sức của nhiều quốc gia và
liên kết kinh tế mới có thể giải quyết. Khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng tài
chính tiền tệ hay một vấn đề chính trị ở một quốc gia sẽ dần ảnh hưởng trực tiếp
hoặc gián tiếp đến các nền kinh tế quốc gia xung quanh và thậm chí là nền kinh


tế thế giới.
 Sản phẩm mang tính chất quốc tế sâu sắc.
Tính chất quốc tế của hàng hóa biểu hiện ở chỗ một sản phẩm được làm ra ngày
nay là tập hợp của các nguyên liệu, các bộ phận chi tiết và cả công nghệ được
sản xuất tại nhiều quốc gia; nói cách khác là một sản phẩm hoàn thiện là có sự
góp công của nhiều quốc gia, không của riêng bất kỳ nước nào. Đây là kết quả
của quá trình chuyên môn hóa sản xuất, mỗi quốc gia chỉ tập trung vào sản xuất
những mặt hàng mà quốc gia đó có lợi thế và sau đó trao đổi với các quốc gia
1


khác để có những mặt hàng còn lại (hiện tượng thương mại quốc tế). Việc
chuyên môn hóa sản xuất các chi tiết giúp tận dụng nguồn lực các nước, làm
giảm chi phí sản xuất và từ đó giá cả thấp hơn. Điều này cũng góp phần làm
tăng mối liên hệ tác động, tùy thuộc giữa nền kinh tế các quốc gia.
 Những rào cản kinh tế ngăn cách giữa các quốc gia dần được dỡ bỏ, một thị
trường toàn cầu với những nguyên tắc, luật lệ thống nhất đang được hình
thành:
Tự do thương mại đang trở thành nội dung quan trọng của quá trình TCH KT.
Bằng chứng là, mục tiêu của hầu hết các thể chế kinh tế thương mại song
phương và đa phương, đặc biệt là WTO, đều tập trung giải quyết vấn đề tiếp cận
thị trường thông qua các cam kết về tự do hóa thương mại. Đây là quá trình dỡ
bỏ dần những rào cản trong các hoạt động thương mại, xóa bỏ sự phân biệt đối
xử, tạo lập sự cạnh tranh bình đẳng, nhằm làm cho hoạt động thương mại trên
phạm vi quốc tế ngày càng tự do hơn thông qua việc cắt giảm dần thuế quan;
giảm bớt và tiến tới loại bỏ hàng rào phi thuế quan, như hạn ngạch nhập khẩu,
giấy phép nhập khẩu, … và nhiều cản trở vô hình khác; bảo đảm cạnh tranh
công bằng và không phân biệt đối xử giữa các quốc gia khi tham gia thương mại
quốc tế.
 Sự ra đời và mở rộng của những liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu.

Trong những thập kỷ gần đây, nền kinh tế thế giới đã chứng kiến sự phát triển
nhanh chóng và mạnh mẽ của các hoạt động liên kết kinh tế quốc tế. Nhiều thỏa
thuận liên kết kinh tế đã được ký kết và đi vào hoạt động; hàng loạt các hợp tác
kinh tế hình thành và ngày càng có nhiều nước tham gia. Quá trình liên kết kinh
tế quốc tế diễn ra ở nhiều cấp độ khác nhau, từ liên kết song phương đến đa
phương, phát triển đến liên kết khu vực như: EU, ASEAN, NAFTA, OPEC,..
liên khu vực như APEC, ASEM và liên kết toàn cầu ( nổi bật là Tổ chức thương
mại thế giới WTO). Trong đó, liên kết khu vực đóng vai trò quan trọng hơn hẳn.
Nếu như vào năm 1956 đánh dấu sự ra đời của liên kết khu vực đầu tiên là Cộng
đồng kinh tế châu Âu (EU), thì trong thập kỷ 80 và 90 và của thế kỷ XX, liên
kết kinh tế khu vực đã trở thành làn sóng lan khắp các châu lục. Hiện nay trên
toàn thế giới có khoảng 24 tổ chức liên kết kinh tế khu vực có quy mô lớn với
những mức độ quan hệ khác nhau. Tầm ảnh hưởng của chúng lớn đến mức hầu
như không có quốc gia nào không là thành viên của một liên kế t kinh tế quốc tế,
nhiều quốc gia đồng thời là thành viên của nhiều tổ chức liên kết kinh tế khác
nhau. Và, nếu khi mới ra đời, GATT chỉ có 23 thành viên với lĩnh vực điều tiết
2


chủ yếu là trong thương mại hàng hóa và còn giới hạn ở vấn đề thuế quan, thì
đến nay, WTO (tổ chức thay thế cho GATT trước đây) đã là một tổ chức với hơn
160 thành viên đã mở rộng lĩnh vực điều tiết sang cả thương mại dịch vụ,
thương mại liên quan đến đầu tư, thương mại liên quan đến sở hữu trí tuệ, có
tầm quan trọng rất lớn đối với thương mại quốc tế.
I.3.

Tính hai mặt của quá trình toàn
cầu hóa kinh tế

I.3.1. Những tác động tích cực

– TCH KT thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của LLSX, đưa lại sự tăng trưởng
cao cho nền kinh tế thế giới. Trong đó, cơ cấu kinh tế thế giới có bước chuyển
dịch mạnh về chất: Tỷ trọng các ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ dựa vào
công nghệ cao và tri thức tăng mạnh. Đây là cơ hội và tiền đề hết sức quan
trọng cho sự phát triển và hiện đại hóa xã hội loài người. Các nước có nền kinh
tế chậm phát triển nhờ tham gia TCH KT họ có điều kiện tiếp nhận các nguồn
lực phát triển từ bên ngoài như vốn đầu tư nước ngoài, công nghệ chuyển giao,
kinh nghiệm tổ chức quản lý… khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
trong nước như lao động, đất đai, tài nguyên… thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng
kinh tế trong nước.
– TCH KT thực chất là mở rộng và phát triển thị trường toàn cầu. Sự giao
lưu hàng hóa thông thoáng hơn, hàng rào quan thuế và phi quan thuế bị dỡ bỏ,
nhờ đó trao đổi hàng hóa tăng mạnh, có lợi cho sự phát triển của các nước. Sự
phát triển mạnh mẽ thị trường toàn cầu dưới tác động của toàn cầu hóa đã cho
phép các nước đang và chậm phát triển có thể tận dụng các nguồn lực của
mình, nhất là nguồn lực lao động dồi dào để tạo ra lợi thế cạnh tranh trong một
số ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ.
– Dưới tác động của quá trình TCH, những thành tựu của khoa học – công
nghệ được chuyển giao nhanh chóng và ứng dụng rộng rãi tạo điều kiện cho
các nước đi sau trong sự phát triển kinh tế có điều kiện tiếp cận với những
thành tựu mới của khoa học – công nghệ để phát triển.
– Cùng với quá trình TCH KT, nguồn vốn đầu tư quốc tế tăng mạnh góp
phần điều hòa dòng vốn theo lợi thế so sánh tạo điều kiện cho các nước tiếp
cận được nguồn vốn và công nghệ từ bên ngoài, hình thành hệ thống phân công
lao động quốc tế có lợi cho cả bên đầu tư và bên nhận đầu tư.

3


– TCH KT thúc đẩy sự cải cách sâu rộng các nền kinh tế quốc gia và sự hợp

tác khu vực để các chủ thể này có thể nâng cao vị thế cạnh tranh và phát triển
được trong nền KTTT thế giới.
– TCH làm cho mạng lưới thông tin và giao thông vận tải bao phủ toàn cầu
góp phần làm giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả
kinh doanh, sự giao lưu thuận tiện nhanh chóng…
– TCH KT mang lại lợi ích nhiều mặt cho các tầng lớp dân cư. Mọi người có
điều kiện tận hưởng các sản phẩm và dịch vụ mới, rẻ từ khắp nơi trên thế giới.
Đặc biệt những người lao động ở các nước nghèo có cơ hội tiếp cận với thị
trường lao động quốc tế, tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế.
– Về mặt chính trị, quá trình TCH KT làm gia tăng tính tùy thuộc lẫn nhau
giữa các quốc gia có lợi cho cuộc đấu tranh vì hòa bình, hợp tác và phát triển.
Tóm lại, dưới tác động của TCH KT, thế giới ngày nay trở thành một thế
giới thống nhất trong đa dạng. Các nền văn hóa giao thoa, con người ngày càng
có điều kiện hướng tới sự phát triển toàn diện.
I.3.2.

Những tác động tiêu cực

Những tác động tiêu cực của quá trình TCH KT bắt nguồn từ nguyên nhân
cơ bản là các nước công nghiệp phát triển, nhất là Mỹ hiện còn chiếm ưu thế
trong nền kinh tế thế giới, thao túng quá trình TCH KT, lợi dụng quá trình TCH
KT để tăng cường bóc lột các nước nghèo thu lợi nhuận độc quyền cao. Có thể
nêu ra một số tác động tiêu cực sau đây của quá trình TCH KT:
– TCH KT thông qua tự do hóa thương mại thường đem lại lợi ích lớn hơn
cho các nước công nghiệp phát triển vì sản phẩm của họ có chất lượng cao, giá
thành hạ, mẫu mã đẹp, do đó có sức cạnh tranh cao dễ chiếm lĩnh thị trường.
Mặc khác, tuy nói là tự do hóa thương mại song các nước công nghiệp phát
triển vẫn áp dụng những hình thức bảo hộ công khai (như áp dụng hạn ngạch)
hoặc trá hình (như tiêu chuẩn lao động, môi trường…). Tuy có chuyển giao
công nghệ song các nước công nghiệp phát triển thường không chuyển giao

những thành tựu mới nhất mà thậm chí là chuyển giao những công nghệ lạc
hậu hoặc đã khấu hao hết giá trị vào các nước chậm phát triển. Điều này tác
động xấu đến sự phát triển kinh tế ở các nước chậm phát triển và dẫn đến nguy
cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế ở các nước này.
– TCH KT tác động trực tiếp đến lĩnh vực chính trị và an ninh quốc gia. Nó
tạo ra nguy cơ cho các nước chậm và đang phát triển bị lệ thuộc vào kinh tế, từ

4


đó dẫn đến lệ thuộc về chính trị, gây nguy hại đến chủ quyền dân tộc và an
ninh quốc gia.
– TCH KT làm trầm trọng thêm những bất công xã hội, làm sâu thêm hố
ngăn cách giàu nghèo trong từng nước và giữa các nước. Những nước được
hưởng lợi nhiều nhất trong quá trình TCH KT là những nước có nền KTTT
phát triển (Mỹ, EU, Nhật…), những nước chịu nhiều thiệt thòi nhất trong quá
trình TCH KT là những nước có nền kinh tế đang và chậm phát triển, các yếu
tố của KTTT chưa được hình thành đồng bộ.
– TCH KT có thể làm cho mọi hoạt động và đời sống con người trở nên kém
an toàn. Từ an toàn của từng con người, từng gia đình đến an toàn quốc gia và
an toàn của hệ thống thương mại, hệ thống tài chính toàn cầu.
– Do tác động của TCH KT các dòng hàng hóa, dịch vụ, vốn, công nghệ…
dễ lưu thông trên bình diện toàn thế giới. Song cũng chính vì vậy mà sự đổ vỡ
và “khủng hoảng” ở một khâu hoặc ở một nước nào đó theo hiệu ứng lan
truyền có thể làm rung chuyển đến tất cả các quốc gia và khu vực trên thế giới.
Cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ ở Châu Á năm 1997 là một ví dụ.
– TCH KT có thể giúp cho các nước công nghiệp phát triển lợi dụng việc trả
lương cao, các thiết bị nghiên cứu khoa học tốt, môi trường làm việc thuận lợi
để thu hút nhân tài từ các nước đang phát triển. Do vậy, nguy cơ chảy máu chất
xám là một hiểm họa thực sự của các nước đang phát triển trong cơn lốc của

TCH KT.

II. Phân tích, đánh giá thực trạng của các doanh nghiệp Việt
Nam trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế
I.1.

Việt nam trong xu hướng toàn cầu hóa kinh tế

Việt Nam là nước có nền kinh tế mới nổi, doanh nghiệp (DN) là bộ phận quan
trọng nhất, đóng góp quyết định đến tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước.
Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ thương mại với hơn 200 quốc gia và
vùng lãnh thổ trên toàn thế giới; Việt Nam cũng là thành viên của nhiều tổ chức
liên kết kinh tế trong khu vực và toàn cầu.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn gần 30 năm qua
đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, đã ký kết và thực thi các hiệp định mở
cửa thương mại quan trọng. Việt Nam đã gia nhập ASEAN (năm 1995), ký kết
Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA) (năm 2000), gia
nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO (năm 2007) và tham gia 8 Hiệp định
5


thương mại tự do (FTA) khu vực và song phương (Khu vực thương mại tự do
ASEAN (AFTA), Hiệp định khung về hợp tác kinh tế ASEAN - Trung Quốc và
Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN –Trung Quốc, Hiệp định thương mại
hàng hóa ASEAN - Hàn Quốc, Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện ASEAN Nhật Bản, Hiệp định thành lập Khu vực thương mại tự do ASEAN- Úc - Niu Dilân, Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Ấn Độ và Hiệp định
thương mại hàng hóa ASEAN - Ấn Độ). Việt Nam cũng đã ký kết Hiệp định đối
tác kinh tế Việt Nam- Nhật Bản (VJEPA) (năm 2008) và Hiệp định FTA song
phương Việt Nam – Chi Lê (năm 2011).
Đặc biệt gần đây nhất là năm 2018 và đầu năm 2019, Việt Nam đã thực hiện
thành công chiến lược hội nhập của đất nước nâng cao vai trò và vị trí của Việt

Nam trên trường quốc tế, thể hiện qua các Hiệp định thương mại tự do (FTA)
quan trọng như: Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
(TPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EU)
(EVFTA), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc thành thành viên
của Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) được kỳ vọng mang đến nhiều cơ hội
phát triển cho đất nước trong thời gian tới
I.2.
I.2.1.

Đánh giá thực trạng các doanh nghiệp Việt Nam trong xu hướng toàn
cầu hóa kinh tế hiện nay
Điểm mạnh của các doanh nghiệp Việt Nam

 Thứ nhất, có nguồn nhân lực dồi dào:
Thị trường trên 90 triệu dân, đa số là dân số trẻ, đây chính là sức hút của Việt
Nam với thị trường thế giới. Nguồn lao động dồi dào đổng nghĩa với giá nhân
công rẻ. Xét trên bình diện chung , giá lao động Việt Nam hiện ở mức thấp so
với các nước trong cùng khu vực , ví dụ như với Singapore và Bangkok. Một
trong những lợi thế quan trọng của các doanh nghiệp Việt Nam là có nguồn lao
động dồi dà, dân số trẻ, lao động cần cù chăm chỉ, do đó chi phí cho sản xuất sản
phẩm thấp tạo ưu thế về giá cho các sản phẩm công nghiệp. Đó cũng là nhân tố
thu hút sự đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp Việt
Nam.
 Thứ hai, các doanh nghiệp Việt Nam nên tận dụng lợi thế về văn hóa.
Điều mà các doanh nghiệp Việt Nam nhưng doanh nghiệp nước ngoài không
làm được là tìm hiểu kỹ nhu cầu của người Việt, văn hóa Việt; đáp ứng nhu cầu
đó, văn hóa đó thì chúng ta sẽ thắng trên sân nhà. Sự hiểu biết tường tận về văn
hoá Việt là "vũ khí" của họ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, bởi chúng ta
6



không thể dựng hàng rào với tất cả các doanh nghiệp nước ngoài mà không có
hàng rào quanh ta, chúng ta không thể cạnh tranh với người nước ngoài bằng
vốn liếng, công nghệ, kinh nghiệm quản lý …nhưng chúng ta có thể cạnh tranh
bằng văn hóa.Văn hóa là một thứ không dễ học, là rào cản lớn với bất cứ người
nước ngoài nào, kể cả người nước ngoài đã sống nhiều năm ở một nước.
 Thứ ba, môt trường đầu tư, các chính sách, biện pháp quản lý của nhà
nước đối với các doanh nghiệp trong nước.
Luật đầu tư 2005 ra đời có hiệu lực vào tháng 7/2006 là dấu hiệu tốt cho các nhà
đầu tư trong và ngoài nước tiến hành các hoạt động đầu tư đặc biệt là trong
ngành công nghiệpViệt Nam. Các chính sách bảo đảm đầu tư chung, khuyến
khích đầu tư hấp dẫn thể hiện thái độ cởi mở của nhà nước trong hoạt động đầu
tư. Tất cả tạo nên môi trường đầu tư thuận lợi cho hoạt động đầu tư tại Việt
Nam. Khi các nhà đầu tư bỏ vốn công nghệ, trình độ quản lý, tiến hành đầu tư
cho công nghiệp, các khu công nghiệp khu chế xuất, khu kinh tế, điều này
hứa hẹn đem lại nhiều mới mẻ cho sản phẩm cho công cuộc sản xuất của các
doanh nghiệp Việt Nam, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá dịch vụ nói chung và
sản phẩm nói riêng. Đây cũng là lợi thế cho các doanh nghiệp.
 Thứ tư, doanh nghiệp Việt Nam luôn rất năng động, họ có thể làm việc
nhiều hơn các đồng nghiệp ở những nước khác rất nhiều và trên hết chính là sự
tự giác sáng tạo, đổi mới. Họ tò mò và ham thích học hỏi. Tuy nhiên, họ có thể
trao đổi thêm kinh nghiệm và kiến thức với những đồng nghiệp trong nước.
Điểm mạnh của doanh nhân Việt là rất cần cù chịu khó, không ngại gian khổ,
khó khăn, sức làm việc tốt, khả năng chịu áp lực cao. Theo đánh giá thì đã có
trên 40 % doanh nghiệp áp dụng thành tựu khoa học công nghệ vào trong hoạt
động quản lý, trên 43% doanh nghiệp giảm tối đa biên chế quản lý; 73,7%
doanh nghiệp thực hiện các biện pháp tiết kiệm các chi phí gây lãng phí; nhiều
doanh nghiệp đã xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu
chuẩn ISO 9000 nhằm chủ động trong việc xây dựng quy trình công tác, hợp lý
hoá sản xuất, giảm biên chế hành chính, giảm chi phí quản lý.

Ở Việt Nam chỉ xét các doanh nghiệp có đăng ký thì tỷ lệ doanh nghiệp vừa và
nhỏ là trên 95%, làm cho nền kinh tế năng động: vì doanh nghiệp nhỏ và vừa có
quy mô nhỏ, nên dễ điều chỉnh hoạt động.
I.2.2.

Điểm yếu của các doanh nghiệp Việt Nam

 Thứ nhất, nguồn nhân lực chất lượng thấp
7


Lực lượng lao động chủ yếu vẫn là lao động giản đơn, khi có đến 65,3 % lao
động không qua bất kỳ trường lớp đào tạo nào (2011); năng suất lao động của
lao động Việt Nam hiện thấp hơn Indonesia 10 lần, Malaysia 20 lần, Thái Lan 30
lần, và Nhật Bản tới 135 lần. Khuyến cáo của TS. Christian H.M. Ketels, cố vấn
đặc biệt Học viện Chiến lược và Cạnh tranh Harvard: “Việt Nam sẽ bị mắc ở
mức phát triển hiện nay nếu không có giải pháp thay đổi nguồn nhân lực”.
 Thứ hai, do hoàn cảnh đất nước mới mở cửa và hội nhập, DN Việt Nam còn
thiếu kinh nghiệm trên thương trường, đặc biệt là kinh nghiệm xử lý các cơ hội
cũng như nguy cơ mang tính toàn cầu, khả năng chịu đựng các va đập, rủi
ro trong kinh doanh thấp, chưa thực sự am hiểu các thông lệ, luật phát kinh
doanh quốc tế... Hầu hết các DN Việt Nam không được đào tạo đầy đủ, cơ bản
kiến thức về kinh tế thị trường cạnh tranh và hội nhập toàn cầu. . Phần lớn doanh
nhân Việt có xuất phát điểm rất thấp về nhiều điều kiện để kinh doanh, gìờ đây
buộc phải cạnh tranh trong môi trường Hội nhập, họ đang phải nỗ lực rất nhiều.
 Thứ ba, doanh nghiệp Việt Nam thiếu kinh nghiệm quản lý, nhất là quản lý
các doanh nghiệp, tập đoàn lớn, phạm vi hoạt động trải rộng trên nhiều quốc
gia, trong đó, một số lại tự ti hoặc tự thoả mãn với những kết quả hiện tại.
Nhiều doanh nghiệp vẫn coi nhẹ nhân tố quản lý mà chỉ đề cao đến vốn và thị
trường. Đặc biệt, trong các tổ chức kinh tế có quy mô lớn và thuộc sở hữu nước

thì vấn đề cải thiện chất lượng quản lý diễn ra rất chậm. Thời gian qua chúng ta
đã tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp song tốc độ còn chậm, chưa đạt được
mục tiêu. Cổ phần hoá chỉ diễn ra trong nội bộ doanh nghiệp, bộ máy quản lý
sau cổ phần hoá không thay đổi, một bộ phận cổ đông chưa hiểu hết quyền lợi
và nghĩa vụ nên vai trò giám sát cũng như trách nhiệm còn hạn chế.
 Thứ tư, tầm nhìn của nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế, chưa có
chiến lược kinh doanh phù hợp, rõ ràng; sản xuất, dịch vụ vẫn chưa hướng tới
khách hàng; marketing còn yếu kém
 Thứ năm, khả năng liên kết, hợp tác, chia sẻ thông tin giữa các doanh nghiệp
kém, thậm chí là không có. Trên thế giới, việc liên kết để tạo thành các tập đoàn
khổng lồ có sức mạnh chi phối thị trường đã được tiến hành từ rất lâu. Thế
nhưng ở Việt Nam, điều này dường như vẫn không được nhiều doanh nghiệp
quan tâm.Vẫn kiểu mạnh ai nấy làm. Dường như lối làm ăn theo kiểu manh
mún, nhỏ lẻ đã ngấm sâu vào tâm lý của nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Hậu quả
là rất nhiều cơ hội lớn đã bị bỏ qua do đối tác nước ngoài đặt hàng lớn nhưng
8


DN không cókhả năng đáp ứng, trong khi lại không chịu liên kết với DN khác
cùng làm.

I.2.3.

Những cơ hội để hội nhập thành công

 Thị trường rộng lớn
Thị trường ở đây bao gồm cả thị trường tiêu thụ và thị trường yếu tố sản xuất.
Trong giao lưu thương mại, thị trường rộng lớn là cơ hội để các doanh nghiệp
tăng doanh thu và lợi nhuận từ việc buôn bán, trao đổi các sản phẩm hàng hóa,
dịch vụ,… của mình cho thị trường các nước khác trên thế giới. Các doanh

nghiệp có được môi trường kinh doanh thuận lợi và ổn định kể cả trên thị trường
thế giới và trong nước. Các nguyên tắc, quy định của các tổ chức liên kết kinh tế
quốc tế đều bảo đảm cho các doanh nghiệp có được cơ hội tiếp cận thị trường
xuất khẩu, đầu tư và sản xuất, kinh doanh với các điều kiện ổn định, minh bạch
và có khả năng dự đoán trước. Đặc biệt khi Việt Nam là thành viên của tổ chức
thương mại thế giới WTO thì những vướng mắc trong hàng rào bảo hộ: phi thuế
quan,.. phần nào được giải tỏa. Các nước tham gia vào sân chơi này phải mở cửa
thị trường để hàng hóa, sản phẩm được giao lưu buôn bán tự do, dễ dàng. Do đó,
Các doanh nghiệp Việt Nam cũng được lựa chọn và sử dụng các nguồn đầu vào
có chất lượng, giá cả hợp lý, tiết kiệm chi phí sản xuất…
 Thu hút vốn đầu tư, các nguồn tài trợ từ nước ngoài.
Các doanh nghiệp Việt nam thường xuyên đối mặt với khả năng tài chính hạn
hẹp do tiềm lực vốn đất nước chư đủ mạnh. Quá trình toàn cầu hóa với làn sóng
đầu tư mạnh mẽ của các chủ đầu tư nước ngoài, các nguồn tài trợ vốn từ các tổ
chức lớn như Ngân hàng thế giới (WB),…là cơ hội rõ ràng để các doanh nghiệp
Việt giải tỏa cơn khát vốn bấy lâu.
 Có điều kiện tiếp nhận công nghệ sản xuất và trình độ quản lý tiên tiến, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực.
Thông qua các dự án, các hợp đồng hợp tác kinh doanh, các doanh nghiệp Việt
Nam có cơ hội tiếp cận với công nghệ, máy móc hiện đại, cách quản lý tiên tiến
trong thời đại bùng nổ khoa học công nghệ như ngày nay, thêm vào đó là những
thuận lợi do toàn cầu hóa các doanh nghiệp có thể dễ dàng đổi mới công nghệ
sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm, công xuất sản xuất, nâng cao trình độ
quản
lý,… 
 Cơ hội khẳng định được vị thế của doanh nghiệp
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, Một thế giới kết nối, sự bảo hộ
thương hiệu được quan tâm, cùng các hình thức quảng cáo quảng bá sản phẩm,
dịch vụ đa dạng phong phú. Đây là cơ hội rõ nét để các doanh nghiệp khẳng
định vị thế, quảng bá, nâng tầm hình ảnh của mình trên trường quốc tế, với bè

bạn
các
nước.
Ví dụ: nhãn hiệu cà phê Trung Nguyên, may mặc Việt Tiến, Viettell...là nhưng
thương hiệu đã có vị thế của riêng mình. 
9


 Cơ hội giao lưu hợp tác, trao đổi học hỏi với các doanh nghiệp khác trên thế
giới.
 Toàn cầu hóa cũng tạo cơ hội cho các doanh ngiệp giao lưu văn hóa, học hỏi
kinh nghiệm, hợp tác quốc tế với thế giới, với các doanh nghiệp khác không chỉ
trong mà cả ngoài nước. 
I.2.4.

Những khó khăn, thách thức

 Thách thức bắt nguồn từ bản thân các doanh nghiệp
­  Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam hiện còn rất hạn chế
Các doanh nghiệp sẽ phải chịu gia tăng sức ép cạnh tranh của hàng hóa nhập
khẩu và các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài ngay tại thị trường nội địa. Bởi vì,
khi thị trường nội địa "mở cửa", các doanh nghiệp nước ngoài được tự do tham
gia buôn bán, cung cấp hàng hóa, dịch vụ như doanh nghiệp trong nước trên cơ
sở bình đẳng, không phân biệt đối xử. Bên cạnh đó, như đã nói ở trên, sự bảo hộ
của Nhà nước đối với doanh nghiệp cũng phải từng bước cắt giảm, xóa bỏ. Hàm
lượng tri thức và công nghệ trong sản phẩm Việt Nam thấp, yếu tố vốn trong cơ
cấu giá thành sản phẩm không cao, chủ yếu dựa vào yếu tố lao động hoặc điều
kiện tự nhiên, trong khi lợi thế về lao động hiện nay đang giảm dần. Trong khi
các hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu do nước ngoài cung cấp đa dạng, phong phú
với chất lượng và giá cả thấp hơn, các nhà cung cấp "trường vốn" hơn và dày

dạn kinh nghiệm trong cạnh tranh quốc tế, chưa nói tới tâm lý chung của người
tiêu dùng vẫn chủ yếu là "sính hàng ngoại". Nhiều doanh nghiệp trong nước có
nguy cơ bị mất thị phần của mình, thậm chí bị phá sản
- Vốn và con người
Đa số các doanh nghiệp Việt Nam đều có quy mô nhỏ và ít vốn, trong đó doanh
nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới 97% trong số doanh nghiệp. Theo Hiệp hội
Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam (Vinasme), các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Việt Nam có vốn dưới 1 tỉ đồng chiếm tới 41% trong khi doanh nghiệp có vốn
hơn 10 tỉ đồng chỉ chiếm 13%. Phần lớn các chủ doanh nghiệp và giám đốc
doanh nghiệp tư nhân chưa được đào tạo một cách bài bản về kiến thức kinh
doanh, quản lý kinh tế - xã hội, văn hóa, luật pháp, kỹ năng quản trị kinh doanh
… nhất là kỹ năng kinh doanh trong điều kiện hội nhập quốc tế, ứng phó với
những bất ổn trong môi trường kinh doanh mang tính toàn cầu.
Có thể lấy ví dụ với Luật Cạnh tranh của nước ta. Mặc dù Luật Cạnh tranh có
thể giúp cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa cạnh
tranh một cách bình đẳng trước các doanh nghiệp lớn, song vẫn chưa được
các doanh nghiệp quan tâm một cách đúng mức.
Khả năng tiếp cận vốn cũng là một trong những khó khăn đối với doanh nghiệp,
nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hiện tại, có đến 70% doanh nghiệp còn dựa
chủ yếu vào các nguồn vốn vay, trong khi đó quy định về mức lãi suất huy động
vốn của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng thương mại đang ở mức
14%/năm, lãi suất cho vay trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh từ 17% 18%/năm. Trên thực tế một số ngân hàng thương mại đã phá rào huy động vốn
bằng cách nâng mức lãi suất lên 15% - 19%/năm, tùy vào thời điểm và số lượng
10


tiền gửi. Hệ quả là lãi suất cho vay đã bị nâng lên trên 20%, gây khó khăn cho
các doanh nghiệp. Chưa kể, một số ngân hàng đặt ra nhiều loại phí, đã đẩy
mức lãi suất thật mà các doanh nghiệp phải vay tăng ngất ngưởng khiến sản xuất
kinh doanh gặp khó khăn và xáo trộn. Như vậy, khó khăn trong tiếp cận nguồn

vốn sản xuất của doanh nghiệp sẽ đẩy chi phí sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp lên cao, làm giảm hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam. 
-Sự lạc hậu về khoa học – công nghệ
Hiện nay, đa số các doanh nghiệp nước ta đang sử dụng công nghệ lạc hậu so
với mức trung bình của thế giới từ 2 đến 3 thế hệ. Xét về trình độ công nghệ,
không có doanh nghiệp Việt Nam nào đạt trình độ công nghệ hiện đại theo tiêu
chuẩn quốc tế; trong khi đó có 35% và 44% doanh nghiệp có trình độ công nghệ
trung bình, lạc hậu và rất lạc hậu; trình độ công nghệ khá cũng chỉ khiêm tốn ở
mức
21%.
Vì lý do lạc hậu về công nghệ nên chi phí sản xuất của doanh nghiệp luôn cao
hơn chi phí trung bình của thế giới từ 10 - 30%, trong khi chất lượng chưa tương
xứng khiến cho hàng hóa của Việt Nam rất khó cạnh tranh với các hàng hóa
cùng chủng loại của nước ngoài trên thị trường quốc tế, khu vực và ngay cả thị
trường trong nước. Phần lớn doanh nghiệp Việt Nam hoạt động chủ yếu trong
các ngành nghề truyền thống. Tỷ lệ doanh nghiệp hoạt động trong các ngành,
lĩnh vực hiện đại chưa nhiều: doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ tài
chính tín dụng chỉ chiếm 1,46%, kinh doanh tài sản và tư vấn chỉ chiếm 5,73%,
khoa học và công nghệ chiếm 0,02%. 
­ Sự

hạn chế về khâu nguyên vật liệu và sự yếu kém về thương hiệu các doanh
nghiệp
Đa số các doanh nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu nguyên vật liệu cho sản xuất
kinh doanh. Trong những năm qua, nhiều sản phẩm xuất khẩu và sản phẩm có sự
tăng trưởng cao (hàng da giày, dệt may, chế biến thực phẩm, đồ uống, sản phẩm
thép và kim loại màu, sản phẩm nhựa, hàng điện tử, ô tô, xe máy…) đều phụ
thuộc vào nguồn nguyên liệu bán thành phẩm nhập khẩu từ nước ngoài. Trong
khi đó, giá cả các loại nguyên vật liệu này trên thế giới có xu hướng gia tăng,
làm cho nhiều nhóm sản phẩm có tỷ trọng chi phí nguyên vật liệu khá cao,

chiếm hơn 60% giá thành sản phẩm. Đặc biệt là khi lạm phát trên thế giới tăng
cao, giá dầu mỏ liên tục đạt những kỷ lục mới đã khiến cho các doanh nghiệp
lâm vào tình trạng rất khó khăn, buộc phải thu hẹp quy mô sản xuất để có thể
tồn
tại được.
Mặt khác, rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa xây dựng được thương hiệu
mạnh, chưa khẳng định được uy tín chất lượng sản phẩm. Trên thực tế, trong
nhiều sản phẩm của Việt Nam yếu tố cấu thành của tri thức, công nghệ thấp,
trong khi yếu tố sức lao động và nguyên vật liệu cao… Ngành điều nước ta giữ
vị trí số 1 thế giới về xuất khẩu, theo đó, các doanh nghiệp Việt Nam phải khống
chế thị trường và quyết định giá cả hàng hóa. Tuy nhiên, thực tế hoàn toàn
ngược lại. DN trong nước chủ yếu làm công việc thu gom hàng, nếu có chế biến
11


thì chỉ chế biến thô, không xây dựng được thương hiệu, không có nhãn mác nên
các doanh nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào các nhà nhập khẩu. Điều đó làm cho
sức cạnh tranh thấp, các sản phẩm của Việt Nam không có ưu thế rõ rệt trên thị
trường.
­ Chiến lược phân phối, chiến lược truyền thông và xúc tiến thương mại của các
doanh nghiệp còn nhiều hạn chế
Hoạt động xúc tiến thương mại còn giản đơn, sơ lược và không có hiệu quả thiết
thực. Các doanh nghiệp mới chỉ chú trọng vào khâu sản xuất sản phẩm mà chưa
chú ý nhiều đến các khâu tạo nên giá trị gia tăng, như nghiên cứu và phát triển,
xúc tiến và tiếp thị… Hầu hết các doanh nghiệp chưa nhận thức đúng được giá
trị và ý nghĩa của xúc tiến thương mại, quảng cáo… Vì vậy, đầu tư về kinh phí,
nhân lực và các nguồn lực khác cho quảng cáo rất thấp, tổng thể mới chỉ dưới
1% doanh thu (tỷ lệ này của các doanh nghiệp nước ngoài chiếm khoảng 10%
đến 20% doanh thu). Do đó sức lan tỏa của hàng Việt đến từng người tiêu dùng
còn rất yếu, đặc biệt là người tiêu dùng ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng

sâu, vùng xa. Hàng hóa Việt Nam đang có nguy cơ thua ngay trên chính sân nhà
của mình.
  Thách

thức từ môi trường kinh doanh
 ­   Điểm yếu kém nhất trong môi trường kinh doanh Việt Nam hiện nay có thể
nói chính là cơ sở hạ tầng của nền kinh tế.
Việc nâng cấp các hạ tầng vật chất của Việt Nam vẫn còn nhiều thiếu sót và
chậm trễ, đặc biệt là trong việc phát triển cơ sở hạ tầng trọng yếu như các tuyến
đường giao thông liên tỉnh, cầu, phà, kho bãi, phương tiện chuyên chở… Những
yếu kém này đã làm tăng chi phí lưu thông, tăng thời gian không sản xuất của
doanh nghiệp và làm giảm đáng kể lợi nhuận cũng như những cơ hội đầu tư của
doanh nghiệp Việt Nam.
 ­ Mức nhập siêu trong nền kinh tế không những không giảm mà còn tăng mạnh.
Nhập siêu tháng sau luôn “lớn nhanh” hơn tháng trước. Đối với doanh nghiệp
sản xuất sản phẩm cùng loại tiêu thụ trong nước thì nhập siêu với quy mô lớn,
liên tục và trong thời gian dài như trên đã làm thu hẹp thị phần tiêu thụ sản
phẩm, gây khó khăn lớn về thị trường đầu ra cho doanh nghiệp.
 ­ Hiện nay thủ tục hành chính đang được Chính phủ, các ngành, các cấp cải tiến
theo hướng tiết giảm mạnh nhưng vẫn chưa thực sự hiệu quả với doanh nghiệp.
Bình quân mỗi năm một doanh nghiệp Việt Nam phải dành tới 1050 giờ cho các
thủ tục thuế, gấp hai lần bình quân các nước tiên tiến trong khu vực. Do đó vừa
làm tăng chi phí, tốn thời gian công sức, làm lỡ thời cơ của doanh nghiệp Việt
Nam và làm giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế trên trường quốc tế. 
­ Hiện tượng hàng giả, hàng nhái, hàng buôn lậu trốn thuế, doanh nghiệp ma,…
hiện chiếm tỷ trọng không nhỏ cũng là một yếu tố làm cho môi trường cạnh
tranh Việt Nam kém lành mạnh, gây thiệt hại lớn đối với doanh nghiệp làm ăn
chân chính.
Như vậy, môi trường kinh doanh của Việt Nam còn nhiều bất cập gây khó khăn
cho quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, đòi hỏi trong thời gian tới,

12


Chính phủ cần nỗ lực giải quyết những khó khăn nhằm thúc đẩy sản xuất, tăng
sức cạnh tranh cho sản phẩm, doanh nghiệp trong nước và nền kinh tế. 

III. Đề xuất những giải pháp phát triển cho các doanh nghiệp
Việt Nam trong xu hướng toàn cầu hóa kinh tế
I.1.

Giải pháp về phía Chính phủ

Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa của một loạt các hiệp định FTA thế hệ
mới với phạm vi cam kết rộng, mức độ cam kết sâu, những cơ hội và thách
thức đặt ra đối với DN dự kiến sẽ rất lớn. Các DN Việt Nam lại chưa có thông
tin và cũng chưa có sự chuẩn bị cần thiết cho việc tận dụng các cơ hội và vượt
qua các thách thức này. Và DN rất cần những hỗ trợ thông tin, tư vấn từ các
cơ quan Nhà nước liên quan. Do đó,Chính phủ cần có các biện pháp thích hợp
để tăng cường việc cung cấp thông tin và tư vấn cho DN, đặc biệt liên quan
tới Hiệp định TPP và Hiệp định EVFTA, bao gồm:
Thứ nhất, chỉ định các đơn vị có thẩm quyền trong việc hướng dẫn, giải thích
nội dung các cam kết một cách chính thức cho các DN.
Thứ hai, đặt ra cơ chế phối hợp bắt buộc giữa các cơ quan có chuyên môn về
các cam kết hội nhập với các đầu mối cung cấp thông tin, tư vấn cho DN như
Trung tâm WTO và Hội nhập (VCCI), để kịp thời hỗ trợ DN trong những
thông tin, tư vấn những về những vấn đề đòi hỏi chuyên môn sâu của cán bộ
đàm phán, thực thi. Trước mắt, liên quan tới việc phổ biến, truyên truyền các
cam kết các Hiệp định TPP, Hiệp định EVFTA, đề nghị Chính phủ chỉ đạo
Đoàn đàm phán và các bộ, ngành liên quan cử cán bộ có chuyên môn phối hợp
với VCCI trong các hoạt động như:

-Tổ chức các hội thảo, khóa đào tạo phổ biến, tuyên truyền cho DN về các
khía cạnh, lĩnh vực cam kết của các Hiệp định TPP và EVFTA;
-Tổ chức biên soạn các Cẩm nang hướng dẫn DN về các cam kết Hiệp định
TPP, Hiệp định EVFTA cụ thể trong từng ngành;
-Thiết lập đầu mối thông tin để cung cấp thông tin cho DN về các Hiệp định
TPP, Hiệp định EVFTA.
Thứ ba, hỗ trợ về nguồn lực cho các đầu mối cung cấp thông tin, tư vấn hội
nhập tương tự Trung tâm WTO và Hội nhập (VCCI). Chú ý chỉ hỗ trợ cho
những đầu mối chứng minh được rằng, hoạt động có hiệu quả, có sản phẩm và
kết quả cụ thể, cho phép công chúng/DN tiếp cận được thuận tiện nhất…
không hỗ trợ tràn lan lãng phí nguồn lực như giai đoạn trước đây.
Bên cạnh đó, Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước cần tăng cường sự hỗ
trợ về vốn, cơ chế, chính sách, luật pháp, xúc tiến thương mại, giáo dục - đào
tạo, tư vấn về thiết bị, công nghệ hiện đại… cho các doanh nghiệp - nhất là các
doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đồng thời, tăng cường hơn nữa vai trò của các hiệp
hội, các hội, các câu lạc bộ giám đốc và các tổ chức chuyên môn, nghiệp vụ đối
với sự phát triển của các doanh nghiệp.
13


Các hiệp định mở cửa thương mại thời gian qua và những hiệp định FTA thế
hệ mới sắp tới chắc chắn sẽ là một động lực mới, mang theo những cơ hội
chưa từng có cho nền kinh tế Việt Nam và các DN Việt Nam. Để những cơ
hội đó không bị chuyển hóa thành thách thức mà thực sự trở thành hiện thực
thì còn rất nhiều việc phải làm. DN sẽ phải là những người đầu tiên cần thay
đổi. Vấn đề cải thiện năng lực cạnh tranh sẽ là việc tiên quyết phải làm, do
vậy DN mong muốn Chính phủ hỗ trợ trong việc hiểu, nắm bắt và tận dụng
các cơ hội cũng như vượt qua những thách thức của hội nhập.
I.2.


Giải pháp về phía các doanh nghiệp

Trước những thách thức, khó khăn như đã phân tích, thì việc nâng cao năng lực
cạnh tranh là một yêu cầu cấp bách của doanh nghiệp và nền kinh tế.
Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
- Nâng cao trình độ học vấn, hiểu biết về kinh tế - xã hội, văn hóa, luật pháp…
cho các chủ doanh nghiệp, cán bộ quản lý và người lao động trong doanh
nghiệp, trong đó chú trọng đến vấn đề xây dựng văn hóa doanh nghiệp. Văn hóa
doanh nghiệp, tức là đạo đức trong kinh doanh, thể hiện ở sự làm giàu hợp pháp,
cạnh tranh lành mạnh, ứng xử của doanh nghiệp với người tiêu dùng, trách
nhiệm doanh nghiệp với xã hội để hướng tớiphát triển bền vững. Sự giàu có về
trí tuệ, về của cải và tính năng động sáng tạo là những giá trị xã hội mà mỗi
doanh nhân, mỗi doanh nghiệp cần phải có. Vì vậy, xây dựng văn hóa doanh
nghiệp, tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh, tích cực luôn là động lực thúc đẩy
sức sáng tạo và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp.
- Tăng cường năng lực của chủ doanh nghiệp, giám đốc và cán bộ quản lý trong
các doanh nghiệp về quản trị kinh doanh, quản trị chiến lược. Trong mọi điều
kiện, doanh nhân cần thường xuyên cập nhật tri thức mới, những kỹ năng cần
thiết (kỹ năng quản trị trong cạnh tranh, kỹ năng lãnh đạo doanh nghiệp, kỹ
năng quản lý sự biến đổi, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng đàm phán và giao tiếp,
kỹ năng dự báo và định hướng chiến lược phát triển v.v…) để có đủ sức cạnh
tranh trên thị trường và tiếp cận nền kinh tế tri thức.
- Để cạnh tranh với các doanh nghiệp và thị trường nước ngoài, cần phải thực
hiện phương châm liên kết và hợp tác giữa các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao
chất lượng sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Sự liên kết và hợp
tác sẽ tạo ra sức mạnh bội phần cho các nhóm doanh nghiệp, các tập đoàn kinh
tế cùng sản xuất, kinh doanh một (hoặc một số) sản phẩm nhất định và cùng
thực hiện chiến lược thương hiệu, xúc tiến thương mại và quảng bá sản phẩm
trên thị trường.


14


KẾT LUẬN
Hiện nay, toàn cầu hóa kinh tế là xu hướng khách quan, mang tính quy luật trong
quá trình phát triển của nền kinh tế thế giới, nó đang diễn ra mạnh mẽ cả về quy
mô và tốc độ. Thực tiễn cho thấy toàn cầu hóa kinh tế đang tác động sâu sắc đến
nền kinh tế của tất cả các quốc gia; bất kỳ một nền kinh tế nào muốn phát triển
đêug phải tham gia vào quá trình đó để giành lấy lợi ích tối đa có thể đạt được
cho đất nước mình.
Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại những cơ hội phát triển to lớn cho các doanh
nghiệp Việt Nam như: cơ hội mở rộng thị trường, tiếp cận công nghệ tiên tiến và
nguồn đầu tư để mở rộng sản xuất, cơ hội để khẳng định thương hiệu và nâng
cao vị thế trên thị trường quốc tế…từ đó thu được nhiều lợi nhuận góp phần phát
triển nền kinh tế quốc gia; tuy nhiên cũng đặt các doanh nghiệp trước những
thách thức, khó khăn không nhỏ như: áp lực cạnh tranh vô cùng khốc liệt, nguy
cơ bị phá sản, đình đốn nếu không tiến hành cải cách đổi mới lại hệ thống quản
lý và chiến lược phát triển….
Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải nhận thức thật đầy đủ và sâu sắc để có
những giải pháp phù hợp nhằm tận dụng được những cơ hội vượt qua thách
thức, biến những thách thức thành cơ hội để phát triển, đổi mới công nghệ, nâng
cao năng lực cạnh tranh, đứng vững trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Bùi Thị Lý (Chủ biên) (2009), Giáo trình Quan hệ kinh tế quốc tế,
NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
2. Đậu Anh Tuấn (2015), Giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp khi hội nhập.

3. giaoan.violet.vn , 29/07/2019, Khái niệm toàn cầu hóa kinh tế và bản chất
của toàn cầu hóa kinh tế, />4.

luanvanaz.com , 30/07/2019, Tính hai mặt của toàn cầu hóa kinh tế và
vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam, />
5.

text.xemtailieu.com, 30/07/2019, Những ảnh hưởng của toàn cầu hóa đến
hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam, />190540.html?
fbclid=IwAR2NdD8BvY1x0yz9XN_p47bHMhtAgqqK5NDU1rtf9XpqdJ
ayrfdX6ipfKAE.

6.

text.xemtailieu.com, 30/07/2019, Tác động của quá trình toàn cầu hóa
với các doanh nghiệp Việt Nam, />fbclid=IwAR3OztUWZhTAvDsArfDfIa7KzCNwd39dZ6skf0U72r7ojnjZUQ-g28x1IQ.

7.

tapchitaichinh.vn , 31/07/2019, Doanh nghiệp Việt Nam và vấn đề hội
nhập quốc tế, />fbclid=IwAR3UoHJvpnw_I_K4wdS7zIhCKXZBLEgLar5Cclc8WGU20e
o5lzrBIsFWTp8.

16



×