Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Phân tích tăng trưởng xanh ở việt nam từ mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, sử dụng năng lượng và phát thải khí CO2 giai đoạn 1985 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (509.64 KB, 28 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh nền kinh tế nước Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, để có thể
bắt kịp với các nền kinh tế trên thế giới, mục tiêu tăng trưởng kinh tế là ưu tiên hàng
đầu không chỉ với Việt Nam mà của tất cả các quốc gia trên thế giới. Kể từ khi thực
hiện quá trình đổi mới vào những năm 80 của thế kỷ trước, Việt Nam đã có nhiều
tiến bộ trong việc thay đổi bộ máy quản lý để đẩy nhanh được tốc độ tăng trưởng
kinh tế. Nhưng trong thời đại hiện nay, tăng trưởng không những nhanh mà còn phải
bền vững, vì vậy vấn đề môi trường cũng được đặt lên như một trong những quan
tâm hàng đầu của Đảng và nhà nước. Đến nay, mặc dù Việt Nam đã đạt được những
tiến bộ nhất định trong phát triển kinh tế, nhưng chất lượng năng suất, hiệu quả, sức
cạnh tranh còn thấp, mới phát triển theo chiều rộng chứ chưa tập trung sâu, trong
quá trình sản xuất còn sử dụng và khai thác một lượng tài nguyên chưa thật hợp lý
và tiết kiệm gây ra nhiều vấn đề về ô nhiễm môi trường.
Dựa trên tình hình trên, bài nghiên cứu này được thực hiện nhằm xem xét
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế Việt Nam thông qua quá trình sử dụng năng
lượng và phát thải khí CO 2 trong giai đoạn 1985 - 2013 và đưa ra một số giải pháp
cho vấn đề tăng trưởng xanh của Việt Nam.
Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
Đề tài này được tạo nên với mục tiêu phân tích mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế thông qua quá trình sử dụng năng lượng và phát thải khí CO 2 của Việt Nam
giai đoạn 1985-2013, kiểm định mức độ phù hợp với các lý thuyết đi trước về mối
quan hệ này.
Phương pháp nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu và thực hiện tiểu luận này chủ yếu sử dụng các phương
pháp:
Thu thập dữ liệu thứ cấp từ bảng dữ liệu: Các số liệu liên quan đến GDP bình
quân đầu người, mức độ sử dụng năng lượng và phát thải khí CO 2 của Việt Nam
trong giai đoạn 1985-2013 trên trang web của Tổng cục Thống kê và World Bank.
Phương pháp mô tả
Phương pháp định lượng, dùng dữ liệu thu thập được để thiết lập mô hình


hồi quy qua phần mềm STATA.
Dùng các bảng biểu, đồ thị miêu tả chỉ tiêu cần thiết cho việc phân tích
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Dựa vào số liệu thu thập được từ Tổng cục Thống kê và Ngân hàng Thế giới
(World Bank), đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Phân tích mối quan hệ giữa tăng
4


trưởng kinh tế Việt Nam thông qua quá trình sử dụng năng lượng và phát thải khí
CO2 trong giai đoạn 1985-2013.
Xem xét các chính sách đã thực thi của Chính phủ Việt Nam và đánh giá các
tác động của các Chính sách này đồng thời đưa ra một số giải pháp kiến nghị.

5


CHƯƠNG I: CÁC CƠ SỞ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN
1.1. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế (Economic Growth) là sự biến đổi kinh tế theo chiều
hướng tiến bộ, mở rộng quy mô về mặt số lượng các yếu tố của nền kinh tế trong
một thời kỳ nhất định nhưng trong khuôn khổ giữ nguyên về mặt cơ cấu và chất
lượng. Tăng trưởng kinh tế còn được định nghĩa là sự gia tăng về lượng kết quả đầu
ra của nền kinh tế trong thời gian nhất định. Tăng trưởng kinh tế có thể biểu thị
bằng số tuyệt đối (quy mô tăng trưởng) hoặc số tương đối (tỷ lệ tăng trưởng). Quy
mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử
dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa
các thời kỳ. Thu nhập của nền kinh tế có thể biểu hiện dưới dạng hiện vật hoặc giá
trị. Thu nhập bằng giá trị phản ánh qua các chỉ tiêu và được tính cho toàn thể nền
kinh tế hoặc tính bình quân trên đầu người.
Tăng trưởng kinh tế là cơ sở để cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống

con người và là tiền đề để phát triển các mặt khác của xã hội; làm cho mức thu nhập
của dân cư tăng, phúc lợi xã hội và chất lượng cuộc sống của cộng đồng được cải
thiện. Tăng trưởng kinh tế đồng thời tạo điều kiện giải quyết công ăn, việc làm,
giảm thất nghiệp (Quy luật Okun: GDP thực tế tăng 2,5% so với mức tiềm năng thì
tỉ lệ thất nghiệp sẽ giảm đi 1%). Tăng trưởng kinh tế cũng tạo tiền đề vật chất để
củng cố an ninh quốc phòng, củng cố chế độ chính trị, tăng uy tín và vai trò quản lí
của nhà nước đối với xã hội.
Trước đây, các nước tư bản thường lựa chọn mục tiêu tăng trưởng mạnh, tăng
trưởng nhanh cho con đường phát triển kinh tế. Những định hướng, động lực,
phương thức và các giải pháp đều ưu tiên cho mục tiêu tăng trưởng nhanh mà không
mấy quan ngại đến các hiệu ứng tiêu cực lên các vấn đề xã hội và môi trường, môi
sinh. Hay nói cách khác, theo cách lựa chọn này họ tập trung phần lớn nguồn lực
vào các chính sách đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng mà bỏ qua các nội dung xã hội.
Các vấn đề về bình đẳng, công bằng xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống chỉ
được đặt ra khi đạt được một mức tăng trưởng kinh tế/thu nhập cao nhất định. Dưới
góc độ thuần tuý về kinh tế, đây là mô hình thực nghiệm hiệu quả cho sự khởi sắc
kinh tế với tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân rất cao.
Tuy vậy, cũng từ những mô hình thực nghiệm này đã minh chứng cho những
hệ quả xấu, trở thành hệ luỵ cho sự phát triển các thế hệ sau; một mặt cùng với quá
trình tăng trưởng nhanh, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, xã hội ngày càng gay
gắt, các nội dung về nâng cao chất lượng cuộc sống thường không được quan tâm,
một số giá trị văn hoá, lịch sử truyền thống bị phá huỷ. Mặt khác, việc chạy theo
mục tiêu tăng trưởng nhanh trong ngắn hạn là nguyên nhân cơ bản của sự lãng phí
và dẫn đến cạn kiệt tài nguyên, vấy bẩn môi trường sinh thái. Ngược lại, có một số
quốc gia thực hiện mô hình nhấn mạnh vào bình đẳng và công bằng xã hội trước.
Theo đó, các nguồn lực phát triển, phân phối thu nhập cũng như chăm sóc sức khoẻ,
6


giáo dục, văn hoá được quan tâm và thực hiện theo phương thức dàn đều, bình quân

cho mọi ngành, mọi vùng và các tầng lớp dân cư trong xã hội. Đây là mô hình mà
các nước đi theo xã hội chủ nghĩa đã thực hiện, trong đó có Việt Nam.
Đối với các nước chậm phát triển như nước ta, tăng trưởng kinh tế còn là
điều kiện tiên quyết để khắc phục sự tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước đã
phát triển, nhanh chóng hội nhập với thế giới.
1.2. Tăng trưởng xanh
Khái niệm Tăng trưởng xanh được nhiều tổ chức định nghĩa khác sau:
- Theo Tổ chức Sáng kiến tăng trưởng xanh của Liên Hợp Quốc: Tăng
trưởng xanh hay xây dựng nền kinh tế xanh là quá trình tái cơ cấu lại hoạt động
kinh tế và cơ sở hạ tầng để thu được kết quả tốt hơn từ các khoản đầu tư cho tài
nguyên, nhân lực và tài chính, đồng thời giảm phát thải khí nhà kính, khai thác và
sử dụng ít tài nguyên thiên nhiên hơn, tạo ra ít chất thải hơn và giảm sự mất công
bằng trong xã hội.
- Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD (Organization for
Economic Co-operation and Development): Tăng trưởng xanh là thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế đồng thời đảm bảo rằng các nguồn tài sản tự nhiên tiếp
tục cung cấp các tài nguyên và dịch vụ môi trường thiết yếu cho cuộc sống của
chúng ta. Để thực hiện điều này, tăng trưởng xanh phải là nhân tố xúc tác trong việc
đầu tư và đổi mới, là cơ sở cho sự tăng trưởng bền vững và tăng cường tạo ra các cơ
hội kinh tế mới.
- Theo Ngân hàng Thế giới (World Bank): “Tăng trưởng xanh là quá trình
tăng trưởng sử dụng tài nguyên hiệu quả, sạch hơn và tăng cường khả năng chống
chịu mà không làm chậm quá trình này.”
Ở Việt Nam, tăng trưởng xanh được hiểu là sự tăng trưởng dựa trên quá trình
thay đổi mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế nhằm tận dụng lợi thế so sánh,
nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế thông qua việc nghiên cứu và
áp dụng công nghệ tiên tiến, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại để sử dụng
hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, ứng phó với biến đổi
khí hậu, góp phần xóa đói giảm nghèo và tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
một cách bền vững.

Tăng trưởng xanh là nội dung quan trọng của phát triển bền vững và là quá
trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa phát triển kinh tế – xã
hội và bảo vệ môi trường, đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại, nhưng không làm
ảnh hưởng đến các thế hệ tương lai. Tăng trưởng xanh được coi là một chương trình
toàn diện, tạo ra hướng tiếp cận mới trong tăng trưởng kinh tế, hướng tới phục hồi
và bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên, nuôi dưỡng cuộc sống của con người và giảm thiểu
tác động của biến đổi khí hậu. Chính vì vậy nhiều quốc gia trên thế giới đang tiếp
cận theo xu hướng mới này nhằm hướng tới phát triển bền vững.
7


1.3. Đường cong KUZNETS và mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với
chất lượng môi trường
1.3.1. Đường cong Kuznets về môi trường
Đường cong Kuznets được nhà kinh tế học Simon Kuznets giới thiệu vào
năm 1954 nhằm mô tả mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và bất bình đẳng thu
nhập. Đến năm 1991, đường cong Kuznets bắt đầu được sử dụng để biểu thị mối
quan hệ giữa thu nhập bình quân đầu người và chất lượng môi trường qua thời gian.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế thể hiện ở
thu nhập bình quân đầu người và suy thoái môi trường tuân theo quy luật đường
cong Kuznets dạng chữ U ngược. Mối quan hệ dạng chữ U ngược hàm ý rằng, suy
thoái môi trường sẽ tăng lên trong các giai đoạn đầu của phát triển kinh tế, nhưng
sau đó suy thoái sẽ đạt đến mức đỉnh tại ngưỡng chuyển đổi (turning point); và mức
suy thoái môi trường bắt đầu giảm khi mức thu nhập bình quân đầu người của quốc
gia vượt một ngưỡng thu nhập nhất định nào đó. Trong trường hợp này, đường cong
biểu thị mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chất lượng môi trường được gọi là
đường cong Kuznets môi trường (EKC).

Hình 1: Đường cong Kuznets về môi trường
Về bản chất, đường cong Kuznets có thể hiểu rằng: vào thời kỳ đầu của quá

trình công nghiệp hóa, ô nhiễm thường tăng lên nhanh chóng do các quốc gia
thường ưu tiên cho các hoạt động sản xuất, phát triển kinh tế trong khi chất lượng
không khí hay chất lượng nguồn nước ít được quan tâm. Ở giai đoạn này, công
nghiệp càng phát triển, các nguồn tài nguyên ngày càng bị khai thác và phát thải
nhiều hơn các chất ô nhiễm làm chất lượng môi trường ngày càng suy giảm. Tuy
nhiên, ở các thời kỳ sau của công nghiệp hóa, khi thu nhập được cải thiện, người
dân có ý thức hơn về chất lượng môi trường xung quanh cũng như các nhà hoạch
định chính sách quan tâm hơn đến môi trường của quốc gia, các công nghệ sạch,
8


công nghệ tiên tiến vì vậy được ưu tiên nghiên cứu và khuyến khích sử dụng nhằm
cải thiện chất lượng môi trường.
1.3.2. Mối quan hệ đánh đổi giữa tăng trưởng kinh tế với chất lượng
môi trường
Có những lý thuyết đánh đổi khác nhau biểu hiện mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và chất lượng môi trường.
Lý thuyết giới hạn xem xét khả năng vi phạm ngưỡng môi trường trước khi
nền kinh tế đạt tới điểm chuyển đổi EKC (hình 2.2a). Nhà bình luận Arrow và đồng
sự (1996) cho thấy nguy cơ của những thay đổi nhỏ có thể gây ra thiệt hại nghiêm
trọng, nghĩa là nếu chỉ tập trung vào tăng trưởng kinh tế để cải thiện môi trường có
thể gây phản tác dụng. Chẳng hạn như, trong bối cảnh của sự đa dạng sinh học, tăng
chi phí để bảo tồn đa dạng các loài sẽ không thể tái tạo ra các loài tuyệt chủng . Lý
thuyết giới hạn định nghĩa mối quan hệ kinh tế - môi trường về khía cạnh thiệt hại
môi trường khi chạm ngưỡng trên mà tại đó sự sản xuất có ảnh hưởng xấu đến nền
kinh tế.
Một lý thuyết khác đặt vấn đề sự tồn tại của ngưỡng chuyển đổi, và xem xét
khả năng thiệt hại môi trường sẽ gia tăng khi nền kinh tế phát triển (hình 2.2b) .
Điều này tương tự với “quan điểm những chất độc hại mới” , khi mà sự phát thải
chất gây ô nhiễm hiện tại đang giảm xuống đi kèm với tăng trưởng kinh tế tăng cao,

tuy nhiên, những chất gây ô nhiễm mới thay thế cho chúng lại tăng lên.
Stern (2004) đề cập đến mối quan hệ có thể xa hơn giữa tăng trưởng kinh tế
và môi trường trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế. Cạnh tranh quốc tế ban đầu làm
gia tăng thiệt hại môi trường, đạt tới điểm mà các quốc gia phát triển bắt đầu giảm
tác động môi trường của họ đồng thời “thuê” các nước nghèo hơn thực hiện các
hoạt động gây ô nhiễm. Trong trường hợp kịch bản tốt nhất, kết quả thực tế cho thấy
tình trạng không cải thiện. Mô hình này còn được gọi là “cuộc đua xuống đáy”.

Hình 2: Quan điểm đánh đổi trong mối quan hệ giữa kinh tế và thiệt hại môi
trường
9


Nhận xét:
- Ở mức thu nhập thấp, việc giảm nhẹ ô nhiễm khó có thể thực hiện được bởi
các cá nhân thường có xu hướng sử dụng khoản thu nhập hạn hẹp để đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng cơ bản của mình.
- Khi mức thu nhập đạt đến mức độ nhất định, các cá nhân bắt đầu xem xét
đến việc cân nhắc lựa chọn giữa chất lượng môi trường và tiêu dùng, dẫn đến thiệt
hại môi trường gia tăng nhưng với tốc độ thấp hơn;
- Sau khi đạt đến ngưỡng chuyển đổi, chi tiêu cho việc xử lý chất thải sẽ tăng
cao, bởi vì mỗi cá nhân đều mong muốn cải thiện chất lượng môi trường bằng việc
tiêu dùng nhiều hơn và chất lượng môi trường bắt đầu được cải thiện cùng với sự
tăng trưởng kinh tế.

10


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
MỨC PHÁT THẢI KHÍ CO2 CÙNG SỬ DỤNG NĂNG

LƯỢNG TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1985-2013
2.1. Đặc điểm tăng trưởng kinh tế và sử dụng năng lượng của Việt Nam giai
đoạn 1985-2013
2.1.1. Tăng trưởng kinh tế
Kể từ khi đổi mới đến nay, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá
nhanh, nhanh chóng đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia lạc hậu kém phát
triển thành quốc gia đang phát triển với thu nhập trung bình. Tính chung giai đoạn
1985 – 2013, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt trung bình 6,44% (WB,
2020). Tuy vậy, mức tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người mới đạt 4,94%
trong giai đoạn này (WB, 2020). Cụ thể tình hình tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc
độ tăng GDP/người của Việt Nam giai đoạn 1985 – 2013 như sau:

Nguồn số liệu: World Bank 2020.

Từ biểu đồ ta có thể quan sát thấy rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam và tốc độ tăng GDP/người tăng giảm cùng nhau qua một số thời kì nhất định.
Giai đoạn 1985 – 1991 khi đất nước ta mới cải cách lại hệ thống kinh tế, nền kinh tế
nước ta chuyển từ kế hoạch tập trung sang cơ chế thị trường khiến cho nền kinh tế
gặp khủng hoảng do khó khăn trong việc chuyển đổi kéo theo đó là tốc độ tăng
11


trưởng bất ổn, có lúc giảm sâu. Đây là giai đoạn rất cần các chính sách ổn định nền
kinh tế của nhà nước. Tiếp theo đó là giai đoạn phát triển thành công của Việt Nam
nhờ việc chuyển đổi cơ cấu sang kinh tế thị trường trước đó, tuy nhiên kéo theo đó
là sự gia tăng lạm phát vào giai đoạn 1995-1996, cộng với cuộc khủng hoảng tài
chính Châu Á 1997 – 1999 khiến tốc độ gia tăng kinh tế của Việt Nam giai đoạn này
bị chậm lại. Nền kinh tế sau đó lại phục hồi và tăng trưởng đều từ những năm 2000
cho đến cuộc đại khủng hoảng kinh tế toàn cầu vào năm 2008 – 2009, và khiến tốc
độ tăng trưởng bị sụt giảm trong các năm tiếp theo.

2.1.2. Sử dụng năng lượng – một trong những yếu tố cho tăng trưởng
Tăng trưởng nhanh trong những năm trước đây cũng đã bộc lộ ra những vấn
đề mang tính cơ cấu. Chất lượng và tính bền vững của tăng trưởng kinh vẫn là vấn
đề gây quan ngại, một số năm tăng trưởng cao như 1992 - 1997, hoặc 2005 - 2007,
nhưng lại đan xen những năm tăng trưởng thấp như 1998 - 2001, hoặc 2008 - 2012.
Xu hướng chung của tăng trưởng là tốc độ tối đa và tốc độ bình quân của các thời
kỳ giảm dần. Việc tăng trưởng kinh tế sử dụng và dựa quá nhiều vào vốn, lao động
đặc biệt là tài nguyên, năng lượng, nguyên nhân là do phần lớn cơ sở sản xuất còn
lạc hậu. Điều này không chỉ khiến các sản phẩm sản xuất của Việt Nam có giá trị
không cao khi xuất khẩu sang các thị trường nước ngoài mà còn khiến các nguồn
lực quý giá như năng lượng và tài nguyên bị khai thác triệt để và có nguy cơ can
kiệt dần và đang trở thành thách thức rất lớn khi Việt Nam thực hiện chiến lược tăng
trưởng xanh, hướng đến mục tiêu phát triển nền kinh tế Việt Nam bền vững và lâu
dài với năng suất sản xuất ngày một tăng cao đồng thời vẫn giữ vững một môi
trường lành mạnh để phát triển đất nước. Cụ thể, tình hình sản xuất sản phẩm quốc
nội tính trên đơn vị năng lượng sử dụng được thể hiện như biểu đồ sau:

1
2


Tốc độ tăng trưởng kinh tế và tổng sản phẩm quốc nội tính trên mỗi
đơn vị sử dụng năng lượng của Việt Nam giai đoạn 1985 - 2013
12

10

8
Tốc độ tăng trưởng GDP (%)
6


4

GDP trên mỗi đơn vị năng
lượng sử dụng (Theo sức mua
tương đương cho mỗi kg dầu)

2

0

Nguồn số liệu: World Bank 2020.
Giá trị sản xuất của nền kinh tế tính cho mỗi đơn vị năng lượng sử dụng và tỉ
lệ sử dụng năng lượng hóa thạch trong nền kinh tế tăng lên khá nhanh, đồng thời xu
hướng tăng này còn mang tính bền vững cho dù có sự lên xuống của tăng trưởng
kinh tế. Đặc biệt tỉ lệ sử dụng năng lượng so với tổng nguồn năng lượng sử dụng
trong nền kinh tế còn có xu hướng tăng theo các năm. Cụ thể, nếu như năm 1985, tỉ
lệ sử dụng năng lượng hóa thạch so với tổng nguồn năng lượng sử dụng trong nền
kinh tế chỉ ở mức 29,57% thì đến năm 1995 đã là 37,4%, đến năm 2005 đạt tỉ lệ là
60,73% và đạt 71,05% trong năm 2011. Rõ ràng việc sử dụng năng lượng hóa thạch
ngày càng nhiểu trong nền kinh tế là những vấn đề đáng quan tâm trong quá trình
chuyển dịch mô hình tăng trưởng xanh. Việc này đòi hỏi chúng ta phải cải thiện cơ
sở hạ tầng sản xuất để tối ưu mức sử dụng năng lượng và mang lại năng suất làm
việc cao nhất. Tỉ lệ tiêu thụ năng lượng hóa thạch trong tổng năng lượng tiêu thụ
của Việt Nam giai đonạ 1985 – 2013 như sau:

13


Nguồn số liệu: World Bank 2020.


Việc sử dụng quá nhiều các dạng năng lượng và nguyên liệu hóa thạch của
nền kinh tế đã làm cho lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính và đặc biệt là lượng khí
CO2 thải ra ảnh hưởng xấu đến môi trường.
2.1.3. Mức phát thải khí CO2 cho môi trường
Với việc sử dụng quá nhiều các dạng năng lượng với phần lớn tỉ trọng là các
nguyên liệu hóa thạch của nền kinh tế đã làm cho lượng khí CO 2 thải ra ở Việt Nam
tăng với tốc độ khá cao và đáng quan ngại. Cụ thể, năm 1985 lượng khí CO 2 thải ra
đạt 0,3595 tấn/người thì đến năm 2010 đã lên đến 1,7281 tấn/người. Trung bình
trong giai đoạn này mỗi người dân thải ra 0,74 tấn CO2. Theo Báo cáo thống kê năm
2013 của Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ thải CO 2 trong công nghiệp chế biến và xây
dựng tại nước ta cao hơn nhiều so với mức bình quân thế giới, cụ thể 33,69% so với
21,22%. Nếu xem xét giá trị sản xuất của nền kinh tế tạo ra tính cho một đơn vị chất
CO2 thải ra thì con số này cũng đã có sự biến động đáng kể. Năm 1990 để tạo ra 1
USD (theo sức mua tương đương năm 2005) nền kinh tế thải ra 0,3335 kg CO 2, thì
đến năm 2010 đạt 0,3928 kg CO2. Diễn biến về lượng thải CO2/người và CO2/GDP
được trình bày trong biểu đồ sau:

14


Nguồn số liệu: World Bank 2020.

Trong các nguồn thải CO2 trong nền kinh tế của Việt Nam thì ba lĩnh vực hầu
như luôn luôn dẫn đầu từ năm 1991 đến nay đó là: ngành công nghiệp và xây dựng,
kế đến là ngành sản xuất nhiệt điện và khí thải từ các phương tiện giao thông. Việc
chậm đổi mới và sử dụng các công nghệ lạc hậu của phần lớn các doanh nghiệp
đang là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên. Một nguyên nhân
nữa là việc kiểm soát lỏng lẻo của chính quyền một số địa phương trong việc kiểm
soát lượng xả khí thải trong sản xuất khiến lượng khi CO2 thải ra từ các ngành

đặc thù này rất cao trong một thời gian dài
.
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng năng lượng và phát thải khí CO2
Các yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng năng lượng
(1) Gia tăng dân số
Dân dụng là ngành tiêu thụ năng lượng lớn thứ hai chỉ sau công nghiệp. Tỷ
trọng của ngành trong tổng tiêu thụ năng lượng năm 2010 là 33,4% giảm từ 48,8%
năm 2000. Tốc độ tăng của ngành dân dụng là 2,8% trong giai đoạn 2001-2010.
Năng lượng tái tạo sinh khối vẫn còn là nguồn năng lượng chính sử dụng trong các
hộ gia đình ở nông thôn. Do đó dân số gia tăng là một yếu tố tác động không nhỏ
khiến cho việc nhu cầu sử dụng năng lượng ngày một tăng cao.
(2) Công nghiệp

15


Công nghiệp là khách hàng tiêu thụ năng lượng lớn nhất chiếm 39,9% trong
tổng tiêu thụ năng lượng năm 2010, tăng 30,6% so với năm 2000. Các ngành công
nghiệp thép, vật liệu xây dựng, giấy, hóa chất là những ngành công nghiệp tiêu thụ
nhiều năng lượng nhất trong ngành công nghiệp.
(3) Giao thông vận tải
Tỷ trọng của ngành giao thông vân tải trong tổng tiêu thụ năng lượng tăng từ
14,7% năm 2000 lên 22% năm 2010 với tốc độ tăng là 11,2% trong cùng giai đoạn.
Các sản phẩm dầu như dầu diesel, xăng, và dầu nặng là các nhiên liệu chính sử dụng
trong ngành này.
(4) Ngành dịch vụ thương mại
Năm 2010, ngành dịch vụ thương mại với các dạng nhiên liệu tiêu thụ chính
là: điện, than và LPG chiếm 3,5% trong tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng, giảm
4,4% so với năm 2000. Tốc độ tăng trung bình giai đoạn 2001-2010 là 4,3%.
(5) Nông nghiệp

Nông nghiệp là khách hàng tiêu thụ năng lượng nhỏ nhất chiếm 1,2% trong
tổng năng lượng tiêu thụ cuối cùng ở năm 2010 và giảm 1,5% so với năm 2000.
Nhiên liệu sử dụng chính trong ngành nông nghiệp là: Điện, than, dầu nặng, dầu
diezen, và xăng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến việc phát thải khí CO2
Về thực tế phát thải CO2, Việt Nam là nước có tổng lượng phát thải thấp trên
toàn cầu, cụ thể là năm 2013 chỉ phát thải khoảng 259 triệu tấn CO 2 trong tổng số
36 tỉ tấn CO2 phát thải của thế giới (tương đương khoảng 0,72%). Ta sẽ phân tích
các yếu tố trong việc phát thải CO2 ở Việt Nam:
(1) Gia tăng dân số
Mức phát thải bình quân đầu người của Việt Nam thấp hơn Trung Quốc, Hàn
Quốc và Thái Lan, song đang tăng với tốc độ nhanh hơn so với các quốc gia này. Cụ
thể, mức phát thải bình quân đầu người đã tăng gần 6 lần, từ 0,3 tấn CO 2/người năm
1990 lên 1,71 tấn CO2/người năm 2010, trong khi Trung Quốc tăng 3 lần, Hàn Quốc
tăng 2,5 lần và Thái Lan tăng 2 lần (Profeta & Daniels 2005). Việc dân số liên tục
gia tăng sẽ làm tăng lượng phát thải CO 2 trong tương lai với một tốc độ đáng quan
ngại, do đó đòi hỏi nước ta phải có chính sách bình ổn dân số và nâng cao nhận thức
của người dân trong việc bảo vệ môi trường và giảm thiểu lượng khí thải trong sinh
hoạt thường ngày.
(2) Tiêu thụ năng lượng
Trong lĩnh vực năng lượng tại Việt Nam, CO 2 chủ yếu được phát thải từ quá
trình đốt nhiên liệu và phát tán trong quá trình khai thác, vận chuyển nhiên liệu.
Tổng lượng CO2 phát thải trong ngành năng lượng năm 2013 là 151,4 triệu tấn CO 2.
Trong đó, hoạt động đốt nhiên liệu xảy ra phổ biến ở các ngành sản xuất điện, công
nghiệp và xây dựng, giao thông vận tải, nông nghiệp/ lâm nghiệp/thủy sản và một
số ngành khác. Đây là hoạt động chủ yếu sinh ra CO2, chiếm khoảng 86,1% tổng
1
6



lượng phát thải CO2 toàn quốc. Trong đó, với việc tiêu thụ số lượng lớn nhiên liệu
(chiếm khoảng 60% tổng nhiên liệu tiêu thụ, các hoạt động giao thông vận tải cũng
phát thải một lượng không nhỏ CO2 vào trong khí quyển. Hiện nay, một năm trung
bình ngành giao thông vận tải phát thải khoảng 30 triệu tấn CO 2. Lượng phát thải
tăng nhanh qua các năm, tăng hơn 2 lần từ 12,58 triệu tấn CO 2 (năm 2000) lên 29,7
triệu tấn CO2 (năm 2013). Trong đó, phát thải giao thông đường bộ chiếm đến 90,9
%, phát thải giao thông đường sắt, đường thủy và đường hàng không chiếm gần
10%. Ngành hàng không dân dụng cũng có lượng phát thải CO 2 đáng kể và ngày
càng tăng.
(3) Quá trình và các sản phẩm công nghiệp
Đối với quá trình công nghiệp, các loại hình sản xuất công nghiệp chính sinh
ra CO2 là sản xuất xi măng, sản xuất vôi, sản xuất amoni và sản xuất sắt thép. Tổng
lượng CO2 phát thải trong sản xuất công nghiệp năm 2013 là 31,8 triệu tấn CO 2.
Trong đó, ngành sản xuất xi măng có lượng phát thải nhiều nhất, chiếm khoảng
88,8% tổng phát thải của sản xuất công nghiệp. Đây là ngành sử dụng rất nhiều
năng lượng và tạo ra nhiều khí thải do đòi hỏi nhiệt độ cực cao.
(4) Nông nghiệp
Theo kết quả kiểm kê CO2 năm 1994 của Bộ Tài nguyên và Môi trường,
lượng CO2 phát thải trong lĩnh vực nông nghiệp là 52,45 triệu tấn CO 2, chiếm
50,5% tổng lượng CO2 phát thải của cả nước. Đến năm 2013, lượng CO 2 phát thải
trong lĩnh vực nông nghiệp là 89,4 triệu tấn CO 2, chiếm 34,5% tổng lượng CO 2 phát
thải của cả nước. Trong đó, ngành Canh tác lúa và Đất nông nghiệp phát thải nhiều
nhất, chiếm tương ứng 50% và gần 27% tổng lượng phát thải trong lĩnh vực nông
nghiệp năm 2013 (MONRE 2017). Trồng lúa là ngành đóng góp lớn nhất vào tổng
lượng CO2 phát thải trong lĩnh vực nông nghiệp do đây là ngành phát thải lượng lớn
khí mê-tan (CH4) và ô xít ni-tơ (N2O).
(5) Sử dụng đất, thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp
Theo Hướng dẫn thực hành tốt trong lĩnh vực sử dụng đất, thay đổi sử dụng
đất và lâm nghiệp năm 2003, đất trên lãnh thổ Việt Nam được phân thành sáu loại
gồm đất rừng, đất trồng trọt, đất đồng cỏ, đất ngập nước, đất ở và các loại đất khác.

Phát thải/ hấp thụ CO2 trong lĩnh vực này là quá trình thay đổi trữ lượng các-bon
trong: i) sinh khối trên mặt đất và dưới mặt đất; ii) chất thải hữu cơ (cây chết, cành
lá rụng) và iii) đất. Lĩnh vực LULUCF đã bắt đầu chuyển dần từ việc phát thải CO 2
sang hấp thụ CO2 từ năm 2010. CO2 phát thải trong lĩnh vực này giảm từ 19,4 triệu
tấn CO2 năm 1994 xuống còn 15,1 triệu tấn CO 2 năm 2000. Trong khi lượng hấp thụ
CO2 tăng lên 34,2 triệu tấn CO 2 vào năm 2013. Trong đó, đất rừng và đất trồng trọt
là nguồn hấp thụ CO2 lớn nhất (MONRE 2017).
(6) Chất thải
Tại Việt Nam những năm gần đây mỗi năm có khoảng trên 15 triệu tấn chất thải rắn
được thải ra từ các nguồn khác nhau, trên 80% chất thải rắn là từ các khu đô thị. Tuy
nhiên, mới chỉ có trên 70% chất thải rắn ở khu vực đô thị và khoảng 20% ở 17


khu vực nông thôn được thu gom và xử lý. Trong khi phát thải CO 2 của lĩnh vực này
chủ yếu bao gồm: phát thải CH4 từ các bãi chôn lấp chất thải rắn được thu gom; từ
nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt; phát thải N2O từ bùn cống nước thải
sinh hoạt; phát thải CO2 và N2O từ quá trình đốt chất thải.
Nhìn chung, phát thải từ lĩnh vực chất thải chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. Tổng lượng
phát thải CO2 của lĩnh vực này năm 2013 là 20,7 triệu tấn CO 2, chiếm 7% trong cơ
cấu tổng phát thải quốc gia. Trong đó, nước thải đô thị có thị phần phát thải CO 2 lớn
nhất, chiếm 45,6%. Phát thải CH4 từ các bãi chôn lấp rác thải chiếm 35,9%
(MONRE 2017).
Số liệu về kiểm kê CO2 tính đến thời điểm này cho thấy năng lượng và nông
nghiệp là hai lĩnh vực hiện đang có tỷ trọng phát thải CO 2 lớn nhất. Song song với
phát triển kinh tế, phát thải từ năng lượng có xu hướng tăng nhanh trong những năm
tới cả về tổng lượng cũng như tỷ trọng trong cơ cấu phát thải CO 2. Dự báo đến năm
2020 và 2030, lĩnh vực năng lượng vẫn là nguồn phát thải CO2 lớn nhất.
Nhà nước ta cũng đã có một số tác động nhất định đến việc giảm thiểu lượng
phát thải CO2 của nền kinh tế. Thứ nhất là việc chuyển dịch cơ cấu năng lượng sang
sử dụng năng lượng tái tạo, năng lượng sạch thân thiện với môi trường và không

hoặc ít phát khí nhà kính. Thứ hai là dịch chuyển cơ cấu lao động từ công nghiệp
sang dịch vụ, cắt giảm sản xuất trong khu vực công nghiệp và tập trung phát triển
ngành dịch vụ. Tuy nhiên, ngành Dịch vụ chủ yếu hấp thụ lao động tay nghề thấp,
không giúp cho nền kinh tế phát triển bền vững trong dài hạn, đây cũng là một yếu
tố gây khó khăn cho các nhà hoạch định chiến lược của Việt Nam.

18


2.3. Kiểm định mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, sử dụng năng lượng
và chất lượng môi trường
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập số liệu: Dữ liệu trong nghiên cứu là dữ liệu theo thời
gian theo năm được thu thập từ báo cáo thường niên của Tổng cục Thống kê Việt
Nam và báo cáo tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam của Chính phủ.
Phương pháp định lượng (Các dữ liệu sau khi thu thập được xử lý và phân
tích trên phần mềm STATA)
Phương pháp định tính thông qua các biểu đồ xây dựng từ các dữ liệu thứ
cấp đã có đưa ra các nhận định.
2.3.2. Các nghiên cứu đi trước
Nghiên cứu của Sari và Soytas (2009) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa mức
phát thải khí carbon, thu nhập, năng lượng và tổng số việc làm trong các quốc gia
OPEC giai đoạn 1971 – 2002, trong đó tập trung chủ yếu vào xem xét mối quan hệ
giữa việc sử dụng năng lượng và thu nhập. Kết quả cho thấy không có bằng chứng
về mối quan hệ trong dài hạn. Nghiên cứu này cũng đã chỉ ra rằng không quốc gia
nào hy sinh tăng trưởng kinh tế để giảm lượng khí thải ngoại trừ Indonesia và
Nigeria.
He và Richard (2010) đã tập trung nghiên cứu về môi quan hệ giữa khí
Carbon dioxide (CO2) và tổng sản phẩm quốc nội bình quân đầu người ở Canada để
phản ánh đường Kuznets môi trường và đã cho ra những bằng chứng về mối quan

hệ này.
2.3.3. Xây dựng mô hình nghiên cứu
Dựa vào cơ sở lý thuyết cũng như các nghiên cứu từ trước, nhóm chúng em
đã tiến hành xây dựng 2 mô hình sau để nghiên cứu
Mô hình 1: Để xem xét ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế và sử dụng năng
lượng đến mức phát thải CO2 trong giai đoạn 1985-2013, nghiên cứu sử dụng mô
hình sau:
ln(CO2) = α0 + α1 ln(GDPpc) + α2 (lnGDPpc)2 + α3 ln(Energy) + u
Trong đó:
CO2: là mức phát thải khí CO2 bình quân đầu người của nền kinh tế
(tấn/người)
GDP: là thu nhập bình quân đầu người (USD)
Energy: Mức tiêu thụ năng lượng bình quân đầu người (tính theo sức mua
tương đương cho mỗi kg dầu)
u: là sai số ngẫu nhiên của mô hình
Mô hình 2: Để xem xét mối quan hệ giữa việc sử dụng năng lượng với thu
nhập bình quân đầu người của nền kinh tế, chúng em sử dụng mô hình sau:
ln(Energy) = β0 + β1 ln(GDPpc) + u
Trong đó:
GDPpc: là thu nhập bình quân đầu người (USD)
Energy: Mức tiêu thụ năng lượng bình quân đầu người (tính theo sức
mua tương đương cho mỗi kg dầu)
19


u: là sai số ngẫu nhiên của mô hình
2.3.4. Kết luận từ mô hình đã xây dựng
2.3.4.1. Kết quả thu được
Nhóm chúng em sử dụng phần mềm STATA hồi quy bằng phương pháp
OLS đã thu được kết quả sau:

- Đối với mô hình 1:
Source
Model
Residual
Total

SS
11,214975
0,120091048
11,3350661

Ln(CO2)

Hệ số ước
lượng

df
3
25
28

Ms
3,73832501
0,00483642
0,887538956

Sai số
chuẩn

Ln(GDPpc) 1,570003


0,222966

(lnGDPpc)2 -0,1320211

t

P>t

= 29
= 778,23
= 0,0000
= 0,9894
= 0,9881
= 0,06931

Khoảng ước lượng với
độ tin cậy 95%

0,000 1,110796

2,02921

0,0197737 -6,68

0,000 -0,172746

-0,091296

Ln(Energy) 1,965617


0,1055318 18,63

0,000 1,74827

2,182964

Hệ số chặn

0,7786224 3,87

0,000 1,333387

4,69761

3,015499

7,04

Số quan sát
F(3, 25)
Prob>F
R-squared
Adj R-squared
Root MSE

Theo kết quả, ta có hàm hồi quy ước lượng:
ln(CO2) = -16.66 + 1.57 ln(GDPpc) - 0.13 (lnGDPpc) 2 + 1.97 ln(Energy)
Hệ số hồi quy ước
Ý nghĩa


lượng

Khi các biến độc lập bằng 0 thì lượng tăng của CO2 phát thải
0=

-16.6632

1=

1.570003

bình quân đầu người trung bình 1 năm là -16.6632%
Khi có 1% thay đổi của GDP bình quân đầu người thì lượng
CO2 phát thải mỗi người sẽ thay đổi 1.57 – 2*0.13 = 1.31%

2=

-0.1320211

3=

1.965617

và mối quan hệ này là cùng chiều
Khi tăng lượng năng lượng sử dụng thêm 1% thì lượng CO2
bình quân sẽ tăng 1.97%
20



Chọn mức ý nghĩa 5%
R2 = 0.9894 với P – value = 0 < 5% do đó các biến độc lập giải thích được
98.94% sự thay đổi của biến phụ thuộc
Từ kết quả hồi quy ta thấy P – value của tất cả các biến độc lập đều nhỏ hơn
5% do đó các biến độc lập đều có ý nghĩa thống kê.
Kiểm định tự tương quan của mô hình ta sử dụng kiếm định Breusch –
Godfrey để kiểm tra ta có P – value = 0.1680 > 5% do đó mô hình không có hiện
tượng tự tương quan.
Kiểm định phương sai sai số thay đổi của mô hình ta sử dụng kiểm định
Breusch – Pagan ta có P – value = 0.089 > 5% do đó mô hình không có phương sai
sai số thay đổi.
Kiểm định nhiễu có tuân theo phân phối chuẩn hay không ta sử dụng kiểm
định Skewness/Kurtosis có P – value = 0.1582 > 5% do đó nhiễu của mô hình tuân
theo phân phối chuẩn.
-

Đối với mô hình 2:
ln(Energy) = 3.67 + 0.37 ln(GDPpc)

Source
Model
Residual
Total

SS
2.71141796
0.59358217
3.30500013

Hệ số ước

lượng

Ln(Energy)

df
1
27
28

Ms
2.71141796
0.021984525
0.118035719

Sai số
chuẩn

Số quan sát
F(3, 25)
Prob>F
R-squared
Adj R-squared
Root MSE

t

P>t

= 29
= 123.33

= 0.0000
= 0.8204
= 0.8137
= 0.14827

Khoảng ước lượng với
độ tin cậy 95%

Ln(GDPpc) 0.3737089

0.0336507

11.11

0.000 0.3046634 0.4427544

Hệ số chặn

0.2067399

17.73

0.000 3.241684

3.665879

4.090074

Hệ số hồi quy ước
lượng


Ý nghĩa
Khi các biến độc lập bằng 0 thì lượng tăng mức sử dụng năng

0=

3.665879

1=

0.3737089

lượng bình quân đầu người trung bình 1 năm là 3.67 %
Khi GDP bình quân đầu người tăng 1% thì mức sử dụng
năng lượng bình quân tăng 0.37%
21


Chọn mức ý nghĩa 5%
R2 = 0.8204 với P – value = 0 < 5% do đó các biến độc lập giải thích được
82.04 % sự thay đổi của biến phụ thuộc
Từ kết quả hồi quy ta thấy P – value của tất cả các biến độc lập đều nhỏ hơn
5% do đó các biến độc lập đều có ý nghĩa thống kê.
Kiểm định phương sai sai số thay đổi của mô hình ta sử dụng kiểm định
Breusch – Pagan ta có P – value = 0.6025 > 5% do đó mô hình không có phương sai
sai số thay đổi.
Kiểm định nhiễu có tuân theo phân phối chuẩn hay không ta sử dụng kiểm
định Skewness/Kurtosis có P – value = 0.095 > 5% do đó nhiễu của mô hình tuân
theo phân phối chuẩn.
2.3.4.2. Kiểm định kết quả có phù hợp với lý thuyết kinh tế.

Từ kết quả hồi quy ở mô hình 1 cho thấy mối quan hệ giữa lượng phát thải
khí CO2 và tốc độ phát triển kinh tế ở Việt Nam có dạng phương trình bậc 2 với hệ
số của biến bậc 2 là hệ số âm vì thế đồ thị của hàm số có dạng hình chữ U ngược,
do đó sẽ tồn tại mối quan hệ về một đường cong Kuznet môi trường tại Việt Nam
trong giai đoạn 1985 – 2013.
Từ hệ số hồi quy của mô hình cho thấy độ co giãn của mức phát thải khí CO 2
theo GDP bình quân là 1.31, có nghĩa là khi tăng trưởng kinh tế thêm 1% thì mức
khí thải CO2 tăng thêm 1.31% điều đó chứng tỏ trong giai đoạn này Việt Nam đang
tập trung nguồn lực hơn để đẩy mạnh phát triển kinh tế và chưa chú trọng nhiều vào
vấn đề môi trường. Chúng ta có thể thấy nền kinh tế đang ở giai đoạn “môi trường
tệ đi” như hình vẽ.

Như vậy kết quả hồi quy của mô hình 1 cho ta thấy có sự tồn tại của đường
cong Kuznets trong nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 1985 – 2013.
Kết quả hồi quy ở mô hình 1 và mô hình 2 cũng cho thấy rằng, khi chúng ta
tăng lượng năng lượng sử dụng thêm 1% thì khí thải CO 2 phát thải ra môi trường sẽ
tăng 1.97%, do đó lý thuyết về tăng trưởng xanh ở Việt Nam chưa được áp dụng
triệt để khi lượng khí thải gia tăng là khá cao. Ở một khía cạnh khác, khi tăng thu
nhập bình quân lên 1% thì lượng năng lượng chúng ta sử dụng thêm chỉ là 0.37%
22


cũng một phần chứng minh rằng Việt Nam đã có cố gắng trong vấn để sử dụng tiết
kiệm năng lượng – là một trong những vấn đề của tăng trưởng xanh và phát triển
kinh tế bền vững.
2.3.4.3. Lý giải kết quả tìm được
Nghiên cứu mối quan hệ giữa lượng phát thải khí CO 2 và thu nhập bình
quân đầu người của Việt Nam trong giai đoạn 1985 – 2013, ta thấy có mối quan hệ
tỷ lệ thuận và có sự xuất hiện của đường cong Kuznets trong mối quan hệ này do
những nguyên nhân:

Thứ nhất, đất nước Việt Nam chúng ta sau sau thời kỳ đổi mới năm 1986,
chuyển đổi thể chế kinh tế sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã
mở ra một chương mới cho nền kinh tế nước nhà. Khi đó, chúng ta tiến hành mở
cửa, tiếp nhận các công nghệ từ thế giới, đẩy mạnh sản xuất, từ đó đã đạt tốc độ
tăng trưởng kinh tế khá nhanh, (trung bình 6.44%) do phải đẩy mạnh sản xuất để bù
đắp thiệt hại sau chiến tranh nên Việt Nam đã tạm thời tập trung phát triển kinh tế
và chưa đẩy mạnh việc bảo vệ môi trường.
Thứ hai, tỷ lệ sử dụng năng lượng hóa thạch của Việt Nam là khá cao với tốc
độ tăng trưởng nhanh, nếu như năm 1985, tỷ lệ sử dụng năng lượng hóa thạch so với
tổng nguồn năng lượng sử dụng là 29.75% thì đến năm 2005 đã đạt tỷ lệ 60.73% và
71.05% trong năm 2011. Việc sử dụng quá nhiều năng lượng hóa thạch đã thải ra
môi trường một lượng lớn CO 2, hơn nữa điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, cũng
như cơ sở hạ tầng và trình độ khoa học kỹ thuật của Việt Nam trong giai đoạn này
cũng chưa thể đủ để sản xuất rộng rãi các loại năng lượng thay thế thân thiên với
môi trường như thủy năng, phong năng hay năng lượng mặt trời.
Thứ ba, lý giải cho việc có xu hướng xuất hiện đường cong Kuznets trong
tương lai bởi vì tăng trưởng nhanh trong các năm trước đã bộc lộ ra nhiều vấn đề về
môi trường. Sớm nhận thức được vấn đề này, nhà nước đã có các biện pháp nhằm
cải thiện hơn chất lượng môi trường. Cụ thể, từ năm 1998, Bộ Tài nguyên và Môi
trường đã ra chỉ thị số 16/1998/CT-TW về tăng cường công tác bảo vệ môi trường
trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, quan điểm này đã được triển
khai mạnh mẽ hơn trong nghị quyết số 54-NQ/TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 của
Bộ Chính trị nhấn mạnh rằng bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống
còn của nhân loại. Và đến năm 2012, Thủ tưởng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược
quốc gia về tăng trưởng xanh tầm nhìn đến năm 2050, do đó chứng tỏ rằng Việt
Nam đã chú trọng hơn đến vấn đề môi trường nên vì thế có xu hướng hình thành
đường cong Kuznets.
Nghiên cứu về vấn đề sử dụng năng lượng, chúng ta thấy khi tăng sử dụng
năng lượng thêm 1% thì mức phát thải khí CO 2 tăng 1.97%, nguyên nhân cũng do
như đã phân tích ở bên trên là trong giai đoạn này, Việt Nam sử dụng năng lượng

hóa thạch rất nhiều (đạt 71.05% trên tổng nguồn năng lượng sử dụng) nên lượng
CO2 phát thải ra môi trường là rất lớn. Cộng với việc chưa áp dụng quy mô lớn
được các nguồn năng lượng thay thế cũng là một nguyên nhân dẫn đến hậu quả này.

23


CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP THỰC THI TỪ PHÍA CHÍNH PHỦ
3.1. Các chính sách với vấn đề môi trường và sử dụng năng lượng
Trong quá trình hiện đại hóa và công nghiệp hóa đất nước, nhiệm vụ về việc
bảo vệ môi trường luôn là điều đầu tiên được đảm bảo. Thứ trưởng Bộ Tài Nguyên
và Môi trường cho biết: Việt Nam là một trong những quốc gia chịu nhiều tác động
của việc ô nhiễm môi trường do áp lực phát triển kinh tế và thuộc vùng ảnh hưởng
nặng nề của biến đổi khí hậu, nước biển dân. Vì vậy, trong quá trình phát triển kinh
tế, việc chủ động ý thức giảm thiểu môi trường một cách tích cực là một điều rất
cần thiết trong quá trình tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Với các vấn đề được nêu ra như trên, Đảng và nhà nước ta đã có một số Nghị
quyết và chính sách, cụ thể là Chỉ thị số: 36/1998/CT-TW Về tăng cường công tác
bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Bộ Tài
nguyên và Môi trường; Nghị quyết của Bộ Chính trị số 41-NQ/TW ngày 15 tháng
11 năm 2004 về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện
đại hóa đất nước; Quyết định phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh
số: 1393 /QĐ – TTg của Thủ Tướng Chính phủ.
Chỉ thị số 36/1998/CT-TW về tăng cường công tác bảo vệ môi trường
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Mục tiêu:
Ngăn ngừa ô nhiễm môi trường, phục hồi và cải thiện môi trường của những
nơi, những vùng đã bị suy thoái, bảo tồn đa dạng sinh học, từng bước nâng cao chất
lượng môi trường ở các khu công nghiệp, đô thị và nông thôn, góp phần phát triển
kinh tế - xã hội bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, tiến hành

thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phấn đấu đến năm 2000
phải đạt được các mục tiêu về bảo vệ môi trường mà Đại hội VIII của Đảng đã đề
ra.
Nghị quyết của Bộ Chính trị số 41-NQ/TW ngày 15 tháng 11 năm 2004
về bảo vệ môi trường trong thời đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Mục tiêu:
- Ngăn ngừa, hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường
do hoạt động của con người và tác động của tự nhiên gây ra. Sử dụng bền
vững tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học.
- Khắc phục ô nhiễm môi trường, trước hết ở những nơi đã bị ô nhiễm nghiêm
trọng, phục hồi các hệ sinh thái đã bị suy thoái, từng bước nâng cao chất
lượng môi trường.
- Xây dựng nước ta trở thành một nước có môi trường tốt, có sự hài hoà giữa
tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi
trường; mọi người đều có ý thức bảo vệ môi trường, sống thân thiện với
thiên nhiên.
24


Quyết định Phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh số:
1393/QĐ – TTg của Thủ tưởng Chính phủ
Mục tiêu chung: Tăng trưởng xanh, tiến tới nền kinh tế các-bon thấp, làm
giàu vốn tự nhiên trở thành xu hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế bền vững;
giảm phát thải và tăng khả năng hấp thụ nhà kính trở thành chỉ tiêu bắt buộc và
quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội.
Mục tiêu cụ thể: Tái cấu trúc và hoàn thiện thể chế kinh tế theo hướng xanh
hóa các ngành hiện có và khuyến khích phát triển các ngành kinh tế sử dụng hiệu
quả năng lượng và tài nguyên với giá trị gia tăng cao. Nghiên cứu, ứng dụng ngày
càng rộng rãi công nghệ tiên tiến nhằm sử dụng hiệu quả hơn tài nguyên thiên

nhiên, giảm cường độ phát thải khí nhà kính, góp phần ứng phó hiệu quả với biến
đổi khí hậu. Nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng lối sống thân thiện với môi
trường thông qua tạo nhiều việc làm với các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch
vụ xanh, đầu tư vào vốn tự nhiên, phát triển hạ tầng xanh.
Sau một thời thực hiện Chiến lược, về xây dựng thể chế, điểm nhấn quan
trọng nhất là bước đầu hình thành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật cho việc
triển khai thực hiện tăng trưởng xanh, bao gồm: các nghị quyết của Đảng, Quốc hội,
các luật, nghị định, thông tư trong các lĩnh vực.
Cùng với đó, một số bộ đã rà soát các chiến lược phát triển kết quả là hàng
loạt các chiến lược quốc gia, chương trình quốc gia đã được điều chỉnh; một số văn
bản pháp quy mới đã được xây dựng nhằm thúc đẩy thực hiện các hoạt động liên
quan tới tăng trưởng xanh.
Các hoạt động hoàn thiện thể chế và triển khai thực hiện Chiến lược tăng
trưởng xanh được thực hiện thông qua việc xây dựng và ban hành Kế hoạch hành
động tăng trưởng xanh ở các bộ và địa phương. Đến năm 2018, đã có 7 bộ đã ban
hành Kế hoạch hành động răng trưởng xanh.
Cho đến nay, việc triển khai các giải pháp giảm phát thải khí nhà kính đã
được triển khai rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực. Những chính sách mới về năng
lượng tái tạo đã có tác dụng khuyến khích không chỉ đối với các doanh nghiệp sản
xuất điện, mà còn cả các doanh nghiệp công nghiệp, dịch vụ đầu tư sản xuất năng
lượng tái tạo sử dụng cho bản thân và thậm chí bán điện dư thừa vào lưới điện quốc
gia.
Lĩnh vực sản xuất công nghiệp đã có những chuyển biến tích cực, tỷ lệ doanh
nghiệp công nghiệp có nhận thức về sản xuất sạch hơn đã tăng từ 28% năm 2010
lên 55% năm 2015, trong khi tỷ lệ doanh nghiệp áp dụng sản xuất sạch hơn giảm
được tiêu thụ năng lượng, nguyên, nhiên liệu trên một đơn vị sản phẩm đã tăng từ
11% năm 2010 lên 24% năm 2015...
Do nguồn tài nguyên năng lượng trong nước ngày một cạn kiệt, Việt Nam từ một
nước xuất khẩu tịnh năng lượng trong nhiều năm, đã trở thành nước nhập khẩu 25



tịnh từ năm 2015. Để đảm bảo an ninh năng lượng, hạn chế phụ thuộc quá lơn và
nguồn than nhập khẩu, các biện pháp được nhà nước thực hiện như đẩy mạnh quá
trình nghiên cứu và thay thế dần nguồn năng lượng hóa thạch bằng các loại năng
lượng thay thế với nguồn lực dồi dào gần như vô tận như năng lượng gió, mặt trời,
thủy điện hay năng lượng hạt nhân, … Các giải pháp cụ thể đã được đề ra trong
quyết định Phê duyệt Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 –
2020 của Thủ tưởng Chính phủ. Vấn đề năng lượng được cụ thể hơn qua Quyết định
Phê duyệt Chiến lượng phát triển năng lượng tái tạo của Việt nam đến năm 2030
tầm nhìn đến năm 2050
Mục tiêu cụ thể về vấn đề năng lượng được đề ra trong Chiến lược: Giữ vững
an ninh năng lượng, giảm mức tiêu hao năng lượng để sản xuất ra một đơn vị GDP,
tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo trong cơ cấu sử dụng năng lượng. Duy trì tăng trưởng
kinh tế bền vững, phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo. Sử dụng năng
lượng tiết kiệm và hiệu quả; phát triển các loại năng lượng thay thế năng lượng hóa
thạch để đảm bảo an ninh năng lượng ở Việt Nam.
Chính phủ đã có các hành động cụ thể như ra quy định mới về giá mua điện
năng lượng tái tạo, trong đó trong đó với điện mặt trời là 9,35cent/kWh, đặc biệt là
quy định mới về giá điện gió trên đất liền là 8,5cent/kWh và trên biển là
9,8cent/kWh, thì số lượng các dự án điện mặt trời và gió tăng lên đáng kể. Theo
thông tin từ Bộ Công Thương, tính đến cuối năm 2018 đã có hơn 11.000 MW điện
mặt trời đăng ký đầu tư. Nhà nước đã có các giải pháp để hấp dẫn đầu tư vào các
lĩnh vực năng lượng thay thế nhằm kích thích tăng trưởng trong ngành này. Tính
đến giữa nằm 2019, hơn 80 nhà máy điện mặt trời đã được vận hành, trong khi cuối
năm 2018 mới chỉ có 2 nhà máy điện mặt trời quy mô không lớn được đấu nối lên
lưới điện. Vào thời điểm đó, tổng công suất điện mặt trời là hơn 4460 MW, chiếm
hơn 8% tổng công suất phát điện của hệ thống. Trong khi đó, cuối năm 2018 tổng
công suất điện gió trên Việt Nam mới chỉ đạt mức 228 MW, tuy nhiên đến năm
2019, số lượng dự án điện gió đang trong giai đoạn xây dựng với tổng công suất cao
gấp 2 lần so với năm 2018. Đối với năng lượng sinh khối, việc sản xuất điện thương

mại vẫn còn phát triển chậm do vấn đề về giá hỗ trợ cho bã mía. Tuy vậy, triển vọng
cho việc phát triển nguồn năng lượng này còn khả quan dựa vào số lượng ngày càng
tăng của rác thải đô thị và nông nghiệp, sản phẩm lâm nghiệp và chính phủ đang
nghiên cứu tiêu chuẩn danh mục đầu tư tái tạo để có thể thúc đẩy nguồn năng lượng
này.
3.2. Đánh giá thực hiện Chiến lược Quốc gia về Tăng trưởng xanh của chính
phủ Việt Nam
Ngày 25/09/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
1393/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh; năm 2014, được
cụ thể hóa bằng Kế hoạch Hành động Quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 20142020. Đến nay, theo thông tin từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư, có 07 Bộ ban hành
26


Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh; 34 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
xây dựng và thực hiện Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh cấp tỉnh, thành phố.
Về Kinh tế:
Tăng trưởng GDP, mặc dù môi trường kinh tế toàn cầu trở nên thách thức
hơn, nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn đứng vững nhờ sức cầu mạnh trong nước và
nền sản xuất định hướng xuất khẩu, cụ thể từ năm 2012 đến 2018, tốc độ tăng
trưởng GDP của Việt Nam luôn ở mức 5% - 7% và có xu hướng tăng qua các năm,
hơn nữa là đều cao hơn mức tăng trưởng trung bình của toàn cầu.

Số liệu thu thập từ WorldBank

Nền kinh tế không những đạt mức tăng trưởng cao, mà cơ cấu kinh tế còn
tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Tỉ trọng trong
GDP của khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản giảm từ mức 17% của năm 2015
xuống 13,96% vào năm 2019, trong khi đó, tỉ trọng của khu vực dịch vụ tăng từ
mức 39,73% của năm 2015 lên 41,17% vào năm 2018 và 41,64 % trong năm 2019;
tỉ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng duy trì ổn định ở mức 33-34,5% từ năm

2015 đến năm 2019.
Về sử dụng hiệu quả tiết kiệm năng lượng và giảm lượng phát thải khí
nhà kính:
Cho đến nay, việc triển khai các giải pháp giảm phát thải khí nhà kính đã
được triển khai rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực. Những chính sách mới về năng
lượng tái tạo đã có tác dụng khuyến khích không chỉ đối với các doanh nghiệp sản
xuất điện, mà còn cả các doanh nghiệp công nghiệp, dịch vụ đầu tư sản xuất năng
lượng tái tạo sử dụng cho bản thân và thậm chí bán điện dư thừa vào lưới điện quốc
gia.
27


Lĩnh vực sản xuất công nghiệp đã có những chuyển biến tích cực, tỷ lệ doanh
nghiệp công nghiệp có nhận thức về sản xuất sạch hơn đã tăng từ 28% năm 2010
lên 55% năm 2015, trong khi tỷ lệ doanh nghiệp áp dụng sản xuất sạch hơn giảm
được tiêu thụ năng lượng, nguyên, nhiên liệu trên một đơn vị sản phẩm đã tăng từ
11% năm 2010 lên 24% năm 2015...
Kết quả, đã cơ bản cải thiện hiệu suất sử dụng năng lượng trong các doanh
nghiệp thuộc các ngành công nghiệp sử dụng nhiều năng lượng (theo Viện Năng
lượng - Bộ Công Thương, giai đoạn 2011-2015, tỷ lệ năng lượng tiết kiệm đạt
5,65%, tương đương với tổng năng lượng tiết kiệm được gần 11,3 triệu tấn dầu quy
đổi (TOE), cường độ năng lượng của các ngành sản xuất công nghiệp tiêu thụ nhiều
năng lượng đều giảm dần như ngành thép giảm 8,09%, xi măng giảm 6,33%, dệt sợi
giảm 7,32%); đổi mới kỹ thuật canh tác và hoàn thiện quản lý để giảm cường độ
phát thải khí nhà kính trong nông, lâm nghiệp và thủy sản thông qua áp dụng kỹ
thuật canh tác nông nghiệp hữu cơ và nâng cao trình độ quản lý, áp dụng kỹ thuật
canh tác nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch, tái sử dụng, tái chế phụ phẩm, phế
thải nông nghiệp, trồng rừng, nâng cao chất lượng rừng và quản lý tài nguyên rừng
bền vững, đổi mới công nghệ trong khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy sản; phát
triển các nguồn năng lượng sạch, năng lượng tái tạo theo Chiến lược Phát triển năng

lượng quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050, năng lượng tái tạo được xác
định là nguồn năng lượng quan trọng của đất nước...
Bên cạnh đó, phong trào vận động thay đổi hành vi tiêu dùng và xây dựng lối
sống phù hợp với các nguyên tắc tăng trưởng xanh và phát triển bền vững đã được
triển khai tại các địa phương trong cả nước, cụ thể như tổ chức các hoạt động truyền
thông đa dạng để nâng cao nhận thức cho các nhóm xã hội về lối sống xanh; ban
hành và tổ chức thực hiện triệt để các quy định pháp luật về việc thực hiện lối sống
văn minh và bảo vệ môi trường; phổ biến phong trào 3T (tiết kiệm, tái chế, tái sử
dụng) trong các cộng đồng dân cư; tuyên truyền để người dân lựa chọn phương tiện
giao thông hợp lý, vận động người dân đi xe đạp ở các cung đường ngắn thay cho
phương tiện giao thông cơ giới, trước hết trong thanh thiếu niên.
Để đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh, cần tập trung hoàn
thiện khung chính sách kế hoạch - đầu tư, hoàn thiện và sớm ban hành bộ chỉ tiêu
đo lường tăng trưởng xanh cấp Quốc gia của Việt Nam, bổ sung một số chỉ tiêu tăng
trưởng xanh vào hệ thống chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội...; hoàn thiện khung
chính sách tài chính tăng trưởng xanh, hoàn thiện xây dựng khung chính sách tài
chính (thuế, phí, trợ giá, các quỹ, chế tài, các tiêu chí xanh, phát triển bền vững với
doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán) liên quan tới thúc đẩy thực hiện
Chiến lược tăng trưởng xanh, xây dựng cơ chế hỗ trợ tư nhân chuẩn bị và thực hiện
dự án tăng trưởng xanh; đẩy mạnh nghiên cứu ban hành các định mức, tiêu chuẩn,
hướng dẫn kỹ thuật xanh; các ngành và địa phương tiếp tục xây dựng lộ trình cụ thể
các hoạt động tăng trưởng xanh, triển khai thực hiện nhằm hoàn thành những mục
28


×