Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

quyền chống cạnh tranh không lành mạnh trong quyền sở hữu trí tuệ qua vụ kiện giữa microsoft và sun microsystems và các bài học kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.85 KB, 26 trang )

1. LỜI MỞ ĐẦU

Trong quá trình đi lên, hội nhập và phát triển, tài sản trí tuệ ngày càng được coi trọng và
được bảo vệ trên phạm vi toàn cầu. Không chỉ các nước phát triển mà các nhóm quốc gia
khác cũng ý thức được tầm quan trọng của các tài sản vô hình này.
Với môi trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, nơi mà chỉ sơ sẩy một chút là bạn đã bị
nuốt sống thì việc cạnh tranh lành mạnh sẽ là một cách tốt để các doanh nghiệp có thể trụ
vững. Tuy nhiên, trên thực tế lại không phải vậy, rất nhiều doanh nghiệp lợi dụng các sơ
hở về luật để cạnh tranh không lành mạnh với mục đích duy nhất: sống sót và phát triển.
Vì vậy, ngoài luật cạnh tranh, hệ thống luật sở hữu trí tuệ còn có quyền chống cạnh tranh
không lành mạnh liên quan đến quyền ở hữu công nghiệp.
Song, do vẫn chưa ý thức sự cấp thiết cũng như tầm quan trọng của việc chống cạnh
tranh không lành mạnh nên ở Việt Nam, luật vẫn còn quá lỏng lẻo. Hệ thống luật pháp
chưa hoàn thiện cùng với việc nhà nước chưa tuyên truyền rộng rãi các kiến thức về
chống cạnh tranh không lành mạnh cho người tiêu dùng và doanh nghiệp cũng là một
trong những nguyên nhân của sự việc trên.
Vì tất cả những lý do trên, nhóm chúng em xin nghiên cứu về đề tài: “QUYỀN CHỐNG
CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ QUA
VỤ KIỆN GIỮA MICROSOFT VÀ SUN MICROSYSTEMS VÀ CÁC BÀI HỌC KINH
NGHIỆM CHO VIỆT NAM”
Chúng em xin cảm ơn và mong được tiếp thu những ý kiến từ cô!
1


I.

Tổng quan về quyền sở hữu công nghiệp và quyền liên quan đến chống cạnh
tranh không lành mạnh
1. Quyền sở hữu công nghiệp
1.1. Khái niệm
Quyền sở hữu công nghiệp là một chế định pháp luật bao gồm hệ thống những quy


phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình sáng tạo, sử dụng, định đoạt các sản phẩm
do lao động trí tuệ làm ra trong lĩnh vực công nghiệp.
Công ước Paris áp dụng cho sở hữu công nghiệp theo nghĩa bao gồm sáng chế,
nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, mẫu hữu ích, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý
(chỉ dẫn nguồn gốc và tên gọi xuất xứ) và chống cạnh tranh không lành mạnh.
Sở hữu công nghiệp phải được hiểu theo nghĩa rộng nhất, không những chỉ áp
dụng cho công nghiệp và thương mại theo đúng nghĩa của chúng mà cho cả các
ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp khai thác và tất cả các sản phẩm chế
biến hoặc sản phẩm tự nhiên như rượu vang, ngũ cốc, lá thuốc lá, hoa quả, gia súc,
khoáng sản, nước khoáng, bia, hoa và bột.
Đặc trưng của quyền sở hữu công nghiệp
Quyền sở hữu công nghiệp là một phần của quyền sở hữu trí tuệ nên quyền sở hữu
1.2.

công nghiệp mang các đặc trưng của quyền sở hữu trí tuệ. Ngoài ra, quyền sở hữu
công nghiệp có những đặc trưng cơ bản dưới đây:
Thứ nhất, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là bảo hộ về nội dung, khác với quyền
tác giả là bảo hộ về mặt hình thức.
Thứ hai, hầu hết các đối tượng được bảo hộ phải dựa trên trên cơ sở việc cấp văn
bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khác với quyền tác giả là
2


quyền tự nhiên, xuất hiện khi tác giả sáng tác, làm ra tác phẩm, không nhất thiết
phải có văn bằng.
Thứ ba, hầu hết các đối tượng được bảo hộ với giới hạn về không gian và thời
gian.Trong đó, thời gian sở hữu công nghiệp ngắn hơn so với quyền tác giả.
2. Các đối tượng được pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
- Sáng chế: Hầu hết các luật về bảo hộ sáng chế không thực sự xác định rõ các khái

niệm về sáng chế. Tuy nhiên, một số quốc gia định nghĩacác phát minh như là các
giải pháp mới cho các vấn đề kỹ thuật. Các vấn đề có thể mới hay cũ nhưng giải
pháp, để được gọi là sáng chế phải là mới mẻ. Xét về bản chất, các giải pháp mới
là những ý tưởng và chúng sẽ được bảo hộ dưới hình thức “Bằng sáng chế”. Công
ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đã nêu rõ: các bằng sáng chế được
các nước thành viên khác nhau cấp cho cùng một sáng chế được coi là độc lập với
nhau. Tác giả sáng chế có quyền được ghi tên trong sáng chế. Mỗi nước thành viên
chỉ có thể cấp giấy phép không tự nguyện để ngăn ngừa việc lạm dụng độc quyền
-

bằng sáng chế trong giới hạn nhất định.
Mẫu hữu ích: Theo Công ước Paris, mẫu hữu ích là tên gọi dùng để bảo hộ cho
một vài phát minh, chẳng hạn như trong lĩnh vực cơ khí, cho các phát minh mang

-

tính kỹ thuật ít phức tạp hoặc có một đời sốn thương mại ngắn.
Kiểu dáng công nghiệp: là hình dáng bên ngoài của sản phẩm, được thể hiện bằng
đường nét, hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố đó, có tính mới đối
với thế giới và dùng làm mẫu để chế tạo sản phẩm công nghiệp hoặc thủ công
nghiệp .

3


Công ước Paris chỉ có quy định yêu cầu các thành viên phải bảo hộ kiểu dáng công
nghiệp mà không có bất cứ quy định nào về cách thức bảo hộ mà các nước thành
viên phải tuân thủ.
-


Nhãn hiệu hàng hoá là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ cùng
loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hoá có thể là từ
ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều
màu sắc.
Công ước Paris không quy định các điều kiện nộp đơn và đăng ký nhãn hiệu mà
dành việc này cho luật quốc gia của các nước thành viên. Một khi nhãn hiệu được
đăng ký tại một nước thành viên, đăng ký đó sẽ độc lập với đăng ký có thể có tại
bất cứ nước thành viên nào khác, kể cả nước xuất xứ. Do đó, nếu đăng ký nhãn
hiệu bị mất hiệu lực tại một nước thành viên thì cũng sẽ không ảnh hưởng đến hiệu
lực của đăng ký nhãn hiệu đó tại các nước thành viên khác. Khi nhãn hiệu đã được
đăng ký hợp lệ tại nước xuất xứ, người đăng ký nhãn hiệu đó có thể nộp đơn bảo

-

hộ ở các nước khác với hình thức ban đầu của nhãn hiệu đó.
Tên gọi xuất xứ hàng hoá là tên địa lý của nước, địa phương dùng để chỉ xuất xứ
của mặt hàng từ nước, địa phương đó với điều kiện những mặt hàng này có các
tính chất, chất lượng đặc thù dựa trên các điều kiện địa lý độc đáo và ưu việt, bao

-

gồm yếu tố tự nhiên, con người hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó.
Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh.
Theo Công ước Paris, Các nước thành viên phải bảo hộ tên thương mại mà không
được đặt ra yêu cầu về việc nộp đơn yêu cầu bảo hộ hoặc đăng ký. Các nước có

4


quyền tự do đưa ra định nghĩa tên thương mại và cách thức bảo hộ tên thương mại

-

trong luật của mình.
Chỉ dẫn nguồn gốc và tên gọi xuất xứ hàng hóa: Chỉ dẫn nguồn gốc và tên gọi xuất
xứ hàng hoá là hai trong số các đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ theo
Điều 1(2) Công ước Paris. Cả hai đối tượng này có thể được đề cập dưới một khái
niệm rộng hơn là chỉ dẫn địa lý.Các thành viên phải có các biện pháp pháp lý để
chống lại việc sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp các chỉ dẫn nguồn gốc mang tính
chất lừa dối đối với các hàng hoá hoặc đặc điểm phân biệt của nhà sản xuất hoặc
kinh doanh thương mại khác.
Các nước phải tịch thu hàng hoá mang chỉ dẫn lừa dối hoặc cấm nhập khẩu
những hàng hoá đó hoặc áp dụng bất cứ biện pháp nào khác để ngăn ngừa hoặc
chấm dứt việc sử dụng những chỉ dẫn như vậy. Tuy nhiên, nghĩa vụ tịch thu hàng

-

hoá khi nhập khẩu chỉ áp dụng khi biện pháp đó được quy định trong luật quốc gia
Cạnh tranh không lành mạnh: mỗi nước thành viên phải dành sự bảo hộ có hiệu
quả nhằm chống cạnh tranh không lành mạnh. Công ước Paris không quy định cụ
thể cách thức bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh mà các quốc gia có quyền

tự do quy định trong luật của mình.
3. Quyền liên quan đến chống cạnh tranh không lành mạnh
3.1.
Quyền chống cạnh tranh không lành mạnh trên thế giới
Theo điều 10, Công ước Paris về bảo hộ Sở hữu công nghiệp, Các nước thành
viên của Liên minh có trách nhiệm bảo đảm cho công dân của các nước thành viên
đó sự bảo hộ có hiệu quả chống lại hành động cạnh tranh không lành mạnh. Bất cứ
hành động nào trái với tập quán trung thực trong công nghiệp và thương mại đều
bị coi là hành động cạnh tranh không lành mạnh.

Cụ thể, những hành động sau đây phải bị ngăn cấm:
5


-

Tất cả những hành động có khả năng gây nhầm lẫn dưới bất cứ hình thức

nào đối với cơ sở, hàng hoá, hoặc hoạt động sản xuất, kinh doanh của người cạnh
tranh;
Những khẳng định sai lệch trong hoạt động thương mại có khả năng gây
mất uy tín đối với cơ sở, hàng hoá, hoạt động công nghiệp hoặc thương mại của
người cạnh tranh;
Những chỉ dẫn hoặc khẳng định mà việc sử dụng chúng trong hoạt động
thương mại có thể gây nhầm lẫn cho công chúng về bản chất, quá trình sản xuất,
tính chất, tính thích hợp để sử dụng hoặc số lượng của hàng hoá.
Việc bảo vệ chống cạnh tranh không lành mạnh đã giúp hoàn thiện việc bảo
vệ những phát minh, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý. Điều này
đặc biệt quan trọng đối với các nhà khoa học, các thông tin và phương pháp kỹ
thuật, những điều mà không được bảo hộ bởi giấy chứng nhận nhưng nó lại là điều
không thể thiếu cho việc sử dụng một phát minh đã được bảo vệ.
4. Công cụ chống cạnh tranh không lành mạnh

Các nước thành viên của Liên minh có trách nhiệm bảo đảm cho công dân của
các nước thành viên khác của Liên minh các công cụ pháp lý thích hợp để ngăn
chặn có hiệu quả tất cả các hành động cạnh tranh không lành mạnh. Cụ thể bằng
việc ký kết “thỏa thuận hạn chế cạnh tranh” nhằm bảo vệ hoạt động cạnh tranh
lành mạnh, bảo đảm khả năng hoạt động bình thườngcủa thị trường, ngăn chặn và
loại trừ việc lạm dụng vị thế thống lĩnh hoặc độc quyền kinhdoanh trên thị trường
vì sự phát sinh các thỏa thuận có thể có hại cho thị trường.

Ngoài ra, các nước có trách nhiệm đưa ra các biện pháp cho phép các liên đoàn,
hiệp hội đại diện cho quyền lợi của các nhà công nghiệp, các nhà sản xuất, hoặc
các thương gia, với điều kiện sự tồn tại của các liên đoàn và hiệp hội đó không trái
6


với luật của nước họ, được kiện tại toà án hoặc trước các cơ quan hành chính nhằm
mục đích ngăn chặn các hành động cạnh tranh không lành mạnh, trong phạm vi mà
luật của nước có yêu cầu bảo hộ cho phép thực hiện việc kiện bởi các liên đoàn và
hiệp hội như vậy của nước đó.

7


I.

PHÂN TÍCH CASE STUDY.
1. Giới thiệu về case study.
Đây là một trong những vụ án cuối cùng được Tòa án cấp sơ thẩm của Cộng
đồng châu Âu (CFI) thụ lý trước khi đổi mới một phần thành viên và chủ tịch
nhiều khả năng rằng bản án sẽ tạo ra nhiều ý kiến trái chiều từ những nhà chuyên
môn về quyền cạnh tranh.
Trong bản án tuyên vào ngày 17 Tháng 9, CFI bác bỏ kháng cáo của Microsoft
đối với quyết định phạt hãng này bởi Ủy ban châu Âu tháng 3 năm 2004. Trong
quyết định này, Tòa án cấp sơ thẩm châu Âu áp đặt mức phạt lớn nhất đối
Microsoft, cụ thể là một số tiền hơn 497.000.000 €. Tòa án cấp sơ thẩm đã yêu cầu
Microsoft cho đối thủ quyền truy cập và biết một số bí mật kỹ thuật của hệ điều
hành Windows, và điều một thanh tra để kiểm soát việc thực hiện.
Các luật sư và các nhà kinh tế đã bình luận rộng rãi về quyết định này, trường
hợp này còn có liên quan nhiều đến vấn đề chính trị khi xem xét phán quyết của

Tòa án cấp sơ thẩm châu Âu. Giữa năm 2004 và 2007, việc xây dựng khối đồng
tiền chung châu Âu đã trải qua những bất ổn chính trị và Tòa án cấp sơ thẩm châu
Âu bị thách thức nghiêm trọng về một số sự lựa chọn của mình về chính sách cạnh
tranh.
Một số người cho rằng đây là chiến thắng chính trị của châu Âu đối với cuộc
chiến thương mại với Hoa Kỳ. Những người khác cho rằng đây là một bản án
mang tính chất tạo danh tiếng và uy tín của Tòa án cấp sơ thẩm châu Âu.
8


Ngược lại, các nhà bình luận khác cho rằng bản án là minh chứng cho vấn đề
luật cạnh tranh có thể trở thành một cái phanh kìm hãm sáng tạo giảm lợi ích của
người tiêu dung trong ngắn hạn và mất đi những nghiên cứu công nghệ và sản
phẩm xuất khẩu dài hạn.
2. Diễn biến vụ kiện.

Đầu năm 1998, Sun Microsystems khiếu nại đối thủ cạnh tranh của Microsoft.
Khiếu nại này được đưa ra ra sau sự việc Microsoft từ chối đáp ứng nhu cầu của
Sun Microsystems về quyền truy cập vào một số thông tin kỹ thuật về hệ điều
hành Windows, để làm cho các hệ điều hành cho các nhóm máy chủ làm việc phát
triển bởi Sun Microsystems tương thích với các máy tính cá nhân (PC) được trang
bị với một hệ điều hành Windows, vốn đang chiếm 90% thị trường. Sun
Microsystems cho rằng, vì hệ điều hành Windows được cài trên 90% các máy tính
cá nhân trên toàn thế giới, các công ty phải có quyền truy cập vào một số thông số
kỹ thuật trên Windows để phát triển hệ thống máy chủ hoạt động Workgroup (hệ
thống cho phép các máy tính cá nhân để chạy "mạng" và các dịch vụ liên quan đến
mạng lưới này) hoàn toàn tương thích, hay dễ hiểu hơn là chạy hoàn hảo trên hệ
điều hành Windows. Sun Microsystems tin rằng đây thực sự là cách duy nhất để
đảm bảo sự phát triển và quyền cạnh tranh trong thị trường hệ điều hành cho các
loại máy chủ mà trong đó Microsoft cũng có mặt và do đó hai công ty là đối thủ

cạnh tranh.

9


Ở giai đoạn này, người ta có thể đặt câu hỏi về cách tiếp cận của Sun
Microsystems khi là một công ty Mỹ kiện tới Tòa án cấp sơ thẩm châu Âu về hành
vi vi phạm quyền cạnh tranh của một công ty Mỹ khác là Microsoft trong khi các
cơ quan bảo về quyền cạnh tranh của Mỹ hoàn toàn có thẩm quyền xử lý. Hãng
này hi vọng rằng Tòa án cấp sơ thẩm châu Âu sẽ có căn cứ cứng rắn hơn đối với
Microsoft so với các tòa án Mỹ. Sau nhiều vụ kiện Toà án trong khối liên bang,
Microsoft đều có thể rút ra được một thỏa thuận với cơ quan cạnh tranh liên bang,
do đó tránh bị truy tố và xử phạt, bù lại hãng sẽ thực hiện một số cam kết nhất
định, trong khi Ủy ban châu Âu từ chối chấp nhận một giải pháp thương lượng
được đề xuất bởi Microsoft.
Sau khiếu nại của Sun Microsystems, Tòa án sơ thẩm châu Âu đã tố cáo
Microsoft vi phạm luật cạnh tranh dựa trên báo cáo khiếu nại Sun Microsystems .
Song song với đó, Ủy ban châu Âu đã quyết định mở một cuộc điều tra rộng liên
quan đến Microsoft về hệ điều hành Windows 2000, bao gồm việc tích hợp
Windows Media Player trên các hệ điều hành cho PC Windows 2000.
3. Phán quyết của tòa án.

Quyết định của Ủy ban ngày 24 tháng 3 năm 2004
Sau khi điều tra này được tiến hành đồng thời theo thẩm quyền của Ủy viên
châu Âu Mario Monti, Ủy ban quyết định nhận hai đơn khiếu nại, hay là hai vi
phạm trong luật cạnh tranh, cả hai đều dựa trên vi phạm Điều 82 của Hiệp ước EC,
trong đó nghiêm cấm lạm dụng vị trí thống lĩnh.Tòa án cho rằng Microsoft đã tạo
10



một vị trí thống trị trên thị trường hệ điều hành dành cho máy tính cá nhân (90%
thị phần) và hệ điều hành dành cho máy chủ cho các nhóm làm việc (60% thị phần
thị trường), đánh giá rằng hai hành vi sau đây là vi phạm quyền cạnh tranh:
Việc Microsoft từ chối để đối thủ cạnh tranh của Sun Microsystems được cung
cấp thông tin liên quan đến khả năng tương tác giữa các hệ điều hành cho máy tính
Windows và các hệ điều hành máy chủ khác nhau cho các ủy quyền sử dụng để
phát triển các sản phẩm cạnh tranh trên thị trường hệ điều hành.
Tòa án cho rằng hành vi như vậy có khả năng loại bỏ tất cả các đối thủ cạnh
tranh trong thị trường hệ điều hành dành cho các nhóm làm việc và nó có ảnh
hưởng tiêu cực đến sự phát triển công nghệ kỹ thuật và lợi ích của người tiêu
dùng. Ủy ban cho rằng, trên thực tế, rằng bất chấp sự tồn tại của quyền sở hữu trí
tuệ thì vị trí gần như độc quyền của Microsoft và sự thiếu vắng của các giải pháp
thay thế cho phép các đối thủ cạnh tranh phát triển sản phẩm nên Microsoft phải
cung cấp theo yêu cầu của đối thủ cạnh tranh của hãng ngoại trừ có thể từ chối do
yếu tố khách quan. Microsoft đã cố gắng biện minh cho việc từ chối này, tranh cãi
rằng việc cung cấp các thông tin đó (được bảo vệ bởi quyền sở hữu trí tuệ) sẽ cho
phép các đối thủ cạnh tranh phát triển các sản phẩm giống hệt hệ điều hành
Windows của mình và vì thế vi phạm tính độc quyền sản phẩm. Hãng này cũng
cho biết rằng nếu bị buộc phải cung cấp các thông tin này, trong tương lai, hãng sẽ
buộc phải dừng việc đầu tư phát triển công nghệ mới. Không lý do nào đưa ra bởi
Microsoft đã được công nhận bởi Ủy ban, thậm chí còn bị chỉ trích ngược lại rằng,
11


rằng loại hình giao tiếp thông tin mà các hãng cạnh tranh đã bị Microsoft từ chối là
phổ biến trong ngành công nghiệp máy tính và không có nguy cơ bị làm nhái bởi
các đối thủ của Microsoft.
Việc cung cấp Windows Media Player cho PC Windows cũng đe dọa đến tính
cạnh tranh của thị trường các loại công cụ đọc dữ liệu đa phương tiện.
Đây là một đơn khiếu nại nổi tiếng trong giới luật cạnh tranh. Các lí luận

dùng để chống lại hãng chỉ ra rằng Microsoft sử dụng vị thế gần như độc quyền
của mình trên thị trường hệ điều hành cho máy tính, để loại bỏ đối thủ trên thị
trường khác, ở đây là thị trường các công cụ đọc dữ liệu đa phương tiện, với việc
Windows Media Player đi kèm Windows sẽ giới hạn quyền tự do lựa chọn công cụ
đọc dữ liệu đa phương tiện của người tiêu dùng.
Do đó, Ủy ban đã áp đặt mức phạt tiền trên 497.000.000 € chống lại Microsoft
và thực hiện lệnh buộc Microsoft ngừng việc bán sản phẩm này kèm sản phẩm
khác và phải gửi cho đối thủ cạnh tranh những thông tin kỹ thuật cần thiết cho khả
năng tương tác của các hệ thống điều hành máy chủ cho các nhóm làm việc với
Windows trong vòng 120 ngày kể từ ngày thông báo về quyết định. Để đảm bảo
việc thực hiện nghĩa vụ này, tòa thiết lập một hệ thống, thường được sử dụng trong
việc kiểm soát, nhưng hoàn toàn mới trong bối cảnh các vụ kiện vi phạm. Trong
trường hợp nếu việc thực hiện quá phức tạp, nhiệm vụ này được chuyển giao cho
một bên thứ 3 độc lập, do Microsoft chỉ định và được chi trả bởi chính hãng này.

12


Microsoft ngay lập tức kháng cáo tại Tòa sơ thẩm về phán quyết này và nhấn
mạnh rằng đơn kháng cáo phải được xử theo một trình tự khẩn cấp nhưng đã bị từ
chối.
Để đảm bảo Microsoft thực hiện đúng các nghĩa vụ,tòa đã sử dụng một quy
trình mới về chống độc quyền, bao gồm giám sát việc thực hiện các quyết định do
một bên được ủy thác độc lập, chỉ định và thanh toán bởi Microsoft. Bên thứ ba
này chịu trách nhiệm kiểm tra, có quyền truy cập vào tất cả các yếu tố có liên quan
trong hãng để kiểm tra thông tin được tiết lộ bởi Microsoft tới đối thủ cạnh tranh
của hãng, trong việc thực hiện các quyết định, đã được nhiều đầy đủ và chính xác,
cũng như sự hợp lý và không mang tính phân biệt của số tiền mà Microsoft yêu
cầu trả cho việc cung cấp các thông tin đó.
4. Nhận xét.


Về vấn đề tiếp cận thông tin kỹ thuật, Microsoft lập luận trước tòa, các thông
tin được yêu cầu được bảo vệ bởi quyền sở hữu trí tuệ, không thể chỉ trích hãng
lạm dụng vị thế độc quyền chỉ vì hãng từ chối cung cấp thông tin về các bí mật kỹ
thuật đó và rằng quyết định của Ủy ban là tương đương với việc áp đặt một hệ
thống cấp phép bắt buộc. Microsoft cũng cho rằng nếu buộc phải cung cấp các
thông tin này, Microsoft sẽ ngừng đầu tư phát triển đổi mới công nghệ trong tương
lai.
Đối mặt với những lập luận này, Tòa án nhắc lại nguyên tắc "việc một doanh
nghiệp có vị trí lợi thế thống lĩnh từ chối cung cấp thông tin và quyền sử dụng của
13


một công nghệ được bảo hộ sở hữu trí tuệ không phải là lạm dụng vị trí lợi thế
thống lĩnh". Toàn tuyên bố sau đó rằng, theo luật các trường hợp tương tự chỉ
trong các "trường hợp đặc biệt" mà sự từ chối cung cấp thông tin có thể hình thành
lạm dụng vị trí thống lĩnh. Tòa nhắc lại các trường hợp tương tự, những trường
hợp đặc biệt khi các điều kiện sau đây được đáp ứng:
• Việc từ chối cung cấp thông tin hoặc cấp giấy phép bao gồm một sản phẩm
hay dịch vụ không thể thiếu để thực hiện một hoạt động cụ thể trên một thị trường
mà công ty đang ở vị trí thống trị;
• Việc từ chối nhằm loại trừ bất kỳ đối thủ cạnh tranh hiệu quả trên thị trường
lân cận;
• Từ chối này cản trở sự xuất hiện của một sản phẩm mới mà có nhu cầu tiêu
dùng tiềm năng.
Tòa án nói rằng, theo luật pháp trường hợp tương tự, việc xét đến trong những
hoàn cảnh mà cả ba điều kiện ở trên được gọi là đặc biệt mà việc từ chối cung cấp
có thể dẫn đến lạm dụng lợi thế thống lĩnh và vi phạm luật cạnh tranh là tiến hóa
nhỏ trong luật học do CIF đóng góp. Tòa án lần đầu tiên công nhận rằng chỉ duy
nhất việc có thể loại bỏ tất cả các đối thủ trên thị trường là đầy đủ để điều kiện thứ

hai được coi là đã thỏa mãn trong khi trước đó đều tin rằng cần nhất thiết phải là
hành vi loại bỏ đối thủ mới được coi là thỏa mãn điều kiện thứ hai. Tương tự như
vậy liên quan đến các tiêu chí liên quan đến các trở ngại cho sự xuất hiện của một
sản phẩm mới, CFI thông qua một giải thích linh hoạt các tiêu chí này trong việc
xem xét rằng mặc dù của Microsoft từ chối là không cản trở việc đưa ra thị trường
14


hệ điều hành dành cho máy chủ cho các nhóm làm việc của đối thủ cạnh tranh của
nó, thì việc từ chối này đã cản trở sự xuất hiện của các tính năng mới trên hệ thống
hiện có, do đó, gây thiệt hại cho người tiêu dùng.
Cuối cùng, liên quan đến việc Microsoft từ chối cung cấp thông tin được
chứng minh một cách khách quan bằng thực tế rằng việc tiết lộ thông tin sẽ là một
trở ngại cho sự đổi mới và làm giảm đáng kể hướng đầu tư vào nghiên cứu và phát
triển, nhưng trong suốt quá trình, Microsoft đã không đưa ra bất kỳ bằng chứng về
việc đó. Trái lại, việc tiết lộ thông tin kỹ thuật nhằm cải thiện các khả năng tương
tác của các loại sản phẩm khác nhau là một thực tế phổ biến trong lĩnh vực này
5.

15


CÁC BÀI HỌC RÚT RA CHO VIỆT NAM.

II.

1, Luật Việt Nam về quyền sở hữu công nghiệp và quyền liên quan đến chống
cạnh tranh không lành mạnh
1.1.


Luật Việt Nam về quyền sở hữu công nghiệp

Theo Luật SHTT 2005, quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức,
cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích
hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh
do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành
mạnh. Bản chất của quyền sở hữu công nghiệp là bảo hộ nội dung ý tưởng
sáng tạo, chống lại việc khai thác bất hợp pháp ở quy mô công nghiệp.
Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp
- Bằng sáng chế (patent)
- Kiểu dáng công nghiệp
-

Bí mật thương mại
Nhãn hiệu
Chỉ dẫn địa lý
Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn
Tên thương mại
1.2.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền SHCN và
hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền SHCN trong Luật Việt
Nam.
1.2.1. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền SHCN
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh xuất hiện ở mọi lĩnh vực sở hữu công

nghiệp (SHCN). Hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới quyền SHCN
16


giống những hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói chung, bên cạnh đó nó còn

có những biểu hiện tương đối riêng biệt. Cụ thể nó xâm hại các đối tượng SHCN.
Cụ thể nó xâm hại các đối tượng SHCN. Chẳng hạn: hành vi làm hàng nhái, hàng
giả, thông tin sai lệch tên gọi xuất xứ hàng hoá…
Nếu một hành vi bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới
quyền SHCN, thì nó sẽ vừa vi phạm pháp luật về cạnh tranh, vừa vi phạm pháp
luật về SHCN. Như vậy, giữa quyền chống cạnh tranh không lành mạnh và quyền
SHCN có mối quan hệ nội tại, gắn bó chặt chẽ và trực tiếp ảnh hưởng đến nhau.
Bên cạnh việc ngăn ngừa cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực SHCN, cần
phải có cơ chế kiểm soát tình trạng độc quyền, với các biểu hiện như: hợp đồng
license độc quyền, ghi nhận các điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng
license, vấn đề nhập khẩu song song, …
Theo quy định tại Điều 130 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định các dạng
hành vi cạnh tranh không lành mạnh, cụ thể:
Các hành vi sau đây bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh:
a) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động
kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hoá, dịch vụ;
b) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng,
chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hoá, dịch vụ; về điều kiện cung
cấp hàng hoá, dịch vụ;
c) Sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc tế
có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng
nhãn hiệu đó mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành viên, nếu
người sử dụng là người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu và việc sử

17


dụng đó không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu và không có lý do chính
đáng;
d) Đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự

gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được bảo hộ của người khác hoặc chỉ
dẫn địa lý mà mình không có quyền sử dụng nhằm mục đích chiếm giữ tên miền,
lợi dụng hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thương mại,
chỉ dẫn địa lý tương ứng.
Chỉ dẫn thương mại quy định tại khoản 1 Điều này là các dấu hiệu, thông tin
nhằm hướng dẫn thương mại hàng hoá, dịch vụ, bao gồm nhãn hiệu, tên thương
mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì
của hàng hoá, nhãn hàng hoá.
Hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại quy định tại khoản 1 Điều này bao gồm
các hành vi gắn chỉ dẫn thương mại đó lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện
dịch vụ, giấy tờ giao dịch kinh doanh, phương tiện quảng cáo; bán, quảng cáo để
bán, tàng trữ để bán, nhập khẩu hàng hoá có gắn chỉ dẫn thương mại đó.
1.2.2. Hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền SHCN.
Hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền SHCN là hành vi có những đặc
điểm sau đây: do doanh nghiệp tiến hành; làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh
trên thị trường; liên quan đến sử dụng hoặc chuyển giao quyền SHCN; thể hiện ở
ba dạng:
- Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
- Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền.
- Tập trung kinh tế.

18


Nếu như luật sở hữu trí tuệ (LSHTT) có quy định về hành vi cạnh tranh không
lành mạnh liên quan đến quyền SHCN tại Điều 130 thì Luật này lại không có quy
định cụ thể nào về hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền SHCN. Về
nguyên tắc, những hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại Điều 8, Điều
9 Luật cạnh tranh, những hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng
vị trí độc quyền quy định từ Điều 11 đến Điều 14 Luật cạnh tranh(LCT), những

hành vi tập trung kinh tế quy đinh từ Điều 16 đến Điều 19 Luật cạnh tranh mà liên
quan đến quyền sở hữu công nghiệp đều có thể bị coi là hành vi hạn chế cạnh
tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp.
Theo quy định của pháp luật cạnh tranh và pháp luật sở hữu trí tuệ, những
hành vi sau đây bị coi là hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu trí
tuệ:
- Thoả thuận hạn chế phát triển kĩ thuật, công nghệ khi các bên tham gia thoả thuận
có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên (khoản 4 Điều 8,
khoản 2 Điều 9 LCT).
- Doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường thực hiện hành
vi cản trở sự phát triển kĩ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng (khoản 3
Điều 13 LCT).
- Ghi nhận những điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng sử dụng đối tượng
sở hữu công nghiệp.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 144 LSHTT, hợp đồng sử dụng đối tượng sở
hữu công nghiệp không được có các điều khoản hạn chế bất hợp lí quyền của bên
19


được chuyển quyền, đặc biệt là các điều khoản không xuất phát từ quyền của bên
chuyển quyền, bao gồm:
- Cấm bên được chuyển quyền cải tiến đối tượng sở hữu công nghiệp, trừ nhãn
hiệu; buộc bên được chuyển quyền phải chuyển giao miễn phí cho bên chuyển
quyền các cải tiến đối tượng sở hữu công nghiệp do bên được chuyển quyền tạo ra
hoặc quyền đăng ký sở hữu công nghiệp, quyền sở hữu công nghiệp đối với các
cải tiến đó.
- Trực tiếp hoặc gián tiếp hạn chế bên được chuyển quyền xuất khẩu hàng hoá, dịch
vụ được sản xuất hoặc cung cấp theo hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công
nghiệp sang các vùng lãnh thổ không phải là nơi mà bên chuyển quyền nắm giữ
quyền sở hữu công nghiệp tương ứng hoặc có độc quyền nhập khẩu hàng hoá đó.

- Buộc bên được chuyển quyền phải mua toàn bộ hoặc một tỷ lệ nhất định các
nguyên liệu, linh kiện hoặc thiết bị của bên chuyển quyền hoặc của người thứ ba
do bên chuyển quyền chỉ định mà không nhằm mục đích bảo đảm chất lượng hàng
hóa, dịch vụ do bên được chuyển quyền sản xuất hoặc cung cấp. Bên cạnh đó,
Điều 20 (khoản 2, điểm e) Luật chuyển giao công nghệ cũng quy định rõ: Bên giao
công nghệ ”không được thoả thuận về điều khoản hạn chế cạnh tranh bị cấm theo
quy định của LCT”.
Với trường hợp vụ kiện giữa Sun Microsystem và Microsoft, hành vi của
Microsoft được coi là hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền SHCN. Hệ
điều hành Windows có thể coi là đối tượng được bảo hộ bởi quyền SHCN, tuy
nhiên, Microsoft lại lợi dụng quyền SHCN của mình để có các hành vi hạn chế
cạnh trạnh với các đối thủ trên thị trường. Cụ thể, trong trường hợp với Sun
20


Micresystems, Microsoft đã sử dụng ngôn ngữ lập trình Java cũ ( phiên bản từ
năm 1997 ) cho hệ điều hành Window XP của mình. Microsoft có dấu hiệu chỉnh
sửa và kìm kẹp sự phát triển của ngôn ngữ lập trình Java này. Nhờ đó mà
Microsoft đã độc quyền về phần mềm đối với máy điện toán cá nhân ( tại thời
điểm của vụ kiện 2002 – mặc dù bắt đầu kiện năm 1997 – microsoft chiếm đến
90% thị phần trên thế giới ). Java được viết ra để vận hành được với toàn thể các
loại máy điện toán cho dù Windows, Mac OS của Apple hay một số hệ thống khác.
Người sử dụng Java có thể không biết họ dùng nó khi họ vào các vị trí web mang
đặc tính của các ứng dụng khác. Microsoft đã chuyển Windows với bản Java lỗi
thời, không nhất quán đối với người sử dụng và không tương hợp với các sản
phẩm của hãng khác. Microsoft đã đưa phiên bản Java ra đời cách đây 5 năm vào
hệ điều hành và gần loại nó khỏi Windows XP, xuất xưởng mà ko có phiên bản
Java mới nhất, làm cho các nhà phát triển phần mềm đang bỏ phiên bản Java lỗi
thời để tìm đến sản phẩm .Net của Microsoft và nhiều công ty buộc phải phân phối
hoặc dùng những sản phẩm không tương thích với Java.

Biện pháp bảo vệ
Với mục đích bảo hộ hiệu quả thành quả sáng tạo, trí tuệ của các chủ thể kinh
doanh, Nhà nước Việt Nam cho phép các chủ thể này được lựa chọn sử dụng các
biện pháp thực thi bảo hộ theo cả Luật Sở hữu trí tuệ và pháp luật về cạnh tranh
khi họ gặp phải hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi hạn chế cạnh
tranh. Có thể thấy, đây là một sự bổ sung để lấp các lỗ hổng trong quy định của cả

21


hai ngành luật, từ đó tạo điều kiện bảo vệ có hiệu quả hơn quyền sở hữu trí tuệ của
các doanh nghiệp đồng thời tạo nên một môi trường cạnh tranh lành mạnh, khuyến
khích sự tìm tòi, sáng tạo hơn nữa các sản phẩm trí tuệ.
Tóm lại, mối quan hệ giữa chống cạnh tranh không lành mạnh, hạn chế cạnh
tranh và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là một mối quan hệ độc lập nhưng lại khăng
khít, không thể tách rời; nhất là trong giai đoạn hiện nay khi mà xu thế kinh tế thế
giới tập trung vào các giá trị trí tuệ và tài sản vô hình. Bảo hộ tốt quyền sở hữu trí
tuệ để tránh cạnh tranh không lành mạnh; kiên quyết chống cạnh tranh không lành
mạnh để tạo điều kiện bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và kích thích sáng tạo.
2. Bài học cho các doanh nghiệp Việt Nam.
2.1. Đứng trên góc độ của Sun Microsystems.

Theo Luật SHTT và Luật cạnh tranh của Việt Nam và công ước Paris, nếu các
doanh nghiệp của Việt Nam gặp phải trường hợp như Sun Microsystems thì hoàn
toàn có thể kiện Microsoft về hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền
SHCN. Thực tế, theo khoản 3, điều 13 Luật cạnh tranh, Doanh nghiệp, nhóm
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường thực hiện hành vi cản trở sự phát triển
kĩ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng. Tại thời điểm Sun Microsystems
đâm đơn kiện, Microsoft đang chiếm khoảng 90% thị phần trên thế giới, bên cạnh
đó, Microsoft có hành vi kìm hãm các phiên bản Java mới của Sun Microsystems

bằng cách chỉ cho phép ngôn ngữ lập trình Java bản cũ tương thích với hệ điều
hành Window của Microsoft, điều này gây ra nhiều sự bất tiện cho người sử dụng
Java vì không cập nhật được các tính năng mới và gây thiệt hại về danh tiếng và
22


uy tín cho Sun Microsystems, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu và lợi
nhuận của hãng. Trước đó, Sun Microsystems đã yêu cầu về quyền truy cập vào
một số thông tin kỹ thuật về hệ điều hành Windows, để làm cho các hệ điều hành
cho các nhóm máy chủ làm việc phát triển bởi Sun Microsystems tương thích với
các máy tính cá nhân (PC) được trang bị với một hệ điều hành Windows, nhưng
Microsoft đã từ chối. Đây cũng có thể coi là một hành vi hạn chế cạnh tranh.
Ngoài ra, Microsoft còn đưa vào ngôn ngữ lập trình .Net của riêng mình
song hành với hành động kìm kẹp Java để dần đẩy lùi Java và độc quyền thị
trường.
2.2. Đứng trên góc độ của Microsoft.

Microsoft hoàn toàn yếu thế trước vụ kiện này. Nếu các doanh nghiệp Việt
Nam rơi vào hoàn cảnh như Microsoft, có thể có hai trường hợp xảy ra:
- Chấp nhận yêu cầu của Sun Microsystems về việc cung cấp một số thông tin
kĩ thuật về hệ điều hành Windows. Hành động này có thể tránh cho Microsoft
vụ kiện của Sun Microsystems, và nhiều vụ kiện khác về hành động độc
quyền và hạn chế cạnh tranh, tuy nhiên, tham vọng độc quyền của Microsoft
sẽ khó thực hiện hơn. Nếu đứng trên goc độ toàn ngành công nghệ thì đây là
một hành động tốt bởi nó sẽ làm cho ngành công nghệ phát triển, song đối với
riêng Microsoft thì nó có thể ảnh hưởng đến doanh thu, lợi nhuận và sự phát
triển lâu dài của công ty nếu công ty không có chính sách nghiên cứu và phát
triển tốt.

23



- Bác bỏ yêu cầu của Sun Microsystems và của tòa án với lí do nếu cung cấp
các thông tin về hệ điều hành Windows ( đối tượng được bảo hộ bởi quyền sở
hữu trí tuệ) thì sẽ cho phép các đối thủ cạnh tranh phát triển các sản phẩm
giống hệt hệ điều hành Windows của mình và vì thế vi phạm tính độc quyền
sản phẩm.
3. Các đề xuất về luật.
- Bổ sung các điều khoản về hành vi hạn chế cạnh tranh trong luật SHTT.
- Làm rõ hơn các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi hạn chế cạnh
tranh để tránh các khe hở của Luật.

24


KẾT LUẬN
Sau một thời gian nghiên cứu và tìm kiếm tài liệu về quyền chống cạnh tranh không lành
mạnh trong quyền sở hữu công nghiệp qua vụ kiện giữa hai công ty Microsoft và Sun
Microsystems về ngôn ngữ Java, chúng em xin được phép đưa ra những nhận định của
mình trong bài tiểu luận trên. Qua đó, cũng thể hiện được tầm quan trọng của luật sở hữu
trí tuệ nói chung và quyền liên quan đến chống cạnh tranh không lành mạnh trong quyền
sở hữu công nghiệp nói riêng.
Bài tiểu luận của nhóm bọn em còn nhiều thiếu sót, em mong cô có thể góp ý để chúng
em có thể hoàn thiện bài hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn.

25


×