Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

tiểu luận nghiệp vụ hải quan thực trạng và giải pháp về việc thực hiện điều khoản 7 8 các lô hàng xử lý nhanh – hiệp định tạo thuận lợi thương mại WTO tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.56 KB, 37 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh hội nhập thương mại quốc tế tự do và ngày càng nhiều giao
dịch hàng hóa trong khu vực và trên thế giới như hiện nay thì việc tạo thuận lợi
thương mại là điều tất yếu. Trước tình hình đó, Hiệp định Thuận lợi hóa Thương mại
(TFA) ra đời nhằm đảm bảo cân bằng giữa thuận lợi và tuân thủ luật pháp, thúc đẩy
việc vận chuyển, thông quan hàng hóa; đẩy mạnh sự phối hợp giữa Hải quan và các
cơ quan khác. Hiệp định tạo thuận lợi thương mại TFA đã mở ra những cơ hội mới
cho các nước đang và kém phát triển trong cách thức thực hiện. Trong thời buổi kinh
tế hội nhập ở Việt Nam ngày nay, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu đã có những
phát triền vượt bậc cùng với những cơ hội hợp tác phát triển và cả những mối rủi ro
ngày càng phức tạp. Trước tình hình đó, công tác quản lý hải quan nói chung và quy
trình thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu ở Việt Nam nói riêng cần
được chú trọng và cải tiến không ngừng. Nắm được tính cấp bách nói trên, với mong
muốn tìm hiểu và làm rõ hơn về điều khoản trong hiệp định, nhóm chúng em xin
được tìm hiểu về “Thực trạng và giải pháp về việc thực hiện điều khoản 7.8 - Các
lô hàng xử lý nhanh – Hiệp định tạo thuận lợi thương mại WTO tại Việt Nam”
qua đó, đưa ra những lý luận chung trong việc thực hiện các thủ tục hải quan đối với
các lô hàng được xử lý nhanh tại Việt Nam, qua đó đưa ra những phân tích về tình
hình thực hiện và những giải pháp cần thiết.
Bài tiểu luận gồm có 3 chương:
Chương I: Giới thiệu điều khoản “Các lô hàng được xử lý nhanh”
Chương II: Tình hình thực hiện giải phóng và thông quan các lô hàng xử lý
nhanh ở Việt Nam.
Chương III: Giải pháp hoàn thiện quá trình thực hiện điều khoản “Các lô
hàng được xử lý nhanh” tại Việt Nam.
Trong quá trình tìm hiểu, do còn nhiều hạn chế về kiến thức chuyên môn
cũng như kinh nghiệm thực tế nên bài phân tích chắc chắn không tránh khỏi những
thiếu sót. Chúng em rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung của cô giáo để chúng em
có thể hoàn thiện bài phân tích một cách đầy đủ nhất.

1




CHƯƠNG 1.

GIỚI THIỆU ĐIỀU KHOẢN

1.1 Nguyên nhân ra đời của điều khoản
Dịch vụ chuyển phát nhanh có lịch sử lâu đời và đang đóng một vai trò quan
trọng trong thương mại quốc tế ngày nay. Tuy nhiên ngành công nghiệp này hiện
nay đang phải đối mặt với nhiều thách thức như các chính sách độc quyền của mỗi
chính phủ, hàng rào gia nhập đối với những người cung cấp dịch vụ chuyển phát
nhanh nước ngoài, thiếu sót trong cơ chế vận hành nội tại của một quốc gia độc lập,
thuế bưu chính, chi phí chuyển nhượng… Thêm vào đó, một số vấn đề liên quan đến
Hải quan đã có những ảnh hưởng tiêu cực đối với các công ty cung cấp dịch vụ
chuyển phát nhanh như: trì hoãn bất ngờ tại Hải quan, giới hạn về các lô hàng
chuyển phát nhanh (đặc biệt về góc độ giá trị hoặc khối lượng của các lô hàng)…
Các cuộc đàm phán của WTO về thuận lợi hóa thương mại đã tạo cơ hội
vàng cho ngành công nghiệp chuyển phát nhanh giải quyết các vấn đề về Hải quan
bằng cách xác định các quy tắc quốc tế có liên quan trong khu vực. Mặc dỳ TFA chỉ
đưa ra các biện pháp tạo thuận lợi liên quan đến “các lô hàng xử lý nhanh” thay vì
“hàng chuyển phát nhanh đã thu hẹp khả năng áp dụng của TFA đối với ngành này,
nhưng các quy tắc mới của WTO vẫn là công cụ hữu ích tạo thuận lợi cho những
người kinh doanh trong ngành.
WTO quy định các nước Thành viên phải cho phép giải phóng nhanh một số
lô hàng ít nhất là hàng chuyển theo đường hàng không nếu như người yêu cầu đáp
ứng được một số điều kiện quy định để có thể áp dụng hình thức này như có cơ sở
hạ tầng tốt, nộp trước các thông tin, tự xác định được các khoản phí giới hạn trong
chi phí dịch vụ sử dụng...Từ những yêu cầu đó, Thành viên cũng có trách nhiệm
phải quy định những nội dung liên quan đến thủ tục như cho phép nộp chứng từ
trước bằng hình thức điện tử, quy định giá trị tối thiểu để hàng hóa không phải kiểm

tra hải quan, quy định về thời gian để giải phóng nhanh hàng hóa...

1


1.2 Nội dung điều khoản
TFA Điều 7 Mục 8: Các lô hàng được xử lý nhanh
8.1 Mỗi Thành viên phải áp dụng hoặc duy trì các thủ tục cho phép giải
phóng nhanh hàng hoá ít nhất là các hàng hóa gửi theo đường hàng không đối với
các cá nhân đề nghị áp dụng xử lý nhanh, trong khi vẫn duy trì kiểm soát hải quan.
Nếu một Thành viên áp dụng các tiêu chí9 hạn chế người đề nghị được xử lý nhanh,
Thành viên đó có thể, theo các tiêu chí được công bố, yêu cầu người nộp hồ sơ,
vớicác điều kiện để công nhận việc áp dụng xử lý như đã nêu tại mục 8.2 đối với các
lô hàng được xử lý nhanh, phải:
(a) Cung cấp cơ sở hạ tầng và trả các chi phí hải quan liên quan đến việc xử
lý nhanh các lô hàng trong trường hợp người nộp hồ sơ thực hiện các yêu cầu của
thành viên để việc xử lý này được thực hiện tại địa điểm đã được chỉ định.
(b) Gửi trước các thông tin cần thiết để giải phóng hàng trước khi lô hàng
cần xử lý nhanh đến;
(c) Được tính phí trong một khoản giới hạn gần bằng với chi phí của các
dịch vụ được trả khi tiến hành xử lý như đã qui định tại mục 8.2;
(d) Duy trì mức độ kiểm soát cao đối với các lô hàng được giải phóng nhanh
thông qua việc sử dụng an ninh nội bộ, giao nhận vận tải và công nghệ theo dõi từ
khi nhận hàng đến khi gửi hàng;
(e) Cung cấp lô hàng được giải phóng nhanh từ khi nhận hàng đến khi gửi
hàng;
(f) Chịu trách nhiệm thanh toán tất cả các loại thuế hải quan, phí và chi phí
liên quan đến hàng hóa cho cơ quan hải quan;
(g) Có hồ sơ tuân thủ tốt với luật hải quan và các luật và qui định liên quan;
(h) Tuân thủ các điều kiện khác liên quan trực tiếp tới việc thực thi hiệu quả

luật, các qui định và yêu cầu thủ tục của Thành viên, đặc biệt liên quan đến việc
cung cấp xử lý được nêu tại khoản 8.2.

2


8.2 Theo các khoản 8.1 và 8.3, các Thành viên phải:
(a) Giảm thiểu các chứng từ được yêu cầu đối với việc giải phóng các hàng
hóa được giải phóng nhanh phù hợp với khoản 1 Điều 10 và, trong phạm vi có thể,
qui định đối với việc giải phóng hàng dựa trên việc khai báo thông tin một lần đối
với các lô hàng cụ thể;
(b) Qui định về các lô hàng cần được xử lý nhanh sẽ được giải phóng trong
các tình huống thông thường nhanh nhất có thể sau khi hàng đến, qui định thông tin
yêu cầu đối với việc giải phóng hàng đã được nộp;
(c) Nỗ lực áp dụng xử lý nhanh tại các mục (a) và (b) đối với các lô hàng của
bất kỳ trọng lượng hoặc trị giá công nhận rằng Thành viên được phép yêu cầu thêm thủ
tục nhập cảnh, bao gồm tờ khai và tài liệu hỗ trợ và việc nộp thuế và các loại thuế,

và để hạn chế xử lý như vậy dựa vào loại hàng hóa, qui định xử lý không giới hạn về
hàng hóa có trị giá thấp, chẳng hạn như các chứng từ; và
(d) Quy định, trong phạm vi có thể, về trị giá lô hàng tối thiểu hoặc số lượng
thuế hải quan phải nộp sẽ không được thu, ngoại trừ một số loại hàng hóa nhất định
đã được qui định. Thuế nội địa, chẳng hạn như thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ
đặc biệt, áp dụng cho hàng nhập khẩu phù hợp với Điều III của Hiệp định GATT
1994, không theo qui định này.
8.3 Các qui định trong khoản 8.1 và 8.2 không ảnh hưởng đến quyền của
một Thành viên trong việc kiểm tra, cản trở, bắt giữ, tịch thu hoặc từ chối hàng hóa
nhập cảnh, hoặc thực hiện kiểm tra sau thông quan, bao gồm việc sử dụng các hệ
thống quản lý rủi ro. Ngoài ra, các qui định trong 8.1 và 8.2 không cản trở Thành
viên yêu cầu, như một điều kiện để giải phóng hàng, nộp thông tin bổ sung và hoàn

thành các yêu cầu cấp phép phi tự động.
1.3 Phân tích điều khoản
1.3.1 Thế nào là “các lô hàng được xử lý nhanh”?
Trong các cuộc đàm phán thuận lợi hóa thương mại, Mỹ là quốc gia đóng vai
trò quan trọng nhất trong việc thúc đẩy WTO đưa “hàng gửi chuyển phát nhanh”
(express shipments) trở thành một biện pháp tạo thuận lợi hóa thương mại. Trong một
3


lần phát biểu sau đó (TN/TF/W/144), Hoa Kỳ đã thay đổi tiêu đề từ “hàng gửi chuyển
phát nhanh” (Express shipments) thành “các lô hàng được xử lý nhanh” (Expedited
shipments) và định nghĩa nó là ‘những hàng hóa đươc vận chuyển trên cơ sở cấp tốc
nhưng vẫn chịu sự theo dõi và kiểm soát bởi một nhà điều hành và tuân theo các thủ tục
hải quan'. Văn bản pháp lý TFA cuối cùng không đưa ra một định nghĩa rõ ràng thế nào
là “các lô hàng được xử lý nhanh” nhưng nội dung này đã ngầm được thể hiện qua dòng
chữ “các hàng hóa gửi theo đường hàng không đối với các cá nhân đề nghị áp dụng xử
lý nhanh, trong khi vẫn duy trì kiểm soát hải quan” (trích TFA Điều 7 khoản 8.1) Do đó,
trong khuôn khổ TFA, “các lô hàng được xử lý nhanh” sẽ chỉ áp dụng đối với các lô
hàng vận chuyển bằng đường hàng không. Có nghĩa là, hàng hóa mà chỉ vận chuyển
hoàn toàn bằng đường sắt và đường bộ sẽ không được áp dụng điều này. Mặt khác, khi
nhắc đến “hàng gửi chuyển phát nhanh” thì nó sẽ bao gồm cả vận chuyển bằng đường
sắt hoặc đường bộ, bởi vậy, có thể nói “các lô hàng được xử lý nhanh” là một tập con
của thuật ngữ rộng hơn là “hàng gửi chuyển phát nhanh”.

Các lô hàng được xử lý nhanh có thể có nhiều loại: từ tài liệu và bưu kiện
đến linh kiện điện tử, thời trang thiết kế, và dược phẩm. Vì chi phí vận chuyển hàng
hóa này bằng đường hàng không cao hơn tất cả các phương tiện vận tải khác nên
hầu hết các mặt hàng này đều có giá trị cao, trọng lượng nhỏ hoặc những lô hàng đòi
hỏi giao ngay để đáp ứng nhu cầu và thời cơ thị trường; hàng mau hỏng, đặc biệt
hơn, đó có thể là hàng cứu trợ khẩn cấp.

Việc giao các lô hàng được xử lý nhanh bao gồm một dịch vụ chuyên biệt
được cung cấp cho người gửi người nhận và các bên liên quan đến nhiều lĩnh vực.
Theo CPC (Central Product Classification) của Liên hợp quốc (Phiên bản 2.1), việc
giao các lô hàng được xử lý nhanh có thể chia ra làm 3 loại: dịch vụ chuyên chở
hàng hóa bằng đường hàng không (air and space transport services of freight) (mã
CPC: 6531), dịch vụ bưu chính (postal services) (mã CPC: 6801) và dịch vụ chuyển
phát (courier services) (mã CPC: 6802).
Trong đó, hai nhóm sau tức là dịch vụ bưu chính và dịch vụ chuyển phát
nhanh lại chiếm phần lớn trong các lô hàng xử lý nhanh. Dịch vụ bưu chính và dịch
4


vụ chuyển phát nhanh là khác nhau: Bưu chính hoặc bưu điện là một hệ thống vận
chuyển tài liệu và các gói hàng nhỏ. Một hệ thống bưu chính có thể do nhà nước
hoặc tư nhân quản lý, mặc dù nhiều chính phủ giới hạn một số dịch vụ đối với các
hệ thống bưu chính tư nhân. Từ giữa thế kỷ XIX, các hệ thống bưu chính quốc gia
đã được thiết lập như những dịch vụ độc quyền của chính phủ với các chi phí trả
trước trên từng bưu phẩm gửi đi. Các hệ thống bưu chính tư nhân hiện đại ngày nay
thường phân biệt với các hệ thống bưu chính nhà nước bằng những cái tên như
"chuyển phát nhanh" hay là "dịch vụ giao hàng". Những công ty chuyển phát nhanh
lớn như UPS, DHL. FedEx và TNT được đề cập đến như là những “người tích hợp”
(Integrators) vì họ kết hợp cả dịch vụ vận chuyển bằng đường hàng không và đất
liền với giao nhận hàng hóa, môi giới hải quan và các hoạt động cung cấp thông tin
chuyên sâu khác. Theo cách phân loại này, ví dụ, khi DHL giao một quyển sách
được mua online cho khách hàng sẽ được gọi là dịch vụ chuyển phát (A courier
service) chứ không phải dịch vụ bưu chính (A postal service). Cả những người cung
cấp dịch vụ bưu chính do chính phủ chỉ định hay những công ty cung cấp dịch vụ
chuyển phát nhanh đều được coi là người cung cấp dịch vụ giao hàng xử lý nhanh
hay người vận hành lô hàng xử lý nhanh (Expedited shipment operators)
1.3.2 “Tiếp cận thị trường” có phải là tiền đề để các doanh nghiệp được áp dụng

điều khoản này?
Điều khoản TFA đối với các lô hàng được xử lý nhanh cho phép mỗi Thành
viên áp dụng những tiêu chí để hạn chế người đề nghị được xử lý nhanh. Do TFA
không trực tiếp đề cấp đến tiếp cận thị trường, điều khoản này cho rằng khi người
vận hành lô hàng xử lý nhanh thì họ đã phải xây dựng thị trường ở lãnh thổ hải quan
quốc gia đó từ trước. Do đó, một doanh nghiệp nước ngoài muốn được áp dụng yêu
cầu xử lý nhanh, bước đầu tiên, sẽ phải tìm kiếm cách tiếp cận thị trường theo Hiệp
định chung về thương mại dịch vụ (WTO’s General Agreement on Trade in Services
- GATS) hoặc thông qua những cơ chế song phương/khu vực (Ví dụ: thỏa thuận
thương mại khu vực).

5


GATS định nghĩa bốn phương thức cung cấp dịch vụ: (1) cung ứng dịch vụ
qua biên giới, (2) tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài, (3) hiện diện thương mại và (4)
hiện diện thể nhân. Liên quan đến các lô hàng xử lý nhanh, ta có thể thấy rõ bốn
phương thức, ví dụ liên quan đến một Thành viên A của WTO và công ty B (doanh
nghiệp nước ngoài yêu cầu được áp dụng xử lý nhanh lô hàng).
Cung ứng dịch vụ
qua biên giới
Tiêu dùng dịch vụ
ở ngước ngoài

Một người nhận ở nước A nhận một bức thư hoặc một bưu
phẩm được vận chuyển bởi công ty B thông qua hệ thống bưu
điện hoặc chuyển phát nhanh.
Một công dân nước A xuất ngoại đến một quốc gia khác và sử
dụng dịch vụ bưu điện hoặc chuyển phát nhanh được cung
cấp bởi công ty B ở nước đó.


Hiện diện

Công ty B xây dựng chi nhánh, công ty con, văn phòng của

thương mại

nó ở nước A.

Hiện diện

Một người nước ngoài được tuyển dụng bởi công ty B cung

thể nhân

cấp dịch vụ giao hàng của anh ta ở nước A.

Một câu hỏi được đặt ra là, mặc dù vậy, theo GATS, một Thành viên WTO
phải đặt ra một tiến trình để nó thực hiện những cam kết cụ thể liên quan đến tiếp
cận thị trường (Market access) và đối xử quốc gia (National Treatment). Tiếp cận thị
trường là những cam kết được đàm phán để khóa mức độ truy cập tối thiểu vào thị
trường Thành viên trong các lĩnh vực được chỉ định. Cam kết tiếp cận thị trường
được trình bày dưới dạng các giới hạn, ví dụ: những hạn chế có thể được áp dụng
đối với số lượng nhà cung cấp dịch vụ, hoạt động dịch vụ hoặc nhân viên trong
ngành; giá trị của các giao dịch; hình thức pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ; hoặc
sự tham gia của vốn nước ngoài (xem GATS Điều 16). Đối xử quốc gia yêu cầu mỗi
Thành viên đối xử với các nhà cung cấp dịch vụ và dịch vụ của bất kỳ Thành viên
nào khác không kém phần thuận lợi so với việc họ đối xử với các nhà cung cấp dịch
vụ và dịch vụ giống như của mình (xem GATS điều 17)…


6


Ví dụ: Cam kết của Hong Kong đối với dịch vụ chuyển phát nhanh:
Phương thức cung cấp: (1) cung ứng dịch vụ qua biên giới, (2) tiêu dùng
dịch vụ ở nước ngoài, (3) hiện diện thương mại và (4) hiện diện thể nhân.
Ngành hoặc phân ngành

Giới hạn về tiếp

Giới hạn về đối xử

Cam kết

cận thị trường

quốc gia

bổ sung

Dịch vụ chuyển phát nhanh:
những điều này được giới
hạn trong việc cung cấp dịch
vụ với mức phí hoặc hợp
đồng dựa trên việc cung cấp
tài liệu và bưu kiện, nhưng
không bao gồm các dịch vụ

(1) Chưa cam kết


(1)Chưa cam kết

(2) Không hạn chế

(2)Chưa cam kết

(3) Không hạn chế

(3)Không hạn chế

(4) Chưa cam kết

(4)Chưa cam kết

dành riêng cho Bưu điện
theo Pháp lệnh bưu điện
Hiện tại, tổng cộng 64 thành viên WTO đang thực hiện các cam kết trong các
lĩnh vực dịch vụ bưu chính và/ hoặc dịch vụ chuyển phát nhanh; một số thành viên chỉ
cam kết hoặc dịch vụ bưu chính hoặc dịch vụ chuyển phát nhanh. Một số thành viên đã
chỉ định các giới hạn hoặc điều kiện trong các cam kết của họ đối với các lĩnh vực này
(ví dụ: Hồng Kông, Trung Quốc, theo như cam kết của nó, loại trừ những dịch vụ dành
riêng cho Bưu điện theo Pháp lệnh Bưu điện); hoặc duy trì toàn quyền theo các phương
thức cung cấp nhất định (ví dụ: Hồng Kong, Trung Quốc chỉ ra “chưa cam kết” đối với
tiệp cận thị trường dịch vụ chuyển phát nhanh). Do đó, việc mở ra một thị trường giao
hàng xử lý nhanh trên quy mô toàn cầu đã bị giới hạn. Một người vận hành lô hàng xử
lý nhanh không thể trực tiếp giao hàng (cung ứng dịch vụ qua biên giới) hoặc xây dựng
một chi nhánh (nghĩa là một hiện diện thương mại, đặc biệt

7



quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ giao hàng xử lý nhanh) tới bất kỳ quốc gia
nào mà nó muốn phát triển kinh doanh.
Tóm lại, khi nói đến việc áp dụng các biện pháp giải phóng nhanh theo TFA,
một người thuộc quốc gia đó sẽ có quyền yêu cầu được áp dụng xử lý nhanh, trong
khi một người nước ngoài muốn được áp dụng xử lý nhanh thì phải đảm bảo quốc
gia chủ nhà có những cam kết về tiếp cận thị trường (hay đối xử quốc gia)
1.3.3 Có một “hợp đồng” nào giữa người đề nghị được xử lý nhanh và chính phủ
thành viên hay không?
Điều khoản này (điều 7 mục 8) khác biệt so với các điều khác trong TFA vì
nó xuất hiện giống như một bản hợp đồng giữa chính phủ thành viên WTO và người
đề nghị áp dụng xử lý nhanh. Ta có thể dễ thấy những dấu hiệu của một hợp đồng ở
điều khoản này: (1) có nghĩa vụ của 2 bên (chính phủ thành viên và người đề nghị
áp dụng xử lý nhanh); (2) có quan hệ nhân quả giữa nghĩa vụ của hai bên tham gia
hợp đồng.
TFA Điều 7 khoản 8.1 quy định nghĩa vụ của một người đề nghị áp dụng xử
lý nhanh đối với một chính phủ thành viên WTO bao gồm xây dựng cơ sở hạ tầng
cần thiết, duy trì vận hành đáng tin cậy, và đảm bảo tuân thủ. Chính phủ thành viên
WTO có thể yêu cầu một người đề nghị áp dụng xử lý nhanh tuân thủ với những
nghĩa vụ kể trên là điều kiện tiên quyết để được áp dụng điều khoản này.
Đổi lại, nghĩa vụ của một chính phủ thành viên WTO phải thực hiện những
nghĩa vụ đối với người đề nghị được xử lý nhanh, như được ghi trong khoản 8.2 Bốn
nghĩa vụ được liệt kê ở khoản này tạo thành giá trị cốt lõi của điều khoản. Vì lẽ ấy,
nghĩa vụ của một chính phủ thành viên WTO trở thành quyền lợi của người đề nghị
áp dụng xử lý nhanh. Một người đề nghị áp dụng xử lý nhanh đủ tư cách sẽ được
hưởng lợi hợp pháp từ bốn nghĩa vụ tạo thuận lợi hóa thương mại mà một chính phủ
thành viên WTO thực hiện.
Hơn nữa, việc người đề nghị áp dụng xử lý nhanh tuân theo những tiêu chuẩn
được đề ra bởi chính phỉ thành viên WTO có thể được xem là “nhân”; và việc chính phủ
thành viên WTO cung cấp sự đối đãi tạo thuận lợi thương mại cho người đề nghị

8


được xử lý nhanh có thể được xem là “quả”. Mối quan hệ nhân quả ở đây là rõ ràng;
miễn người nộp hồ sơ đáp ứng được những tiêu chuẩn được ghi ở khoản 8.1 thì
chính phủ thành viên WTO sẽ không có lý do trì hoãn trách nhiệm của mình trong
việc cung cấp biện pháp tạo thuận lợi thương mại, bởi vì nghĩa vụ của các bên ở đây
ràng buộc lẫn nhau.
1.3.4 Điều khoản này có phải là một điều khoản dành cho “Doanh nghiệp ưu
tiên”?
Trong các cuộc đàm phán thuận lợi hóa thương mại của WTO, một số các
nhà đàm phán lập luận rằng không cần thiết phải đặt ra một điều khoản riêng biệt
cho các lô hàng xử lý nhanh bởi vì những doanh nghiệp yêu cầu được áp dụng xử lý
nhanh có thể nộp hồ sơ để được công nhận là doanh nghiệp ưu tiên và nhận được
những biện pháp tạo thuận lợi thương mại. Nếu như vậy, liệu TFA Điều 7 mục 7
(Các biện pháp tạo thuận lợi thương mại đối với Doanh nghiệp ưu tiên) có thể thay
thế cho TFA Điều 7 mục 8 (Các lô hàng được xử lý nhanh) hay không?
Về mặt lý thuyết, một người yêu cầu được áp dụng xử lý nhanh, trong vai
trò là một người hành nghề kinh doanh, được tạo cơ hội để trở thành một doanh
nghiệp ưu tiên và do đó sẽ được cung cấp các biện pháp tạo thuận lợi thương mại
như được mô tả ở Khoản 7.3 Điều 7 TFA. Tuy nhiên những tiêu chí và cách thức đối
xử đối với doanh nghiệp ưu tiên là rất khác so với những doanh nghiệp yêu cầu áp
dụng xử lý nhanh lô hàng của mình.
Thứ nhất, những tiêu chí để được công nhận là doanh nghiệp ưu tiên (xem
Khoản 7.2 (a) Điều 7 TFA) sẽ bao gồm:
(a) Hồ sơ phù hợp về tuân thủ luật, các qui định hải quan và luật, các qui
định liên quan khác;
(b) Hệ thống quản lý hồ sơ để phục vụ việc kiểm soát nội bộ cần thiết;
(c) Khả năng thanh toán tài chính, bao gồm, nếu phù hợp, việc cung cấp một
khoản bảo đảm hoặc bảo lãnh đủ điều kiện; và

(d) An ninh chuỗi cung ứng.

9


Những tiêu chí này không cứng nhắc như những tiêu chí để được áp dụng
xử lý nhanh (TFA Điều 7 khoản 8.1) bởi vậy nhưng doanh nghiệp được xử lý nhanh
lô hàng có thể dễ dàng được công nhận là doanh nghiệp ưu tiên nhưng điều ngược
lại thì không phải luôn đúng.
Thứ hai, các biện pháp tạo thuận lợi cho doanh nghiệp ưu tiên được qui định
tại khoản 7.1 phải bao gồm ít nhất ba trong các biện pháp sau đây:
(a) Giảm các yêu cầu về chứng từ và dữ liệu, khi thấy phù hợp;
(b) Tỉ lệ kiểm tra thực tế thấp, khi thấy phù hợp;
(c) Thời gian giải phóng hàng nhanh, khi thấy phù hợp;
(d) Việc thanh toán chậm các khoản thuế, phí và lệ phí;
(e) Sử dụng các khoản bảo lãnh cộng gộp hoặc các khoản bảo lãnh được giảm;
(f) Một tờ khai chung cho tất cả hàng hóa nhập khẩu hoặc xuất khẩu trong
một giai đoạn nhất định; và
(g) Việc thông quan hàng hóa tại các địa điểm của doanh nghiệp ưu tiên
hoặc một nơi khác được cơ quan hải quan cho phép.
Các điểm (a) và (c) tương tự với các biện pháp tạo thuận lợi đối với người yêu
cầu được xử lý nhanh lô hàng (TFA Điều 7 Khoản 8.2 (a) và (b)) nhưng những điểm
còn lại sau đó thì cụ thể hơn. Hơn thế nữa, vì chính phủ thành viên WTO, đối với các
doanh nghiệp ưu tiên, chỉ cần cam kết ít nhất 3 trong 7 biện pháp nói trên, nên chính
phủ không nhất thiết phải chọn việc giảm các yêu cầu về chứng từ hay giải phóng hàng
nhanh; trong khi đó hai biện pháp này chắc chắn sẽ được áp dụng nếu như doanh nghiệp
yêu cầu xử lý nhanh lô hàng đáp ứng được những tiêu chí đã đề ra

ở TFA Điều 7 Khoản 8.2. Ngoài ra, các biện pháp tạo thuận lợi cho Doanh nghiệp
ưu tiên không đề cập đến những cách đối xử đối với những lô hàng có giá trị hoặc số

tiền phải nộp thuế “không đáng kể” (De minimis). Đây cũng là một trong những
nguyên nhân cần phải có một mục riêng áp dụng cho các lô hàng được xử lý nhanh.
Có thể thấy từ những tiêu chí để một doanh nghiệp có thể được áp dụng và
những biện pháp tạo thuận lợi mà chính phủ thành viên WTO cung cấp, thì Điều 7
khoản 8 sẽ bổ sung cho điều 7 khoản 7. Nói một cách nào đó, khi doanh nghiệp được

10


áp dụng xử lý nhanh có thể coi như “Doanh nghiệp ưu tiên”. Tức là, nếu như một doanh
nghiệp được phép hưởng những biện pháp tạo thuận lợi thương mại như được liệt kê ở
Điều 7 khoản 8, thì vẫn có thể được hưởng những thuận lợi theo Điều 7 khoản 7 miễn là
doanh nghiệp đó được chính thức công nhận là doanh nghiệp ưu tiên.

1.3.5 Vấn đề về trọng lượng hoặc giá trị của hàng gửi
Tạo thuận lợi thương mại bao gồm việc giảm thiểu chứng từ và xúc tiến đưa
hàng hoá ra thị trường thì điều quan trọng là TFA phải đưa ra các quy tắc tương ứng
- tức là điều khoản 7 khoản 8.2 (a) và (b) - đối với các lô hàng cấp tốc. Tuy nhiên điều
khoản 7 khoản 8.2 (c) chỉ ra rằng Điều 7 khoản 8.2 (a) và (b) áp dụng với mọi trọng

lượng và giá trị của bất kỳ lô hàng nào. Vậy thì trọng lượng hoặc giá trị của lô hàng
có liên quan gì không?
Các lô hàng khẩn cấp bao gồm nhiều loại hàng hóa, khác nhau về trọng
lượng và giá trị. UPU quan tâm đến trọng lượng của bưu kiện được cung cấp bởi các
nhà khai thác bưu chính được chỉ định. Nó chỉ rõ các điều kiện đặc biệt liên quan
đến giới hạn trọng lượng được phép, ví dụ:
(1) Việc trao đổi bưu kiện có trọng lượng riêng vượt quá 20 kg sẽ là tùy
chọn, tối đa không vượt quá 50kg.
(2) Đối với những bưu kiện vượt quá 50kg, vẫn có thể được các quốc gia này
(những quốc gia quy định trọng lượng tối đa 50kg) cho phép bằng cách chia nhỏ bưu

kiện vào những chiếc túi hoặc đồ chứa đựng kín khác với trọng lượng từ 20 đến 50kg.
UPU cũng phân biệt các bưu kiện nhẹ với các mặt hàng nặng hơn và đã sử dụng các
công cụ điện tử để hỗ trợ nhiều hơn cho tất cả các dịch vụ gói nhẹ, theo dấu

hàng tracking, chữ ký, nhận tiền mặt khi giao hàng (COD), thủ tục hải quan điện tử
và kế toán. Trong khi đó, Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO) theo mức độ giá trị thì
chia hàng gửi thành bốn loại:
Loại 1: Thư tín/ tài liệu không có giá trị thương mại không chịu các loại thuế.

Loại 2: Lô hàng có giá trị thấp mà không có thuế và thuế được thu
Loại 3: Lô hàng có thuế suất thấp
Loại 4: Lô hàng có giá trị cao
11


Mỗi loại trên có một quy định khác nhau về các loại chứng từ cần có và các
thủ tục thông quan mà tạo điều kiện cho việc tung hàng hoá ra thị trường sớm nhất.
Trong bối cảnh UPU và WCO, trọng lượng hoặc giá trị của các lô hàng là
vấn đề lớn. Những quy định khác biệt của các tổ chức này đối với những lô hàng có
trọng lượng hoặc giá trị khác nhau đồng nghĩa với việc phải áp dụng Điều 7 khoản
8.2 (a) và (b) theo một cách ứng dụng linh hoạt hơn. Mặt khác, như Điều 7 khoản
8.2 (c) lại áp dụng cho bất kỳ lô hàng có trọng lượng hoặc giá trị nào. Đây sẽ là một
thách thức đối với chính phủ các thành viên WTO (chủ yếu là chính quyền Hải
quan) để đưa ra các cơ chế thuận lợi cho hoạt động thương mại có thể áp dụng cho
tất cả các loại lô hàng có trọng lượng hoặc giá trị khác nhau.
Đáng chú ý là cách diễn đạt của ‘Thành viên nỗ lực” ám chỉ rằng Điều 7
khoản 8.2 (c) có thể được hiểu là một điều khoản nỗ lực tốt nhất, có thể ràng buộc
nhưng không thể thi hành như các điều khoản khác. Hơn nữa, việc đưa vào điều
khoản này như một điểm riêng lẻ có vẻ không ổn; quy định này tốt hơn nên được đặt
ở một nơi khác hoặc đúng hơn là một chú thích vì nó chỉ là về cách áp dụng các

điểm (a) và (b) như một quy định.
1.3.6 “De minimis” (Quy tắc không đáng kể) có phải là một khái niệm mới?
Đây không phải là lần đầu tiên khái niệm de minimis xuất hiện trong các
văn bản pháp lý của WTO. Ví dụ, Điều 60 (Nhập khẩu De Minimis) của Hiệp định
về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) đã quy
định rằng 'Các nước thành viên có thể bỏ qua việc áp dụng các quy định số lượng
nhỏ hàng hóa có tính chất phi thương mại nêu trên trong hành lý cá nhân của khách
du lịch hoặc được gửi trong các lô hàng nhỏ. 'De minimis cũng bao hàm một giới
hạn hoặc ngưỡng chính xác theo đó một mặt hàng được đánh giá là không đáng kể.
Hàng hóa không đáp ứng được tiêu chí “Chuyển đổi mã HS” vẫn được coi
là có xuất xứ nếu tỉ lệ nguyên vật liệu không có xuất xứ mà không đáp ứng được yêu
cầu chuyển đổi mã HS nhưng có giá trị chiếm tỉ lệ nhỏ không đáng kể so với giá của
thành phẩm. Các hiệp định thương mại tự do khác nhau sẽ có quy định khác nhau về
tỉ lệ không đáng kể này. Quy định phổ biến nhất là:
12


Đối với mặt hàng dệt may, giày da (mã HS từ chương 50 đến chương 63)
các nguyên vật liệu không có xuất xứ nhưng không đáp ứng được quy định chuyển
đổi mã HS có tổng trọng lượng không vượt quá 10% so với trọng lượng hàng hóa
hoặc giá trị của chúng không vượt quá 10% giá trị của hàng hóa
Đối với các hàng hóa không phải là hàng dệt may, giày da (mã HS nằm
ngoài chương 50 đến chương 63) nguyên vật liệu không có xuất xứ nhưng không
đáp ứng được quy định chuyển đổi mã HS có giá trị không vượt quá 10% giá trị của
hàng hóa. Trích quy định tỷ lệ không đáng kể trong FTA: Việt Nam – Hàn Quốc.

13


CHƯƠNG 2. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN GIẢI PHÓNG VÀ THÔNG

QUAN CÁC LÔ HÀNG XỬ LÝ NHANH Ở VIỆT NAM
2.1 Khung pháp lý đối với các lô hàng được xử lý nhanh ở Việt Nam
Khung pháp lý là một trong những nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến
tình hình thực hiện giải phóng và thông quan hàng hóa nói chung và các lô hàng xử
lý nhanh nói riêng.
Khung pháp lý cao nhất về việc giải phóng và thông quan hàng hóa ở Việt
Nam tính đến thời điểm hiện nay là Luật Hải quan năm 2014, cụ thể quy định về giải
phóng hàng hóa tại Điều 36 và thông quan hàng hóa tại Điều 37.
Sau đó, Nghị định số 08/2015/NĐ-CP của Chính phủ ra đời ngày
21/01/2015 tạo cơ sở pháp lý rõ ràng, quy định chi tiết và biện pháp thi hành luật hải
quan về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan và nghị định số
59/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều tại nghị định số 08/2015/NĐ-CP.
Ngoài ra, Thông tư số 38/2015/TT-BTC ngày 25/3/2015 của Bộ Tài chính
và Thông tư 39/2018/TT-BTC được ban hành ngày 20/04/2018 sửa đổi, bổ sung một
số điều tại Thông tư số 38/2015/TT-BTC ngày 25/3/2015 của Bộ trưởng Bộ tài chính
quy định về thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu và quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Bên cạnh đó, liên quan đến thuế, lệ phí nhập khẩu, xuất khẩu đối với phương
tiện, trang thiết bị, hàng hóa phục vụ hoạt động cứu trợ khẩn cấp, tìm kiếm cứu nạn,
cứu trợ, hỗ trợ thiên tai thuộc loại hàng xử lý nhanh, Chính phủ ban hành Nghị định
160/2018/NĐ-CP quy định thi hành một số điều của luật phòng, chống thiên tai.

Thứ nhất, đối với hàng hóa phục vụ yêu cầu khẩn cấp; hàng hóa chuyên
dùng phục vụ an ninh, quốc phòng thuộc loại hàng hóa xử lý nhanh được thông quan
theo quy định tại Điều 50 Luật Hải quan 2014.
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2016 quy định hàng hóa viện trợ
nhân đạo, hàng hóa viện trợ không hoàn lại thuộc loại hàng xử lý nhanh không phải
chịu thuế xuất khẩu, nhập khẩu.

14



Nghị định số 08/2015/NĐ-CP của Chính phủ ra đời ngày 21/01/2015 quy
định hàng cứu trợ khẩn cấp, hàng viện trợ nhân đạo thuộc loại hàng xử lý nhanh
được khai trên tờ hải quan giấy.
Đến ngày 20 tháng 4 năm 2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định
59/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 08/2015/NĐ-CP
ngày 21 tháng 01 năm 2015, theo đó quy định hàng cứu trợ khẩn cấp, hàng viện trợ
nhân đạo; hàng xuất khẩu, nhập khẩu phục vụ an ninh quốc phòng thuộc loại hàng
xử lý nhanh được lựa chọn khai theo phương thức điện tử hoặc khai trên tờ khai hải
quan giấy.
Tại Mục 4 Điều 14 Nghị định 16-/2018/NĐ-CP, Chính phủ đã quy định ổ
chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế tham gia hoạt động ứng phó và khắc phục
hậu quả thiên tai tại Việt Nam nhập khẩu, tái xuất khẩu phương tiện, trang thiết bị,
hàng hóa để phục vụ công tác cứu trợ khẩn cấp, tìm kiếm cứu nạn, cứu trợ, hỗ trợ
thiên tai được miễn thuế, lệ phí nhập khẩu, xuất khẩu theo quy định tại điểm a khoản
1 Điều 41 Luật phòng, chống thiên tai. Trường hợp để lại Việt Nam sử dụng vào mục

đích khác phải chịu thuế theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, đối với hàng hóa xuất khẩu gửi bằng dịch vụ chuyển phát nhanh,
Luật Hải quan Việt Nam 2014 quy định phải nộp tờ khai hải quan chậm nhất là 02
giờ trước khi phương tiện vận tải xuất cảnh.
Theo điều 89 Luật Hải quan Việt Nam năm 2014, cơ quan hải quan phải yêu
cầu doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bưu chính, chuyển phát nhanh mở bưu phẩm,
hàng hóa được xuất khẩu, nhập khẩu qua đường bưu chính, chuyển phát nhanh để
kiểm tra khi có căn cứ cho rằng bưu phẩm, hàng hóa đó có tài liệu, hàng hóa liên
quan đến buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới.
Ngoài ra, theo quy định của Thông tư 100/2010/TT-BTC, Hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu gửi qua dịch vụ chuyển phát nhanh đường hàng không quốc tế làm thủ tục
hải quan tại trụ sở Chi cục Hải quan cửa khẩu, trụ sở Chi cục Hải quan ngoài cửa khẩu.

Đối với thư xuất khẩu, nhập khẩu, gửi qua dịch vụ chuyển phát nhanh phải chịu sự giám
sát hải quan theo hình thức niêm phong hải quan đối với bao bì chuyên

15


dụng của doanh nghiệp. Thư xuất khẩu, nhập khẩu gửi qua dịch vụ chuyển phát
nhanh phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện việc giám sát thư bằng
các biện pháp nghiệp vụ để đảm bảo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, trên cơ sở hướng dẫn của Tổ chức Hải quan Thế giới (World
Customs Organization - WCO) về thông quan hàng chuyển phát nhanh (phiên bản
tháng 03 năm 2006) và các quy định hiện hành về chính sách quản lý hàng hóa xuất
nhập khẩu, chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thực hiện quy
định phân luồng hàng hóa nhập khẩu, xuất khẩu để phục vụ công tác kiểm tra hải
quan. Trên cơ sở phân luồng hàng hóa nhập khẩu, xuất khẩu, việc kiểm tra hải quan
đối với hàng hóa nhập khẩu, xuất khẩu theo hướng đơn giản, thuận lợi, áp dụng
quản lý rủi ro và áp dụng thiết bị máy soi để thực hiện kiểm tra thực tế hàng hóa,
nhưng vẫn phải đảm bảo công tác quản lý nhà nước của cơ quan Hải quan được chặt
chẽ, đúng pháp luật. Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan sẽ là người quy định cụ thể
về phân luồng hàng hóa nhập khẩu, xuất khẩu và kiểm tra hải quan.
2.2 Tình hình thực hiện thông quan các lô hàng được xử lý nhanh tại Việt Nam.
Sau nhiều bế tắc tại Vòng đàm phán Doha, TFA đánh dấu sự thành công của
WTO trong nỗ lực kết nối các quốc gia thành viên nhằm cắt giảm thời gian và chi
phí trong giao dịch thương mại quốc tế, thúc đẩy quá trình hài hòa hóa, tiêu chuẩn
hóa, minh bạch hóa và đơn giản hóa các quy định, thủ tục trong quá trình di chuyển
hàng hóa thương mại quốc tế. Một trong những nội dung quan trọng của Hiệp định
là đưa ra các quy định, thủ tục tạo thuận lợi hóa về công tác hải quan đối với các lô
hàng được xử lý nhanh.
Việt Nam, một quốc gia đang phát triển với tư cách là một thành viên của
WTO chắc chắn sẽ tuân thủ những quy định, nội dung và cơ chế thực thi tạo thuận

lợi thương mại đối với các lô hàng được ưu tiên xử lý nhanh. Việt Nam đã thông báo
cam kết nhóm A với biện pháp này vào ngày 30/7/2014.
2.2.1 Tình hình thực hiện thông quan hàng chuyển phát nhanh tại Việt Nam.
Đối với hàng hóa chuyển phát nhanh, doanh nghiệp làm dịch vụ chuyển phát
nhanh sẽ được khai, nộp tờ khai trước khi hàng hóa đến và cơ quan hải quan có thể

16


thông quan ở thời điểm này. Thời gian thông quan được rút ngắn còn 6 giờ sau khi
doanh nghiệp nộp các tài liệu liên quan và hàng đã về đến sân bay, trừ những trường
hợp nghi vấn. Đặc biệt, trị giá hàng hóa khoảng 4 triệu đồng được miễn thuế nhập
khẩu và thuế giá trị gia tăng. So với hiện hành, những quy định này có sự thay đổi
khá lớn. Hiện tại, doanh nghiệp làm dịch vụ chuyển phát nhanh phải mất từ 2 - 3
ngày để thực hiện các công tác liên quan như kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm,
kiểm tra văn hóa… trước khi thông quan hàng hóa. Bên cạnh đó, giá trị hàng được
miễn thuế chỉ là dưới 1 triệu đồng.
Bên cạnh đó, để tạo điều kiện thúc đẩy thông quan các lô hàng được xử lý
nhanh nói chung, hàng chuyển phát nhanh nói riêng, kể từ thời điểm Nghị định
59/2018/NĐ-CP có hiệu lực (5/6/2018), hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu gửi qua dịch
vụ chuyển phát nhanh bao gồm hàng hóa thuộc danh mục hàng hóa nhập khẩu phải
làm thủ tục hải quan tại cửa khẩu nhập do Thủ tướng ban hành được làm thủ tục hải
quan tại Chi cục quản lý địa điểm tập kết, kiểm tra, giám sát tập trung đối với hàng
chuyển phát nhanh. Như vậy, các doanh nghiệp không phải bắt buộc làm thủ tục hải
quan tại Chi cục Hải quan chuyển phát nhanh, tạo điều kiện tinh giản thời gian làm
thủ tục hải quan cho hàng hóa của doanh nghiệp
Hơn thế nữa, theo tinh thần của khoản 8 điều 7 Hiệp định thuận lợi hóa
thương mại, Việt Nam đã thông qua các quy tắc để nâng cao tính minh bạch trong
các thủ tục và bảo đảm tính chính trực trong quản lý bao gồm các luật và quy định
về hải quan; về giải phóng hàng hóa không chậm trễ và ký quỹ hoặc thanh toán bắt

buộc trong trường hợp hải quan chưa đưa ra quyết định về số thuế hoặc phí phải trả.
Bên cạnh đó, Việt Nam nhất trí áp dụng cơ chế xác định trước mã số và trị giá hàng
hóa nhằm giảm thời gian thông quan, tránh tình trạng khiếu nại, tranh chấp hai bên
và giúp cho doanh nghiệp có khả năng dự báo trước được tình hình. Cụ thể, trong
vòng 150 ngày sau khi nhận được hồ sơ yêu cầu xác định trước từ doanh nghiệp, cơ
quan hải quan phải ra phán quyết và phán quyết này có giá trị, hiệu lực ít nhất ba
năm, trừ trường hợp pháp luật thay đổi và doanh nghiệp khai báo sai. Hết ba năm,
doanh nghiệp có thể được gia hạn hoặc có văn bản xác định trước.
17


Hải quan Việt Nam đã có các chính sách tạo thuận lợi trong hoạt động xuất
nhập khẩu, xuất nhập cảnh các lô hàng chuyển phát nhanh nhưng đó cũng là lỗ hổng
mà kẻ xấu có thể lợi dụng để buôn hàng cấm và hàng nhập khẩu có điều kiện. Trong
thời gian qua, Hải quan đã phát hiện nhiều vụ vận chuyển trái phép chất ma túy với
số lượng lớn, với thủ đoạn cất giấu rất tinh vi trong các kiện hàng chuyển phát
nhanh…Theo nguồn tin từ Ban chỉ đạo quốc gia chống buôn lậu, gian lận thương
mại và hàng giả, năm 2018, lực lượng kiểm soát hải quan đã phát phát hiện, bắt giữ
632, trị giá hàng hóa vi phạm ước tính gần 92 tỷ đồng, chủ yếu tại các địa bàn nóng
như sân bay quốc tế Nội Bài, sân bay quốc tế Đà Nẵng, sân bay quốc tế Tân Sơn
Nhất; bưu điện Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và cả các hãng chuyển phát nhanh
DHL, Fedex…
Ngoài ra, mặc dù các doanh nghiệp chuyển phát nhanh là đối tượng được
hưởng lợi rất lớn từ quy định “các lô hàng được xử lý nhanh” trong TFA, song nhiều
doanh nghiệp chuyển phát nhanh Việt Nam vẫn vướng mắc trong kiểm tra chuyên
ngành của công tác hải quan. Điển hình như, về kiểm tra chất lượng nhà nước đối với
mặt hàng vải và sản phẩm may mặc gửi chuyến phát nhanh, Căn cứ Điều 1 Thông tư
21/2017/TT-BCT ngày 23/10/2017 của Bộ Công Thương, phạm vi điều chỉnh quy định
quy chuẩn áp dụng đối với đối với sản phẩm dệt may trước khi đưa ra thị trường Việt
Nam, do vậy khi nhập khẩu doanh nghiệp không thực hiện kiểm tra để đánh giá sự phù

hợp, nhưng doanh nghiệp phải thực hiện quy định về quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (công
bố hợp quy) trước khi đưa các sản phẩm trên ra thị trường tiêu thụ. Về quy định miễn
kiểm tra chuyên ngành đối với hàng mẫu, Nghị định 15/2018/NĐ-CP quy định “Miễn
kiểm tra chất lượng đối với các lô hàng mẫu, kiểm nghiệm có số lượng phù hợp” nhưng
lại không quy định chi tiết số lượng phù hợp là bao nhiêu gây vướng mắc cho nhiều
Doanh nghiệp. Cũng tương tự như vậy, tại khoản 5 Điều 13 Nghị định 15/2018 NĐ-CP
ngày 2/2/2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật an toàn
thực phẩm về trường hợp được miễn kiểm tra nhà nước về an toàn thực phẩm nhập
khẩu đối với sản phẩm là mẫu thử nghiệm hoặc nghiên cứu có số

18


lượng phù hợp với mục đích thử nghiệm hoặc nghiên cứu có xác nhận của tổ chức,
cá nhân... nhưng đến nay vẫn chưa có chưa có hướng dẫn thực hiện.
2.2.2 Tình hình thực hiện thông quan hàng khẩn cấp tại Việt Nam.
Đối với hàng hóa khẩn cấp - hàng hóa phục vụ việc khắc phục hậu quả của
thiên tai, dịch bệnh hoặc hàng hóa phục vụ các yêu cầu cứu trợ khẩn cấp – để được
hưởng ưu đãi như trong quy định về “Các lô hàng được xử lý nhanh” trong TFA,
người khai hải quan phải có văn bản xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Khi làm thủ tục hải quan đối với những hàng hóa này, người khai hải quan được sử
dụng tờ khai hải quan chưa hoàn chỉnh hoặc chứng từ thay thế tờ khai hải quan để
làm thủ tục hải quan, được phép khai trên tờ khai hải quan giấy. Cơ quan hải quan
thông quan quyết định thông quan hàng hóa trên cơ sở tờ khai hải quan chưa hoàn
chỉnh hoặc chứng từ thay thế tờ khai hải quan. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày
đăng ký tờ khai hải quan chưa hoàn chỉnh hoặc kể từ ngày nộp chứng từ thay thế tờ
khai hải quan, người khai hải quan phải nộp tờ khai hải quan hoàn chỉnh và các
chứng từ liên quan thuộc hồ sơ hải quan.
Ngoài ra, đối với hàng hóa chuyên dùng phục vụ an ninh, quốc phòng theo
văn bản xác nhận của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng hoặc Bộ trưởng Bộ Công an, người

khai hải quan được sử dụng tờ khai hải quan chưa hoàn chỉnh để làm thủ tục hải
quan. Cơ quan hải quan quyết định thông quan hàng hóa trên cơ sở tờ khai hải quan
chưa hoàn chỉnh. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan chưa
hoàn chỉnh, người khai hải quan phải nộp tờ khai hải quan hoàn chỉnh và các chứng
từ liên quan thuộc hồ sơ hải quan. Hàng hóa chuyên dùng phục vụ an ninh, quốc
phòng có yêu cầu bảo mật theo văn bản xác nhận của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
hoặc Bộ trưởng Bộ Công an được miễn khai hải quan và miễn kiểm tra thực tế.
Đối với các trường hợp phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh là xe cứu
thương, cứu hỏa, cứu hộ, cứu nạn, cứu trợ nhân đạo, làm nhiệm vụ khẩn cấp không có
giấy phép thì người điều khiển phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh khai vào tờ
khai phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, xuất trình các giấy tờ liên quan đến
phương tiện vận tải và giấy tờ tùy thân của người điều khiển phương tiện vận tải. Cơ

19


quan hải quan tiếp nhận hồ sơ do người khai hải quan nộp, xuất trình, kiểm tra thực
tế phương tiện vận tải, nhập thông tin vào hệ thống phần mềm quản lý phương tiện
vận tải đường bộ và thông báo cho các đơn vị, cơ quan có liên quan để phối hợp,
theo dõi, xử lý
Hàng hóa viện trợ nhân đạo, hàng hóa viện trợ không hoàn lại thuộc loại hàng
xử lý nhanh không phải chịu thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Ngoài các chứng từ cần thiết
trong hồ sơ hải quan đối với hàng hóa thông thường, người khai hải quan phải nộp 01
bản chụp hợp đồng cung cấp hàng hóa (đối với trường hợp tổ chức, cá nhân trúng thầu
nhập khẩu), 01 bản chụp hợp đồng ủy thác nhập khẩu (đối với trường hợp nhập khẩu ủy
thác), 01 bản chính Văn bản xác nhận viện trợ của Bộ Tài chính (đối với viện trợ nước
ngoài thuộc nguồn thu ngân sách trung ương; các khoản cứu trợ khẩn cấp không có địa
chỉ cụ thể, thuộc thẩm quyền phê duyệt của Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam quy định tại Điều 15 Nghị định số 93/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10
năm 2009 ban hành quy chế quản lý và sử dụng viện trợ phi chính phủ nước ngoài; viện

trợ hàng hóa nhập khẩu cho một số địa phương, nhưng do một tổ chức nhà nước thuộc
Trung ương làm đầu mối nhận hàng và phân phối) và 01 bản chính văn bản xác nhận
viện trợ của Sở Tài chính (đối với viện trợ nước ngoài thuộc nguồn thu ngân sách địa
phương). Bên cạnh đó, đối với hàng hóa nhập khẩu để thực hiện dự án ODA viện trợ
không hoàn lại của Việt Nam cho nước ngoài các chứng từ cần thiết trong hồ sơ hải
quan đối với hàng hóa thông thường, người khai hải quan phải nộp 01 bản chụp danh
mục chi tiết hàng hóa viện trợ cho nước ngoài do đơn vị thực hiện dự án lập; 01 bản
chụp quyết định của đơn vị chủ quản về việc giao nhiệm vụ quản lý và thực hiện dự án
hoặc quyết định phê duyệt dự án ODA của cơ quan chủ quản dự án trong đó ghi rõ hình
thức cung cấp là ODA không hoàn lại và 01 bản chụp hợp đồng cung cấp hàng hóa đối
với trường hợp tổ chức, cá nhân trúng thầu nhập khẩu hoặc hợp đồng ủy thác nhập khẩu
hàng hóa đối với trường hợp nhập khẩu ủy thác.
Tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế tham gia hoạt động ứng phó và
khắc phục hậu quả thiên tai tại Việt Nam nhập khẩu, tái xuất khẩu phương tiện, trang
thiết bị, hàng hóa để phục vụ công tác cứu trợ khẩn cấp, tìm kiếm cứu nạn, cứu trợ,

20


hỗ trợ thiên tai được miễn thuế, lệ phí nhập khẩu, xuất khẩu theo quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 41 Luật phòng, chống thiên tai. Trường hợp để lại Việt Nam sử dụng
vào mục đích khác phải chịu thuế theo quy định của pháp luật Việt Nam.
2.3 Đánh giá tình hình thực hiện tại Việt Nam
2.3.1 Ưu điểm
Thứ nhất, Pháp luật Việt Nam đã đáp ứng về cơ bản yêu cầu tại Khoản 8 Điều

7 TFA về:
 Có thủ tục riêng, cho phép giải phóng nhanh hàng chuyển phát nhanh hơn
bình thường
 Không có tiêu chí hạn chế người có quyền đề nghị thực hiện thủ tục giải

phóng nhanh với hàng chuyển phát nhanh
 Không yêu cầu người đề nghị phải nộp/cung cấp các loại thuế, phí, tiền nào
khác so với các loại phí, tiền áp dụng chung cho các trường hợp;
 Miễn thuế trong các trường hợp nhất định (theo định mức tối thiểu về trọng
lượng)
 Không giới hạn hàng hóa được chuyển phát nhanh
 Hàng chuyển phát nhanh không được miễn trừ khỏi việc áp dụng các trường
hợp kiểm tra chặt và các biện pháp xử lý cần thiết khác
 Việc áp dụng cơ chế riêng, nhanh cho hàng chuyển phát nhanh đã được triển
khai trên thực tế.
Thứ hai, Việt Nam đã áp dụng hệ thống thông quan điện tử VNACCS/VCIS
hay đề án áp dụng mã vạch trong quy trình giám sát hải quan nên cũng không quá khó
khăn trong việc cải thiện cơ sở hạ tầng liên quan đến việc xử lý nhanh các lô hàng.
Thứ ba, để áp dụng có hiệu quả quy định xử lý nhanh các lô hàng yêu cầu phải
có bước xử lý thông tin trước khi hàng đến. Điều này sẽ tạo thuận lợi cho Hải quan sử
dụng hệ thống quản lý rủi ro, giảm thiểu những trì hoãn, chậm trễ tại các cửa khẩu, sử
dụng tốt hơn các nguồn lực. Vì dữ liệu được doanh nghiệp nộp trước khi hàng đến, Hải
quan và doanh nghiệp sẽ có cơ hội tổ chức tốt hơn công việc của mình. Hiệu quả cũng
sẽ đạt được đối với các doanh nghiệp được ưu tiên khi khai báo định

21


kỳ với Hải quan. Giải phóng nhanh chóng hoặc ngay lập tức có ý nghĩa nghĩa rất lớn
đối với doanh nghiệp vì họ tiết kiệm được thời gian vàng bạc của mình, tạo điều
kiện để các hoạt động thương mại diễn ra kịp thời, nâng cao được tính cạnh tranh
của doanh nghiệp. Ngoài ra, Doanh nghiệp có thể tiết kiệm các chi phí lưu kho, lưu
bãi và bảo hiểm. Các loại phí như vậy có thể được cắt giảm là hệ quả trực tiếp của
việc xử lý, giải phóng nhanh các lô hàng.
2.3.2 Hạn chế.

Thứ nhất, trong khi hẩu hết các nhóm nghĩa vụ trong TFA đã được quy định
đầy đủ trong pháp luật Việt Nam, một số nhóm nghĩa vụ, trong đó có nghĩa vụ về
thủ tục hải quan đối với hàng chuyển phát nhanh theo Khoản 8 Điều 7 TFA (thủ tục
kiểm tra chuyên ngành ưu tiên) vẫn còn một vài điểm nhỏ chưa được thể hiện trong
pháp luật Việt Nam (dù phần lớn các nghĩa vụ chi tiết khác trong nhóm đã có) và vì
thế cần được bổ sung vào hệ thống pháp luật hiện hành nhằm đảm bảo thực hiện
triệt để các yêu cầu trong TFA.
Thứ hai, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin hiện nay chưa đáp ứng được yêu
cầu cho việc tinh giản thủ tục hải quan đối với dịch vụ chuyển phát nhanh, việc phân
loại hàng hóa diễn ra còn chậm và chưa hiệu quả, việc bố trí thời gian làm việc trong
khi chưa quy hoạch lại điểm tập trung.
Thứ ba, chưa có phối hợp với cơ quan chuyên ngành trong kiểm soát hàng
hóa chuyển phát nhanh (việc kiểm soát chuyên ngành vẫn thực hiện theo thủ tục
thông thường)

22


CHƯƠNG 3.

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN

ĐIỀU KHOẢN “CÁC LÔ HÀNG ĐƯỢC XỬ LÝ NHANH” TẠI VIỆT NAM
3.1 Cơ sở đề xuất giải pháp
3.1.1 Sự cần thiết của thủ tục xử lý nhanh các lô hàng đối với hải quan và
doanh nghiệp:
Như nội dung chúng ta đã đề cập đến “Các lô hàng được xử lý nhanh là như thế
nào”, trong khuôn khổ TFA, các lô hàng được xử lý nhanh sẽ chỉ áp dụng đối với các lô
hàng vận chuyển bằng đường hàng không. Hai loại hàng hóa điển hình bao gồm hàng
gửi chuyển phát nhanh bằng đường hàng không và hàng cứu trợ khẩn cấp.


Đối với hàng gửi chuyển phát nhanh bằng đường hàng không:
Thứ nhất, do yêu cầu thực hiện khối lượng công việc tăng lên nhanh chóng:
Khối lượng hàng hóa, dịch vụ xuất nhập khẩu bằng đường hàng không tăng lên đòi
hỏi ngành hải quan phải xử lý khẩn trương, đơn giản hóa các thủ tục, tiết kiệm thời
gian, và tránh tồn đọng công việc.
Thứ hai, do sự phát triển của thương mại quốc tế về cả nội dung lần hình thức;
Cùng với sự phát triển nhanh chóng, đa dạng của thương mại và dịch vụ quốc tế, khối
lượng công việc của hải quan các quốc gia ngày càng gia tăng một cách đáng kể. Xu
hướng tự do hóa, toàn cầu hóa thương mại quốc tế, yêu cầu cơ quan hải quan các quốc
gia phải tạo mọi điều kiện thuận lợi cho thương mại, dịch vụ hợp pháp hoạt động và
phát triển. Với mục tiêu nhanh chóng, đơn giản hóa, hài hòa hóa thủ tục hải quan, góp
phần nâng cao khả năng cạnh tranh, các quốc gia phải không ngừng cải tiến thủ tục hải
quan sao cho vừa đơn giản, vừa phù hợp với các chuẩn mực của quốc tế, đảm bảo công
tác quản lý. Chính vì vậy, việc xử lý nhanh các thủ tục thông quan cho hàng hóa, đặc
biệt đối với những hàng hóa có tính chất và nhu cầu đặc thù, là vô cùng cần thiết.
Thứ ba, do yêu cầu nhiệm vụ mới của ngành hải quan: Trước tình hình thế giới
có nhiều biến động về kinh tế, chính trị, bên cạnh những nhiệm vụ truyền thống, hải
quan các nước còn có nhiệm vụ chống khủng bố, rửa tiền, dịch bệnh, bảo đảm an ninh,
an toàn xã hội,... Trong khi nguồn nhân lực hải quan là có hạn, đứng trước yêu cầu trên,
đòi hỏi cơ quan hải quan các quốc gia phải cải cách và hiện đại hóa hải quan.

23


Một trong những nội dung cốt lõi của hiện đại hóa hải quan là thực hiện thủ tục hải
quan một cách nhanh chóng, tiết kiệm thời gian.
Thứ tư, đối với doanh nghiệp, dịch vụ chuyển phát nhanh qua đường hàng
không mang lại nhiều lợi ích vô cùng, trước tiên chúng ta xét đến tính chất của một
số hàng hóa chuyển phát nhanh, khó bảo quản, động vật tươi, sống hay những hàng

hóa nguy hiểm, vô cùng gấp rút,... thì đây là một dịch vụ vô cùng tối ưu, với thời
gian rất ngắn, đảm bảo đúng yêu cầu của khách hàng, đảm bảo an toàn cao, đáp ứng
được những thỏa thuận, yêu cầu về thời gian, không có hư hại gì về sản phẩm giữa
các hợp đồng mà các doanh nghiệp ký kết với nhau. Chuyển phát nhanh bằng đường
hàng không chính là phương tiện an toàn và tin cậy bậc nhất, vận chuyển hàng hóa
một cách nhanh chóng và thuận tiện nhất.
Đối với hàng cứu trợ khẩn cấp:
Trong bối cảnh thế giới hiện nay, thiên tai, chiến tranh, dịch bệnh xuất hiện
ngày một nhiều, việc cứu trợ khẩn cấp là một trong những nhiệm vụ cấp bách và vô
cùng quan trọng của Nhà nước ta cũng như cộng đồng quốc tế, giúp giảm bớt khó
khăn cho người dân bị nạn trên toàn thế giới trong thời gian nhanh nhất. Việc tiến
hành các thủ tục hải quan, thông quan nhanh cho hàng hóa cứu trợ khẩn cấp phải
được thực hiện vô cùng nhanh chóng với những chế độ hải quan đặc biệt, đơn giản,
tiên tiến và tiết kiệm ít thời gian nhất. Chính vì vậy, yêu cầu về thời gian vận chuyển
hàng hóa cứu trợ trở thành mối quan tâm hàng đầu của các cá nhân, tổ chức, doanh
nghiệp, Chính phủ mà đặc biệt là các cơ quan hải quan – tổ chức trực tiếp đảm nhận
nhiệm vụ cấp bách này.
3.1.2 Những tồn tại trong thủ tục xử lý các lô hàng được xử lý nhanh ở Việt Nam:
Thứ nhất, bước đầu chuyển đổi phương thức quản lý truyền thống sang hiện
đại, từ giấy từ sang xử lý điện tử trên máy tính, mặc dù giúp doanh nghiệp và hải
quan giảm bớt rất nhiều thời gian và giấy tờ cần phải nộp cho cơ quan hải quan,
giảm bớt các thủ tục hành chính, tuy nhiên về phía hải quan Việt Nam cần đảm bảo
cơ sở thiết bị, kỹ thuật, đòi hỏi áp dụng khoa học, công nghệ thông tin trình độ cao
để vận hành hệ thống thực hiện hải quan đầy đủ, nhanh chóng và ổn định.
24


×