Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Phòng ngừa rủi ro và đầu cơ trên thị trường ngoại hối

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.98 KB, 19 trang )

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA RỦI RO
VÀ ĐẦU CƠ TRÊN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI
1.1 Phòng ngừa rủi ro trên thị trường ngoại hối
1.1.1 Rủi ro và các loại rủi ro
a. Khái niệm:
Rủi ro là một khái niệm phổ biến, hầu như ai cũng biết đến phạm trù này
nhưng cho đến nay lại chưa có một quan điểm thống nhất nào về rủi ro. Những
trường phái khác nhau, các tác giả khác nhau đưa ra những định nghĩa rủi ro khác
nhau. Tuy nhiên, quan điểm được xem là hiện đại và nhận được sự đồng tình cao là
của Frank H. Knight khi ông cho rằng: “Rủi ro là sự không chắc chắn có thể đo
lường được”.
Áp vào thị trường ngoại hối, chúng ta có thể hiểu, rủi ro trên thị trường ngoại
hối là sự không chắc chắn về giá trị của khoản thu hoặc chi ngoại tệ trong tương lai.
b. Các loại rủi ro:
Thứ nhất, rủi ro tỷ giá là sự biến động tỷ giá làm ảnh hưởng đến giá trị kỳ
vọng trong tương lai của nhà đầu tư. Đây là rủi ro lớn nhất trong tất cả các loại rủi
ro, nhưng đồng thời cũng mang lại lợi nhuận lớn nhất cho nhà đầu tư. Bất cứ công
cụ nào nhằm hạn chế rủi ro này cũng đồng thời hạn chế lợi nhuận tiềm năng.
Thứ hai, rủi ro lãi suất là những rủi ro phát sinh từ việc chênh lệch lãi suất tiền
vay và tiền gửi ở các ngân hàng ảnh hưởng đến giá trị tiền tệ. Các ngân hàng trung
ương định kỳ thay đổi lãi suất để quản lý nền kinh tế và như vậy, mức chênh lệch lãi
suất cũng thay đổi theo. Một khoảng chênh lệch dương đôi khi có thể biến thành
âm. Tuy vậy, sự thay đổi này hiếm khi xảy ra và một sự cắt giảm lãi suất lớn cũng
không bao giờ diễn ra nhanh chóng mà từ từ từng bước một. Đó là lý do tại sao các
nhà kinh doanh nên để mắt tới sự thay đổi lãi suất của các đồng tiền nếu muốn theo
đuổi một chiến lược đầu tư lâu dài. Còn đối với các giao dịch diễn ra hàng ngày, nhà
kinh doanh có thể không cần để ý tới lãi suất này.
1.1.2 Các công cụ phòng ngừa rủi ro trên thị trường ngoại hối
1



a. Hợp đồng mua bán ngoại tệ có kỳ hạn
Giao dịch ngoại tệ kỳ hạn (forward) là giao dịch mua hoặc bán ngoại tệ mà
việc chuyển giao ngoại tệ được thực hiện sau một thời hạn nhất định kể từ khi thỏa
thuận hợp đồng. Lý do xuất hiện loại giao dịch này là để cung cấp phương tiện
phòng ngừa rủi ro hối đoái, tức là rủi ro phát sinh do sự biến động bất thường của tỷ
giá gây ra. Với tư cách là công cụ phòng ngừa rủi ro, hợp đồng có kỳ hạn được sử
dụng để cố định khoản thu nhập hay chi trả theo một tỷ giá cố định đã biết trước,
bất chấp sự biến động tỷ giá trên thị trường.
Ở Việt Nam giao dịch hối đoái kỳ hạn chính thức ra đời từ khi Ngân hàng Nhà
nước ban hành Quy chế hoạt động giao dịch hối đoái kèm theo Quyết định số
17/1998/QĐ-NHNN7 ngày 10 tháng 01 năm 1998. Theo quy chế này giao dịch hối
đoái kỳ hạn là giao dịch trong đó hai bên cam kết sẽ mua, bán với nhau một số
lượng ngoại tệ theo một mức giá xác định và việc thanh toán sẽ được thực hiện
trong tương lai. Quy chế này cũng xác định tỷ giá kỳ hạn là tỷ giá giao dịch do ngân
hàng thương mại, ngân hàng đầu tư và phát triển yết giá hoặc do hai bên tham gia
giao dịch tự tính toán và thoả thuận với nhau, nhưng phải bảo đảm trong biên độ qui
định giới hạn tỷ giá kỳ hạn hiện hành của Ngân hàng Nhà nước tại thời điểm ký kết
hợp đồng
b. Hợp đồng tương lai
Hợp đồng tương lai được Thị Trường Tiền Tệ Quốc Tế (International
Monetary Market – IMM) đưa ra lần đầu tiên năm 1972 ở Chicago nhằm cung cấp
cho những nhà đầu cơ (speculators) một phương tiện kinh doanh và cho những
người ngại rủi ro (hedgers) một công cụ phòng ngừa rủi ro hối đoái.
Hợp đồng tương lai là một thỏa thuận mua bán một số lượng ngoại tệ đã biết
theo tỷ giá cố định tại thời điểm hợp đồng có hiệu lực và việc chuyển giao ngoại tệ
được thực hiện vào một ngày trong tương lai được xác định bởi Sở giao dịch
(IMM). Giao dịch tương lai, về thực chất, chính là giao dịch kỳ hạn nhưng được
chuẩn hoá (standardized) về loại ngoại tệ giao dịch, doanh số giao dịch, và ngày
giao dịch.
Hợp đồng tương lai được sử dụng như là một công cụ phòng ngừa rủi ro ngoại

hối. Nguyên lý chung là khi có một khoản phải trả bằng ngoại tệ và lo sợ rằng ngoại
2


tệ đó sẽ lên giá khi khoản phải trả đến hạn thì nên mua một hợp đồng tương lai
ngoại tệ đó. Bằng cách này có thể tạo ra hai trạng thái ngoại tệ trái ngược nhau:
trạng thái âm khi nợ một khoản phải trả và trạng thái dương khi mua hợp đồng
tương lai với cùng loại ngoại tệ đó. Hai trạng thái ngoại tệ trái chiều nhau ấy sẽ tự
hóa giải rủi ro. Trường hợp có một khoản phải thu, thay vì khoản phải trả, thì làm
ngược lại.
c. Hợp đồng hoán đổi
Ở Việt Nam giao dịch hoán đổi chính thức ra đời từ khi Ngân hàng nhà nước
ban hành Quy chế hoạt động giao dịch hối đoái kèm theo Quyết định số
17/1998/QĐ-NHNN7 ngày10 tháng 01 năm 1998. Theo quyết định này, giao dịch
hoán đổi là giao dịch hối đoái bao gồm đồng thời cả hai giao dịch: giao dịch mua và
giao dịch bán cùng một số lượng đồng tiền này với đồng tiền khác, trong đó kỳ hạn
thanh toán của hai giao dịch khác nhau và tỷ giá của hai giao dịch được xác định tại
thời điểm ký hợp đồng.
Như đã trình bày, giao dịch hoán đổi là một sự kết hợp giữa giao dịch giao
ngay và giao dịch kỳ hạn. Bản thân hợp đồng hoán đổi giải quyết được nhược điểm
của hợp đồng giao ngay là có thể thỏa mãn nhu cầu ngoại tệ của khách hàng ở thời
điểm tương lai, đồng thời khắc phục được nhược điểm của hợp đồng kỳ hạn ở chỗ
có thể thỏa mãn nhu cầu ngoại tệ của khách hàng ở thời điểm hiện tại. Điều này
giống như hợp đồng kỳ hạn, do đó khách hàng có thể phòng ngừa được rủi ro biến
động tỷ giá.
d. Hợp đồng quyền chọn
Hợp đồng quyền chọn giao dịch trên tỷ giá hối đoái được Sở Giao Dịch Chứng
Khoán Philadelphia đưa ra đầu tiên vào năm 1983. Quyền chọn (options) là một
công cụ tài chính cho phép người mua nó có quyền, nhưng không bắt buộc, được
mua (call) hay bán (put) một công cụ tài chính khác ở một mức giá và thời hạn được

xác định trước. Người bán hợp đồng quyền chọn phải thực hiện nghĩa vụ hợp đồng
nếu người yêu cầu. Bởi vì quyền chọn là một tài sản tài chính nên nó có giá trị và
người mua phải trả một khoản chi phí nhất định (premium cost) khi mua nó
Thông qua hợp đồng quyền chọn, doanh nghiệp có thể kiểm soát được rủi ro
ngoại hối bằng cách giới hạn tối đa chi phí nội tệ đối với khoản phải trả ở mức bằng
3


trị giá khoản phải trả nhân với tỷ giá thực hiện và công thêm chi phí mua quyền
chọn mua; và giới hạn tối thiểu giá trị nội tệ của khoản phải thu ở mức bằng trị giá
khoản phải thu nhân với tỷ giá thực hiện và trừ đi chi phí mua quyền chọn bán.
Sử dụng hợp đồng quyền chọn như là giải pháp phòng ngừa rủi ro ngoại hối có
ưu điểm là giúp công ty vừa kiểm soát được rủi ro ngoại hối vừa giúp công ty tận
dụng được cơ hội đầu cơ nếu như tỷ giá biến động thuận lợi. Có thể nói hợp đồng
quyền chọn, với tính chất linh hoạt của nó, là hợp đồng cho phép công ty đạt được
cả hai mục tiêu: phòng ngừa rủi ro và đầu cơ. Tuy nhiên, nhược điểm của nó là công
ty phải bỏ chi phí ra mua quyền chọn, cho dù có thực hiện hay không thực hiện
quyền chọn
1.2 Đầu cơ trên thị trường ngoại hối
1.2.1 Khái niệm, phân biệt đầu tư và đầu cơ
a. Khái niệm đầu cơ
Đầu cơ (speculation) trong lĩnh vực tài chính là việc mua, bán, nắm giữ, bán
khống các loại tài sản tài chính ( cổ phiếu, trái phiếu, hàng hoá, tiền tệ, bất động
sản, chứng khoán phái sinh) nhằm thu lợi từ sự biến động giá mạnh của chúng.
Nói tóm lại, đầu cơ là hoạt động diễn ra trong ngắn hạn, thu lợi nhờ việc chênh
lệch giá.
b. Phân biệt đầu tư và đầu cơ
Đầu cơ là mua vào với số lượng lớn, cực lớn với mục đích tạo sự khan hiếm,
đẩy giá lên cao hơn nhiều lần so với giá lúc bình thường rồi bán. Đầu tư là mua vào,
bán ra kiếm lời chênh lệch bằng việc tạo giá trị thặng dư.

Đầu cơ diễn ra trong ngắn hạn, thu lợi nhờ việc chênh lệch giá còn đầu tư là
dài hạn, thu lời nhờ giá trị thặng dư tạo được.
1.2.2 Tác động của hoạt động đầu cơ lên thị trường ngoại hối
Xét về mặt tích cực, lợi ích của hoạt động đầu cơ là nó cung cấp cho thị
trường một lượng vốn lớn, tăng tính thanh khoản cho thị trường và làm cho cho các
nhà đầu tư khác dễ dàng sử dụng các nghiệp vụ như phòng vệ hay kinh doanh chênh
lệch giá để loại trừ rủi ro.
4


Tuy nhiên, xét về mặt tiêu cực, khi có hoạt động đầu cơ diễn ra, giá của một
loại hàng hoá nhất định có thể tăng đột ngột vượt quá giá trị thực của nó, vì việc đầu
cơ đã làm gia tăng “cầu ảo“.Giá tăng làm các nhà kinh doanh khác nhảy vào thị
trường này với hi vọng giá sẽ còn lên nữa. Hiệu ứng tâm lý này tiếp tục đẩy giá lên,
làm cho thị trường này trở nên rất nóng và ẩn chứa rủi ro cao. Toàn bộ quá trình này
được gọi là “bong bóng kinh tế“, một khi trái bong bóng này bị chọc thủng thì các
nhà đầu cơ trên thị trường này có thể gặp những tổn thất vô cùng nề. Đầu cơ là một
biểu hiện của tâm lý thị trường và đầu cơ ngắn hạn có tác động tiêu cực đến thị
trường ngoại hối. Đầu cơ ngắn hạn: “Mua tin đồn, bán sự thật”. Đó là xu hướng cho
giá của một loại tiền tệ để phản ánh tác động của một hành động cụ thể trước khi nó
xảy ra và khi các sự kiện được mong đợi đến thì lúc này đây có thể sẽ phản ứng
ngược lại với những gì chúng ta mong muốn.

CHƯƠNG 2: PHÒNG NGỪA RỦI RO VÀ ĐẦU CƠ TRONG
CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ 2007 - 2009
2.1 Hoạt động đầu cơ tại cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ 2007 – 2009
Các nhà kinh tế cho rằng một tài sản tài chính được xem là bong bóng khi giá
của nó vượt quá giá trị hiện tại của những khoản thu nhập trong tương lai mà người
chủ của nó nhận được cho đến khi đáo hạn. Nếu các nhà đầu tư tham gia thị trường
mua tài sản chỉ với kỳ vọng sẽ bán nó với giá cao hơn sau này thay vì để hưởng

những khoản thu nhập mà nó sẽ tạo ra thì đây là bằng chứng cho thấy tính chất
bong bóng đã hiện diện. Nếu có hiện tượng bong bóng thì cũng có rủi ro sụp đổ giá
tài sản: những người tham gia thị trường sẽ chỉ tiếp tục mua vào chừng nào họ còn
kỳ vọng người khác mua, và khi nhiều người cùng quyết định bán thì sẽ ngay lập
tức làm giá giảm xuống.
Trong cuộc khủng hoảng Châu Á những năm 1997 - 1998, để đối mặt với tình
hình tài chính suy sụp, các quốc gia như Thái Lan, Indonesia, Hàn Quốc buộc phải
5


vay Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) để thanh toán các món nợ ngắn hạn và hỗ trợ tỷ giá.
Với quyết tâm không để xảy ra tình trạng thiếu hụt dự trữ ngoại tệ, các quốc gia này
bắt đầu thực hiện chính sách phát triển xuất khẩu và dự trữ ngoại tệ. Đến giữa năm
2008, tổng số dự trữ ngoại tệ của các quốc gia xuất khẩu mạnh đã lên đến trên 4.400
tỷ USD (Trung Quốc chiếm 2.000 tỷ, Nhật Bản gần 1.000 tỷ, Liên Bang Nga trên
500 tỷ, Ấn Độ, Hàn Quốc, và Brazil mỗi quốc gia trên 200 tỷ).
Một phần nguồn ngoại tệ này được đầu tư vào các cổ phiếu “kỹ thuật cao”. Và
từ đầu năm 2000, sau khi phong trào “dot.com” suy sụp những nguồn vốn nóng
được chuyển hướng qua thị trường nhà đất, không phải chỉ ở Mỹ mà tại nhiều nước
khác.
Đồng thời Trung Quốc và không ít các quốc gia giàu ngoại tệ đã đầu tư vào
trái phiếu Nhà nước Mỹ. Việc này đi kèm với chính sách nới rộng tín dụng của Cục
Dự trữ Liên Bang Mỹ (FED) và quyết tâm của Chính phủ Mỹ không để xảy ra suy
trầm kinh tế sau 8 năm phát triển liên tục dưới thời chính phủ Clinton, đã làm cho
lãi suất hạ thấp, thúc đẩy thị trường nhà đất phát triển nóng bỏng và kéo dài. Các
chuyên gia tài chính phố Wall và các trung tâm tài chính khác trên thế giới đã khai
thác thời cơ bằng cách thu gom các hợp đồng vay nợ, gói ghém lại và tung ra thị
trường những trái phiếu phái sinh được bảo đảm bằng các hợp đồng cho vay bất
động sản (Mortgage Backed Securities – MBS). Những sản phẩm tài chính khác
cũng phát triển mạnh, đặc biệt là “Collaterized Debt Obligations –CDO” hay

“Collaterized Loan Obligations – CLO” tức là các loại trái phiếu phái sinh được bảo
đảm bới những hợp đồng cho vay nợ.
Trong lộ trình này các tổ chức cho vay gốc đã không nghiêm túc thực hiện
trách nhiệm giám định, kiểm tra khả năng hoàn vốn của những bên vay nợ mà chỉ
tập trung 2 vào việc lập và bán lại hợp đồng. Các tổ chức này được trả một phí “lập
hợp đồng” do vậy động cơ đối với họ là bán càng nhiều hợp đồng càng có lợi.
Riêng tại Mỹ tổng số hợp đồng cho vay bất động sản lên đến trên 12.000 tỷ
USD, và tổng số CDO và CLO cũng lên đến con số tương đương. Cả thế giới chưa
có ước tính chính xác, nhưng cũng lên đến nhiều chục nghìn tỷ USD.
Để bảo hiểm nguy cơ xảy ra nợ xấu các nhà đầu tư những sản phẩm phái sinh
này mua những hợp đồng “Bảo đảm nợ xấu” (Credit Default Swap – CDS). Đây là
6


một loại bảo hiểm mà người bán cam kết với người mua là sẽ thanh toán món nợ
trong trường hợp người vay nợ bị phá sản, không còn khả năng hoàn trả, hay chỉ là
bị hạ thấp hệ số tín nhiệm (Credit rating downgrade), nói chung là khi xảy ra “sự cố
tài chính” (credit events). Do đó, loại CDS này tự thân nó lại đã biến thành một sản
phẩm đầu tư phái sinh, một cuộc đánh đố khả năng xảy ra sự cố, chứ không cần
phải là vỡ nợ hay phá sản.
Đến cuối tháng 6 năm 2008, tổng số giá trị hợp đồng CDS bên Mỹ là khoảng
35.000 tỷ USD (so với GDP Mỹ là khoảng 14.700 tỷ USD) và trên toàn trên thế giới
là khoảng 54.600 tỷ USD (theo ước tính của Hiệp hội Giao dịch Phái sinh và Hoán
đổi quốc tế ISDA), cao hơn tổng số GDP của cả thế giới ước tính khoảng 54.000 tỷ
USD. Thị trường CDS đã đem lại những số lợi nhuận khổng lồ cho đến khi các hợp
đồng vay biến thành nợ xấu khiến cả thị trường sụp đổ.
Từ giữa năm 2006 thị trường nhà đất ở Mỹ không ngừng tuột dốc, có nhiều
nơi giá nhà đất đã giảm trên 40%. Một số lớn những hợp đồng cho vay bất động sản
đã biến thành nợ xấu. Các trái phiếu phái sinh MBS không những mất giá mà không
còn thị trường giao dịch. Các nhà đầu tư thua lỗ nặng, hệ thống ngân hàng, công ty

bảo hiểm, các quỹ đầu tư nắm giữ loại trái phiếu này lâm vào tình trạng mất thanh
khoản, mất khả năng thanh toán.
Đến tháng 10/2008 các định chế tài chính hàng đầu thế giới đồng loạt lâm vào
tình trạng phá sản. Thị trường tài chính thế giới đóng băng. Mọi lĩnh vực kinh tế từ
sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ, đến phân phối không còn tiếp cận được
nguồn vốn vay. Hệ thống tín dụng tiêu dùng cũng trở nên khô cạn. Một cuộc khủng
hoảng chưa từng có đã ập xuống trên toàn thế giới, từ các nền kinh tế phát triển đến
các nền kinh tế chưa phát triển.
2.2 Hoạt động phòng ngừa rủi ro trong cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ 20072009
2.2.1 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng
Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ được xác định có nguyên nhân từ việc các
ngân hàng thương mại cho vay mua nhà “dưới chuẩn” với một quy mô lớn. Các
công ty tài chính và ngân hàng đầu tư, trong đó đặc biệt là hai công ty Fanie Mae và
7


Freddie Mac đã “cấp vốn” cho các ngân hàng thương mại bằng cách mua lại các
khoản cho vay của các ngân hàng thương mại, biến chúng thành loại chứng từ được
bảo đảm bằng các khoản vay thế chấp để bán lại cho các công ty. Các công ty tài
chính, ngân hàng đầu tư này lại phát hành trái phiếu trên cơ sở các chứng từ cho vay
thế chấp đó để bán cho các ngân hàng Mỹ khác và ngân hàng nhiều nước trên thế
giới làm tài sản tích trữ do uy tín của các ngân hàng phát hành. Chuỗi hoạt động
kinh doanh mang tính chất đầu cơ này đã làm thị trường nhà đất nóng lên, giá nhà
đất bị đẩy lên cao, trở thành “bong bóng”. “Bong bóng” nổ là không thể tránh khỏi.
Những diễn biến trên là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến khủng hoảng tài chính,
nhưng sâu xa hơn, cuộc khủng hoảng tài chính có nguyên nhân từ sự yếu kém về cơ
chế, bộ máy và công cụ quản lý rủi ro của các thành viên tham gia thị trường.
Năm 1999, Mỹ đã giải toả hệ thống kiểm soát ngân hàng, chủ yếu là hết phân
biệt ngân hàng đầu tư với ngân hàng thương mại. Và ngân hàng đầu tư không chỉ
làm giàu bằng vốn riêng mà còn có thể vay tiền để đánh bạc trên một thị trường có

quá nhiều tiền với lãi suất quá rẻ nên ước tính sai mức rủi ro.
Còn việc một số lượng lớn người dân đổ xô vào vay tiền ngân hàng (trả lãi và
vốn trong một thời gian dài) là do tình trạng lãi suất và dễ vay mượn ở Mỹ mà Cục
dự trữ liên bang Mỹ (FED) thực hiện để khuyến khích sản xuất và tiêu dùng, cứu
nền kinh tế Mỹ khỏi suy thoái sau cuộc khủng hoảng năm 2000-2001. Trong bối
cảnh thực hiện các chính sách tự do hoá kinh tế, Chính phủ Mỹ đã thực hiện chính
sách nới lỏng tiền tệ trong một thời gian dài. Chỉ từ tháng 5/2001 đến tháng
12/2002, FED đã 11 lần giảm lãi suất cho vay từ 6,5% xuống còn 1,75%/năm., theo
đó, lãi suất cho vay của tín dụng thứ cấp cũng giảm xuống thấp. Chính sách nới
lỏng tiền tệ (chính sách đồng đô la rẻ) đã kích thích người dân vay tiền mua nhà,
còn các tổ chức tín dụng thì sẵn sàng cho vay, đầu tư mạo hiểm.
Tóm lại, sự buông lỏng quản lý nhà nước và những sai lầm trong chính sách
kinh tế của nhà nước là nguyên nhân sâu xa hơn của cuộc khủng hoảng tài chính ở
Mỹ năm 2008.
2.2.2 Các hoạt động phòng ngừa rủi ro sau khi cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ
nổ ra năm 2008
a. Hoạt động của FED:
8


Từ khi bắt đầu khủng hoảng, FED và các cơ quan giám sát khác của Mỹ đã
hợp tác với các cơ quan giám sát nước ngoài để tìm ra nguyên nhân khủng hoảng và
những bài học của nó. Các phân tích đã tái khẳng định rằng an toàn vốn, xây dựng
kế hoạch thanh khoản hiệu quả và tăng cường quản lý rủi ro là những yếu tố cần
thiết nhất để hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn và phát triển tốt.
-

Quản lý vốn:

Kể từ khi bắt đầu khủng hoảng, các cơ quan giám sát Mỹ đã thực hiện giám

sát vốn rất chặt chẽ. FED đã thực hiện giám sát chặt chẽ tỷ lệ vốn của các tổ chức
tài chính tương ứng với mức độ rủi ro của tài sản và trao đổi đánh giá với các nhà
quản lý cấp cao của các tổ chức này. FED cũng xem xét lại các quy định về quản lý
vốn của mình. Chẳng hạn như, vào đầu năm 2009, FED đã ban hành Hướng dẫn
dành cho các công ty quản lý ngân hàng trong giám sát cổ tức, hoạt động mua lại
vốn, hoàn trả vốn (công ty quản lý ngân hàng là công ty quản lý một hoặc nhiều
ngân hàng).
FED còn làm đầu mối thực hiện Chương trình Đánh giá Giám sát Vốn liên
ngành. Chương trình này nhằm đảm bảo rằng các tổ chức ngân hàng lớn nhất và có
tầm quan trọng ảnh hưởng tới hệ thống ngân hàng nhất có đủ nguồn vốn và có thể
duy trì hoạt động cho vay ngay cả khi các điều kiện kinh tế vĩ mô trở nên tồi tệ hơn.
-

Quản lý thanh khoản:

Khủng hoảng cũng cho thấy tầm quan trọng của việc quản lý thanh khoản hiệu
quả. Hàng ngày, FED theo dõi trạng thái thanh khoản của các tổ chức tài chính lớn
và thảo luận với quản lý cấp cao của các tổ chức này về các chiến lược thanh khoản,
các diễn biến chính của thị trường và rủi ro thanh khoản. Qua hơn một năm rưỡi,
FED thấy rằng để có được khả năng thanh khoản đầy đủ đòi hỏi một tổ chức phải có
nhiều hơn những tài sản có tính thanh khoản cao so với những tài sản mà các ngân
hàng nắm giữ trong điều kiện bình thường; các tổ chức tài chính còn phải dự tính
đến trạng thái thanh khoản khi thị trường rơi vào hoàn cảnh khó khăn. FED cũng
yêu cầu các tổ chức phải lưu tâm xem xét những rủi ro phát sinh từ nhu cầu thanh
khoản cho các khoản ngoại bảng.
-

Quản lý rủi ro:

9



Sau vốn và thanh khoản thì nhân tố chính thứ ba đảm bảo hệ thống ngân hàng
hoạt động an toàn và lành mạnh là quản lý rủi ro hiệu quả. Khi khủng hoảng nổ ra,
FED đã tăng cường giám sát các tổ chức tài chính về nội dung quản lý rủi ro tín
dụng đối tác, và yêu cầu các tổ chức tài chính nâng cao nhận thức và hiểu biết về
các mối liên hệ và các tác động rủi ro chủ chốt trong hệ thống tài chính. Các tổ chức
này phải phân tích hành động tự vệ của họ trong giai đoạn khó khăn có thể gây áp
lực lên các đối tác chính như thế nào, đặc biệt là khi các thành viên khác trên thị
trường cũng thực hiện những biện pháp tương tự.
b. Hoạt động của Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng
Uỷ ban Basel về Giám sát Ngân hàng (BCBS) được thành lập vào năm 1974
bởi một nhóm các Ngân hàng Trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước phát
triển (G10) tại thành phố Basel, Thụy Sỹ, nhằm tìm cách ngăn chặn sự sụp đổ hàng
loạt của các ngân hàng vào thập kỷ 80. Ủy ban Basel vốn không có bất kỳ một cơ
quan giám sát nào và những kết luận của Uỷ ban này không có tính pháp lý và yêu
cầu tuân thủ đối với việc giám sát hoạt động ngân hàng. Thay vào đó, Ủy ban Basel
chỉ xây dựng và công bố những tiêu chuẩn và hướng dẫn cho công tác giám sát
ngân hàng trên toàn thế giới; đồng thời, giới thiệu các báo cáo thực tiễn tốt nhất với
kỳ vọng rằng các tổ chức tài chính riêng lẻ sẽ áp dụng tiêu chuẩn đó theo hướng phù
hợp nhất cho hệ thống quốc gia.
Khủng hoảng tài chính 2008 là một mốc rất quan trọng để các thành viên
BCBS có cơ hội đánh giá một cách nghiêm túc những quy định mà Basel II đã đưa
ra trước đó. Sau khi nghiên cứu, tháng 12 năm 2010, BCBS ban hành tiếp các quy
định Basel III.
Cụ thể, khủng hoảng tài chính 2008 cho thấy giá trị của nhiều tài sản giảm
nhanh hơn so với trước đây, nên Basel III đã đưa ra quy định về tỷ lệ đòn bẩy nhằm
tránh tình trạng lạm dụng quá mức các đòn bẩy tài chính, góp phần đảm bảo an toàn
hệ thống.
Tương tự, khủng hoảng cũng cho thấy tầm quan trọng của tính thanh khoản

đối với sự hoạt động bình thường của hệ thống tài chính. Vì thế, Basel III đã thiết
lập một khuôn khổ về quản lý rủi ro thanh khoản, gồm tỷ lệ thanh khoản an toàn
10


(liquidity coverage ratio) và tỷ lệ quỹ bình ổn ròng (net stable funding ratio). Các
quy định về quản lý rủi ro thanh khoản sẽ được hình thành dần, để có thể đưa vào
áp dụng chính thức từ năm 2015 (đối với tỷ lệ thanh khoản an toàn) và năm 2018
(đối với tỷ lệ quỹ bình ổn ròng).
Ngoài ra, Basel III vẫn tiếp tục tinh thần của Basel I và Basel II trong việc bắt
buộc các ngân hàng phải duy trì lượng vốn khá lớn, nhằm giảm sự phụ thuộc của
các ngân hàng vào các gói cứu trợ trong khủng hoảng, đặc biệt là các ngân hàng
lớn. Cụ thể là, các ngân hàng sẽ phụ thuộc đáng kể vào nguồn vốn đóng góp của các
cổ đông, nên sẽ không còn mạnh dạn chạy theo những phương án kinh doanh liều
lĩnh như trước đây nữa.
Mặc dù chưa chấp hành hết các thỏa thuận của Basel III, các ngân hàng ÂuMỹ ngày nay có mức vốn cao hơn và biết thận trọng hơn khi đi vay.

CHƯƠNG 3: PHÒNG NGỪA RỦI RO VÀ ĐẦU CƠ TRÊN
THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM
3.1 Thực trạng quản lý rủi ro trên thị trường ngoại hối Việt Nam
Năm 2015, có một hiện tượng ảnh hưởng chung đến lợi nhuận của nhiều
doanh nghiệp vay vốn bằng ngoại tệ, đó là yếu tố tỷ giá. Các doanh nghiệp này dù
hoạt động kinh doanh cốt lõi diễn ra tốt đẹp, doanh thu tăng trưởng tốt nhưng lợi
nhuận lại giảm mạnh do chi phí tài chính tăng vọt, cụ thể là các khoản lỗ do chênh
lệch tỷ giá.
Có thể kể tới một số doanh nghiệp chịu ảnh hưởng nặng nhất, như Nhiệt điện
Phả Lại báo lỗ 300 tỷ đồng do đồng yên Nhật tăng giá mạnh; Điện lực Dầu khí
Nhơn Trạch 2 lãi giảm gần 30% so với cùng kỳ khi cả đồng đi vay là USD và đồng
Euro đều tăng giá. Bên ngoài sàn chứng khoán, Viettel Global của Tập đoàn viễn
thông đạt 500 tỷ đồng, giảm 80% so với cùng kỳ do lỗ chênh lệch tỷ giá hơn 1.500

tỷ đồng. Ngoài ra, Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam (ACV), công bố lợi
nhuận 2015 bốc hơi gần 1.000 tỷ đồng so với năm trước do lỗ tỷ giá 641 tỷ đồng
trong khi năm trước lãi gần 1.500 tỷ đồng.
Sở dĩ các doanh nghiệp trải qua một năm đầy biến động về tỷ giá là bởi trong
năm 2015, Trung Quốc bất ngờ phá giá đồng nhân dân tệ, buộc Ngân hàng Nhà
11


nước phải thay đổi chính sách và phá giá tiền đồng.bằng cách tăng 3% tỷ giá bình
quân liên ngân hàng và nới biên độ tỷ giá từ 1% lên 3%, kết hợp điều chỉnh lãi suất
VND và lãi suất USD đồng thời mua bán ngoại tệ can thiệp thị trường. Trước sức ép
từ tỷ giá, Công ty mía đường Thành Công Tây Ninh (SBT) đã thông qua việc phát
hành 1.000 tỷ đồng trái phiếu với mục đích cơ cấu lại các khoản nợ và tăng quy mô
hoạt động. Trong đó, khoảng 50% số tiền được dùng để chuyển đổi khoản vay ngoại
tệ của HSBC sang tiền đồng với lãi suất hợp lý hơn và 50% còn lại dùng để đầu tư
cho R&D, vùng nguyên liệu...
Rủi ro trong kinh doanh ngoại hối tại các NHTM Việt Nam đặc biệt là rủi ro tỷ
giá xảy ra khi ngân hàng duy trì trạng thái mở hối đoái với loại ngoại tệ nào đó. Khi
tỷ giá của ngoại tệ đó thay đổi bất lợi sẽ dẫn đến thiệt hại cho ngân hàng. Vì vậy,
việc đo lường mức độ rủi ro đối với từng ngoại tệ riêng lẻ và đối với danh mục
ngoại tệ là cơ sở để ngân hàng đưa những biện pháp phòng ngừa rủi ro, nhằm giảm
bớt thiệt hại.
Số liệu về tỷ giá của các NHTM trong năm 2006 đã chỉ ra rằng, trong số các
ngoại tệ chủ yếu mà các NHTM kinh doanh thì đồng USD là đồng tiền có mức độ
rủi ro thấp, với hệ số 0,13%, tiếp theo sau là đồng HKD, với độ rủi ro là 0,14%.
Đồng AUD là đồng tiền có mức độ rủi ro cao nhất 2,75%.
Ngoài ra, sự biến động tỷ giá của đồng USD/GBP phản ánh mối quan hệ
tương quan nghịch, tức là hệ số tương quan giữa USD, GBP và VND bằng -0,12.
Tức là nếu đồng USD tăng giá thì đồng GBP sẽ giảm giá và ngược lại. Như vậy,
thông qua số liệu phân tích hệ số tương quan có thể thấy để giảm bớt những rủi ro

trong kinh doanh, ngân hàng cần duy trì trạng thái trường (mua) đối với USD và
trạng thái đoản (bán) đối với JPY. Trong năm 2007, sự biến động tỷ giá cho thấy các
hệ số tương quan của đồng VND với các đồng tiền chủ yếu ở mức thấp. Đồng USD
vẫn là đồng tiền có hệ số tương quan thấp nhất so với các đồng tiền còn lại, cùng
với đồng HKD. Tuy nhiên, đồng USD có hệ số tương quan nghịch với đồng EUR,
AUD và đồng SGD. Điều này cho thấy những biến động tỷ giá giữa các đồng tiền
này ngược chiều nhau. Đồng EUR có hệ số tương quan tương đối cao so với các
đồng tiền khác, tiếp theo là đồng AUD. Xét về mức độ rủi ro, trong năm 2007, kinh
doanh đồng SGD vẫn là đồng tiền có độ rủi ro thấp nhất, tiếp theo là đồng USD.
12


Đồng AUD là đồng tiền có độ rủi ro cao nhất, theo sau là đồng Bạt Thái Lan (THB)
với độ rủi ro lần lượt là 3,47% và 3,3%. Tuy nhiên, doanh số mua bán của các đồng
tiền này chiếm tỷ trọng nhỏ. Vì vậy, các ngân hàng có thể giảm thiểu những rủi ro
khi kinh doanh các đồng tiền này.
Năm 2008, do sự biến động của tỷ giá, hầu hết các đồng tiền biến động lớn, vì
vậy, mức độ rủi ro khi kinh doanh ngoại tệ gia tăng. Bằng chứng là độ lệch tiêu
chuẩn của đồng EUR tăng gần 324%, đồng JPY tăng hơn 114% lần và đồng USD
cũng hơn 283%.
Nguyên nhân những biến động lớn của tỷ giá các đồng tiền là do mức độ tự do
hóa các giao dịch vốn tương đối cao, do biến động của các luồng vốn đầu tư, đặc
biệt là luồng vốn gián tiếp đã ảnh hưởng mạnh tới cung cầu ngoại tệ và tỷ giá.
Trong năm 2008, luồng vốn đầu tư gián tiếp đã liên tục biến động, khiến cho cung
cầu ngoại tệ mất cân đối. Luồng vốn này gia tăng đáng kể trong ba tháng đầu năm
năm 2008, gây áp lực tăng giá VND. Sau đó, khi tình hình kinh tế thế giới tiếp tục
khó khăn, kinh tế trong nước đối mặt với lạm phát, nhập siêu tăng cao thì đồng
VND có dấu hiệu giảm giá làm tăng cầu ngoại tệ. Những biến động khó lường của
kinh tế và thị trường tài chính thế giới cũng như trong nước đã ảnh hưởng tiêu cực
tới cân bằng cung cầu ngoại tệ trong nước và đã tác động lên tỷ giá.

Thời kỳ 2009 - 2010, mức độ rủi ro của các ngoại tệ giảm dần, trừ đồng HKD
có mức độ rủi ro gia tăng trong năm 2010. Như vậy, khi xem xét mức độ rủi ro các
ngoại tệ mà các NHTM kinh doanh cho thấy, đồng USD là đồng tiền có doanh số
mua bán lớn nhất so với các đồng tiền khác lại có độ rủi ro thấp nhất trong các giao
dịch của ngân hàng. Đồng EUR, JPY có độ rủi ro tương đối cao. Ngoài ra, các đồng
GBP, AUD cũng duy trì hệ số rủi ro lớn. Việc đánh giá rủi ro đối với từng ngoại tệ
riêng lẻ tức là xem xét trạng thái mở đối với từng ngoại tệ thì rủi ro ngoại hối bị
cường điệu hóa hơn nhiều. Bởi vì sự thay đổi tỷ giá giữa các ngoại tệ có mối quan
hệ nghịch. Do đó, lợi nhuận từ việc duy trì trạng thái mở đối với đồng tiền này có
thể bù đắp sự thua lỗ do duy trì trạng thái mở đối với đồng tiền kia. Vì vậy, đánh giá
rủi ro kinh doanh ngoại tệ cần tính chung cho cả danh mục ngoại tệ.
3.2 Đầu cơ trên thị trường ngoại hối ở Việt Nam

13


Trong nhiều năm trở lại đây, sự đầu cơ đang lan rộng một cách chóng mặt.
Nhiều cá nhân non trẻ, chưa bao giờ tìm hiểu về chứng khoán, cũng bắt đầu tham
gia vào phong trào đầu cơ. Thậm chí nhiều cổ phiếu mang bản chất đầu tư như
VNM, SAB, GAS, HPG, REE,... cũng đang trở thành tâm điểm cho những đợt sóng
đầu cơ điên cuồng. Nhiều nhà đầu tư giá trị bắt đầu từ bỏ những nguyên tắc về biên
an toàn trước đây họ đặt ra cho mình, họ đã mất đi sự kiên nhẫn và bắt đầu chuyển
sang trò chơi đầu cơ may rủi...
Những tư duy đầu cơ sai lầm chỉ có tại Việt Nam
(1) Đầu cơ chỉ vì công ty chia cổ tức bằng cổ phiếu
Chia cổ tức bằng cổ phiếu, về bản chất, không hề phát sinh bất cứ dòng tiền đi
ra nào của doanh nghiệp. Nó chỉ là một nghiệp vụ kế toán thay đổi giữa các khoản
mục trong phần vốn chủ sở hữu. Vậy mà chúng ta thấy rất nhiều môi giới - những
người lẽ ra phải có kiến thức tài chính vững vàng để tư vấn khách hàng của mình lại "hô hào" mỗi khi một doanh nghiệp nào đó công bố chia cổ tức bằng cổ phiếu.
(2) Đầu cơ dựa trên một yếu tố vĩ mô không hề có tác động trực tiếp

Ngành chứng khoán cũng là một ví dụ kinh điển, khi mà VNIndex tăng mạnh,
hầu hết các cổ phiếu ngành chứng khoán cũng tăng theo trong khi thông tin quan
trọng như cơ cấu doanh thu (môi giới, cho vay margin, tư vấn, ...), chất lượng danh
mục tự doanh và chính sách rủi ro cho vay margin của các CTCK, thì các nhà đầu
cơ hào hứng đều "mù mịt". Các con số vĩ mô chỉ nhằm mục đích thống kê, trong khi
các yếu tố tác động trực tiếp đến ngành và mô hình kinh doanh nội tại mới là yếu tố
thúc đẩy lợi nhuận chính cho một doanh nghiệp.
(3) Đầu cơ dựa trên sự kỳ vọng "giữ giá" của một tổ chức khác
Việc đầu tư dựa vào tư duy độc lập, hay đầu cơ dựa trên sự tin tưởng mù
quáng vào hành vi của người khác, hoàn toàn là lựa chọn của mỗi cá nhân. Có thể
lợi nhuận ngắn hạn sẽ đến nhờ vào sự may mắn, nhưng trong dài hạn, thói quen
chạy theo hành vi của người khác thay vì tập trung vào bức tranh lớn của doanh
nghiệp - sẽ chỉ đem lại kết quả tồi tệ cho các nhà đầu cơ quyết định theo lựa chọn
đó.

14


Những người dùng lí do vốn nhỏ (limited capital) để hợp thức hóa việc đầu cơ của
mình, sẽ khó bao giờ thấy vốn mình lớn hơn được, hoặc nếu có, thì những sự tăng
giá cũng vô cùng ngắn ngủi và không bền vững.
3.2 Giải pháp cho phòng ngừa rủi ro và đầu cơ trên thị trường ngoại hối ở Việt
Nam
3.2.1 Giải pháp phòng ngừa rủi ro
* Đối với ngân hàng:
Một là: rà soát lại các văn bản pháp quy về quản lý ngoại hối và điều chỉnh tỷ
giá, giảm thiểu tối đa những thủ tục và thời gian thực hiện nghiệp vụ hoán đổi. Tăng
dần tính linh hoạt của tỷ giá để tỷ giá phản ánh đúng hơn sức mua của VND. Ngân
hàng Nhà nước cần nghiên cứu để đưa ra quy định về trần kỳ hạn phù hợp với diễn
biến của tỷ giá và lãi suất USD và VND. Khuyến khích các ngân hàng sẵn sàng

cung cấp các hợp đồng như: hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi, hợp đồng quyền
chọn ngoại tệ với doanh nghiệp nhằm giảm thiểu việc găm giữ ngoại tệ đối với
doanh nghiệp, giảm sự căng thẳng về ngoại tệ cho các ngân hàng.
Hai là: tổ chức rút kinh nghiệm qua đợt thí điểm thực hiện quyền chọn của
ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp, ban hành các văn bản hướng dẫn chi
tiết giao dịch này. Trong giai đoạn đầu thị trường quyền chọn mới đi vào hoạt động,
nên chú trọng phát triển thị trường phi tập trung (OTC), vì thị trường này có tính
lưu hoạt cao, có thể đáp ứng một cách đa dạng nhu cầu của doanh nghiệp. Giao dịch
quyền chọn là công cụ phòng ngừa rủi ro hối đoái tương đối hữu hiệu, nhưng cũng
rất phức tạp khi sử dụng và quản lý giao dịch này, vì thế ban đầu nên quy định thời
hạn tối đa cho hợp đồng quyền chọn là 06 tháng, chỉ nên cho áp dụng quyền chọn
kiểu châu Âu, khống chế mức tối thiểu và tối đa đối với mỗi giá trị hợp đồng. Khi
cả ngân hàng và doanh nghiệp đã quen với giao dịch quyền chọn, Ngân hàng Nhà
nước có thể nới lỏng các điều kiện cho phù hợp với thông lệ quốc tế.
Trong tương lai, khi Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế - tài chính thế
giới, các ngân hàng cũng cần triển khai giao dịch tương lai, một mặt vừa làm đa
dạng và sinh động các giao dịch trên thị trường ngoại hối, mặt khác vừa cung cấp
các công cụ phòng ngừa rủi ro hối đoái ở mức độ cao cho doanh nghiệp Việt Nam.

15


Ba là: phối hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các trung
tâm đào tạo giới thiệu chi tiết cách thức vận dụng, tiện ích cũng như những hạn chế
của từng công cụ phòng ngừa rủi ro hối đoái cho doanh nghiệp.
* Đối với doanh nghiệp:
Sự biến động của tỷ giá làm cho các hợp đồng xuất nhập khẩu trở lên không
chắc chắn. Trong bối cảnh cung ngoại tệ thường nhỏ hơn cầu về ngoại tệ, các doanh
nghiệp nhập khẩu dễ gặp phải khó khăn trong việc mua ngoại tệ để đảm bảo thanh
toán với nước ngoài, doanh nghiệp xuất khẩu khó đảm bảo được giá trị của hợp

đồng khi ngoại tệ mất giá. Vì vậy, để phòng ngừa những rủi ro hối đoái này, doanh
nghiệp có thể ký hợp đồng kỳ hạn hoặc hợp đồng quyền chọn, hợp đồng hoán đổi
với ngân hàng.
Mặc dù các công cụ trên rất khác nhau, nhưng đều có thể ngăn ngừa rủi ro tỷ
giá. Nhưng trong các công cụ đó không có cái nào tỏ ra trọn vẹn, ngay cả quyền
chọn là công cụ phòng ngừa rủi ro hiện đại nhất cũng có hạn chế ở chỗ: doanh
nghiệp muốn có quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán đều phải trả phí quyền,
nhưng đôi khi không thực hiện quyền vì hợp đồng lúc đó không sinh lời. Hay giao
dịch kỳ hạn cũng vậy, giao dịch kỳ hạn dựa trên cơ sở hợp đồng mang tính bắt buộc
phải thực hiện, đôi khi doanh nghiệp mất cơ hội kiếm lời từ sự biến động tỷ giá. Do
đó mỗi công cụ chỉ thích hợp trong những điều kiện nhất định.
Vì vậy, việc lựa chọn công cụ phòng ngừa rủi ro nào là tùy thuộc vào điều
kiện kinh doanh, sự phát triển của thị trường ngoại hối, sự am hiểu từng công cụ
cũng như quá trình phân tích và quyết đoán của doanh nghiệp.
3.2.2 Giải pháp quản lý đầu tư trên thị trường ngoại hối
Cần có quy định tương đối thông thoáng về thị trường ngoại hối với đối tượng
tham gia thị trường và các công cụ của thị trường.
Từng bước nới lỏng các giao dịch vốn bằng việc nhấn mạnh đến việc quản lý
và giám sát các luồng vốn ngoại tệ vào ra thông qua hệ thống ngân hàng được phép,
thông qua các tài khoản ngoại tệ mở tại ngân hàng được phép áp dụng cho từng loại
hình giao dịch vốn.

16


Quy định rõ quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoai đối với lợi nhuận, nguồn thu
hợp pháp, quyền được chuyển đổi ra ngoại tệ để chuyển về nước.
Các luồng vốn đầu tư ra nước ngoài cũng cần được lựa chọn mở rộng từng
bước theo thứ tự đầu tư trực tiếp đến đầu tư gián tiếp để áp dụng các biện pháp quản
lý phù hợp.

Một vấn đề quan trọng khác là hoạt động vay, trả nợ nước ngoài và cho vay
thu hồi nợ nước ngoài cần được thống nhất quản lý theo từng nhóm đối tượng, áp
dụng các cơ chế kiểm soát thông qua cấp phép, quy định tổng hạn mức, đăng
ký,...Đồng thời, Việt Nam cần thể hiện rõ lập trường kiên định và các biện pháp cụ
thể trong việc từng bước hạn chế, tiến tới xoá bỏ hoàn toàn hiện tượng đô la hoá,
hạn chế tối đa việc sử dụng ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam.
Một cơ chế tỷ giá linh hoạt, có sự điều tiết của Nhà nước cũng là điều cần
hướng tới trong thị trường ngoại hối theo hướng mở cửa, chuẩn hoá theo thông lệ
quốc tế.

KẾT LUẬN

Từ những phân tích nêu trên, ta có thể thấy thị trường ngoại hối rõ ràng là một
thị trường tuyệt vời để giao dịch, nhưng lưu ý rằng giao dịch Forex luôn mang theo
nó lợi nhuận và rủi ro. Nhiều người tham gia vào thị trường chỉ nghĩ về lợi nhuận và
bỏ qua các rủi ro liên quan, đây là cách nhanh nhất để mất tất cả tiền trong tài khoản
giao dịch của bạn.
Việc đầu cơ cung cấp cho thị trường một lượng vốn lớn, làm tăng tính thanh
khoản cho thị trường, làm các nhà đầu tư khác dễ dàng sử dụng các nghiệp vụ, gia
tăng “cầu ảo”. Bên cạnh đó thị trường này cũng phức tạp và cạnh tranh một cách tàn
nhẫn. .Rủi ro biến động thường xuyên (rủi ro tỷ giá) và là đặc trưng của hoạt động
kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng.
Những rủi ro khi giao dịch forex hoàn toàn có thể phòng tránh, giảm thiểu đến
mức thấp nhất. Việc đánh giá rủi ro đối với từng ngoại tệ riêng lẻ tức là xem xét
trạng thái mở đối với từng ngoại tệ thì rủi ro ngoại hối bị cường điệu hóa hơn nhiều.
Bởi vì sự thay đổi tỷ giá giữa các ngoại tệ có mối quan hệ nghịch. Do đó, lợi nhuận
từ việc duy trì trạng thái mở đối với đồng tiền này có thể bù đắp sự thua lỗ do duy
17



trì trạng thái mở đối với đồng tiền kia. Vì vậy, đánh giá rủi ro kinh doanh ngoại tệ
cần tính chung cho cả danh mục ngoại tệ.
Một lời khuyên cho các nhà đầu cơ đó là đảm bảo an toàn cho nguồn vốn của
mình. Một khi đã có giải pháp quản lý vốn hiệu quả thì nhà đầu tư mới có thể tồn
tại và tìm kiếm lợi nhuận bền vững được.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Giáo trình và nghiên cứu chuyên đề
1. PGS.TS Nguyễn Văn Tiến – Giáo trình Tài chính quốc tế - Nhà xuất ban
Thống kê
2. PGS.TS Nguyễn Hữu Tài – Giáo trình Lý thuyết tiền tệ - Đại học Kinh tế
Quốc dân
3. Phạm Toàn Thiện – Khủng hoảng cho vay thế chấp dưới chuẩn ở Mỹ; bài
học và một số kiến nghị - Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và kinh
doanh 25 (2009) 39 – 53
4. Federick Grifin – U.S Financial crisis: Subprime Lending and Mortgage
Fraud
5. American Bar Association, Banking Law Committee, Business Law Section
– The Financial Crisis of 2007 – 2009: Cause and contributing
circumstances – September, 2009
B. Internet
1. Các bài học về giám sát ngân hàng rút ra từ khủng hoảng tài chính
/>2. Tạp chí kinh tế: Khủng hoảng kinh tế: Rủi ro vẫn tồn tại (24/9/2013)
/>3. Tài liệu hội thảo: Cơ chế quản lý ngoại hối phù hợp với tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế - NHNTVN và Vụ quản lý ngoại hối – NHNNVN – 8/2017
18


4. Phân tích tài chính chương trình giảng dạy Fullbright

/>
19



×