Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

tiểu luận pháp luật thương mại quốc tế áp dụng three tier test trong một vụ tranh chấp về thương mại dịch vụ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.51 KB, 42 trang )

I. LÝ THUYẾT CHUNG
1. Về dịch vụ
1.1 Khái niệm về dịch vụ
Adam Smith từng định nghĩa rằng: "Dịch vụ là những nghề hoang phí nhất
trong tất cả các nghề như cha đạo, luật sư, nhạc công, ca sĩ opera, vũ công... Công
việc của tất cả bọn họ tàn lụi đúng lúc nó được sản xuất ra". Từ định nghĩa này, ta
có thể nhận thấy rằng Adam Smith muốn nhấn mạnh đến khía cạnh "không lưu trữ
được" của sản phẩm dịch vụ, tức là được sản xuất và tiêu thụ đồng thời.
C. Mác cho rằng : "Dịch vụ là con đẻ của nền kinh tế sản xuất hàng hóa,
khi mà kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đòi hỏi một sự lưu thông thông suốt, trôi
chảy, liên tục để thoả mãn nhu cần ngày càng cao đó của con người thì dịch vụ
ngày càng phát triển."
Như vậy, với định nghĩa trên, C. Mác đã chỉ ra nguồn gốc ra đời và sự phát
triển của dịch vụ, kinh tế hàng hóa càng phát triển thì dịch vụ càng phát triển
mạnh.
Theo ISO 9004-2 : 1991(E) thì dịch vụ là kết quả mang lại nhờ các hoạt
động tương tác giữa người cung cấp và khách hàng, cũng như nhờ các hoạt động
nội bộ của người cung cấp để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
Ngày nay, vai trò quan trọng của dịch vụ trong nền kinh tế ngày càng được
nhận thức rõ hơn. Có một định nghĩa rất hình tượng nhưng cũng rất nổi tiếng về
dịch vụ hiện nay, mà trong đó dịch vụ được mô tả “là bất cứ thứ gì bạn có thể mua
và bán nhưng không thể đánh rơi nó xuống dưới chân bạn”. Khi kinh tế càng phát
triển thì vai trò của dịch vụ ngày càng quan trọng và dịch vụ đã trở thành đối
tượng nghiên cứu của nhiều ngành khác nhau: từ kinh tế học đến văn hóa học, luật
học, từ hành chính học đến khoa học quản lý. Do vậy mà có nhiều khái niệm về
dịch vụ theo nghĩa rộng hẹp khác nhau, đồng thời cách hiểu về nghĩa rộng và
nghĩa hẹp cũng khác nhau.
* Cách hiểu thứ nhất:
- Theo nghĩa rộng: dịch vụ được xem là một ngành kinh tế thứ 3. Với cách
hiểu này, tất cả các hoạt động kinh tế nằm ngoài 2 ngành nông nghiệp và công
nghiệp đều được xem là thuộc ngành dịch vụ.


- Theo nghĩa hẹp: dịch vụ được hiểu là phần mềm của sản phẩm, hỗ trợ cho
khách hàng truớc, trong và sau khi bán.


* Cách hiểu thứ hai:
-Theo nghĩa rộng: Dịch vụ là khái niệm chỉ toàn bộ các hoạt động mà kết quả
của chúng không tồn tại dưới hình dạng vật thể. Hoạt động dịch vụ bao trùm lên tất
cả các lĩnh vực với trình độ cao, chi phối rất lớn đến quá trình phát triển kinh tế - xã
hội, môi trường của từng quốc gia, khu vực nói riêng và toàn thế giới nói chung. Ở
đây dịch vụ không chỉ bao gồm những ngành truyền thống như: giao thông vận tải,
du lịch, ngân hàng, thương mại, bảo hiểm, bưu chính viễn thông.mà còn lan toả đến
các lĩnh vực rất mới như: dịch vụ văn hoá, hành chính, bảo vệ môi trường, dịch vụ tư
vấn.
-Theo nghĩa hẹp: Dịch vụ là làm một công việc cho người khác hay cộng
đồng, là một việc mà hiệu quả của nó đáp ứng một nhu cầu nào đó của con người,
như: vận chuyển, sửa chữa và bảo dưỡng các thiết bị máy móc hay công trình.
Một định nghĩa khác về dịch vụ là: dịch vụ là một hoạt động hay lợi ích cung
ứng nhằm để trao đổi, chủ yếu là vô hình và không dẫn đến việc chuyển quyền sở
hữu. Việc thực hiện dịch vụ có thể gắn liền hay không gắn liền với sản phẩm vật
chất.
Có lẽ định nghĩa mang tính khoa học và phản ánh đúng nhất bản chất của hoạt
động dịch vụ là như sau “đó là một hoạt động kinh tế tăng thêm giá trị, hoặc trực tiếp
vào một hoạt động kinh tế khác, hoặc vào một hàng hóa thuộc một hoạt động kinh tế
khác”. Hiện nay, GATS cũng không đưa ra định nghĩa chính thức nào về dịch vụ.
Như vậy, có thể định nghĩa một cách chung nhất về dịch vụ như sau: Dịch vụ
là những hoạt động lao động mang tính xã hội, tạo ra các sản phẩm hàng hóa không
tồn tại dưới hình thái vật thể, không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu nhằm thoả
mãn kịp thời các nhu cầu sản xuất và đời sống sinh hoạt của con người.
Trong phạm vi đề tài này, dịch vụ được xem là một lĩnh vực hoạt động của
nền kinh tế quốc dân bao hàm tất cả những hoạt động phục vụ sản xuất và đời sống

dân cư. Theo nghĩa này, hoạt động dịch vụ bao hàm cả hoạt động thương mại. Thông
thường, do có vị trí đặc biệt quan trọng và những đặc thù riêng nên hoạt động thương
mại thường được tách riêng khỏi phạm trù dịch vụ và được xem là một vế ngang
bằng với hoạt động dịch vụ. Nhưng trong đề tài này, thương mại - dịch vụ được xem
xét với tư cách một ngành kinh tế thực hiện quá trình lưư thông trao đổi hàng hóa và
thực hiện các công việc phục vụ tiêu dùng của sản xuất và dân cư trên thị trường.
1.2 Những đặc điểm cơ bản của dịch vụ
Dịch vụ có 5 đặc điểm cơ bản sau:
2


a. Tính vô hình
Hàng hoá có hình dáng, kích thước, màu sắc và thậm chí cả mùi vị. Khách hàng
có thể tự xem xét, đánh giá xem nó có phù hợp với nhu cầu của mình không. Ngược
lại, dịch vụ mang tính vô hình, làm cho các giác quan của khách hàng không nhận biết
được trước khi mua dịch vụ. Đây chính là một khó khăn lớn khi bán một dịch vụ so
với khi bán một hàng hoá hữu hình, vì khách hàng khó thử dịch vụ trước khi mua, khó
cảm nhận được chất lượng, khó lựa chọn dịch vụ, nhà cung cấp dịch vụ khó quảng cáo
về dịch vụ. Do vậy, dịch vụ khó bán hơn hàng hoá.
Ví dụ: Các siêu thị cho phép khách hàng tiếp xúc trực tiếp với hàng hoá để họ
có thể xem xét, ngắm nghía, tìm hiểu công dụng, tính năng, chất lượng, ướm thử. Cách
bán hàng này rất hấp dẫn khách hàng. Nhưng khi bán DV lại khó áp dụng phương
pháp này.
b. Tính không tách rời giữa cung cấp và tiêu dùng dịch vụ
Đây là một đặc trưng rất cơ bản của dịch vụ. Hàng hoá được sản xuất tập trung
tại một nơi, rồi vận chuyển đến nơi có nhu cầu. Khi ra khỏi dây chuyền sản xuất thì
hàng hóa đã hoàn chỉnh. Dó đó, nhà sản xuất có thể đạt được tính kinh tế theo quy
mô do sản xuất tập trung, hàng loạt, và quản lý chất lượng sản phẩm tập trung. Nhà
sản xuất cũng có thể sản xuất khi nào thuận tiện, rồi cất trữ vào kho và đem bán khi có
nhu cầu. Do vậy, họ dễ thực hiện cân đối cung cầu. Nhưng quá trình cung cấp dịch vụ

và tiêu dùng dịch vụ xảy ra đồng thời. Người cung cấp dịch vụ và khách hàng phải tiếp
xúc với nhau để cung cấp và tiêu dùng dịch vụ tại các địa điểm và thời gian phù hợp
cho hai bên. Đối với một số các dịch vụ, khách hàng phải có mặt trong suốt quá trình
cung cấp dịch vụ.
Ví dụ: Bác sĩ không thể chữa bệnh nếu bệnh nhân vắng mặt; khách hàng không
thể dùng Internet công cộng nếu không đến bưu điện. Với nhiều loại dịch vụ, quá trình
tiếp xúc với khách hàng kéo dài suốt quá trình cung cấp dịch vụ. Và người cung cấp
tham gia vào quá trình tạo ra dịch vụ.
Trong một số trường hợp, khi không cần đến sự tiếp xúc cá nhân, có thể tách
biệt giữa cung cấp và tiêu dùng. Khách hàng có thể mang máy điện thoại, xe máy,
quần áo đến cửa hàng sửa chữa. Sau khi chữa xong thì mới mang về sử dụng. Đây là
trường hợp đối tượng trực tiếp nhận dịch vụ là tài sản của khách hàng.
3


c. Tính không đồng đều về chất lượng
Dịch vụ không thể được cung cấp hàng loạt, tập trung như sản xuất hàng hoá.
Do vậy, nhà cung cấp khó kiểm tra chất lượng theo một tiêu chuẩn thống nhất. Mặt
khác, sự cảm nhận của khách hàng về chất lượng dịch vụ lại chịu tác động mạnh bởi
kỹ năng, thái độ của người cung cấp dịch vụ. Sức khoẻ, sự nhiệt tình của nhân viên
cung cấp dịch vụ vào buổi sáng và buổi chiều có thể khác nhau. Do vậy, khó có thể đạt
được sự đồng đều về chất lượng ngay trong một ngày. Càng nhiều người phục vụ thì
càng khó đảm bảo tính đồng đều về chất lượng dịch vụ.
d. Tính không dự trữ được
Dịch vụ chỉ tồn tại vào thời gian mà nó được cung cấp. Do vậy, nó không thể
sản xuất hàng loạt để cất vào kho dự trữ, khi có nhu cầu thị trường thì đem ra bán.
Một máy bay cất cánh đúng giờ với một nửa số ghế bỏ trống sẽ chịu lỗ chứ
không thể để các chỗ trống đó lại bán vào các giờ khác khi có đông hành khách có nhu
cầu bay tuyến đường bay đó.
Một tổng đài điện thoại vẫn phải hoạt động khi không có cuộc gọi nào vào các

giờ nhàn rỗi, nhưng công ty vẫn phải tính khấu hao, tính chi phí điện và nhân công
trực để vận hành tổng đài.
Một số các quầy giao dịch bưu điện vẫn phải mở cửa đến 9-10h đêm mặc dù
không có khách, trong khi đó lại bận túi bụi vào các giờ cao điểm. Nếu tăng công suất
máy móc (ví dụ dung lượng tổng đài) để đáp ứng vào giờ cao điểm thì lại lãng phí vào
các giờ vắng khách.
Đặc tính này sẽ ảnh hưởng đến các chính sách của Marketing dịch vụ như chính
sách giá cước thay đổi theo thời gian, mùa vụ, chính sách dự báo nhu cầu, kế hoạch bố
trí nhân lực...
e. Sự nhạy cảm của dịch vụ đối với tốc độ thay đổi nhanh chóng của công nghệ
Ðây là đặc điểm nổi bật và quan trọng nhất của dịch vụ, thể hiện ở chất lượng
dịch vụ không ngừng được tinh vi hoá, chuyên nghiệp hóa và quan trọng hơn là sự
xuất hiện liên tục những dịch vụ mới. Thể hiện rõ nét nhất ở dịch vụ điện thoại di
động, từ thế hệ thứ nhất theo kỹ thuật anolog sang đầu thập niên 90 đã chuyển sang
thế hệ thứ hai là kỹ thuật số, hiện nay trong những năm đầu của thế kỷ 21 người ta

4


đang nói đến thế hệ điện thoại di động thứ ba có thể truy cập internet hết sức dễ
dàng, mọi lúc mọi nơi.
Ngoài ra, hàm lượng trí thức trong dịch vụ chiếm tỷ lệ lớn. Người ta không
cần các nguyên vật liệu đầu vào hữu hình như dây chuyền sản xuất hay nhà máy để
sản xuất ra dịch vụ, mà giữ vai trò quan trọng nhất trong hoạt động dịch vụ là yếu tố
con người, thể hiện qua quá trình sử dụng chất xám và các kỹ năng chuyên biệt với
sự hỗ trợ của các dụng cụ, trang thiết bị chứ không phải ở sức mạnh cơ bắp hay các
hoạt động gắn liền với các dây chuyền sản xuất đồ sộ. Ðối với những ngành dịch vụ
có tính truyền thống như phân phối, vận tải hay du lịch thì tầm quan trọng của cơ sở
vật chất kỹ thuật cũng rất đáng kể, tuy thế, vai trò của tri thức vẫn là chủ yếu và
không thể thiếu được.

1.3 Phân loại dịch vụ
a. Theo các lĩnh vực của quá trình tái sản xuất
Theo quan điểm thông thường, quá trình tái sản xuất xã hội bao gồm ba khâu
theo trật tự truyền thống là: sản xuất, lưu thông (thương mại) và tiêu dùng. Còn trật
tự theo quan điểm Marketing thì ngược lại bởi vì mọi hoạt động sản xuất của nền
kinh tế thị trường phải bắt đầu từ nhu cầu của giới tiêu dùng. Do vậy, toàn bộ dịch vụ
được chia theo ba khâu là: dịch vụ tiêu dùng, dịch vụ thương mại và dịch vụ sản xuất
(hình 1.1). Trong mỗi lĩnh vực này lại bao gồm những dịch vụ cụ thể:

Về cơ bản, cách phân loại này đơn giản nhưng khái quát được kịp thời các loại
dịch vụ, thể hiện được tính hệ thống tương đối rõ ràng. Tuy nhiên không có cách
phân loại nào hoàn thiện và đầy đủ được, cách phân loại chỉ mang tính tương đối.
5


b. Theo phương thức thực hiện
Mc Graw Hill chia toàn bộ dịch vụ ra hai nhóm lớn: nhóm dịch vụ được thực
hiện bởi máy móc và nhóm dịch vụ được thực hiện bởi con người (do lao động trực
tiếp của con người). Từng nhóm này lại chia ra các tiểu nhóm. Ví dụ nhóm dịch vụ
được thực hiện bởi máy móc gồm: tự động hoá, máy móc kết hợp với con người
(MM kết hợp CN), hệ thống điều khiển. Từ đó, các tiểu nhóm này lại chia ra những
dịch vụ cụ thể (Hình 1.2)

Ưu điểm nổi bật của cách phân loại này là hàm lượng công nghệ hay đặc điểm
công nghệ của từng dịch vụ, từ đó có cơ sở để đánh giá chất lượng dịch vụ và định
giá dịch vụ.
c. Theo ngành hoạt động kinh doanh
GATS cũng không có quy định chính thức về cách thức phân loại dịch vụ. Tuy
nhiên, ban Thư ký của WTO đã chia các hoạt động dịch vụ thành 12 ngành (Bảng
dưới đây) với 155 phân ngành (mỗi ngành bao gồm nhiều phân ngành).

6


STT

Ngành dịch vụ

Mô tả chung

1.

Dịch vụ
kinh doanh

2.

Dịch vụ thông tin

Bao gồm các dịch vụ chuyên môn như dịch vụ pháp
lý, kế toán, kiểm toán, dịch vụ kiến trúc; máy tính và
các dịch vụ liên quan; các dịch vụ kinh doanh khác
Bao gồm dịch vụ chuyển phát, viễn thông và nghe
nhìn

3.

Dịch vụ xây dựng

4.


Dịch vụ phân phối

5.

Dịch vụ giáo dục

6.

Dịch vụ môi trường

7.

Dịch vụ tài chính

8.

Dịch vụ y tế

9.

Dịch vụ du lịch

10.

Dịch vụ văn hóa,giải trí và
thể thao

11.

Dịch vụ vận tải


12.

Các dịch vụ khác

Bao gồm dịch vụ đại lý hoa hồng, bán buôn, bán lẻ và
nhượng quyền thương mại
Bao gồm các dịch vụ giáo dục phổ thông cơ sở, giáo
dục bậc cao, giáo dục cho người lớn, các dịch vụ giáo
dục khác
Bao gồm các dịch vụ xử lý nước thải, xử lý
rác thải, các dịch vụ khác
Bao gồm dịch vụ bảo hiểm, ngân hàng và chứng
khoán
Bao gồm dịch vụ bệnh viện, nha khoa và
các dịch vụ y tế khác
Bao gồm dịch vụ khách sạn và nhà hàng, đại lý lữ
hành và điều hành tour du lịch, các dịch vụ du lịch
khác

Bao gồm dịch vụ vận tải biển, vận tải đường bộ,
đường sắt, đường thủy, hàng không, các dịch vụ
hỗ trợ vận tải.
Nguồn:

2. Về thương mại dịch vụ
2.1 Khái niệm
Thuật ngữ “dịch vụ” dùng để chỉ toàn bộ các hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu
nào đó của con người mà sản phẩm kết tinh của nó tồn tại dưới hình thái phi vật thể.
Theo tài liệu ký hiệu MTN.GNS/W/120 của Tổ chức Thương mại Thế giới,

dịch vụ được chia thành 12 nhóm lớn, trong đó lại bao gồm nhiều phân nhóm khác
nhau, đó là:
1. Các dịch vụ kinh doanh. Ví dụ: tư vấn pháp lý, xử lý dữ liệu, nghiên cứu phát
triển, nhà đất, cho thuê, quảng cáo,...
2. Các dịch vụ thông tin liên lạc. Ví dụ: bưu chính, viễn thông, truyền hình,...
3. Các dịch vụ xây dựng và kỹ thuật liên quan đến xây dựng. Ví dụ: xây dựng, lắp

máy,...
4. Các dịch vụ phân phối. Ví dụ: bán buôn, bán lẻ,...
5. Các dịch vụ giáo dục
6. Các dịch vụ môi trường. Ví dụ: vệ sinh, xử lý chất thải,...
7


7. Các dịch vụ tài chính. Ví dụ: ngân hàng, bảo hiểm,...
8. Các dịch vụ liên quan đến y tế và dịch vụ xã hội
9. Các dịch vụ liên quan đến du lịch và lữ hành
10. Các dịch vụ giải trí, văn hóa, và thể thao
11. Các dịch vụ giao thông vận tải
12. Các dịch vụ khác

Theo điều I, phần I của Hiệp định GATS, thương mại dịch vụ được định nghĩa
là việc cung cấp dịch vụ:
(a) từ lãnh thổ của một Thành viên đến lãnh thổ của bất kỳ một Thành viên nào khác;
(b) trên lãnh thổ của một Thành viên cho người tiêu dùng dịch vụ của bất kỳ Thành
viên nào khác;
(c) bởi một người cung cấp dịch vụ của một Thành viên, thông qua sự hiện diện
thương mại trên lãnh thổ của bất kỳ Thành viên nào khác;
(d) bởi một người cung cấp dịch vụ của một Thành viên thông qua sự hiện diện thể
nhân trên lãnh thổ của bất kỳ Thành viên nào khác;


2.2 Vai trò và đặc điểm
a. Vai trò
- Thương mại và dịch vụ góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông, phân phối hàng hóa,
thúc đẩy thương mại hàng hóa phát triển trong phạm vi quốc gia cũng như quốc tế.
- Thương mại và dịch vụ tạo điều kiện để thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển.
- Để có thể tồn tại trong sự cạnh tranh khốc liệt ở cả thị trường nội địa và thị trường
nước ngoài, phải đưa nhiều hơn các yếu tố dịch vụ vào trong quá trình sản xuất để hạ
giá thành và nâng cao chất lượng như dịch vụ khoa học, kỹ thuật công nghệ.
- Sự tăng trưởng của các ngành thương mại và dịch vụ là động lực cho sự phát triển
kinh tế, cũng như có tác động tích cực đối với phân công lao động xã hội.
- Thông qua mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường, khả năng tiêu dùng, nâng cao
mức tiêu thụ và hưởng thụ của cá nhân và doanh nghiệp cũng tăng lên góp phần thúc
đẩy sản xuất, mở rộng thị trường lao động và phân công lao động trong xã hội.
- Dịch vụ - thương mại thực sự là cầu nối gắn kết giữa thị trường trong nước với thị
trường ngoài nước, phù họp với xu thế hội nhập và mở cửa ở nước ta hiện nay.
- Dịch vụ và thương mại luôn thể hiện sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh trên
thị trường mua bán hàng hóa dịch vụ. Quan hệ giữa các chủ thể kinh doanh là quan
hệ bình đẳng về mặt lý thuyết, đó là thuận mua vừa bán.
- Trong quá trình CNH - HĐH đất nước, dịch vụ - thương mại góp phần giải quyết
những vấn đề kinh tế xã hội quan trọng của đất nước, đặc biệt là khi Việt Nam đã
8


bình thường hóa về thương mại với Hoa Kỳ và gia nhập vào tổ chức Thương mại thế
giới WTO.
b. Đặc điểm
Thương mại dịch vụ có một số đặc điểm:
Một là, dịch vụ là loại sản phẩm vô hình, không sờ mó, nhìn thấy được nhưng
lại được cảm nhận qua tiêu dùng trực tiếp của khách hàng. Quá trình sản xuất và tiêu

dùng sản phẩm dịch vụ diễn ra đồng thời, nhưng hiệu quả của dịch vụ đối với người
tiêu dùng lại rất khác nhau. Có loại xẩy ra tức thì, nhưng có loại chỉ đem lại hiệu quả
sau nhiều năm, chẳng hạn dịch vụ giáo dục phải sau 5-10 năm mới có thể đánh giá đầy
đủ. Do đó, việc đánh giá hiệu quả thương mại dịch vụ phức tạp hơn so với thương mại
hàng hóa.
Hai là, thương mại dịch vụ có phạm vi hoạt động rất rộng, từ dịch vụ cho tiêu
dùng cá nhân đến dịch vụ sản xuất, kinh doanh, quản lý trong tất cả các ngành của nền
kinh tế quốc dân, thu hút đông đảo người tham gia với trình độ cũng rất khác nhau, từ
lao động đơn giản như giúp việc gia đình, bán các hàng lưu niệm ở khu du lịch đến lao
động chất xám có trình độ cao như các chuyên gia tư vấn, chuyên gia giáo dục…, do
đó đây là một lĩnh vực có nhiều cơ hội phát triển và tạo được nhiều công ăn việc làm,
rất có ý nghĩa về kinh tế – xã hội ở nước ta hiện nay.
Ba là, thương mại dịch vụ hiện nay đang có sự lan tỏa rất lớn, ngoài tác dụng
trực tiếp của bản thân dịch vụ, nó còn có vai trò trung gian đối với sản xuất và thương
mại hàng hóa, nên phát triển thương mại dịch vụ có ảnh hưởng gián tiếp lên tất cả các
ngành của nền kinh tế quốc dân, do đó tác dụng của thương mại dịch vụ là rất lớn.
Người ta tính rằng, nếu thương mại dịch vụ được tự do hóa thì lợi ích của nó còn cao
hơn thương mại hàng hóa hiện nay và xấp xỉ bằng lợi ích thu được khi tự do hóa
thương mại hàng hóa hoàn toàn cho cả hàng hóa nông nghiệp và hàng hóa công
nghiệp.
Bốn là, thương mại dịch vụ khi lưu thông qua biên giới gắn với từng con người
cụ thể, chịu tác động bởi tâm lý, tập quán, truyền thống văn hóa, ngôn ngữ và cá tính
của người cung cấp và người tiêu dùng dịch vụ, điều này khác với thương mại hàng
hóa, sản phẩm là vật vô tri vô giác, đi qua biên giới có bị kiểm soát nhưng không phức
tạp như kiểm soát con người trong thương mại dịch vụ, vì thế mà thương mại dịch vụ
phải đối mặt nhiều hơn với những hàng rào thương mại so với thương mại hàng hóa.
Các cuộc thương lượng để đạt được tự do hóa thương mại dịch vụ thường gặp nhiều
9



khó khăn hơn tự do hóa thương mại hàng hóa, nó còn phụ thuộc vào tình hình chính
trị, kinh tế – xã hội, văn hóa của nước cung cấp và nước tiếp nhận dịch vụ đó.
2.3 Các phương thức cung cấp dịch vụ
GATS chia ra bốn phương thức cung cấp dịch vụ mang tính thương mại quốc tế
như đã đề cập trong khái niệm thương mại dịch vụ:
1. Cung cấp qua biên giới: việc cung cấp dịch vụ được tiến hành từ lãnh thổ của
một nước này sang lãnh thổ của một nước khác. Ví dụ: Gọi điện thoại quốc tế, khám
bệnh từ xa trong đó bệnh nhân và bác sỹ khám ngồi ở hai nước khác nhau.
2. Tiêu dùng ngoài lãnh thổ: người sử dụng dịch vụ mang quốc tịch một nước đi
đến một nước khác và sử dụng dịch vụ ở nước đó. Ví dụ: Sửa chữa tàu biển, Lữ hành,
Du học, chữa bệnh ở nước ngoài.
3. Hiện diện thương mại: người cung cấp dịch vụ mang quốc tịch một nước đi
đến một nước khác, lập ra một pháp nhân và cung cấp dịch vụ ở nước đó. Ví dụ: một
ngân hàng thương mại mở một chi nhánh ở nước ngoài.
4. Hiện diện thể nhân: người cung cấp dịch vụ là thể nhân mang quốc tịch một
nước đi đến một nước khác và cung cấp dịch vụ ở nước đó. Ví dụ: Một giáo sư được
mời sang một trường đại học ở nước ngoài để giảng bài.

3. Hiệp định GATS
3.1 Biểu cam kết trong GATS
a. Tổng quan về GATS
GATS – Tên viết tắt của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (General
Agreement on Trade in Services) là một Hiệp định thuộc hệ thống WTO, ra đời năm
1995, quy định các nguyên tắc về thương mại dịch vụ.
- Mục tiêu cơ bản của GATS:
+ Tạo ra một hệ thống các quy tắc thương mại quốc tế đáng tin cậy;
+ Đảm bảo đối xử bình đẳng và công bằng đối với tất cả các bên tham gia
(nguyên tắc không phân biệt đối xử);
+ Thúc đẩy các hoạt động kinh tế thông qua việc cam kết chính sách; và
+ Thúc đẩy thương mại và phát triển thông qua tự do hóa dần dần (tạo điều

kiện để doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tiếp cận khách hàng dễ dàng hơn, đặc biệt là
khách hàng ở thị trường nước khác).
- Nội dung cơ bản của GATS
GATS bao gồm 03 nhóm nội dung sau:
+ Các nguyên tắc và quy định cơ bản điều chỉnh thương mại dịch vụ nói
chung;
10


+ Các Phụ lục về các điều kiện đặc biệt liên quan đến từng ngành dịch vụ cụ
thể;
+ Các cam kết tự do hoá đối với từng ngành và phân ngành cụ thể nêu trong
Biểu cam kết dịch vụ của từng nước thành viên.
GATS chỉ quy định các nghĩa vụ đối với Chính phủ các quốc gia thành viên
(GATS không quy định gì về quyền lợi hay nghĩa vụ cho doanh nghiệp). Tuy nhiên,
doanh nghiệp lại được hưởng lợi hoặc chịu tác động của Hiệp định này thông qua
việc Chính phủ các nước thành viên thực hiện các nghĩa vụ trong GATS khi ban hành
chính sách, quy định về thương mại dịch vụ ở nước mình.
- Nghĩa vụ của các bên ký kết:
Khi tham gia WTO, trong lĩnh vực dịch vụ, các nước thành viên phải tuân thủ
02 nhóm nghĩa vụ sau:
+ Các nghĩa vụ chung: Áp dụng bắt buộc và trực tiếp cho tất cả các thành viên
cũng như tất cả các ngành dịch vụ;
+ Các cam kết cụ thể: Mỗi nước Thành viên có các cam kết riêng về từng
ngành dịch vụ thể hiện trong Biểu cam kết của nước đó. Biểu cam kết bao gồm cam
kết nền và cam kết riêng cho từng ngành dịch vụ.
b. Biểu cam kết trong GATS
Các nguyên tắc trong Hiệp định GATS áp dụng bắt buộc đối với tất cả các
nước Thành viên WTO. Tuy nhiên, đây chỉ là các nguyên tắc chung về thương mại
dịch vụ. Nghĩa vụ cụ thể của mỗi nước thành viên trong việc mở cửa thị trường dịch

vụ của nước mình (cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ từ các nước thành viên WTO
khác) được nêu trong Biểu cam kết dịch vụ riêng của nước đó (Biểu này là kết quả
của đàm phán mở cửa thị trường dịch vụ của nước đó khi gia nhập WTO).
- Cam kết riêng của mỗi nước về thương mại dịch vụ thường bao gồm cam kết về 02
vấn đề sau đây:
+ Mở cửa thị trường cho dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài;
+ Mức độ đối xử quốc gia đối với dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ nước
ngoài.
Sau đây là một số nội dung cơ bản của các nhóm nghĩa vụ này.
+ Cam kết về mức độ mở cửa thị trường:
“Mở cửa thị trường” được hiểu là việc cho phép dịch vụ và các nhà cung cấp
dịch vụ của các nước thành viên khác được tiếp cận thị trường nội địa ở những mức
độ nhất định. Với mỗi nước, cam kết mở cửa thị trường được thực hiện đối với từng
11


phân ngành dịch vụ, với mức độ mở cửa khác nhau tuỳ thuộc vào kết quả đàm phán
khi gia nhập WTO. Thực chất nội dung mỗi cam kết mở cửa thị trường trong từng
phân ngành dịch vụ bao gồm các điều kiện có tính ràng buộc, hạn chế đối với các
nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài ở mức độ khác nhau.
+ Cam kết về đối xử quốc gia
Trong WTO, nghĩa vụ đối xử quốc gia đòi hỏi một nước thành viên phải có
chính sách, quy định đối với các dịch vụ, các nhà cung cấp dịch vụ từ các nước thành
viên khác bằng hoặc tốt hơn các chính sách, quy định áp dụng cho dịch vụ và doanh
nghiệp dịch vụ nội địa của mình. Vì vậy, cam kết về đối xử quốc gia trong mỗi phân
ngành dịch vụ thực chất là tập hợp các điều kiện, hạn chế mà nước thành viên áp
dụng đối với nhà cung cấp dịch vụ và dịch vụ nước ngoài (theo cách kém ưu đãi hơn,
không bình đẳng với nhà cung cấp dịch vụ và dịch vụ trong nước) - tức là các cam
kết về ngoại lệ đối với nguyên tắc đối xử quốc gia.
Căn cứ vào các nghĩa vụ chung và các cam kết cụ thể này, các Thành viên sẽ

ban hành các quy định nội địa cụ thể cho từng ngành/phân ngành dịch vụ đã cam kết.
Với những ngành chưa có cam kết thì các Thành viên được tự do đưa ra quy định về
bất kỳ hạn chế hay điều kiện nào, miễn là Thành viên vẫn phải đảm bảo nguyên tắc
đối xử tối huệ quốc (đối xử với các nhà cung cấp đến từ tất cả các nước thành viên
WTO theo một cách như nhau).
Nội dung của nguyên tắc đối xử quốc gia (đối xử với các đối tượng nước
ngoài như đối xử với các đối tượng của nước mình – national treatment – NT) không
khác biệt giữa thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ. Tuy nhiên, cam kết đạt
được giữa các nước thành viên WTO về mức độ thực hiện nguyên tắc này thì khác
nhau giữa hai nhóm.
Trong thương mại hàng hoá, các nước thành viên WTO đã đạt được thoả thuận
NT cho hầu hết các loại hàng hoá về thuế, phí, các quy định, điều kiện thương mại…
Vì vậy, nguyên tắc NT trong thương mại hàng hoá được thực hiện hầu như ở mức
tuyệt đối.
Đối với thương mại dịch vụ, mức độ cam kết mở cửa còn dè dặt và có nhiều
hạn chế trong từng ngành, phân ngành dịch vụ đối với từng nước thành viên. Vì vậy,
nguyên tắc NT áp dụng rất hạn chế, phân biệt đối xử giữa nhà cung cấp dịch vụ nước
ngoài với nhà cung cấp dịch vụ trong nước còn tồn tại ở nhiều mức độ khác nhau.
- Những thông tin được nêu trong một Biểu cam kết dịch vụ:
12


Dựa trên kết quả đàm phán, mỗi nước thành viên WTO phải đưa ra Biểu cam
kết dịch vụ của mình. Biểu cam kết dịch vụ của một nước là tập hợp tất cả các cam
kết cụ thể của nước đó về mức độ mở cửa trong từng ngành, phân ngành dịch vụ.
Mỗi Biểu cam kết sẽ bao gồm 03 phần:
+ Phần cam kết nền (còn gọi là cam kết chung): là các cam kết áp dụng cho tất
cả các ngành dịch vụ nêu trong Biểu cam kết, thường là các điều kiện về phương
thức cung cấp dịch vụ như hiện diện thương mại hay hiện diện của thể nhân;
+ Phần cam kết riêng: là các cam kết cụ thể trong từng ngành dịch vụ (bao

gồm các điều kiện tiếp cận thị trường cụ thể trong từng ngành dịch vụ. Trường hợp
có khác biệt giữa cam kết nền và cam kết riêng thì áp dụng quy định tại cam kết
riêng).
+ Danh mục các biện pháp miễn trừ đối xử tối huệ quốc (MFN).
- Ý nghĩa của các cột trong Biểu cam kết
Biểu cam kết dịch vụ gồm 4 cột, bao gồm: Cột mô tả ngành/phân ngành; Cột
nêu các cam kết mang tính hạn chế về tiếp cận thị trường; Cột nêu các cam kết mang
tính hạn chế về đối xử quốc gia và Cột cam kết bổ sung.
+ Cột mô tả ngành/phân ngành: Liệt kê các loại dịch vụ cụ thể được đưa vào
cam kết. Theo danh mục phân loại ngành dịch vụ của Ban Thư ký WTO, có tất cả 12
ngành (được chia nhỏ thành 155 phân ngành dịch vụ) được các Thành viên WTO tiến
hành đàm phán. Việt Nam cam kết mở cửa 11 ngành và 110 phân ngành.
+ Cột hạn chế về tiếp cận thị trường: Liệt kê các điều kiện mang tính hạn chế
đối với các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài; Càng có nhiều biện pháp/điều kiện
được liệt kê trong cột này thì mức độ mở cửa thị trường cho các nhà cung cấp dịch
vụ nước ngoài càng hạn chế.
+ Cột hạn chế về đối xử quốc gia: Liệt kê các biện pháp nhằm duy trì sự phân
biệt đối xử giữa nhà cung cấp dịch vụ trong nước với nhà cung cấp dịch vụ nước
ngoài;Càng có nhiều biện pháp/quy định trong cột này thì sự phân biệt đối xử giữa
các nhà cung cấp dịch vụ trong nước với các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài càng
lớn.
+ Cột cam kết bổ sung: Liệt kê các quy định/điều kiện ảnh hưởng đến hoạt
động cung cấp và tiêu dùng dịch vụ nhưng không thuộc về hạn chế tiếp cận thị
trường hay hạn chế về đối xử quốc gia mà nước thành viên được phép áp
dụng;Thông thường, cột này thường bao gồm những quy định liên quan đến trình độ,
tiêu chuẩn kỹ thuật, các yêu cầu hoặc thủ tục về việc cấp phép…
13


c. Giới thiệu chung về cam kết nền của Việt Nam trong biểu cam kết dịch vụ trong

GATS
- Cam kết gia nhập WTO của Việt Nam về dịch vụ được nêu tại 03 nhóm văn bản sau
đây:
(i) Biểu cam kết dịch vụ của Việt Nam (cam kết cụ thể trong từng ngành dịch vụ có
cam kết);
(ii) Cam kết về minh bạch hoá và không phân biệt đối xử trong Phần về dịch vụ
trong Báo cáo của Ban Công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO;
(iii) Hiệp định GATS (về các vấn đề chung).
Về thứ tự áp dụng, ưu tiên áp dụng quy định nhóm (i), nếu nhóm (i) không quy
định thì mới áp dụng nhóm (ii), nếu cả nhóm (i) và (ii) không quy định thì áp dụng quy
định của nhóm (iii).
- Hiệp định GATS quy định những nghĩa vụ chung về dịch vụ mà tất cả các nước thành
viên WTO đều phải tuân thủ. Là thành viên WTO, Việt Nam cũng có trách nhiệm thực
hiện các nghĩa vụ này, bao gồm: nghĩa vụ về Đối xử tối huệ quốc (MFN) và nghĩa vụ
Minh bạch hóa.
- Việt Nam sẽ mở cửa những dịch vụ sau: Dịch vụ kinh doanh; dịch vụ thông tin; dịch
vụ xây dựng và các dịch vụ liên quan; dịch vụ phân phối; dịch vụ giáo dục; dịch vụ
môi trường; dịch vụ tài chính; dịch vụ y tế và xã hội; dịch vụ du lịch; dịch vụ văn hóa,
giải trí và thể thao; dịch vụ vận tải.
Như vậy, so sánh với phân loại các ngành dịch vụ của WTO (12 ngành với
khoảng 155 phân ngành), ngành dịch vụ duy nhất mà Việt Nam không cam kết là “các
dịch vụ khác”.
So với cam kết về dịch vụ trong Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam
– Hoa Kỳ (BTA 2002), cam kết về dịch vụ trong WTO của Việt Nam rộng hơn về diện
và sâu hơn về mức độ. Cụ thể:
+ Về diện cam kết: Cam kết trong WTO rộng hơn BTA (về số ngành dịch vụ).
Trong BTA với Hoa Kỳ, Việt Nam đã cam kết 8 ngành dịch vụ, gồm 65 phân ngành;
trong WTO, Việt Nam cam kết 11 ngành, tính theo phân ngành là khoảng 110 trên tổng
số 155 phân ngành theo phân loại của WTO.
+ Về mức độ mở cửa: Cam kết mở cửa theo WTO ở mức cao hơn BTA nhưng

không nhiều.
Với hầu hết các ngành dịch vụ, trong đó có những ngành nhạy cảm như bảo
hiểm, phân phối, du lịch v.v.., cam kết mở cửa theo WTO đều gần như BTA.
Riêng với viễn thông, ngân hàng và chứng khoán, cam kết WTO có mức mở cửa rộng
14


hơn BTA. Tuy nhiên, các cam kết này nhìn chung không quá xa so với hiện trạng và
đều phù hợp với định hướng phát triển đã được phê duyệt cho các ngành này.
- Việt Nam cam kết cho phép nhà đầu tư nước ngoài được tham gia cung cấp dịch vụ
tại Việt Nam dưới các hình thức:
+ Hợp đồng hợp tác kinh doanh với đối tác Việt Nam;
+ Doanh nghiệp liên doanh với đối tác Việt Nam;
+ Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Tuy nhiên, đây chỉ là cam kết nền (cam kết chung). Điều kiện tham gia thị trường đối
với mỗi hình thức cũng như lộ trình thực hiện (thời điểm cho phép) trong từng ngành,
phân ngành dịch vụ sẽ căn cứ vào cam kết trong từng ngành, phân ngành cụ thể.
3.2 Ngoại lệ và miễn trừ trong GATS
a. Quy định về miễn trừ MFN trong GATS
Tương tự như trong lĩnh vực thương mại hàng hoá và sở hữu trí tuệ, Đãi ngộ tối
huệ quốc (MFN) là một nguyên tắc nền tảng trong thương mại dịch vụ. Điều II, GATS
quy định “Đối với bất kỳ biện pháp nào thuộc phạm vi điều chỉnh của hiệp định này,
mỗi Thành viên phải ngay lập tức và không điều kiện dành cho dịch vụ và người cung
cấp dịch vụ của bất kỳ Thành viên nào khác, sự đãi ngộ không kém thuận lợi hơn sự
đãi ngộ mà Thành viên đó dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của bất kỳ
nước nào khác”. Nghĩa vụ này có thể được hiểu là các thành viên WTO sẽ dành cho
các thành viên khác và đồng thời được hưởng từ các thành viên đó đãi ngộ ưu đãi nhất
mà mỗi thành viên dành cho bất kỳ quốc gia nào, bất kể quốc gia đó có là thành viên
WTO hay không. Như vậy, về nguyên tắc, mọi biện pháp mở cửa thị trường đối với
các dịch vụ thuộc GATS, bất kể được cam kết đơn phương, song phương hoặc đa

phương đều phải được áp dụng vô điều kiện với mọi thành viên WTO.
Tuy nhiên, trên thực tế, đàm phán mở cửa thị trường dịch vụ là một nội dung hết sức
phức tạp bởi chính những thuộc tính của thương mại dịch vụ. Trước hết, do tính chất
vô hình của dịch vụ nên rất khó định lượng tác động của các biện pháp bảo hộ cũng
như giá trị của các cam kết tự do hoá trong lĩnh vực này. Bởi vậy, trong đàm phán về
dịch vụ không có được những công thức cắt giảm chung như trong thương mại hàng
hoá và mỗi quốc gia tự đưa ra một lịch trình cam kết riêng. Với trình độ phát triển,
năng lực đàm phán khác nhau, mỗi quốc gia có một Danh mục cam kết riêng và không
nước nào giống nước nào. Thứ hai, các nhóm nước có cách tiếp cận rất khác nhau
trong đàm phán dịch vụ. Trong khi các nước công nghiệp phát triển muốn thúc đẩy
15


mạnh mẽ các thoả thuận mở cửa thị trường thì các nước đang phát triển lại hết sức dè
dặt trong việc đưa ra các cam kết. Bên cạnh lý do về trình độ phát triển, một nguyên
nhân không kém phần quan trọng là sự e ngại việc mở cửa thiếu kiểm soát các dịch vụ
nhạy cảm (tài chính, viễn thông, vận tải, giáo dục…) có thể dẫn đến mất ổn định, tác
động tiêu cực tới phát triển kinh tế-xã hội. Cụ thể, trong số các thành viên đang phát
triển của WTO, 44 nước cam kết dưới 20 phân ngành và 47 nước cam kết từ 21 đến 60
phân ngành. Các nước phát triển đều cam kết từ 60 đến 130 phân ngành. Từ hai lý do
cơ bản nêu trên, nếu áp dụng cứng nhắc nguyên tắc MFN sẽ không thúc đẩy được tiến
trình đàm phán dịch vụ. Bởi điều này sẽ mâu thuẫn với một nguyên tắc quan trọng của
đàm phán là nguyên tắc có đi có lại và không khuyến khích các thành viên tự nguyện
đưa ra các cam kết tự do hoá dịch vụ.
GATS đã có sự linh động đối với các thành viên trong việc thực hiện nghĩa vụ
MFN. Khoản II.2, GATS và Phụ lục về các miễn trừ thuộc điều 2 cho phép các thành
viên được từ chối thực hiện nghĩa vụ MFN, với điều kiện các ngoại lệ này phải được
liệt kê trong Danh mục các miễn trừ MFN được trình khi kết thúc Vòng Uruguay
(hoặc vào thời điểm gia nhập). Bản liệt kê các miễn trừ MFN được thực hiện theo mẫu
chung, nêu các thông tin đầy đủ liên quan tới mỗi miễn trừ, gồm (i) mô tả phân ngành

áp dụng miễn trừ (ii) mô tả biện pháp áp dụng, chỉ rõ tại sao biện pháp này không phù
hợp với quy định tại Điều II về MFN (iii) các nước là đối tượng của miễn trừ (iv) thời
hạn áp dụng (v) lý do áp dụng. Về nguyên tắc, các miễn trừ MFN không được vượt
quá thời hạn 10 năm và sẽ được đàm phán tại các vòng đàm phán tiếp theo về tự do
hoá thương mại dịch vụ. Bên cạnh đó, Hội đồng Thương mại dịch vụ thực hiện việc rà
soát các miễn trừ được áp dụng sau thời gian hơn 5 năm.
b. Các hình thức miễn trừ MFN
Theo thống kê của UNCTAD, 79 thành viên WTO (các nước thành viên EU
tính là một thành viên) đã liệt kê 424 miễn trừ MFN trong danh mục cam kết của
mình. Phần lớn trong số này (trên 70%) tập trung vào lĩnh vực vận tải (đường biển,
hàng không, đường bộ). Tiếp theo là dịch vụ chuyên ngành, tài chính, nghe nhìn… Để
phục vụ mục đích tham khảo, nhóm em xin giới thiệu một số dạng miễn trừ MFN
thường được các nước áp dụng được phân loại theo các tiêu chí: cơ sở áp dụng, biện
pháp áp dụng và mục tiêu áp dụng.
Dựa trên các căn cứ để các nước đưa ra miễn trừ MFN có thể phân ra hai nhóm
chính:
16


+ Các miễn trừ dựa trên nguyên tắc có đi có lại (reciprocity) chiếm gần 40%
tổng số miễn trừ và được mô tả nhằm đảm bảo sự bình đẳng trong tiếp cận và đãi ngộ
tại thị trường nước ngoài hoặc đáp lại các đãi ngộ không công bằng từ bên ngoài.
+ Các miễn trừ theo các thoả ước quốc tế chiếm khoảng 55%. Một số miễn trừ
thuộc dạng này viện dẫn cụ thể tới tên hiệp định, bao gồm hiệp định hợp tác sản xuất,
hiệp định song phương về đầu tư. Nhưng đa phần, các miễn trừ thuộc dạng này không
nêu tên và dạng hiệp định. Một trong những lý do chính là các thoả thuận ưu đãi này
được đàm phán giữa một vài thành viên và chưa được thể hiện thành hiệp định. Ví dụ,
điều khoản miễn trừ MFN thuộc lĩnh vực vận tải biển trong danh mục cam kết của
Trung quốc viện dẫn chung tới “các hiệp định phân chia hàng hoá” giữa Trung Quốc
và một số nước (Brazil, Thailand, Hoa Kỳ…), không nêu cụ thể tên hiệp định, thời hạn

miễn trừ hết hiệu lực, lý do áp dụng là “tuỳ thuộc bối cảnh quan hệ thương mại giữa
các bên ký kết”.
Một điểm đáng lưu ý nữa là khoảng 1/3 các miễn trừ thuộc dạng này đề cập tới
các thoả ước trên nguyên tắc có đi có lại. Như vậy, có thể thấy, có đi có lại là cơ sở
quan trọng để đưa ra các miễn trừ MFN.
+ Dựa trên loại hình biện pháp áp dụng
+ Các miễn trừ MFN liên quan tới dịch chuyển thể nhân bao gồm các biện pháp
tác động tới việc đi lại, cư trú của các cá nhân gồm: cấp phép cư trú hoặc hành nghề,
yêu cầu quốc tịch, các quy định về thị thực xuất nhập cảnh…
+ Các miễn trừ MFN về thuế tạo sự phân biệt đối xử về mức thuế doanh thu,
thuế giá trị gia tăng…
+ Các miễn trừ MFN liên quan tới hiện diện thương mại bao gồm các biện pháp
tác động đến phương thức cung cấp dịch vụ thứ 3 như: quyền được mở chi nhánh, quy
định về thành lập doanh nghiệp (hạn mức góp vốn nước ngoài…).
Trong danh mục cam kết về dịch vụ vận tải biển quốc tế, Trung Quốc không
cho phép mở chi nhánh và giới hạn phần góp vốn nước ngoài trong liên doanh ở mức
49%. Trong Danh mục miễn trừ MFN của mình, Trung Quốc dành các đãi ngộ ưu đãi
hơn trên cơ sở hiệp định song phương (cho phép mở chi nhánh, cho phép liên doanh
vận tải biển thành lập và hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài). Miễn trừ này không
xác định cụ thể đối tượng, thời hạn hiệu lực …
+ Các miễn trừ MFN về tiêu chuẩn kỹ thuật. Ví dụ các miễn trừ của EU quy
định dành đãi ngộ quốc gia cho một số dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ đáp ứng được
những tiêu chí nhất định về xuất xứ châu Âu.
17


Những ngoại lệ này được quy định trong các văn bản liên quan như Pháp lệnh
đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế, Luật Hàng hải,
Luật Xuất bản, Luật doanh nghiệp, Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế tiêu thụ đặc
biệt, Luật an ninh quốc gia, Pháp lệnh bảo vệ bí mật Nhà nước, Pháp lệnh bưu chính

viễn thông và một số văn bản dưới luật khác.

4. Three – tier test
Cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO là sự kế thừa các qui định về giải
quyết tranh chấp đã từng phát huy tác dụng tích cực gần 50 năm qua trong lịch sử
GATT 1947 và tôn trọng nguyên tắc không phân biệt đối xử, hay là nguyên tắc tối huệ
quốc - MFN.
Điều II:1, GATS cho biết:
“Đối với bất kỳ biện pháp nào thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định này,
mỗi Thành viên phải ngay lập tức và vô điều kiện dành cho dịch vụ và các nhà cung
cấp dịch vụ của bất kỳ Thành viên nào khác, sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối
xử mà Thành viên đó dành cho dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ tương tự của bất
kỳ nước nào khác.”
Như vậy, bản chất của nguyên tắc đối xử tối huệ quốc trong GATS bao gồm:
-Đảm bảo sự bình đẳng về cơ hội (equality of opportunity) cho các dịch vụ và nhà
cung cấp dịch vụ của tất cả các Thành viên.
- Nghiêm cấm cả hành vi phân biệt đối xử hiển nhiên và trá hình:
+ PBĐX hiển nhiên (de jure discrimination)
+ PBĐX trá hình (de facto discrimination)
Việc phân tích các mâu thuẫn trong GATS được thực hiện theo Kiểm tra ba bước
(Three - tier test) với ba câu hỏi sau:
- Biện pháp đó có thuộc phạm vi điều chỉnh của GATS?
- Các dịch vụ và người cung cấp dịch vụ có “tương tự”?
- Các dịch vụ hay người cung cấp dịch vụ của một Thành viên có bị đối xử kém ưu đãi
hơn?
 Như vậy, mâu thuẫn được giải quyết theo cơ sở từng vụ tranh chấp.
Ba câu hỏi trên tương ứng với ba lĩnh vực được định nghĩa rõ ràng trong GATS, đó là:
1. Bất kỳ lợi thế, ưu đãi, đặc quyền hoặc miễn trừ nào trong Điều I: 1 của GATT 1994
Điều I:1: bao gồm một loạt các biện pháp liên quan đến xuất nhập khẩu cũng
như các biện pháp nội bộ. Các biện pháp này bao gồm:

- Thuế hải quan ;
- Bất kỳ loại phí nào đối với xuất nhập khẩu;
18


- Bất kỳ phí nào áp đặt trong mối liên hệ với nhập khẩu hoặc xuất khẩu;
- Bất kỳ khoản phí nào đánh vào việc thanh toán quốc tế đối với hàng nhập khẩu và
xuất khẩu;
- Phương pháp tính các loại thuế và phí đó;
- Tất cả các quy tắc và thủ tục liên quan đến nhập khẩu và xuất khẩu;
- Thuế hoặc phí nội bộ khác (được nêu trong Điều III.2);
- Tất cả các luật, quy định và yêu cầu ảnh hưởng đến việc bán hàng nội bộ, chào bán
mở hàng, mua bán, vận chuyển, phân phối hoặc sử dụng bất kỳ sản phẩm nào (được
nêu trong Điều III.4).
Chú ý:
Tồn tại những ngoại lệ nhất định với những lợi thế, ưu đãi kể trên cho một số
sản phẩm tương tự của một số quốc gia thành viên. Lưu ý rằng các lợi thế này là của
WTO dành cho các thành viên của mình và cho cả các quốc gia không phải là thành
viên WTO.
2. Các dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ tương tự
Theo quy định của GATS, sẽ không tồn tại vi phạm nguyên tắc tối huệ quốc
MFN nếu không có sự tương tự trong các sản phẩm dịch vụ và các nhà cung cấp. Tuy
vậy, khái niệm “like services” và “like service suppliers” không được làm rõ trong
GATS. Hơn nữa, hầu như chưa có án lệ làm rõ nội dung này. Bởi vậy, khi định nghĩa
sự tương tự, các bên thường dựa vào:
- Công dụng cuối cùng của dịch vụ
- Đặc điểm của dịch vụ hoặc người cung cấp dịch vụ
- Phân loại và mô tả dịch vụ trong hệ thống Central Product Classification (CPC) của
UN
- Thói quen và thị hiếu của người sử dụng đối với dịch vụ và người cung cấp dịch vụ

Chú ý:
Có thể xem xét cả WTO Services Sectoral Classification (MTN.GNS/W/120)
CPC hiện hành: />3. Việc cấp ngay lập tức và vô điều kiện của các ưu đãi cho các sản phẩm như liên
quan
Yếu tố thứ ba trong Kiểm tra ba bước là việc cấp lợi thế "ngay lập tức và vô
điều kiện". Điều này có nghĩa rằng một khi một Thành viên WTO đã cấp một lợi thế
cho hàng nhập khẩu từ bất kỳ nước nào, nó ngay lập tức và vô điều kiện phải cấp lợi
thế này với việc nhập khẩu các sản phẩm tương tự cho tất cả các thành viên WTO.

19


II. VỤ TRANH CHẤP HOA KỲ VÀ ANTIGUA - CỜ BẠC VÀ CÁ CƯỢC
1. Tóm tắt vụ việc
Vụ tranh chấp giữa Antigua và Hoa Kỳ về Thương mại trong cờ bạc và cá cược
qua biên giới là vụ tranh chấp thương mại điện tử đầu tiên trước khi WTO được xử lý.
Trong một buổi đàm thoại ngày 13 tháng 3 năm 2003, Antigua và Barbuda (sau
đây gọi là “Antigua”) đã yêu cầu tham vấn với Mỹ, theo Điều 4 của Thỏa thuận sơ bộ
về Quy tắc và Thủ tục Giải quyết tranh chấp (DSU) và Điều XXIII của Hiệp định
chung về Thương mại dịch vụ (GATS) liên quan tới các biện pháp áp dụng bởi các
chính quyền địa phương, vùng và trung ương tại Hoa Kỳ gây ảnh hưởng tới việc cung
cấp xuyên biên giới các dịch vụ cờ bạc và cá cược. Yêu cầu nảy sinh từ việc suy giảm
kinh tế trong ngành công nghiệp dịch vụ cờ bạc và cá cược của Antigua. Antigua đã
nêu lên việc suy giảm kinh tế nước này là hậu quả trực tiếp của ba nguyên nhân:
- Đạo luật cưỡng chế với hoạt động cá cược qua mạng của Mỹ;
- Các điều chỉnh tự ý của Hoa Kỳ trong ngành công nghiệp thẻ tín dụng;
- Các quyết định gần đây của Tòa Phúc thẩm Hoa Kỳ ở phiên thứ hai chống lại nhà cái
và người dân Antigua đã đề cập ở trên.
Ngoài ra, Antigua khẳng định Luật Hoa Kỳ cấm tất cả các dịch vụ cờ bạc và cá
cược xuyên biên giới, và rằng lệnh cấm này xâm phạm luật thương mại quốc tế.

Antigua đã đính kèm trong thông báo của mình một Phụ lục gồm danh sách các biện
pháp của các bang và liên bang Hoa Kỳ có ảnh hưởng , mà theo Antigua, thì là khiến
việc cung cấp các dịch vụ cờ bạc và cá cược xuyên biên giới trở thành trái phép. Trong
một thông báo ngày 1 tháng 4 năm 2003, Antigua đã công bố một thông báo chứa một
Phụ lục chính xác nhằm làm rõ “một số tài liệu tham khảo về quy định của Hoa Kỳ”
nằm trong Phụ lục gốc.
Sau đó, vào ngày 30 tháng 4 năm 2003 một cuộc tham vấn được tổ chức, nhưng
cuộc tham vấn này đã không thể giải quyết tranh chấp. Kết quả là, trong một thông báo
ngày 12 tháng 6 năm 2003, Antigua đã yêu cầu DSB thành lập Ban Hội thẩm.
Tại cuộc họp vào ngày 21 tháng 7 năm 2003, DSB thành lập một Ban Hội thẩm
căn cứ theo yêu cầu của Antigua trong văn bản WT/DS285/2, theo Điều 6 của Thỏa
thuận sơ bộ giải quyết tranh chấp. Vào ngày 15 tháng 8 năm 2003, Antigua đã yêu cầu
Tổng giám đốc xác định thành phần Ban Hội thẩm, căn cứ đoạn 7 trong Điều 8 của
DSU. Theo đó Chủ tịch của DSB sẽ thông báo cho các Thành viên về thành phần Ban
Hội thẩm không muộn hơn 10 ngày sau ngày Chủ tịch nhận được yêu cầu. Vào ngày
25 tháng 8 năm 2003, Tổng giám đốc công bố thành phần Ban Hội thẩm và Bên thứ ba
20


gồm Canada, Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, Mexico và Trung Quốc Đài Loan. Vào
ngày 5 tháng 9 2003, Ban Hội thẩm thông qua Quy trình làm việc của mình.
Vào ngày 17 tháng 10 năm 2003, Hoa Kỳ yêu cầu phán quyết sơ bộ, căn cứ
đoạn 11 trong Thủ tục làm việc. Ngày 20 tháng 10 năm 2003, Ban Hội thẩm mời
Antigua và các bên thứ 3 đưa ra ý kiến với yêu cầu của Hoa Kỳ. Antigua đưa ra trả lời
vào ngày 23 tháng 10 năm 2003, tiếp sau đó là Liên minh Châu Âu và Nhật ngày 24
tháng 10 năm 2003. Trung Quốc Đài LOạn, Mexico và Canada không đệ trình ý kiến
đối với yêu cầu của Hoa Kỳ. Ngày 29 tháng 10 năm 2003, Ban Hội thẩm trả lời yêu
cầu của Hoa Kỳ.
Ban Hội thẩm tổ chức buổi họp chính đầu tiên với các bên từ ngày 10 tới 12
tháng 12 năm 2003. Phiên họp với Bên thứ 3 diễn ra vào 11 tháng 12 năm 2003. Buổi

họp chính thứ 2 được tổ chức vào ngày 26,27 tháng 1 năm 2004.
Vào ngày 20 tháng 2 năm 2004, Ban Hội thẩm công bố phần mô tả thuộc Báo
cáo của Ban Hội thẩm. Vào ngày 27 tháng 2 năm 2004, hai bên và bên thứ 3 đưa ra ý
kiến đối với bản mô tả đó. Các tranh chấp về thực tế và pháp lý được phản ánh tại
Phần III. Antigua và Hoa Kỳ cũng đã đề xuất hàng loạt các vật chứng hỗ trợ cho các
cáo buộc thực tế và pháp lý của họ.
Vào ngày 24 tháng 3 năm 2004, Ban Hội thẩm nộp Báo cáo tạm thời cho các
bên. Báo cáo tạm thời đó không bao giờ được công bố, nhưng được thông báo rằng
Ban Hội thẩm nhận thấy rằng việc Hoa Kỳ cấm dịch vụ cờ bạc và cá cược là xâm
phạm các cam kết của nước này với WTO. Tương tự, kể từ khi Ban Hội thẩm phán
quyết ủng hộ Antigua, Cơ quan này phải lựa chọn việc hoặc song hành hoặc bác bỏ
quan điểm của Hoa Kỳ với lệnh cấm đó vì nó bảo vệ đạo đức xã hội. Vào ngày 7 tháng
4 năm 2004, các bên đưa ra ý kiến về báo cáo này. Không bên nào đã yêu cầu Ban Hội
thẩm tổ chức một buổi họp với các bên để xem xét các phần của Báo cáo này. Vào
ngày 16 tháng 4 năm 2004, các bên đưa ra văn bản kiến nghị về các ý kiến đã được
cung cấp trong Báo cáo tạm thời của Ban Hội thẩm ngày 7 tháng 4 năm 2004.
Sau đó vào ngày 30 tháng 4 năm 2004, Ban Hội thẩm đã công bố một báo cáo
mật cuối cùng tán thảnh những quyết định chính trong bản báo cáo tạm thời trước đó.
Ngay trước khi Ban Hội thẩm dự định công bố cái báo cáo cuối cùng của mình, hai
bên đã yêu cầu Ban Hội thẩm hoãn lại việc công bố. Các bên đưa ra mong muốn đàm
phán giải quyết. Ban đầu Ban Hội thẩm đã chấp nhận hoãn tới ngày 23 tháng 8 năm
2004 cho các bên đàm phán giải quyết. Thể theo yêu cầu của các bên, Ban Hội thẩm
kéo dài thời hạn đàm phán ba lần. Tuy nhiên, vào ngày 28 tháng 10 năm 2004, Hoa Kỳ
21


thông báo những cuộc nói chuyện với Antigua thất bại và Hoa Kỳ sẽ kháng cáo quyết
định của Ban Hội thẩm. Vào ngày 10 tháng 11 năm 2004, thì Báo cáo của Ban Hội
thẩm được chuyển tới các thành viên của WTO.
Ngày 7 tháng 1 năm 2005, Hoa Kỳ thông báo tới DSB về ý định kháng váo của

mình với các công bố về luật được đưa ra trong Báo cáo của Ban Hội thẩm. Ngày 19
tháng 1 năm 2005, Antigua cũng thông báo cho DSB về ý định kháng cáo đối với các
công bố về luật trong Báo cáo của Ban Hội thẩm. Hoa Kỳ nộp đơn kháng váo ngày 14
tháng 1 năm 2005, Antigua nộp đơn kháng cáo ngày 24 tháng 1 năm 2005. Mỗi bên
này nộp đơn bị kháng vào ngày 1 tháng 2 năm 2005.
Phiên tòa vấn đáp được tổ chức ngày 21 và 22 tháng 2 năm 2005. Các bên tham
gia và bên thứ ba đã trình bày quan điểm, lập luận và trả lời các câu hỏi được đặt ra
bởi Thành viên của Bộ phận nghe kháng cáo. Sau khi tiến hành điều tra và thẩm định
lại, Cơ quan Phúc thẩm dựa trên một số điều khoản quy định trong Hiệp định GATS và
trong biểu cam kết của Hoa Kỳ khi gia nhập WTO để đưa ra quyết định cuối cùng.
Theo đó Cơ quan này ủng hộ và giữ nguyên các quyết định của Ban Hội thẩm. Đồng
thời Cơ quan Phúc thẩm khuyến nghị Cơ quan Giải quyết tranh chấp yêu cầu Hoa Kỳ
chỉnh các biện pháp được nêu cụ thể trong báo cáo đảm bảo sự nhất quán với Hiệp
định chung về thương mại dịch vụ, và phù hợp với nghĩa vụ của Hoa Kỳ theo Hiệp
định đó.

2. Lý luận của nguyên đơn
2.1 Lý luận của nguyên đơn trong phiên xử của Ban Hội thẩm
a. Lập luận dựa trên thực tế
Antigua chỉ ra rằng rất nhiều dịch vụ và trò chơi cờ bạc và cá cược được cung
cấp theo hình thức thương mại tại Hoa Kỳ và những nơi khác. Theo Antigua thì các
khái niệm “cờ bạc và cá cược” là chủ yếu đề cập tới “ngành trò chơi”. Và Antigua
cũng đã xây dựng ngành công nghiệp trò chơi qua mạng “tiếp cận từ xa” như là một
chiến lược phát triển kinh tế từ giữa những năm 1990s. Để quản lý dịch vụ này của
mình Antigua có một Bộ phận chống gian lận. Những nhà điều hành của Antigua thì
chứng minh rằng họ có thể dễ dàng xác định vị trí của những người chơi thông qua
việc theo dõi của số của những nhà cung cấp mạng phát ra. Antigua đưa ra con số có
tới 119 nhà điều hành được cấp phép với số lao động khoảng 3000 nguồi chiếm gần
10% GDP năm 1999 và tới năm 2003 con số này bị giảm xuống còn 28 nhà điều hành
với số lao động ít hơn 500. Antigua cho rằng có hai nguyên nhân chính dẫn đến điều

22


này: sự gia tăng tiêu chuẩn về các quy định ở Antigua và thứ hai là chiến lược của Hoa
Kỳ trong việc cản trở hoạt động các trò chơi xuyên biên giới của Antigua. Quy định về
trò chơi của Antigua thì có một số quy định liên quan đến độ tuổi, giấy phép, quảng
cáo (không được lừa dối), cấm thanh toán tiền mặt và tất cả các hành vi đang nghi cần
được báo cáo tới Ban giám đốc để tiến hành thanh tra. Yếu tố thứ hai nằm ở hệ thống
quy định của Antigua về việc chống chuyển tiền. Theo đó các nhà điều hành của
Antigua bị cấm nhận tiền mặt từ những người chơi và bị yêu cầu cần thiết lập các giấy
chứng nhận của họ. Điều này trái ngược với các sòng bạc ở Hoa Kỳ.
Antigua chứng minh cờ bạc mang tính thương mại đã trở thành một ngành rất
phát triển ở Hoa Kỳ. Năm 1999 những người cá cược Hoa Kỳ thu được 630 tỷ đô và
mất 50 triệu đo. Năm 1998, 68% người Mỹ đánh bạc ít nhất 1 lần và 86% người Mỹ
từng đánh bạc ít nhất 1 lần trong đời. Kể từ năm 1999 đánh bạc tiếp tục mở rộng tại
Hoa Kỳ. Theo báo cáo của một Nghiên cứu về ảnh hưởng của cờ bạc tại Mỹ
(“NGISC”) đã đưa ra kết luận rằng việc đánh bạc bất hợp pháp ở Hoa Kỳ thì “dễ dàng
tham gia, được chấp nhận rộng rãi, rất phổ biến, và, hiện tại không thể bị truy tố.”
Antigua còn chỉ ra rất nhiều công ty trò chơi lớn nhất trên thế giới bắt nguồn từ
Hoa Kỳ và kiếm lợi nhuận trên toàn thế giới. Những công ty này cũng sử dụng hệ
thống công nghệ vi tính điều khiển từ xa phức tạp qua mạng. Theo luật của Hoa Kỳ thì
các sòng bạc được phép quảng cáo hoạt động đánh bạc ở mọi bang của Hoa Kỳ thậm
chí cả ở những bang không cho phép các sòng bạc hoạt động. Hiện trên toàn nước Mỹ
có trên 340 sòng bạc do chính các bộ lạc bản xứ Mỹ làm chủ, dựa trên ngoại lệ của
luật liên bang và trong nhiều trường hợp nhận được sự hỗ trợ của liên bang, được cho
phép cung cấp cá cược tại những nơi thuộc các bộ lạc này. Thậm chí chính phủ liên
bang Hoa Kỳ còn hoạt động các cơ sở cờ bạc, với khoảng 8000 máy và các thiết bị
đánh bạc điện tử đặt tại 94 cơ sở quân đội và các hệ thống ngoài trời của Hoa Kỳ.
Antigua còn cho rằng ngành cá cược đua ngựa của Hoa Kỳ đã sử dụng thành
công những tiến bộ của công nghệ viễn thông để mở rộng cơ hội đánh bạc. Theo đó

hoạt động cá cược ở các môn thể thao như bóng đá, bóng rổ, bóng chày, hockey, gôn,
… được cho phép và phổ biến và năm 1998 mang lại doanh thu là 2.3 tỷ đô la. Năm
2002 tổng tài sản cá cược là 1.9 tỷ đô và lợi nhuận của ngành là 110 triệu đô la. Dịch
vụ này được cung cấp cho người sử dụng tại nhà thông qua mạng Internet và mạng
điện thoại.
Cuối cùng Antigua nhấn mạnh về những điều vụ tranh chấp này không đề cập
tới. Trước tiên, nó không về ngành công nghiệp trò chơi qua mạng nói chung. Chính
23


phủ Antigua thực hiện vụ kiện là nhằm nhân danh ngành công nghiệp nội địa và không
hơn. Thứ hai, vụ kiện không nói tới hoạt động cờ bạc hoàn toàn tự do, không có kiểm
soát. Antigua là một nước có quyền tài phán đã được quy định. Khi nước này bắt đầu
phát triển ngành công nghiệp này hơn 8 năm trước, nó đã có những thẩm quyền được
quy định. Kể từ đó, Antigua đã kiểm tra lại hệ thống quy định của mình hai lần, với sự
hỗ trợ trực tiếp từ các chuyên gia luật sư cờ bạc của Hoa Kỳ. Antigua tiếp tục có
những cải tiến và chọn lọc đối với hệ thống quy định. Antigua tin rằng bất kỳ sự giải
quyết nào về vụ tranh chấp này nên cần diễn ra trong bối cảnh quy định đã thỏa thuận.
Antigua cũng đưa ra thiện chí sẵn sàng hợp tác với Hoa Kỳ để đưa ra hệ thống quy
định chung. Nhưng Hoa Kỳ không quan tâm tới các hành động đó và khăng khăng
rằng trò chơi qua mạng thì không thể được quy định.
b. Lập luận pháp lý
- Áp dụng quy định của GATS
Antigua dẫn ra rằng, trong vụ Canada-Autos, Cơ quan Phúc thẩm đã phán xét
rằng yêu cầu đầu tiên khi áp dụng GATS là xem liệu biện pháp của vấn đề tranh chấp
có phải là một biện pháp “ảnh hưởng tới thương mại dịch vụ” không. Trường hợp vụ
kiện này hoàn toàn thỏa mãn yêu cầu này.
Dịch vụ của vấn đề tranh chấp được cung cấp từ Antigua mang ý nghĩa là
phương thức liên lạc từ xa vào lãnh thổ Hoa Kỳ. Antigua cho rằng cung cấp dịch vụ
này được định nghĩa cụ thể tại Điều I:2(a) của GATS và được bổ sung theo đoạn 19

của Hướng dẫn Biểu cam kết 1993. Thêm vào đó Antigua lưu ý rằng Bản Báo cáo quá
trình được thông qua bởi Hội đồng Thương mại dịch vụ ngày 19 tháng 7 năm 1999 về
“Chương trình làm việc Thương mại điện tử” có đề cập “Thực sự khó khăn” trong việc
phân biệt “cung cấp xuyên biên giới” và “tiêu dùng nước ngoài”. Và dù vậy thì dịch vụ
cờ bạc và cá cược trong vấn đề tranh chấp không gây ảnh hưởng tới việc tranh chấp
bởi Hoa Kỳ đề đã có cam kết đối với cả hai loại hình cung cấp này.
Xem xét Hoa Kỳ đã thực sự thực hiện đúng cam kết về dịch vụ cờ bạc và cá
cược: Antigua chỉ ra trong Biểu cam kết của Hoa Kỳ trong GATS, Hoa Kỳ đã có cam
kết đầy đủ đối với dịch vụ cung cấp cờ bạc và cá cược theo phân nhóm 10:D “dịch vụ
giải trí khác (ngoại trừ thể thao)”. Hoa Kỳ trong bản dự thảo Biểu cam kết đã sử dụng
Danh mục phân loại dịch vụ do Ban thư ký GATT soạn thảo tại vòng đàm phán đa
24


biên Uruguay. Và trong này mục 964 chỉ ró “Dịch vụ thể thao và giải trí khác” như
sau:
“964 Thể thao và dịch vụ giải trí khác
9641 Dịch vụ thể thao
96411 Dịch vụ cổ động sự kiện thể thao
96412 Dịch vụ tổ chức sự kiện thể thao
96413 Dịch vụ tổ chức cơ sở thể thao
96419 Dịch vụ thể thao khác
9649 Dịch vụ giải trí khác
96491 Dịch vụ giải trí công viên và biển
96492 Dịch vụ cờ bạc và cá cược
96499 Dịch vụ giải trí khác…”
Antigua cũng dẫn chiếu tới Điều XX:3 của GATS và Điều 31 của Công ước Viên để
làm rõ ý nghĩa của từ “dịch vụ giải trí khác” gồm có cả cờ bạc và cá cược. Antigua
cũng nêu lên rằng, trong buổi Tham vấn Hoa Kỳ đã cho rằng W/120 là văn bản không
hợp pháp và Bản Hướng dẫn Biểu cam kết chỉ quy định chung chung và không được

xem xét chính thức để giải nghĩa pháp lý của GATS. Tuy nhiên rõ ràng, theo Điều IX:2
của Thỏa ước WTO có thẩm quyền dùng để giải thích đối với Hội đồng chung và Hội
nghị Bộ trưởng. Sau nhiều tranh luận về ý nghĩa của cụm từ trên, Antigua cũng dẫn
giải ý nghĩa của từ “thuộc về thể thao” dựa trên từ điển Oxford New Shorter để chứng
minh cho lập luận của mình rằng nếu hiểu theo nghĩa thông thường thì cờ bạc không
thuộc thể thao.
Antigua lập luận rằng việc cấm dịch vụ cung cấp cờ bạc và cá cược xuyên biên
giới của Hoa Kỳ là gây cản trở và vi phạm Điều XVI:1 của GATS. Trong khi hàng
nghìn nhà cung cấp dịch vụ của Hoa Kỳ vẫn được phép cung cấp dịch vụ này thì lại có
sự cản trở đối với nhà cung cấp của Antigua. Điều này vi phạm quy định về “giới hạn
số lượng nhà cung cấp dịch vụ” bị cấm tại Điều XVI:2(a) của GATS. Vì đây không chỉ
là hành động mang ý nghĩa hạn chế bằng hạn ngạch mà là sự độc quyền cho các nhà
cung cấp.
Tại Điều XVI:1 của GATS quy định rõ mỗi Thành viên chấp thuận số dịch vụ
và nhà cung cấp dịch vụ của bất kỳ Thành viên nào khác không ít ân huệ hơn những gì
được đưa ra theo điều khoản, giới hạn và điều kiện được thỏa thuận trong Biểu Cam
kết của nước đó.
Bên cạnh đó Antigua cũng dẫn ra rằng Điều XI của GATT 1994 đã chỉ rõ việc
nghiêm cấm bất kỳ “lệnh cấm hay cản trở” hoạt động xuất nhập khẩu nào ngoại trừ
thuế, phí hay nghĩa vụ.
- Điều XVII của GATS: “Tính tương tự” của dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ
25


×