Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Ứng dụng sáng chế trong phát triển nông nghiệp kinh nghiệm của nhật bản, thái lan và bài học cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.11 KB, 39 trang )

1.1.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
Giới thiệu về bằng độc quyền sáng chế

1.1.1. Sáng chế và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế
Theo từ điển Tiếng Việt, sáng chế là nghĩ và chế tạo ra cái trước đó chưa từng có.
Đây cũng là cách hiểu cơ bản và thông thường của hầu hết tất cả mọi người về sáng chế.
Dưới góc độ pháp luật, sáng chế được định nghĩa một cách đầy đủ hơn. Trong ấn
phẩm số 917 ra ngày 17/10/2006 của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới WIPO có định
nghĩa: “Sáng chế là một giải pháp mới và sáng tạo cho một vấn đề kĩ thuật. Sáng chế có
thể là việc tạo ra một thiết bị, sản phẩm, phương pháp hay quy trình hoàn toàn mới, hoặc
đơn giản chỉ là cải tiến một sản phẩm, quy trình đã có”.
Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005 cũng đưa ra khái niệm về sáng chế như sau:
“Sáng chế là giải pháp kĩ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một
vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên”1. Trong khái niệm này, giải
pháp kĩ thuật là tập hợp cần và đủ các thông tin về cách thức kĩ thuật và phương tiện kĩ
thuật nhằm giải quyết một nhiệm vụ (một vấn đề) xác định. Giải pháp kĩ thuật có thể là:
- Sản phẩm dưới dạng vật thể (dụng cụ, máy móc, thiết bị, linh kiện, mạch điện...),
sản phẩm dưới dạng chất thể (vật liệu, chất liệu, thực phẩm, dược phẩm...) hoặc sản phẩm
dưới dạng vật liệu sinh học (gen, thực vật/động vật biến đổi gen...).
- Quy trình (quy trình công nghệ; phương pháp chẩn đoán, dự báo, kiểm tra, xử
lý...).
Trên thực tế, rất khó có thể định nghĩa chính xác về sáng chế, chính vì vậy mà luật
pháp của nhiều nước không trực tiếp định nghĩa sáng chế. Tuy nhiên, sáng chế được hiểu
chung là một ý tưởng của tác giả sáng chế cho phép giải quyết trên thực tế một vấn đề cụ
thể trong lĩnh vực kĩ thuật. Sáng chế thường liên quan đến sản phẩm (cơ cấu, chất) và quy
trình (phương pháp).

1


Luật Sở hữu trí tuệ 2005, Điều 4, Khoản 12


Sáng chế là một tài sản đặc biệt, đó là sản phẩm của sáng tạo, là kết quả đầu tư
nghiên cứu khoa học của tác giả sáng chế. Là một tài sản vô hình nên không giống như
những tài sản hữu hình khác, sáng chế rất dễ bị đánh cắp, sao chép, bắt chước. Vì vậy,
bảo hộ sáng chế là một yêu cầu tất yếu.
Sáng chế được bảo hộ bởi bằng độc quyền sáng chế, hay ở nhiều nước còn gọi là
patent. Patent được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp trên cơ sở đơn do người có sáng
chế nộp cho cơ quan này nếu sáng chế được tạo ra đáp ứng các yêu cầu quy định của
pháp luật. Một khi patent đã được cấp, chủ sở hữu patent đó sẽ có quyền gọi là quyền sở
hữu công nghiệp đối với sáng chế. Theo đó, bất kỳ ai muốn khai thác sáng chế dù rằng
người đó tạo ra sáng chế này một cách độc lập, không sao chép hoặc không biết đến nó
vẫn phải xin phép người đã được cấp patent hay chủ patent. Nếu không, hành vi đó bị coi
là một hành vi vi phạm pháp luật. Gọi là bảo hộ vì người chủ patent được bảo vệ chống
lại việc khai thác sáng chế khi người đó chưa cho phép. Bản chất của việc bảo hộ là để
đổi lấy độc quyền. Chủ sở hữu patent có độc quyền khai thác và sử dụng sáng chế, cho
phép hoặc ngăn cấm ai khác sử dụng sáng chế của mình, chuyển giao hoặc bán bằng độc
quyền cho người khác. Ở Việt Nam, sáng chế còn có thể được bảo hộ bởi bằng độc quyền
giải pháp hữu ích. Giải pháp hữu ích thực ra là một sáng chế nhỏ, với trình độ sáng tạo
không cao bằng sáng chế.
Bảo hộ sáng chế bị giới hạn theo lãnh thổ và theo thời gian. Sự bảo hộ theo lãnh
thổ có nghĩa là patent chỉ có hiệu lực trên lãnh thổ quốc gia mà patent đó đã được cấp. Sự
bảo hộ theo thời gian có nghĩa là thời gian bảo hộ có giới hạn, thường là 20 năm tính từ
ngày nộp đơn.
Có một điểm cần lưu ý rằng, Nhà nước trao độc quyền sáng chế nhưng Nhà nước
không tự động thực thi độc quyền sáng chế, mà điều này phụ thuộc vào chủ sở hữu sáng
chế. Để bảo vệ quyền sáng chế của mình, chủ sở hữu có thể yêu cầu cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp với sáng chế của mình.



Tóm lại, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế là việc Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật - xác lập quyền của các chủ thể (có thể là tổ chức hoặc cá
nhân) đối với sáng chế và bảo vệ quyền đó, chống lại bất kì sự vi phạm nào của người
khác.
1.1.2. Sự hình thành và phát triển của hệ thống bảo hộ sáng chế
1.1.2.1.

Trên phạm vi thế giới

Hệ thống bảo hộ sáng chế trên thế giới đã xuất hiện từ rất sớm. Ngay từ thời Trung
cổ, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất đã xuất hiện hình thức “đặc ân” do vua
chúa ban cho những người sáng tạo ra các sản phẩm mới, mà theo đó, họ sẽ có đặc quyền
khai thác chính sản phẩm mình tạo ra trong thời hạn nhất định. Đây chính là tiền thân của
hệ thống bảo hộ sáng chế. Hình thức “đặc ân” được áp dụng khá phổ biến ở châu Âu từ
thế kỉ 12 đến thế kỉ 16, và đã có tác dụng lớn đối với việc khuyến khích tạo ra công nghệ
mới.
Thế nhưng Luật Venice năm 1474 mới được coi là sự tiếp cận có tính hệ thống
đầu tiên đối với bảo hộ sáng chế. Luật này quy định rằng người nào tạo ra được một thiết
bị mới thì được độc quyền chế tạo thiết bị đó và nghiêm cấm bất cứ ai bắt chước chế tạo
nếu không được phép của người đó.
Năm 1624, dưới triều đại Tudor, Nghị viện Anh đã thông qua Đạo luật về độc
quyền, theo đó mọi hình thức độc quyền bị xoá bỏ trừ độc quyền sáng chế với điều kiện
là sáng chế đó chỉ được bảo hộ trong khoảng thời gian tối đa là 14 năm. Việc cấp một độc
quyền sáng chế cho bất cứ ai là thực hiện quyền công dân chứ không phải bổng lộc của
Hoàng gia. Nguyên nhân ra đời của Đạo luật này xuất phát từ việc ở Anh cuối thế kỉ 16,
các thành viên của Hoàng gia đã thu được một nguồn lợi rất lớn từ việc kinh doanh các
độc quyền sáng chế. Trước đó từ thế kỉ 14, Hoàng gia Anh đã bắt đầu mở rộng phạm vi
của hình thức “đặc ân” cho cả những thợ thủ công nước ngoài nhằm thu hút kĩ thuật công
nghệ từ những nước khác. Trong nỗ lực nhằm hạn chế việc thu lợi quá mức từ kinh doanh
độc quyền sáng chế của Hoàng gia, Nghị viện Anh đã ban hành Đạo luật này. Đây là văn



bản pháp luật đầu tiên quy định việc cấp một đặc quyền cho sáng chế trong một khoảng
thời gian có giới hạn.
Nửa sau thế kỉ 18 là thời hoàng kim của thương mại và công nghiệp đối với nhiều
nước. Đây cũng là thời kì của đổi mới khoa học và cách mạng chính trị. Trong khoảng
thời gian này, một số nước đã thiết lập hệ thống luật sáng chế đầu tiên của mình, đó là Mĩ
(1790), Pháp (1791), Bỉ (1854), Ý (1859), Nga (1870), Đức (1877)..... Đến cuối thế kỉ 19,
đã có 45 nước ban hành Luật Sáng chế, và đến nay con số này đã lên tới 175 nước.
Mặc dù Luật Sáng chế đã được ban hành ở nhiều nước, nhưng người ta bắt đầu
nhận thấy yêu cầu về sự bảo hộ mang tính chất quốc tế đối với sáng chế. Trong cuộc
Triển lãm Sáng chế quốc tế tại Vienna năm 1873 do chính phủ hai nước Áo và Hungary
tổ chức, những người trưng bày nước ngoài đã từ chối tham gia vì lo ngại rằng các ý
tưởng của họ có thể bị đánh cắp và khai thác thương mại ở những nước khác. Sự cố này
dẫn đến việc ra đời Công ước Paris về Bảo hộ sở hữu công nghiệp năm 1883. Đây là
điều ước quốc tế đầu tiên ra đời nhằm mục đích giúp đỡ những người dân ở một nước
nhận được sự bảo hộ cho sáng tạo trí tuệ của họ, trong đó có sáng chế, ở những quốc gia
thành viên khác.
Khi việc đăng kí bảo hộ sáng chế ở nước ngoài đã trở nên phổ biến thì một nhu
cầu mới lại nảy sinh, đó là nhu cầu đơn giản hoá thủ tục nộp đơn khi đăng kí bảo hộ trên
phạm vi thế giới. Bởi vì nếu muốn sáng chế được bảo hộ ở nước nào lại phải nộp đơn ở
nước đó thì sẽ rất mất thời gian, công sức trong ki chưa chắc sáng chế đó đã đáp ứng tiêu
chuẩn để được cấp bằng độc quyền ở nước này. Tháng 6 năm 1970 tại Washington, Hiệp
ước hợp tác về sáng chế (Patent Cooperation Treaty – PCT) được kí kết. Đây là một
Hiệp ước về sự hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nộp đơn yêu cầu cấp patent, tra cứu thông
tin cho các đơn này, thẩm định chúng cũng như công bố thông tin kĩ thuật về các đơn đó.
Mục đích chủ yếu của PCT là đơn giản hóa thủ tục nộp đơn khi người nộp đơn muốn yêu
cầu bảo hộ sáng chế của mình ở nhiều nước trên thế giới. Hiệp ước này tạo khả năng cho
người nộp đơn đăng ký sáng chế thuộc một quốc gia thành viên có thể nhận được sự bảo
hộ cho sáng chế của mình ở mỗi nước trong số nhiều nước thành viên khác bằng việc nộp



một đơn duy nhất tại Cơ quan Sở hữu công nghiệp quốc gia của nước thành viên Hiệp
ước. PCT không cạnh tranh với Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp mà
bổ trợ cho Công ước này. Trên thực tế, PCT là một thoả thuận đặc biệt theo Công ước
Paris, và chỉ những nước thành viên của Công ước này mới được tham gia PCT.
Ngày 1/1/1995, cùng với sự ra đời của Tổ chức thương mại thế giới WTO, Hiệp
định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) được
ký kết vào ngày 15/4/1994 cũng chính thức có hiệu lực. Hiệp định TRIPS được xây dựng
dựa trên những nguyên tắc đã có trong Công ước Paris. Hiệp định này thừa nhận sự cần
thiết phải thúc đẩy việc bảo hộ đầy đủ và có hiệu quả các đối tượng sở hữu trí tuệ nhằm
“thúc đẩy cải tiến công nghệ, chuyển giao và phổ biến công nghệ, bảo đảm quyền lợi của
các nhà sản xuất và người sử dụng kiến thức công nghệ, phục vụ lợi ích kinh tế, xã hội và
bảo đảm sự cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ” 2 .
1.1.2.2.

Hệ thống bảo hộ sáng chế ở Việt Nam

Hệ thống bảo hộ sáng chế ở Việt Nam chính thức đi vào hoạt động kể từ năm 1981
với việc ban hành Nghị định 31/CP ngày 23/1/1981 về sáng kiến cải tiến kỹ thuật - hợp
lý hoá sản xuất và sáng chế. Phong trào sáng kiến, cải tiến kĩ thuật ở nước ta đã phát triển
khá mạnh mẽ từ những năm chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ cứu nước. Đảng và
Nhà nước ta cũng rất quan tâm đến công tác tổ chức và lãnh đạo phong trào này, tuy
nhiên chỉ dừng lại ở mức độ khuyến khích, khen thưởng những cá nhân và tập thể có
thành tích trong hoạt động sáng tạo, cải tiến kĩ thuật. Việc ban hành Nghị định 31/CP có
thể coi là mốc quan trọng mở đầu cho hoạt động bảo hộ sáng chế ở nước ta và mở ra triển
vọng cho việc thành lập một cơ quan Nhà nước thực hiện chức năng xác lập quyền sở
hữu công nghiệp và tổ chức chỉ đạo hoạt động sở hữu công nghiệp - đó chính là Cục
Sáng chế, tiền thân của Cục sở hữu trí tuệ sau này. Ngày 11/04/1984, bằng độc quyền
sáng chế đầu tiên ở Việt Nam đã được cấp.

Chính sách đổi mới năm 1986 đã chuyển nền kinh tế nước ta từ cơ chế kế hoạch
hoá tập trung sang cơ chế thị trường. Và theo đó là sự ra đời của “Pháp lệnh về bảo vệ
2

Hiệp định TRIPS, Điều 7


quyền sở hữu công nghiệp” do chủ tịch Hội đồng Nhà nước công bố ngày 28/01/1989.
Pháp lệnh này đã góp phần nâng cao hiệu quả pháp lý của hệ thống pháp luật về sở hữu
công nghiệp ở Việt Nam.
Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước, Việt Nam cũng tích cực
tham gia vào các điều ước quốc tế trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Năm 1993, Chính
phủ Việt Nam phê chuẩn Hiệp ước hợp tác về sáng chế PCT và Việt Nam chính thức trở
thành thành viên của Hiệp ước này vào ngày 10/3/1993. Đến năm 1995, Việt Nam đệ đơn
xin gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO. Trong số những yêu cầu khác nhau cần
phải đáp ứng để có thể gia nhập WTO, yêu cầu về hệ thống sở hữu trí tuệ đóng vai trò rất
quan trọng. Với mục đích nâng cao hiệu quả hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ để đáp
ứng yêu cầu của Hiệp định TRIPS, Việt Nam lần đầu tiên đã đưa nội dung sở hữu trí tuệ
vào trong Bộ luật dân sự 1995 và các văn bản luật liên quan. Kể từ đó đến nay, các văn
bản quy phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam ngày càng được hoàn thiện. Hiện
tại hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ ở nước ta có thể nói là tương đối đầy đủ và cơ bản đã
phù hợp với Hiệp định TRIPS.
1.2.

Vai trò của bằng độc quyền sáng chế
Có thể nói, khoa học công nghệ và sáng tạo có ý nghĩa vô cùng quan trọng cuộc

sống hàng ngày của chúng ta. Bảo hộ sáng chế không chỉ mang lại lợi ích cho chủ sở hữu
sáng chế, mà còn tác động đến cả nền kinh tế xã hội, cụ thể bảo hộ sáng chế có những ý
nghĩa như sau:

1.2.1. Khuyến khích nghiên cứu sáng tạo ra công nghệ mới
Sáng chế không phải thứ được tạo ra một cách dễ dàng, mà nó đòi hỏi sự đầu tư
nghiên cứu, sáng tạo, thời gian công sức của nhà sáng chế. Trong khi đó, các sáng chế lại
rất dễ bị sao chép (làm đúng như vất gốc), dễ bị bắt chước (làm theo kiểu của người
khác) và đưa vào khai thác để sinh lời. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ thì
việc sao chép, bắt chước đó càng trở nên dễ dàng hơn. Một khi điều này xảy ra, sẽ gây
tổn thất không chỉ cho bản thân nhà sáng chế mà làm ảnh hưởng đến cả xã hội, vì nó sẽ


không khuyến khích nỗ lực sáng tạo của xã hội. Chính vì vậy, tăng cường bảo hộ sáng
chế sẽ ngăn chặn việc sử dụng các sản phẩm khoa học công nghệ một cách bất hợp pháp,
giúp chủ sở hữu có thể bảo vệ được thành quả sáng tạo của mình và tiếp tục đầu tư phát
triển tạo ra sáng chế mới.
Việc nghiên cứu sáng tạo ra một giải pháp kĩ thuật mới có độ rủi ro cao. Người
đầu tư công nghệ phải đầu tư một khoản kinh phí lớn cộng với thời gian và công sức để
tạo ra sáng chế nhưng khả năng thành công không phải lúc nào cũng xảy ra. Và nếu thành
công thì chắc chắn họ sẽ mong muốn có thể thu hồi được vốn bỏ ra thông qua việc khai
thác sản phẩm hay quy trình của sáng chế đó. Nếu không có bảo hộ thì ai cũng có thể
khai thác sáng chế đó mà không phải hao phí cho việc đầu tư nghiên cứu. Bị đối thủ cạnh
tranh tước đoạt thành quả lao động và lợi nhuận, nhà sáng chế và người đầu tư kinh phí
sẽ không còn động lực để lặp lại quy trình sáng tạo, bởi vì họ phải đầu tư lớn mà thành
công lại nhỏ. Lúc này, bằng sáng chế chính là phương tiện mang lại cho họ cơ hội có thu
nhập để bù đắp chi phí phải bỏ ra trong quá trình phát triển sáng chế thông qua việc bán
sản phẩm có mang sáng chế. Hơn nữa, nhà sáng chế còn có khả năng thu được lợi nhuận
từ việc chuyển nhượng bằng độc quyền sáng chế cho người khác. Những lợi ích đó sẽ
giúp cho chủ sở hữu yên tâm đầu tư, yên tâm sản xuất kinh doanh, và thúc đẩy họ đầu tư
một phần thu nhập cho việc nghiên cứu và phát triển, lặp lại quá trình sáng tạo, tạo ra
sáng chế mới.
Nhưng liệu có phải khi cấp bằng độc quyền sáng chế cho một người nào đó trong
thời hạn là 20 năm sẽ ngăn cản những người khác nghiên cứu sáng tạo. Câu trả lời là

hoàn toàn không. Hệ thống Bằng độc quyền sáng chế không dành lợi thế thị trường tuyệt
đối cho nhà sáng chế, và cũng không có gì ngăn cản các đối thủ cạnh tranh phát triển
sáng chế đó theo hướng mới. Như vậy, dường như hệ thống Bằng độc quyền sáng chế còn
tạo ra sự đổi mới mang tính cạnh tranh, làm cho sáng chế được tạo ra ngày một nhiều.
1.2.2. Tạo môi trường kinh doanh lành mạnh
Nếu không có hệ thống bảo hộ sáng chế, các đối thủ cạnh tranh trên thị trường sẽ
không cần đầu tư sáng tạo mà đơn giản chỉ cần bắt chước, sao chép các sáng chế vốn có


của người khác với chi phí rẻ hơn nhiều. Kết quả là các nhà sản xuất chân chính không có
khả năng thu hồi vốn và lợi nhuận để bù đắp những chi phí cần thiết trong quá trình
nghiên cứu triển khai, chứ chưa nói đến việc có thể tiếp tục đầu tư, lặp lại quá trình sáng
tạo. Và rất có thể họ sẽ bị chính các đối thủ cạnh tranh của mình loại ra khỏi thị trường.
Việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế cũng như các đối tượng sở hữu
công nghiệp khác một cách không thoả đáng bị coi là thực tiễn thương mại thiếu lành
mạnh, là rào cản đối với thị trường tự do và mở cửa. Còn ngược lại, bảo hộ sáng chế có
hiệu quả chính là nhằm giữ gìn một môi trường trong sạch cho các hoạt động sáng tạo và
kinh doanh, từ đó đảm bảo khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp.
1.2.3. Tạo điều kiện cho hoạt động chuyển giao công nghệ và đầu tư
Một hệ thống bằng độc quyền sáng chế mạnh và sự thực thi phù hợp còn là điều
kiện tiên quyết cho hoạt động chuyển giao công nghệ và đầu tư, thông qua việc tạo ra
một môi trường an toàn cho các doanh nghệp tiến hành kinh doanh và tiếp tục hoạt động
nghiên cứu phát triển. Vì không có bằng độc quyền sáng chế thì không doanh nghiệp nào
muốn bộc lộ các công nghệ của mình. Chính vì vậy, việc bảo hộ sáng chế tạo ra và giữ
gìn một môi trường trong sạch cho hoạt động kinh doanh và sáng tạo. Bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp đối với sáng chế góp phần vào việc chuyển giao công nghệ theo hai
cách chính.
Trước hết, hệ thống bảo hộ này cung cấp thông tin pháp lý và kỹ thuật cho người
cần công nghệ. Theo đó, người cần công nghệ có thể có được tên, địa chỉ của người nộp
đơn, chủ sở hữu và các tác giả sáng chế, có thông tin công bố trong công báo do cơ quan

có thẩm quyền ấn hành. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho người muốn nhận chuyển
giao công nghệ trong giao dịch. Như vậy, thông tin sáng chế đóng vai trò môi giới trong
việc chuyển giao công nghệ.
Thứ hai, hệ thống bảo hộ sáng chế tạo yếu tố tin tưởng cho việc chuyển giao công
nghệ bằng cách loại trừ yếu tố tiết lộ thông tin về công nghệ của người chuyển giao vì sự
bộc lộ thông tin đã được đổi lấy độc quyền công nghệ. Mặt khác, nhờ thông tin về đối
tượng đã được bảo hộ, người muốn nhận chuyển giao đối tượng đó biết được bản chất đối


tượng mà mình muốn có cũng như giá trị của nó và trên cơ sở cân nhắc các yếu tố kinh
tế, kỹ thuật của mình để tiến hành đàm phán ký kết hợp đồng với chủ sở hữu.
1.2.4. Làm giàu tri thức công nghệ
Để được cấp bằng độc quyền sáng chế, tác giả phải bộc lộ công khai các chi tiết
sáng chế của mình ra xã hội. Như vậy, thông tin có trong sáng chế có thể được mọi người
dùng cho việc nghiên cứu và các mục đích thực nghiệm. Sau khi hết thời hạn bằng độc
quyền sáng chế, thông tin đó trở thành thông tin chung và mọi người được tự do sử dụng
thương mại những thông tin đó, làm giàu thêm tri thức công nghệ. Hệ thống sáng chế
bằng cách này góp phần vào quá trình phát triển cơ sở công nghệ của công nghiệp, làm
giàu thêm tri thức công nghệ.
Ở cấp vĩ mô, những số liệu thống kê rút ra từ tư liệu bằng độc quyền sáng chế là
những chỉ số quan trọng về hoạt động công nghệ trong các ngành, và là công cụ hữu ích
cho những nhà hoạch định chính sách ở mọi cấp. Ở cấp doanh nghiệp, cơ sở bằng dữ liệu
sáng chế là một cách thức rất hữu ích để thu được thông tin kĩ thuật cần thiết cho hoạt
động kinh doanh.
Bên cạnh đó, thông qua tác động thúc đẩy nền kinh tế phát triển, việc bảo hộ sáng
chế sẽ tạo ra nhiều việc làm mới, làm giảm tỉ lệ thất nghiệp, và tạo nguồn thu cho ngân
sách thông qua việc nộp thuế.
Tuy nhiên bảo hộ sáng chế có phải chỉ có những mặt tích cực? Liệu cấp bằng độc
quyền sáng chế cho các loại dược phẩm chống lại virus gây bệnh AIDS có hạn chế việc
điều trị căn bệnh này ở châu Phi hay không? Bằng độc quyền sáng chế không phải là một

công cụ hữu hiệu trong việc điều trị bệnh AIDS ở lục địa đen châu Phi, nơi người dân
luôn phải đương đầu với nạn nghèo đói, thuế, cộng với sự thiếu hụt các quỹ hỗ trợ quốc
tế cho vấn đề chăm sóc sức khoẻ. Trên thế giới có khoảng hơn 33 triệu người nhiễm virus
HIV, 95% trong số đó sinh sống ở các nước đang phát triển và hầu hết họ không đủ khả
năng chi trả cho những dược phẩm cần thiết để chữa bệnh. Và không chỉ có căn bệnh thế


kỉ AIDS, còn nhiều căn bệnh hiểm nghèo khác nữa. Hệ thống bằng độc quyền sáng chế
không phải là một giải pháp hay trong vấn đề chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.
Mặc dù có những hạn chế nhất định nhưng cũng không thể phủ nhận tầm quan
trọng của việc bảo hộ sáng chế đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước. Cũng
chính vì những lợi ích bằng độc quyền sáng chế đem lại mà tại Việt Nam trong những
năm qua, vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế đã trở thành một
trong những mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp và toàn xã hội. Vì vậy, việc
xây dựng và củng cố hệ thống bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nói chung và đối với
sáng chế nói riêng là yêu cầu cấp bách trong công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa
đất nước
1.3.

Đối tượng bảo hộ của quyền SHCN với sáng chế

1.3.1. Điều kiện bảo hộ đối với sáng chế
Không phải bất kì sáng chế nào cũng được bảo hộ, cũng được cấp bằng độc quyền.
Để được bảo hộ, sáng chế phải đáp ứng một số tiêu chuẩn nhất định. Những tiêu chuẩn
đó là tính mới, trình độ sáng tạo, khả năng áp dụng công nghiệp, và quan trọng là sáng
chế đó phải thuộc đối tượng được bảo hộ, tức là không nằm trong những đối tượng bị loại
trừ.
1.3.1.1.

Có tính mới


Tính mới là một yêu cầu cơ bản, là điều kiện tiên quyết để xét cấp bằng độc quyền
sáng chế. Quy định tính mới đối với sáng chế là để tránh sự trùng lặp, tiết kiệm chi phí
cho xã hội.
Sáng chế được coi là có tính mới nếu chỉ có một số người có hạn được biết và giữ
bí mật về sáng chế đó, và trước ngày nộp đơn đăng kí sáng chế hoặc trước ngày ưu tiên
(khái niệm về ngày ưu tiên sẽ được đề cập ở phần dưới), sáng chế đó không bị bộc lộ
công khai dưới các hình thức sau:


- Sử dụng công khai như trình diễn, triển lãm, bán, trưng bày trước công chúng
hoặc việc sử dụng công cộng thực sự.
- Mô tả sáng chế đó trong một ấn phẩm hoặc xuất bản dưới hình thức khác. Các
xuất bản phẩm này phải được phát hành, công khai dưới bất kì hình thức nào như chào
bán hoặc lưu giữ tại thư viện công cộng; bao gồm cả bằng sáng chế đã cấp hoặc đơn xin
cấp bằng độc quyền sáng chế đã được công bố, bài viết (viết tay, đánh máy hay in), hình
ảnh bao gồm cả ảnh chụp, hình vẽ hoặc phim và bản ghi âm ở dạng băng từ hay đĩa dưới
dạng ngôn ngữ nói hoặc ngôn ngữ được mã hóa.
- Mô tả sáng chế đó theo cách trình bày miệng trước công chúng, bao gồm các bài
giảng và chương trình phát thanh.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, mặc dù đã được công bố nhưng sáng chế vẫn
không bị coi là mất tính mới, đó là khi sáng chế đó được người khác công bố mà không
được phép của người có quyền đăng kí, hoặc khi người có quyền đăng kí công bố sáng
chế đó dưới dạng báo cáo khoa học, trưng bày tại cuộc triển lãm quốc gia của Việt Nam,
triển lãm quốc tế chính thức. Trong những trường hợp này, đơn đăng kí sáng chế phải
được nộp trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày công bố.
1.3.1.2.

Có trình độ sáng tạo


Vấn đề có trình độ sáng tạo chỉ được đặt ra nếu đã có tính mới. Tuy nhiên, một
sáng chế nếu chỉ có tính mới thôi chưa đủ, mà phải có tính sáng tạo. Tại sao phải quy
định một sáng chế được bảo hộ phải có trình độ sáng tạo, vì có như vậy mới khuyến
khích sự tìm tòi nghiên cứu, thúc đẩy khoa học công nghệ phát triển.
Sáng chế được coi là có trình độ sáng tạo nếu so với những giải pháp kĩ thuật đã
được công bố, sáng chế đó là một bước tiến sáng tạo, mà người có hiểu biết trung bình về
lĩnh vực tương ứng không thể tạo ra một cách dễ dàng được. Ở đây, người có hiểu biết
trung bình là người có chuyên môn, có khả năng tiếp thu những kiến thức thông thường
và tiếp cận mọi nguồn thông tin công khai trong lĩnh vực đó.


1.3.1.3.

Có khả năng áp dụng công nghiệp

Khả năng áp dụng công nghiệp của sáng chế được thể hiện ở chỗ có thể chế tạo,
sản xuất hàng loạt sản phẩm hoặc áp dụng lặp đi lặp lại quy trình là nội dung của sáng
chế và thu được kết quả ổn định.
Một sáng chế nếu thuần tuý chỉ là lý thuyết mà không có khả năng áp dụng cho
các mục đích thực tế thì sẽ không được cấp bằng độc quyền. Nếu sáng chế là một sản
phẩm thì sản phẩm đó phải có khả năng được sản xuất, nếu sáng chế đó là một quy trình
thì quy trình đó phải có khả năng thực hiện; hơn nữa, việc sản xuất và thực hiện đó có thể
lặp đi lặp lại nhiều lần.
1.3.2. Điều kiện loại trừ của bảo hộ sáng chế
Có những sáng chế đáp ứng cả ba điều kiện nêu trên là tính mới, trình độ sáng tạo
và khả năng áp dụng công nghiệp nhưng vẫn không đủ tiêu chuẩn để được bảo hộ. Đó là
những sáng chế thuộc đối tượng loại trừ, bao gồm:
- Phát minh, lý thuyết khoa học, phương pháp toán học.
- Sơ đồ, kế hoạch, quy tắc và phương pháp để thực hiện các hoạt động trí óc, huấn
luyện vật nuôi, thực hiện trò chơi, kinh doanh; chương trình máy tính.

- Cách thức thể hiện thông tin
- Giải pháp chỉ mang đặc tính thẩm mĩ
- Giống thực vật, giống động vật
- Quy trình sản xuất thực vật, động vật chủ yếu mang bản chất sinh học mà không
phải là quy trình vi sinh
- Phương pháp phòng ngừa, chẩn đoán và chữa bệnh cho người và động vật. Loại
trừ đối tượng này ra khỏi phạm vi sáng chế được bảo hộ bởi vì việc tìm ra phương pháp
phòng và chữa bệnh có tầm quan trọng rất lớn đến lợi ích cộng đồng, và không thể đưa ra
để tư nhân hoá hoặc thương mại hoá được.


- Những sáng chế trái với đạo đức xã hội, trật tự công cộng, có hại cho quốc
phòng, an ninh. Quy định này nhằm mục đích “bảo vệ trật tự công cộng và đạo đức xã
hội, bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ của con người cũng như các sinh vật khác để tránh gây
hại nghiêm trọng cho môi trường”3. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong những năm gần
đây với sự phát triển của công nghệ gen. Cần thiết phải loại trừ việc cấp bằng sáng chế
cho quy trình nhân bản người và thay đổi cấu trúc gen nhận dạng người cũng như các loài
động vật khác.
Những quy định về đối tượng loại trừ còn tuỳ thuộc vào quan điểm của từng quốc
gia. Có thể ở nước này một sáng chế được bảo hộ, nhưng ở nước khác sáng chế đó lại
thuộc đối tượng loại trừ.
1.4.

Chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế

-

Tác giả tạo ra sáng chế bằng chính công sức và chi phí của mình;

-


Tổ chức cá nhân đầu tư kinh phí, phương tiện vật chất cho tác giả dưới hình thức
giao việc, thuê việc, trừ trường hợp các bên thỏa thuận khác và thỏa thuận không
trái với quy định của pháp luật;

-

Chính phủ quy định quyền đăng kí đối với sang chế được tạo ra do sử dụng cơ sở
vật chất - kỹ thuật, kinh phí từ ngân sách nhà nước;

-

Trường hợp nhiều cá nhân tổ chức cùng nhau tạo ra hoặc đầu tư để taọ ra sáng chế
thì các cá nhân tổ chức đó đều có đăng kí và quyền đăng kí đó chỉ được thực hiện
nếu tất cả các nhân tổ chức đó cùng đồng ý;
Như vậy, tác giả sáng chế là người trực tiếp sáng tạo ra sáng chế, trong trường hợp

có hai người trở lên cùng nhau trực tiếp sáng tạo ra sáng chế thì họ là đồng tác giả.
Chủ sở hữu sáng chế là tổ chức, cá nhân được cơ quan có thẩm quyền cấp văn
bằng bảo hộ sáng chế.

3

Hiệp định TRIPS, Điều 27.2


Có những trường hợp tác giả sáng chế đồng thời là chủ sở hữu sáng chế nhưng
cũng có những trường hợp tác giả và chủ sở hữu là hai chủ thể khác nhau.
1.5.


Nội dung quyền SHCN đối với sáng chế

1.5.1. Tác giả sáng chế
Tác giả sáng chế được hưởng quyền nhân thân và quyền tài sản.
Quyền nhân thân bao gồm:
-

Được ghi tên là tác giả trong Bằng độc quyền

-

Được nêu tên là tác giả trong các tài liệu công bố, giới thiệu về sáng chế (điều
122)
Quyền tài sản của tác giả sáng chế là quyền nhận thù lao. Nếu không có thỏa thuận

khác, mức thù lao tối thiểu mà chủ sở hữu sáng chế phải trả cho tác giả được quy định là:
-

10% số tiền làm lợi thu được do sử dụng sáng chế

-

15% tổng số tiền mà chủ sở hữu sáng chế nhận được trong mỗi lần nhận tiền thanh
toán do chuyển giao quyền sử dụng sáng chế (điều 135).

1.5.2. Chủ sở hữu sáng chế
Chủ sở hữu sáng chế có các quyền tài sản, bao gồm quyền sử dụng, cho phép hoặc
ngăn cấm người khác sử dụng sáng chế và định đoạt sáng chế (điều 123)
-


Sử dụng, cho phép người khác sử dụng sáng chế, gồm các hành vi: sản xuất sản
phẩm được bảo hộ; áp dụng quy trình được bảo hộ, khai thác công dụng của sản
phẩm được bảo hộ hoặc sản phẩm được sản xuất theo quy trình được bảo hộ; lưu
thông, quảng cáo, chào hàng, tàng trữ để lưu thông sản phẩm được bảo hộ

-

Ngăn cấm người khác sử dụng sáng chế, trừ các trường hợp sau:
 Sử dụng sáng chế nhằm phục vụ nhu cầu cá nhân hoặc mục đích phi thương
mại hoặc nhằm mục đích đánh giá, phân tích, nghiên cứu, giảng dạy, thử


nghiệm, sản xuất thử hoặc thu thập thông tin để thực hiện thủ tục xin phép sản
xuất, nhập khẩu, lưu hành sản phẩm;
 Lưu thông, nhập khẩu, khai thác công dụng của sản phẩm được đưa ra thị
trường, kể cả thị trường nước ngoài một cách hợp pháp, trừ sản phẩm không
phải do chính chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc người được phép của chủ sở hữu
nhãn hiệu đưa ra thị trường nước ngoài;
 Sử dụng sáng chế nhằm mục đích duy trì hoạt động của các phương tiện vận tải
của nước ngoài đang quá cảnh hoặc tạm thời nằm trong lãnh thổ Việt Nam;
 Sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp do người có quyền sử dụng trước
theo quy định của pháp luật;
 Sử dụng sáng chế do người được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép
thực hiện theo quyết định bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng đối với sáng
chế
-

Định đoạt sáng chế: chủ sở hữu sáng chế có quyền chuyển nhượng quyền sở hữu
sáng chế, chuyển quyền sử dụng sáng chế. Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định
về các trường hợp bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng đối với sáng chế nhằm cân

bằng lợi ích của xã hội, vì những mục đích công cộng hay đảm bảo sự cạnh tranh
lành mạnh.

1.6.

Giới hạn SHCN đối với sáng chế

1.6.1. Giới hạn về thời gian
Theo quy định của luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, bằng độc quyền sáng chế có hiệu
lực từ ngày cấp và kéo dài đến hết hai mươi năm kể từ ngày nộp đơn.
Tuy nhiên, để duy trì thời hạn này, chủ sở hữu phải nộp một khoản lệ phí duy trì,
hoặc nếu muốn gia hạn thì cũng phải nộp lệ phí gia hạn hiệu lực cho cơ quan sang chế.
1.6.2. Giới hạn về không gian


Đối với phạm vi bảo hộ về mặt lãnh thổ, các đối tượng sở hữu trí tuệ nói chung, và
chỉ dẫn địa lý nói riêng, trong trường hợp được Cục SHTT Việt Nam cấp Giấy chứng
nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý thì Giấy chứng nhận đó chỉ có hiệu lực tại Việt Nam, do đó
phạm vi bảo hộ của chỉ dẫn địa lý là trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
1.6.3. Giới hạn khác
-

Giới hạn do quyền của người sử dụng trước đối với sáng chế
Trong thực tế có nhiều người cùng nghiên cứu và cùng sáng tạo ra một giải pháp

kỹ thuật nhưng chỉ có một số người nộp đơn đăng kí xác lập quyền. Do đó, trước ngày
nộp đơn đã có người sử dụng sáng chế. Khi đó pháp luật sẽ thừa nhận quyền của người
sử dụng trước sáng chế. Họ vẫn sẽ có quyền tiếp tục sử dụng sáng chế trong phạm vi đã
sử dụng mà không cần phải xin phép hay trả tiền đền bù cho chủ sở hữu sáng chế được
bảo hộ.

-

Giới hạn do yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Quyền sở hữu công nghiệp có thể bị hạn chế bởi yêu cầu chuyển giao quyền sử

dụng đối với sang chế theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm phục
vụ lợi ích công cộng, phi thương mại, phục vụ, an ninh, quốc phòng, chữa bênh, dinh
dưỡng cho nhân dân và đáp ứng nhu cầu cấp thiết khác của xã hội mà không cần có sự
đồng ý của chủ sở hữu.
1.7.

Đăng kí bảo hộ đối với sáng chế
Đơn đăng ký sáng chế được xử lý tại Cục SHTT theo trình tự tổng quát sau (Sơ đồ

quy trình xử lý đơn đăng ký sáng chế):
a. Thẩm định hình thức:
Là việc kiểm tra sự tuân thủ các quy định về hình thức đối với đơn, từ đó đưa ra
kết luận đơn hợp lệ hay không hợp lệ. Thời gian thẩm định hình thức là 1 tháng kể từ
ngày nộp đơn


b. Công bố đơn hợp lệ:
Đơn đăng ký sang chế được chấp nhận là hợp lệ được công bố trên Công báo
SHCN trong tháng thứ 19 kể từ ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn nếu đơn không có ngày
ưu tiên, hoặc trong thời hạn 02 tháng kể từ ngày được chấp nhận là đơn hợp lệ, tùy theo
ngày nào muộn hơn.
Đơn đăng ký sáng chế có yêu cầu công bố sớm được công bố trong thời hạn 02
tháng kể từ ngày Cục SHTT nhận được yêu cầu công bố sớm hoặc kể từ ngày chấp nhận
đơn hợp lệ, tùy theo ngày nào muộn hơn.
Nội dung công bố đơn đăng ký sáng chế là các thông tin liên quan đến đơn hợp lệ

ghi trong thông báo chấp nhận đơn hợp lệ, bản tóm tắt sáng chế kèm theo hình vẽ (nếu
có).
c. Yêu cầu thẩm định nội dung:
Cục SHTT chỉ tiến hành thẩm định nội dung đơn đăng ký sáng chế khi có yêu cầu
thẩm định nội dung của người nộp đơn hoặc của bất kỳ người thứ ba nào và người yêu
cầu thẩm định phải nộp phí tra cứu và phí thẩm định nội dung theo quy định.
Yêu cầu thẩm định nội dung đơn đăng ký sáng chế phải thể hiện bằng văn bản làm
theo mẫu 03-YCTĐ quy định tại Phụ lục B của Thông tư 01/2007/TT-BKHCN hoặc được
thể hiện trong tờ khai đơn đăng ký sáng chế.
Thời hạn nộp yêu cầu thẩm định nội dung đăng ký sáng chế là 42 tháng kể từ ngày
nộp đơn. Đối với đơn đăng ký sáng chế có yêu cầu cấp Bằng độc quyền giải pháp hữu ích
thì thời hạn yêu cầu thẩm định nội dung đơn là 36 tháng kể từ ngày nộp đơn. Thời hạn
nộp yêu cầu thẩm định nội dung có thể kéo dài, nhưng không quá 6 tháng nếu có lý do
chính đáng.
Nếu trong thời hạn quy định nêu trên,không có yêu cầu thẩm định nội dung đơn
thì đơn đăng ký sáng chế được coi như đã rút tại thời điểm kết thúc thời hạn đó.
d. Thẩm định nội dung:


Thẩm định nội dung đơn là đánh giá khả năng được bảo hộ của giải pháp kỹ thuật
nêu trong đơn theo cá điều kiện bảo hộ sáng chế (tính mới, trình độ sáng tạo, khả năng áp
dụng công nghiệp) và đánh giá lần lượt từng điểm nêu trong phạm vi (yêu cầu bảo hộ).
Thời gian thẩm định nội dung đơn đăng ký sáng chế là 18 tháng kể từ ngày nhận
được yêu cầu thẩm định nội dung (nếu yêu cầu đó được nộp sau ngày công bố đơn) hoặc
kể từ ngày công bố đơn (nếu yêu cầu đó được nộp trước ngày công bố đơn)
e. Quyết định cấp/ không cấp Bằng độc quyền sáng chế
Căn cứ vào kết quả xét nghiệm nôị dung, nếu đối tượng nêu trong đơn đáp ứng các
tiêu chuẩn bảo hộ thì Cục SHTT thông báo cho người nộp đơn kết quả xét nghiệm và yêu
cầu nộp lệ phí đăng bạ, lệ phí cấp Văn bằng bảo hộ, lệ phí công bố văn bằng bảo hộ và lệ
phí duy trì hiệu lực năm thứ nhất và thứ hai.

Nếu người nộp đơn nộp các lệ phí trên, thì Cục SHTT sẽ tiến hành các thủ tục cấp
văn bằng bảo hộ cho người nộp đơn, đăng bạ và công bố Văn bằng bảo hộ. Nếu người
nộp đơn không nộp lệ phí theo yêu cầu, thì đơn coi như bị rút bỏ


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG BẰNG SÁNG CHẾ ĐỐI VỚI NGÀNH
NÔNG NGHIỆP TẠI VIỆT NAM
2.1.

Tình hình sản xuất nông nghiệp của Việt Nam trong những năm gần đây
Sản lượng nông nghiệp: Cho tới nay, lúa gạo vẫn là mặt hàng quan trọng nhất,

chiếm khoảng 35% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2012. Thế nhưng, đã có một sự
thay đổi quan trọng về tỷ lệ các mặt hàng thực phẩm thiết yếu so với các mặt hàng khác,
cụ thể các cây lâu năm như cà phê, cao su và sản xuất chăn nuôi, đặc biệt là thịt lợn. Điều
này phản ánh định hướng xuất khẩu mạnh mẽ các loại cây trồng lâu năm và thay đổi sở
thích của người tiêu dùng đối với các sản phẩm có giá trị cao hơn.
Trong các loại cây trồng, cà phê và cao su tự nhiên phát triển ấn tượng nhất xét về
tăng trưởng sản xuất trong vòng hai thập kỷ qua, cả hai tăng khoảng 14 lần kể từ năm
1990. Ngược lại, sản xuất các loại lương thực, đặc biệt là lúa gạo, trái cây và rau các loại
tăng ít nhất, nhưng vẫn tăng gấp hơn hai lần trong giai đoạn này.
Trong các sản phẩm chăn nuôi, sản xuất sữa tăng cao nhất, gần 13 lần, nhưng từ
một mức rất thấp và vẫn chỉ chiếm chưa đến 1% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp ở Việt
Nam. Sản xuất thịt lợn, thịt gà, thịt bò, trứng tăng gấp bốn lần trong giai đoạn 1990-2013.
Trong khi sản lượng của các loại cây trồng tăng cao nhất chủ yếu là do xuất khẩu, sản
phẩm chăn nuôi gần như chỉ dành riêng cho thị trường nội địa và tăng trưởng sản xuất
chăn nuôi phản ánh nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng trong nước.
Các yếu tố sản xuất và năng suất: Đầu vào về vốn vẫn tương đối nhỏ ở Việt Nam.
Với mức lương thấp, năng suất lao động cao tương đối so với vốn là đặc điểm phổ biến ở
các nước Đông Nam Á, và sẽ thay đổi chỉ khi mức lương tăng đủ cao. Gần đây, chi phí

lao động tăng đã khuyến khích nông dân Việt Nam tăng cường áp dụng cơ giới hóa vào
một số khâu sản xuất. Phân bón là yếu tố đầu vào phải mua chính của nông dân Việt
Nam. Năm 2013, tổng lượng cung phân bón trong nước khoảng 8.3 triệu tấn. Tổng nhu
cầu là 10.3 triệu tấn, vì vậy tổng lượng nhập khẩu vào khoảng 2 triệu tấn, ít hơn 50% so
với năm 2011.


Theo khối lượng, nhu cầu thị trường về giống chủ yếu cho sản xuất gạo (89%),
tiếp theo là lạc (5%), ngô (2%), đậu tương (2%), và rau (1%). Nhu cầu giống lúa năm
2011 là 1 đến 1.2 triệu tấn, ngô là 40,000 tấn, và khoai tây là 25,000 tấn. Trong 5 năm từ
2008 đến 2013, tổng giá trị ước tính của thị trường giống tăng trưởng 1.7%/năm.
Việc làm trong nông nghiệp: nông nghiệp Việt Nam là ngành sử dụng nhiều lao
động, mặc dù tỷ lệ lực lượng lao động trong sản xuất nông nghiệp giảm trong những năm
gần đây. Ở Việt Nam, ba vùng nông nghiệp quan trọng nhất bao gồm đồng bằng Sông
Hồng, đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên. Đồng bằng sông Hồng cho thấy sự
dịch chuyển lao động đáng kể nhất ra khỏi nông nghiệp, giảm từ 77% năm 2001 xuống
43% năm 2011. Điều này phản ánh sự đa dạng của nền kinh tế Hà Nội và số lượng lớn
các cơ hội việc làm phi nông nghiệp. Vựa lúa lớn nhất cả nước, đồng bằng sông Cửu
Long, cho thấy sự dịch chuyển lao động dần dần, từ 79% năm 2001 xuống 62% năm
2011. Điều này tương tự dữ liệu toàn quốc, cho thấy sự sụt giảm từ 80% xuống 60%. Tây
Nguyên có tỷ lệ lực lượng lao động lớn nhất trong nông nghiệp, và cho thấy xu hướng
giảm trong thập kỷ qua, từ 92% vào năm 2001 xuống 85% trong năm 2011. Đây là khu
vực tương phản với vùng đồng bằng sông Hồng, nơi không có hoặc không gần trung tâm
đô thị lớn.
Hoạt động xuất nhập khẩu: Trước năm 1990, Việt Nam không đóng vai trò quan
trọng tại các thị trường hàng hóa nông nghiệp thế giới. Nhưng giai đoạn 2011-2013, Việt
Nam đã trở thành nước xuất khẩu lớn nhất thế giới đối với hạt điều và hạt tiêu đen, là
nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai đối cà phê và sắn, là nước xuất khẩu thứ ba thế giới về
gạo, thủy sản, và là nước xuất khẩu lớn thứ 5 thế giới về cao su. Xuất khẩu hàng năm các
mặt hàng này cao hơn hoặc gần 1 tỷ USD trong những năm gần đây. Hình 1.26 cho thấy

sự gia tăng lên đáng kể về thị phần của Việt Nam trong xuất khẩu các mặt hàng này trên
thế giới kể từ năm 2000.
Nhập khẩu nông sản của Việt Nam bao gồm ba nhóm chính: thức ăn chăn nuôi;
hàng hóa nguyên liệu cho chế biến và xuất khẩu; và sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thực
phẩm của người tiêu dùng trong nước.


2.2.

Tổng quan thực trạng áp dụng bằng sáng chế trong sản xuất nông nghiệp của
Việt Nam

2.2.1. Thực trạng hoạt động sáng chế của nông dân
2.2.1.1.

Nguyên nhân khiến người nông dân thực hiện công việc sáng chế

Giá cả của một số loại máy móc còn cao, không phù hợp với khả năng kinh tế của
nông dân, các doanh nghiệp trong nước cũng không “mặn mà” với việc sản xuất máy
nông nghiệp do phải đầu tư lớn, chậm thu hồi vốn mà lợi nhuận thu được lại thấp...
Thực tế cho thấy nông dân vẫn sử dụng các công cụ thô sơ và lao động chân tay
trong rất nhiều hoạt động sản xuất của mình, vì vậy nhu cầu trang bị máy móc để giảm
lao động chân tay là rất lớn. Để có thể nâng cao hiệu quả sản xuất, tiết kiệm sức lao động,
nhiều nhà nông đã dựa trên các máy móc nhập ngoại để cải tiến hoặc chế tạo những chiếc
máy, dụng cụ phù hợp hơn với thực tế sản xuất của mình.
Xuất phát từ điều kiện thực tế của địa phương, đồng đất, thời vụ,… mà họ đã sáng
chế, cải tiến được những máy móc phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Các sáng chế, cải
tiến này có tính ứng dụng thực tế cao. Cái “chất” của người nông dân Việt Nam được thể
hiện rõ qua những sáng chế này.
2.2.1.2.


Một số sáng chế tiêu biểu của người nông dân

Những người nông dân, trong quá trình sản xuất, xuất phát từ nhu cầu bản thân và
bằng những kinh nghiệm của mình đã tạo ra rất nhiều những sáng chế đa dạng, hữu
dụng, nhằm tăng năng suất lao động. Một số phát minh tiêu biểu của người nông dân có
thể kể đến:
Máy móc phục vụ sản xuất: Anh Phan Văn Lệ (xã Hồ Xá, Vĩnh Linh, Quảng Trị)
đã sáng chế thành công chiếc máy tuốt hạt tiêu. Máy tuốt hạt tiêu này là một thương hiệu
rất được người trồng hồ tiêu vùng Quảng Trị, Quảng Bình tín nhiệm cao. Trước đây, một
người tuốt nhanh mỗi giờ chỉ được 50 kg hồ tiêu, nhưng nay dùng máy thì gấp 20 lần (1


tần/giờ) và còn tự động phân chia hồ hạt tiêu to chắc với hạt nhỏ lép và cọng qua 3 máng
riêng biệt.
Anh Võ Văn Nghiêm (huyện Krông Pa, Gia Lai) đã sáng chế thành công máy xới
cỏ với công suất là 2 hg/ngày, còn máy mini bán trên thị trường tối đa chỉ xới cỏ được
1ha/ngày. Lúc trước làm cỏ bằng tay phải mất tới 15 lao động/ha/ngày, còn sử dụng máy
xới cỏ của anh Nghiêm chỉ mất 3 lao động/ha/ngày. Máy làm sạch cỏ tới trên 90%.
Anh Nguyễn Tất Hải (Quỳ Hợp, Nghệ An) đã sáng chế ra chiếc máy bơm nước
đạp chân với năng suất cấp nước lý tưởng 15 m3/ giờ. Tuy nhiên, nó cồng kềnh, nặng nề,
chỉ phù hợp với địa hình của ruộng nhà ông. Mong muốn có một cái máy bơm phù hợp
với tất cả các loại địa hình, mọi người đều có thể sử dụng được, dễ vận chuyển, tiện lợi,
ông nghiên cứu tiếp và cho ra đời một chiếc mày hoàn toàn có thể vận chuyển đến bất cứ
địa hình nào, năng suất bằng 8 người tát gầu song và gấp đôi máy bơm công suất 370kW
của Trung Quốc, mà giá thành chỉ có 300,000 đồng/máy.
Máy móc phục vụ chế biến sau thu hoạch: Anh thợ cơ khí người Khmer Kiên
Hùng (huyện Cầu Ngang, Trà Vinh) chế tạo thành công chiếc máy bóc tách vỏ công suất
lên đến 50 giạ lạc vỏ/giờ, tương đương với 40 ngày công lao động bóc tách thủ công.
Việc Kiên Hùng “chế tạo” thành công chiếc máy bóc tách vỏ đậu phộng đã giải quyết

được một khâu trọng yếu, tạo ra cơ hội lớn để nông dân huyện Cầu Ngang cũng như cả
tỉnh Trà Vinh nhanh chóng mở rộng diện tích lạc lên đến con số vài chục lần so với trước
đây. Nhiều hộ đã dám mạnh dạn trồng đến vài héc-ta. Từ cây lạc, không ít hộ nông dân,
nhất là nông dân Khmer thoát nghèo, vươn lên khá giả.
Anh Lâm Văn Liêm (dân tộc Cao Lan, thôn Ruồng, xã Đèo Gia, Lục Ngạn, Bắc
Giang) đã nghiên cứu và chế tạo thành công chiếc máy tróc vỏ và thái sắn. Máy hoạt
động hiệu quả rất cao, một ngày có thể làm bằng cả 100 người lao động thủ công.
Máy móc phục vụ các sản phẩm mới: Anh Bùi Đỗ Hậu đã làm ra chiếc máy tráng
bánh cuốn tự động với công suất 1 tạ/giờ. Nếu so với cách làm truyền thống thì máy tráng
bánh cuốn cho năng suất lớn hơn 10-20 lần. Không những có năng suất vượt trội, bánh


cuốn được tráng bằng máy còn có chất lượng ngon hơn so với tráng bằng tay bởi khi
tráng bằng máy, nguyên liệu được nhào trộn rất đều và kỹ nên bánh có độ dẻo, dai hơn,
thời gian nhanh hơn nên giữ được độ nóng. Ngay sau đó, nhiều hộ làm bánh cuốn trong
làng đã đặt anh làm những chiếc máy tương tự. Đến nay, hầu hết các hộ làm bánh ở thôn
Thanh Lương đều sử dụng máy tráng bánh cuốn tự động của anh Hậu vào sản xuất. Máy
cũng đã có mặt ở nhiều tình thành trong nước, và thời gian gần đây còn có một số Việt
kiều ở các nước về đặt anh làm những chiếc máy làm bún, bánh cuốn mang sang nước
ngoài để sản xuất.
Hai ông Đặng Văn Nguyên (51 tuổi) và Trần Văn Phong (43 tuổi) ở thôn 7, xã
Nga Liên, huyện Nga Sơn, Thanh Hóa đã chế tạo ra chiếc máy dệt chiếu có thể dệt 12-13
lá chiếu trong 8 tiếng đồng hồ, gấp 6 lần so với dệt thủ công.
Máy phát điện chạy bằng khí sinh học biogas, khi hết khí biogas có thể thay thế
được bằng xăng nhưng tiết kiệm 30%.
Ngoài ra những nông dân các dân tộc khác nhau ở Việt Nam đã tạo ra những chiếc
máy bơm nước đạp chân DH4 sử dụng cho những hộ canh tác lúa ở vùng núi, nơi chưa có
điện; máy trục bùn, máy đa năng có thể tra hạt, vun xới, cày bừa; máy gieo đậu tương 8
hàng; máy bạt gốc mía, máy dệt chiếu; máy làm bánh cuốn liên hoàn; máy tráng bánh đa
nem; máy thái rau lợn đa năng và máy dàn rạch hàng – cày sâu kết hợp bón phân… góp

phần giải phóng sức người, nâng cao năng suất lao động, tạo nên những vụ mùa bội thu.
2.2.1.3.

Ý nghĩa của các sản phẩm sáng chế của nông dân

Một sáng chế máy móc có thể thay thế hàng chục, hàng trăm người; rút ngắn thời
gian làm việc từ vài ngày xuống còn vài giờ, mang lại lợi nhuận cao cho người nông dân.
Một khi sáng chế đem lại hiệu quả lâu dài, nó sẽ cổ vũ, thôi thúc những người
nông dân khác cùng tham gia nghiên cứu, sáng tạo. Từ đó, công sức, tiền bạc càng được
tiết kiệm và năng suất lao động càng tăng cao.


2.2.1.4.

Những hạn chế trong chất lượng sản phẩm sáng chế của nông dân

Bên cạnh những lợi ích thiết thực mà các sản phẩm sáng chế của nông dân mang
lại, các sản phẩm sáng chế này có những mặt tiêu cực:
Các sản phẩm chưa đảm bảo các yêu cầu về an toàn, dễ gây tai nạn lao động,
nhiều trường hợp dẫn tới tử vong. Thực tế cho thấy, ngoài lí do chủ quan về vận hành,
còn khá nhiều nông dân bị tai nạn do chất lượng máy không đảm bảo.
Các phụ tùng để làm ra các sản phẩm đa số được dùng lại từ các bộ phận của các
sản phẩm hư hỏng. Hầu hết công đoạn, kĩ thuật, trình tự lắp ráp và thiết bị đều là do tự
tìm tòi, tự nghĩ ra, không hề có một quy trình hay một sự đảm bảo về an toàn.
2.2.1.5.

Những khó khăn trong quá trình sáng chế của nông dân

Đa số những người nông dân xuất phát từ nghề nông, không được đào tạo bài bản,
không có bằng cấp. Những sáng chế, cải tiến tối ưu đòi hỏi rất nhiều thời gian, tiền của và

sức lực. Trong khi đó, nông dân thường thiếu vốn và mặt bằng và dịch vụ hỗ trợ khoa học
– kĩ thuật ở nông thôn còn kém phát triển. Một số ý tưởng của nông đân được các nhà
khoa học chỉnh sửa cho chuẩn mực về kĩ thuật. Tuy nhiên, giải pháp kết hợp giữa nhà
khoa học và nông như vậy thương mang tính tự phát.
Không chỉ khó khăn về đầu vào, đầu ra cho những sáng chế của nông dân cũng
gặp khó khăn khi thông tin về sản phẩm khó đến với người tiêu dùng và thuyết phục họ
mua, sử dụng sản phẩm. Kênh quảng bá, mua bán và phân phối sản phẩm còn chưa được
quan tâm. Đa phần là do khách hàng tự tìm đến nơi sản xuất để mua.
Một điều bất lợi cho người nông dân có sản phẩm khoa học phục vụ trong nông
nghiệp là việc được bảo hộ bản quyền sở hữu trí tuệ. Khi làm ra máy móc nào đó, họ
không nghĩ đến “quyền sở hữu trí tuệ”, cụ thể hơn là “bằng sáng chế”, chỉ nghĩ làm sao
sản phẩm phục vụ tốt nhất cho nghề nghiệp. Trong khi đó, một khi sản phẩm được đưa ra


thị trường, sẽ có nhiều người lợi dụng sơ hở đó để nhái lại và đăng kí bản quyền. Như
vậy, người nông dân bị mất đi công sức và tâm huyết.
2.3.

Đánh giá việc áp dụng bằng sáng chế đối với ngành nông nghiệp nước ta

2.3.1. Những ưu điểm đã đạt được trong việc áp dụng bằng sáng chế
Nhờ có cơ chế bảo hộ bằng sáng chế, có rất nhiều các phát minh trong sản xuất
nông nghiệp đã được bảo hộ, tạo điều kiện để chủ sở hữu có thể khai thác lợi ích kinh tế
từ sáng tạo của mình. Điều này đã tạo tiền đề cho việc xây dựng các cơ sở sản xuất, tạo
thêm công ăn việc làm ở vùng nông thôn. Qua đó, sản phẩm được quảng bá rộng rãi đến
người tiêu dùng, làm tăng năng suất lao động trong sản xuất nông nghiệp. Bằng sáng chế
cũng đã tạo niềm tin cho các doanh nghiệp có thể hợp tác với người nông dân để sản xuất
kinh doanh, thương mại hóa các phát minh.
Các hoạt động phổ biến kiến thức về SHTT cho người dân đã được triển khai và
bước đầu phát huy tác dụng. Nhiều hoạt động hỗ trợ kiến thức, chẳng hạn như chương

trình “chắp cánh thương hiệu” hay việc phổ biến kiến thức về SHTT trong các trường đại
học đã làm tăng nhận thức của người dân về tầm quan trọng của SHTT cũng như bằng
sáng chế. Số lượng bằng sáng chế tăng đều qua mỗi năm, năm 2000 có 70 đơn đăng ký
sáng chế và giải pháp hữu ích của người Việt Nam được nộp, thì năm 2010, con số này
lên tới 521 đơn, tức là tăng gần 8 lần. Năm 2011 có 302 đơn tăng gần 4 lần, năm 2012 có
379 đơn tăng 5 lần, năm 2013 có 442 đơn tăng gần 6 lần và năm 2014 có 485 đơn tăng
gần 7 lần. Trong nông nghiệp, tuy chưa có con số thống kê chính thức, tuy nhiên với một
nước mà sản xuất nông nghiệp là chủ yếu như Việt Nam thì đây là tín hiệu tốt cho thấy
các sáng chế trong nông nghiệp đã được tăng cường bảo vệ. Bằng sáng chế cùng với việc
tổ chức thường xuyên ở nhiều tỉnh thành trên cả nước các hội chợ khoa học công nghệ
nông nghiệp đã tạo động lực khuyến khích sáng tạo của người dân.
Năm 2016, theo lộ trình của Chính phủ, các hồ sơ đăng ký sáng chế, giải pháp hữu
ích sẽ phải công khai, điều này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, nhà khoa học có thể
chủ động tìm đến những người nông dân để hỗ trợ.


×