Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Quyền Chiếm Hữu Trong Pháp Luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.47 MB, 131 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ NGỌC PHƢỢNG

QUYỀN CHIẾM HỮU TRONG
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội –2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ NGỌC PHƢỢNG

QUYỀN CHIẾM HỮU TRONG
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số : 8380101.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Quế Anh

Hà Nội –2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả


nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu,
ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy
định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ
Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI VIẾT CAM ĐOAN

Lê Thị Ngọc Phƣợng

i


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................... i
MỤC LỤC ..................................................................................................................... ii
DANH MỤC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT ............................................................... iv
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ……………..………..………………………v
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài và tình hình nghiên cứu........................................................1
2. Phạm vi và mục đích nghiên cứu ................................................................................3
3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài .........................................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................4
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ...................................................................4
6. Kết cấu của luận văn ....................................................................................................4
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CHIẾM HỮU ................................6
1.1. Sự hình thành và phát triển của quyền chiếm hữu trong pháp luật Dân sự ....6
1.1.1. Nguồn gốc, lịch sử .................................................................................................6
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm ..........................................................................................9

1.1.3. Phân loại ..............................................................................................................15
1.1.4. Sự xuất hiện của quyền chiếm hữu trong Pháp luật Dân sự Việt Nam ...............18
1.2. So sánh quyền chiếm hữu với các vật quyền liên quan khác ..........................28
1.2.1. Quyền chiếm hữu và quyền sở hữu ......................................................................28
1.2.2. Quyền chiếm hữu và vật quyền khác ...................................................................34
1.3. Quyền chiếm hữu trong pháp luật một số quốc gia .........................................36
1.3.1. Luật cổ La Mã ......................................................................................................36
1.3.2. Luật Châu Âu .......................................................................................................37
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ............................................................................................42
Chƣơng 2. NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN CHIẾM HỮU TRONG PHÁP
LUẬT VIỆT NAM .......................................................................................................44
2.1. Chủ thể của quyền chiếm hữu .............................................................................44
2.2. Nội dung quyền chiếm hữu trong pháp luật Dân sự Việt Nam ........................49
2.2.1. Chiếm hữu của chủ sở hữu ..................................................................................49
2.2.2. Chiếm hữu của người khác ..................................................................................52
2.2.3. Chiếm hữu có căn cứ pháp luật và chiếm hữu không có căn cứ pháp luật .........56
ii


2.3. Căn cứ xác lập và chấm dứt quyền chiếm hữu trong pháp luật Dân sự Việt
Nam.. .............................................................................................................................61
2.3.1. Căn cứ xác lập .....................................................................................................61
2.3.2. Căn cứ chấm dứt..................................................................................................65
2.4. Bảo vệ quyền chiếm hữu trong pháp luật Việt Nam .......................................66
2.4.1. Khái niệm bảo vệ quyền chiếm hữu .....................................................................67
2.4.2. Các hình thức bảo vệ quyền chiếm hữu trong pháp luật dân sự Việt Nam .........70
2.4.3. Đánh giá việc bảo vệ quyền chiếm hữu bằng biện pháp dân sự .........................87
2.4.4. So sánh bảo vệ quyền chiếm hữu theo pháp luật dân sự với các ngành luật khác..89
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ............................................................................................92
Chƣơng 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP

NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN
CHIẾM HỮU ...............................................................................................................93
3.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền chiếm hữu ở Việt Nam .....................93
3.1.1. Đánh giá chung tình hình thực hiện pháp luật về quyền chiếm hữu ở Việt Nam 93
3.1.2. Những khó khăn vướng mắc trong thực tiễn thực hiện pháp luật và nguyên nhân
về quyền chiếm hữu ở Việt Nam ..................................................................................101
3.2. Định hƣớng hoàn thiện pháp luật về quyền chiếm hữu ở Việt Nam .............113
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền chiếm hữu ở Việt Nam .....................114
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quyền chiếm hữu ở Việt
Nam…………………………………………………………………………………………….115
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ..........................................................................................119
KẾT LUẬN ................................................................................................................120
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................122

iii


DANH MỤC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật dân sự

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao


XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

VBQPPL

: Văn bản quy phạm pháp luật

iv


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
Sơ đồ 2.1. Chiếm hữu có căn cứ pháp luật và không có căn cứ pháp luật .................... 55

v


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài và tình hình nghiên cứu
Chiếm hữu là quan hệ thực tế và phổ biến nhất trong đời sống xã hội, phần lớn
các quan hệ xã hội đều xoay quanh vấn đề chiếm hữu tài sản. Vai trò, vị trí của chế
định chiếm hữu ngày càng được khẳng định trong hệ thống pháp luật Dân sự Việt
Nam. Nếu theo BLDS năm 2005, chiếm hữu tài sản dưới góc độ là quyền của chủ sở
hữu nên quyền chiếm hữu được ghi nhận với tư cách là một trong các nội dung cụ thể
của quyền sở hữu, thì qua thực tiễn thi hành trong 10 năm cho thấy rằng, chiếm hữu

không chỉ là quyền của chủ sở hữu mà là còn để chỉ một thực trạng chiếm hữu trên
thực tế của các chủ thể khác. Do đó, BLDS 2015 đã kết cấu nội dung chiếm hữu với
tính chất là một thực trạng pháp lý tại chương XII của phần thứ Hai. Chiếm hữu được
ghi nhận thành một điều luật độc lập trong BLDS 2015 là thể hiện cách tiếp cận mới
của các nhà làm luật. Theo đó chế định chiếm hữu được coi là một chế định tồn tại độc
lập so với chế định sở hữu. Chiếm hữu được ghi nhận là một tình trạng, một sự
kiện, không phải là một quyền, để từ đó phát sinh những quan hệ pháp lý nhất định.
Việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có
quyền đối với tài sản là sự chiếm hữu tài sản thực tế kết hợp với ý chí của người chiếm
hữu.
Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang vào thời kỳ hội nhập và phát triển,
với đặc thù vận động liên tục theo cơ chế thị trường đa thành phần định hướng xã hội
chủ nghĩa, vấn đề chiếm hữu ngày càng trở nên phổ biến và phức tạp, đòi hỏi cần phải
có một cơ chế điều chỉnh hiệu quả và phù hợp. Mặc dù các quy định của pháp luật Việt
Nam về chế định chiếm hữu ở mỗi giai đoạn lịch sử đều được kế thừa, điều chỉnh và
phát triển ngày càng hoàn thiện hơn, tuy nhiên trong thực tiễn, việc áp dụng những quy
định của pháp luật dân sự về chế định chiếm hữu còn phát sinh mâu thuẫn, không
mang tính thống nhất. Các vấn đề xoay quay quyền chiếm hữu xảy ra với nhiều hình
thức phức tạp, trong đó tình trạng áp dụng chưa đầy đủ quy định pháp luật về quyền
chiếm hữu xảy ra phổ biến, tình trạng tranh chấp về quyền chiếm hữu ở tại các tòa án
ngày càng nhiều… ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an
ninh trật tự của đất nước nói chung và ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của chủ thể
quyền chiếm hữu. Từ nhiều nguyên nhân như việc thiếu hiểu biết về những quy định
của pháp luật đối với quyền chiếm hữu, bên cạnh đó là các quy định của pháp luật về
1


vấn đề trên còn nhiều bất cập, không phù hợp thực tiễn, việc vận dụng của các cơ quan
có thẩm quyền còn chưa thống nhất dẫn đến việc thực thi pháp luật về quyền chiếm
hữu không được thực hiện đúng quy định.

Từ thực trạng nêu trên, nghiên cứu một cách có hệ thống, khoa học các quy định
của pháp luật về chiếm hữu để hiểu đúng và thực hiện đúng, cũng như phát hiện những
điểm bất cập nhằm hoàn thiện chúng là một công việc thực sự cần thiết và cấp bách.
Liên quan đến nội dung nghiên cứu về chiếm hữu trong pháp luật dân sự Việt
Nam thì đã có một số đề tài khoa học, luận văn, bài viết trên tạp chí đã đề cập một
cách trực tiếp hoặc lồng ghép vào những nội dung liên quan, có thể kể đến như:
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam – Tập 1, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội, 2006; Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật dân sự Việt
Nam – Tập 2, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007; Viện Khoa học Pháp lý Bộ Tư
pháp, Bình luận khoa học Bộ luật dân sự (tập 1, 3), Nxb Chính trị quốc gia 2001; Sách
của Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện, Một số suy nghĩ về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
trong luật dân sự Việt Nam, NXB Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, 1999; Sách của Tiến
sĩ Nguyễn Ngọc Điện, Nghiên cứu về tài sản trong luật dân sự Việt nam, Nxb Trẻ,
TPHCM, 2000; Sách chuyên khảo của PGS.TS Đỗ Văn Đại (2012), Luật nghĩa vụ và
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ - Bản án và bình luận bản án, Tập 1&2, NXB Chính trị
quốc gia; Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 2 (2013) 1-6, Nghiên
cứu Khái luận về chiếm hữu, tác giả Nguyễn Thị Quế Anh; Luận văn Thạc sĩ Lê Thu
Trang chủ nhiệm đề tài (2017), Tiếp nhận Luật La Mã trong việc xây dựng chế định
vật quyền ở Việt Nam hiện nay, chuyên ngành Luật dân sự và tố tụng dân sự; Luận văn
Thạc sĩ Lê Thị Liên Hương chủ nhiệm đề tài (2010), Quyền đối vật trong Luật tư La
Mã và ảnh hưởng đối với pháp luật Việt Nam hiện hành, chuyên ngành Luật dân sự và
tố tụng dân sự,...Trong đó các công trình này ít nhiều đều đề cập đến quyền chiếm hữu
trong pháp luật Dân sự Việt Nam. Tuy nhiên, các công trình này chưa thực sự nghiên
cứu và triển khai nội dung một cách sâu sắc, hoặc là các luận văn, đề tài khoa học
trong thời kỳ áp dụng Bộ Luật Dân sự 2005 chứ chưa cập nhật các điểm mới, nội dung
thay đổi về quyền chiếm hữu trong Bộ Luật Dân sự 2015.
Để hiểu rõ hơn về quyền chiếm hữu trong pháp luật Dân sự Việt Nam, nghiên
cứu và xác định những vướng mắc trong thực tế, hướng hoàn thiện của pháp luật Việt
Nam về quyền chiếm hữu là vấn đề rất cần thiết và đáng được quan tâm, có ý nghĩa
2



quan trọng trong thực tiễn xã hội. Với mục đích làm phong phú thêm nội dung nghiên
cứu về quyền chiếm hữu, tôi lựa chọn đề tài: "Quyền chiếm hữu trong pháp luật Việt
Nam" làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Phạm vi và mục đích nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, học viên chủ yếu đi đến nghiên cứu các vấn đề
về: khái niệm, đặc điểm, bản chất, phân loại quyền chiếm hữu, các nội dung pháp luật
thực định của quyền chiếm hữu, thực trạng thi hành quyền chiếm hữu trong pháp luật
Dân sự, và một số giải pháp hoàn thiện nội dung quyền chiếm hữu trong pháp luật Dân
sự Việt Nam. Trên cơ sở các đối tượng nghiên cứu trên, tác giả tập trung nghiên cứu
khái quát những quy định của pháp luật Việt Nam về quyền chiếm hữu, cụ thể trong
Bộ luật Dân sự 2015, so sánh, đánh giá những điểm mới đối với quy định về quyền
chiếm hữu trong Bộ luật Dân sự 2005, đồng thời liên hệ tới quy định về quyền chiếm
hữu trong pháp luật của một số quốc gia trên thế giới.
Thông qua việc nghiên cứu trong phạm vi được đề ra ở trên, tác giả mong muốn
cung cấp cho người đọc một cách tổng thể các quy định về quyền chiếm hữu quy định
trong pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở đó, nghiên cứu thực trạng, tình hình thi hành, áp
dụng pháp luật về chiếm hữu tại Việt Nam để có thể đánh giá được mức độ bảo vệ của
các quy định pháp luật trong thực tế. Đồng thời, dựa vào thực trạng đó để nghiên cứu
nguyên nhân, từ đó đưa ra những giải pháp để tháo gỡ vướng mắc còn tồn tại.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Với đề tài luận văn trong phạm vi nghiên cứu pháp luật Việt Nam, đòi hỏi luận
văn phải giải quyết các vấn đề sau:
Thứ nhất, đề cập khái quát những vấn đề lý luận chung về quyền chiếm hữu
trong quy định của pháp luật Dân sự Việt Nam, đồng thời liên hệ đến pháp luật các
quốc gia khác.
Thứ hai, phân tích, đánh giá, các quy định về quyền chiếm hữu được hệ thống
pháp luật Việt Nam quy định theo mô hình lý luận đưa ra ở Chương 1.
Thứ ba, nêu và phân tích thực trạng thi hành pháp luật Việt Nam về quyền chiếm

hữu.
Thứ tư, trên cơ sở đó phân tích nguyên nhân của thực trạng trên và đưa ra các
giải pháp, đề xuất để đảm bảo thực hiện hiệu quả những quy định về quyền chiếm hữu
trong pháp luật Dân sự Việt Nam.
3


4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện được các nhiệm vụ, mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá
trình nghiên cứu luận văn đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
Một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu được áp dụng:
Phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải: Những phương pháp này được
sử dụng phổ biến trong việc làm rõ các quy định của pháp luật và các quan điểm pháp
lý về quyền chiếm hữu.
Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh: Những phương pháp này được
người viết vận dụng để đưa ra ý kiến nhận xét quy định của pháp luật hiện hành có hợp
lý hay không, đồng thời nhìn nhận trong mối tương quan so với quy định liên quan
hoặc pháp luật của các nước khác…
Phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch: Được vận dụng để triển khai có
hiệu quả các vấn đề liên quan đến quyền chiếm hữu, đặc biệt là các kiến nghị hoàn
thiện. Cụ thể như trên cơ sở đưa ra những kiến nghị mang tính khái quát, súc tích
người viết dùng phương pháp diễn dịch để làm rõ nội dung của kiến nghị đó…
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả đạt được của luận văn góp phần làm sáng tỏ phương diện lý luận trong
khoa học pháp lý của các vấn đề về quyền chiếm hữu quy định trong pháp luật Việt
Nam. Cụ thể: Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về quyền chiếm hữu trong quy định
hiện hành của pháp luật Việt Nam, đưa ra những tiêu chí cơ bản nhất để xác định
quyền chiếm hữu, phân tích thực trạng điều chỉnh pháp luật đối với vấn đề này, chỉ ra
những điểm bất cập của việc thực thi pháp luật và đưa ra giải pháp, phương hướng
hoàn thiện.

Ngoài ra, những giải pháp hoàn thiện pháp luật là cơ sở quan trọng để các cơ
quan chức năng trong phạm vi, thẩm quyền của mình sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện
pháp luật trong lĩnh vực tương ứng. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu
ích không chỉ với đội ngũ giảng viên, sinh viên mà còn có giá trị đối với các cán bộ
đang làm công tác hành nghề Luật sư, hoặc trong lĩnh vực Tòa án Dân sự ở Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận
văn gồm 3 chương, cụ thể:
Chương 1: Khái quát chung về quyền chiếm hữu
4


Chương 2: Nội dung pháp luật thực định về quyền chiếm hữu trong pháp luật
Việt Nam
Chương 3: Thực trạng pháp luật và một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy
định pháp luật Việt Nam về quyền chiếm hữu

5


Chƣơng 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CHIẾM HỮU
Quyền chiếm hữu được xem là một trong những nội dung cơ bản và trọng yếu
của Bộ luật Dân sự, là tiền đề của các quan hệ pháp luật dân sự về tài sản. Quyền
chiếm hữu có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội cũng như trong
pháp luật dân sự. Trong mỗi hệ thống pháp luật của các nước đều ghi nhận sự tồn tại
của quyền chiếm hữu, tuy nhiên các quan điểm có thể chưa thực sự đầy đủ, đồng nhất,
vì vậy, việc xác định bản chất thật sự của quyền chiếm hữu sẽ cho ta cái nhìn khoa
học, logic và khái quát để từ đó có được những đánh giá khách quan đối với các quy
định thực định của pháp luật Việt Nam về quyền chiếm hữu.
1.1. Sự hình thành và phát triển của quyền chiếm hữu trong pháp luật Dân

sự
1.1.1. Nguồn gốc, lịch sử
Nghiên cứu về luật pháp thời kỳ La Mã, Mác và Ăng ghen đã đánh giá rất cao về
trình độ lập pháp thời kỳ này. Hai ông cho rằng những người La Mã chính là những
người đầu tiên khởi xướng ra luật tư hữu, luật trừu tượng và luật tư pháp và họ đã đạt
đến trình độ cao ở trình độ lập pháp. Tuy vậy, các luật gia La Mã đã không để lại một
khái niệm về quyền chiếm hữu. Qua nghiên cứu về quyền sở hữu trong luật La Mã,
chúng tôi có thể khái niệm về chiếm hữu trong luật La Mã như sau: Chiếm hữu
(Possessio) là: Thực tế nắm giữ, quản lý tài sản và coi tài sản đó là của mình mà không
phụ thuộc vào ý chí của người khác. [8, tr.3].
Luật La Mã được xây dựng cách đây hàng ngàn năm và được coi là bộ luật có
sức ảnh hưởng mạnh mẽ và rộng rãi nhất đến hệ thống pháp luật của các quốc gia hiện
đại. Đây là hệ thống pháp luật hoàn chỉnh nhất của Nhà nước chiếm hữu nô lệ. Pháp
luật La Mã dựa trên cơ sở tư hữu, sự thể hiện pháp lý, những điều kiện sống và những
xung đột xã hội thời kỳ lúc bấy giờ, được xây dựng công phu với sự đóng góp to lớn
của các luật gia La Mã. Pháp luật La Mã thể hiện về mặt pháp lý có tính chất kinh điển
về điều kiện và xung đột xã hội, trong đó có sự ngự trị của chế độ tư hữu thuần thúy
mà sau này các văn bản pháp luật khó có thể phủ nhận tính giá trị của nó. Lý luận pháp
luật dân sự nói chung và đặc biệt là luật La Mã nói riêng đến nay vẫn còn nguyên giá
trị thực tế.
Trong luật La Mã, chiếm hữu với ý nghĩa là chiếm dụng đồ vật trên thực tế, có
quyền kiểm soát và chi phối vật [8, tr.4]. Chiếm hữu là quan hệ làm cơ sở phát sinh
6


cho sở hữu và quyền sở hữu. Trên cơ sở đó giữa chiếm hữu và quyền sở hữu có những
mối liên hệ hữu cơ với nhau. Tuy nhiên theo quan điểm của các nhà lập pháp La Mã
trong hệ thống luật La Mã hoàn thiện hơn ở giai đoạn sau, “chiếm hữu” và “quyền sở
hữu” là hai phạm trù khác biệt có thể hòa nhập trong cùng một chủ thể, nhưng cũng có
thể thuộc về các chủ thể khác nhau.

Luật La Mã cũng quy định về các hình thức chiếm hữu như sau: Chiếm hữu hợp
pháp, chiếm hữu bất hợp pháp bao gồm chiếm hữu bất hợp pháp ngay thẳng và chiếm
hữu bất hợp pháp không ngay thẳng [13, tr.49]. Việc phân biệt chiếm hữu bất hợp
pháp ngay thẳng và không ngay thẳng có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền
sở hữu cũng như xác lập quyền sở hữu, người chiếm hữu bất hợp pháp ngay thẳng có
thể trở thành chủ sở hữu theo thời hiệu. Trong thực tế cũng như trong luật La Mã phân
định một dạng chiếm hữu ngoại lệ: Chiếm hữu phái sinh từ quyền sở hữu, những
người này có quyền tự mình bảo vệ việc chiếm hữu mà không cần thông qua chủ sở
hữu.
Về hiệu lực của sự chiếm hữu, để việc chiếm hữu được pháp luật bảo vệ một
cách tuyệt đối, thì theo luật La Mã, việc chiếm hữu không được vi phạm một trong ba
trường hợp: chiếm hữu có vũ lực, chiếm hữu không công khai và chiếm hữu tạm bợ.
Về xác lập và chấm dứt chiếm hữu trong luật La Mã, sự chiếm hữu được ghi
nhận trong một hoàn cảnh thực tế và thông thường tư cách của người chiếm hữu đối
với vật được thừa nhận mà không nhất thiết phải tìm hiểu tính xác thực, hợp pháp của
tư cách người chiếm hữu đó. Tư cách của người chiếm hữu được xác định dựa vào hai
yếu tố cấu thành quan hệ chiếm hữu, pháp luật La Mã gọi là corpus và animus [17].
Corpus được hiểu là việc thực hiện trên thực tế các hành vi mang tính chất thể hiện
quyền năng đối với tài sản. Corpus thường được các nhà luật học La Mã cổ đại phân
tích thành việc xác lập, thực hiện các giao dịch mang tính vật chất tác động lên tài sản.
Animus được coi là yếu tố ý chí hay yếu tố chủ quan. Đó là trạng thái tâm lý thể hiện
thành thái độ ứng xử hàm chứa quyền năng của người chiếm hữu đối với tài sản, hay
còn được hiểu là yếu tố tâm lý hay yếu tố chủ quan, là thái độ tâm lý thể hiện thành
cung cách cư xử phù hợp với các quyền năng mà người chiếm hữu tự cho là có được
đối với tài sản. Luật La Mã cho phép chiếm hữu thông qua người đai diện, người đại
diện phải có ý chí chiếm hữu vật cho người được đại diện chứ không phải cho bản thân
mình [11, tr.52]. Chiếm hữu chấm dứt khi một trong hai yếu tố cấu thành nên nó là
7



corpus possessionis và animus possessionis không còn. Như vậy các trường hợp chấm
dứt bao gồm: thực tế nắm giữ vật không còn hoặc chủ thể chiếm hữu thể hiện ý chí từ
bỏ chiếm hữu [11, tr.53]. Vật không còn tồn tại hoặc không thể thuộc sở hữu cá nhân
cũng là một trong những trường hợp chấm dứt chiếm hữu.
Chiếm hữu theo luật La Mã được bảo vệ bằng các phương tiện pháp lý đặc biệt
còn gọi là interdiction (điều quan cấm) bao gồm những điều cấm để đề phòng vi phạm
quyền chiếm hữu (interdicta retinendae possesionsis) và điều cấm để trả lại sự chiếm
hữu (interdicta recuperandae possesionsis) [8]. Trong đó, interdicta là những chỉ định
của quan tòa về việc chấm dứt không chậm chễ những hành vi xâm phạm đến trật tự
xã hội và lợi ích cá nhân. Một trong những đặc trưng của việc bảo vệ chiếm hữu thông
qua interdicta là trong quá trình xét xử không đòi hỏi phải chứng minh quyền đối với
vật bị chiếm hữu. Điều này có nghĩa, trong số các bên tranh chấp, bên nào đang nắm
giữ vật được suy đoán là có quyền, bên còn lại nếu muốn khẳng định điều ngược lại thì
phải chứng minh chứ không được tự ý chiếm đoạt vật từ người đang chiếm hữu. Điều
này nhằm mục đích bảo vệ cho sự ổn định của các quan hệ xã hội đang tồn tại, tình
trạng của người chiếm hữu đối với vật sẽ được duy trì cho đến khi có người khác
chứng minh được quyền đối với vật.
Vì nhiều lý do trong lịch sử, Việt Nam cũng là nước chịu ảnh hưởng sâu sắc và
toàn diện bởi pháp luật La Mã đặc biệt là trong lĩnh vực dân sự. Hầu hết các nguyên
tắc trong luật La Mã đều được tìm thấy trong pháp luật Việt Nam. Đặc biệt là các chế
định về địa vị pháp lý của chủ thể trong quan hệ dân sự; chế định tài sản; chế định
nghĩa vụ hợp đồng và chế định thừa kế. Các nhà làm luật Việt Nam đã kế thừa những
tinh túy trong pháp luật La Mã, đã cụ thể và chi tiết hơn các nguyên tắc ấy trong pháp
luật của mình. Tuy nhiên, như đã phân tích chúng ta không tiếp nhận hoàn toàn một
cách thụ động mà là sự tiếp thu có chọn lọc để phù hợp với xã hội Việt Nam, đồng thời
loại bỏ những quy định lạc hậu trong tư pháp La Mã. Điều này được thể hiện rõ nhất
qua chế định hôn nhân – gia đình và các quy định về tài sản hay một số quy định về
thừa kế. Mặt khác, thông qua sự so sánh các quy định mới trong của BLDS 2015 với
các quy định trong BLDS 2005 và quy định trong luật La Mã thể hiện pháp luật dân sự
Việt Nam cũng ngày càng có xu hướng tiếp nhận luật La Mã một cách sâu sắc hơn.


8


1.1.2.

Khái niệm và đặc điểm

1.1.2.1. Khái niệm chiếm hữu
Để tồn tại và phát triển, con người với tính cách là một thực thể xã hội, cần phải
có những cơ sở vật chất nhất định. Từ thời kỳ sơ khai, ý thức về xã hội, về cộng đồng
còn hạn chế nhưng người nguyên thủy đã biết chiếm giữ hoa trái tự nhiên, chim thú
săn bắt được, công cụ lao động để phục vụ nhu cầu và tồn tại. Chiếm hữu chính là việc
chiếm giữ thành quả lao động, tư liệu sản xuất của xã hội loài người. Chiếm hữu là
phạm trù khách quan, tất yếu, vĩnh viễn, là điều kiện trước tiên của hoạt động lao động
sản xuất. Chủ thể chiếm hữu là cá nhân, tập thể và xã hội. Đối tượng của chiếm hữu từ
buổi ban đầu của loài người là cái có sẵn trong tự nhiên cùng với sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Các chủ thể chiếm hữu không chỉ chiếm hữu tự nhiên mà cả xã hội, tư
duy, thân thể, cả các vô hình và cái hữu hình. Theo quan điểm của Mác xít khái niệm
gốc của sở hữu là “sự chiếm hữu” [5, tr.187]. Theo đó: Sở hữu là hình thức xã hội –
lịch sử nhất định của sự chiếm hữu, cho nên có thể nói: Sở hữu là phương thức chiếm
hữu mang tính chất lịch sử cụ thể của con người, những đối tượng dùng vào mục đích
sản xuất và phi sản xuất. Sở hữu luôn luôn gắn liền với vật dụng – đối tượng của sự
chiếm hữu. Đồng thời sở hữu không chỉ đơn thuần là vật dụng, nó còn là quan hệ giữa
con người với nhau về vật dụng [6, tr. 745-756].
Trong phạm trù kinh tế, chiếm hữu bao gồm cả về sản xuất, phân phối, trao đổi
và tiêu dùng.
Trong phạm trù pháp lý, chiếm hữu đã được ghi nhận trong hệ thống pháp luật
các nước trên thế giới, với nhiều quan điểm, nhiều công trình nghiên cứu. Về phương
diện học thuật, chiếm hữu được hiểu là việc một người thể hiện bằng những ứng xử cụ

thể các quyền năng đối với một tài sản [16]. Chiếm hữu được coi là biểu hiện bề ngoài
của quyền sở hữu: Chiếm hữu với tư cách chủ sở hữu là việc một người tỏ ra có các
quyền của chủ sở hữu đối với tài sản. Biểu hiện ấy có thể phản ánh trung thực nội
dung bên trong của quyền, nghĩa là người tỏ ra có quyền cũng thực sự là người có
quyền đó, nhưng nó cũng có thể hoàn toàn trái ngược với nội dung ấy, ví dụ như: A
trong một lần ghé thăm cửa hàng trang sức của B đã lấy trộm chiếc dây chuyền, sau
đó, A đeo dây chuyền đi dự sinh nhật bạn, trên đường đi A bị C giật mất chiếc dây
chuyền và hô hoán kêu cứu, D là người chặn C lại và bắt được C trả lại sợi dây chuyền
cho A. Như vậy, A trong câu chuyện xuất hiện trước mắt D như một người có quyền
9


sở hữu đối với tài sản và quyền sở hữu đó đang bị người khác xâm hại, nhưng thực
chất, A đang thực hiện việc chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.
Trong pháp luật Việt Nam, trải qua nhiều năm áp dụng thực tiễn để hoàn thiện
chế định chiếm hữu, theo quy định tại Điều 179 BLDS 2015 hiện hành: Chiếm hữu là
việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có
quyền đối với tài sản, hay nói cách khác, là sự chiếm hữu vật thực tế kết hợp với ý chí
của người chiếm hữu coi vật đó như là của mình.
Nói tóm lại, ta có thể thấy thực chất việc chiếm hữu là căn cứ để xác định quyền
chiếm hữu của chủ thể, đồng thời là điều kiện làm phát sinh quan hệ chiếm hữu cũng
như những hệ lụy pháp lý của quan hệ chiếm hữu. Chiếm hữu với ý nghĩa là chiếm
dụng đồ vật trên thực tế là quan hệ làm cơ sở phát sinh cho sở hữu và quyền sở hữu.
Như vậy, chiếm hữu đòi hỏi không chỉ sự nắm giữ, chi phối tài sản mà còn là nhận
thức và mong muốn sự thống trị đó. Điều này khác biệt với chiếm giữ chỉ là sự nắm
giữ, chi phối tài sản nhưng không có ý chí coi vật đó là của mình. Ví dụ: X thuê đồ
vật, trên thực tế, X chiếm giữ vật, tuy nhiên X không có ý thức xem vật đó thuộc sở
hữu của mình. Bởi nếu X coi vật đó là của mình thì sẽ không bao giờ trả tiền cho việc
sử dụng vật cả.
1.1.2.2. Khái niệm quyền chiếm hữu

Trong khoa học pháp lý, chiếm hữu được hiểu là quan hệ giữa người đối với vật
(tài sản). Với quan niệm truyền thống như vậy, chúng ta đã lấy quyền của người chiếm
hữu làm trung tâm của chế định sở hữu. Từ đó, các quy định pháp luật trước đây chỉ
khái quát và tập trung quy định địa vị pháp lý và các quyền chủ thể của người chiếm
hữu, nghĩa là quy định quyền chiếm hữu được nhìn nhận ở trạng thái tĩnh, hẹp so với
yêu cầu của quan hệ kinh tế đầy biến động trong thời đại mới. Vì vậy, để đảm bảo sự
phù hợp, Bộ luật Dân sự Việt Nam đã xây dựng chế định quyền chiếm hữu theo quan
niệm rộng hơn, theo đó, chiếm hữu được hiểu là yếu tố cơ bản góp phần tạo lên toàn
bộ quan hệ xã hội, nhìn nhận chiếm hữu dưới tư thế vận động. Từ đó, chế định quyền
chiếm hữu trong BLDS Việt Nam không những chỉ giữ nguyên tắc quyền chủ thể ở vị
trí trung tâm, là xuất phát điểm để quy định các quy định pháp lý tương ứng và đầy đủ
các quyền năng của chủ sở hữu như chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản. Quyền
chiếm hữu là khái niệm pháp luật thuộc ngành luật dân sự, có thể được hiểu theo hai
nghĩa:
10


Nghĩa rộng: Quyền chiếm hữu là pháp luật về chiếm hữu trong một hệ thống
pháp luật nhất định. Vì vậy, quyền chiếm hữu là tổng hợp các quy phạm pháp luật do
nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chiếm
giữ và quản lý các tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, những tài sản khác.
Nghĩa hẹp: Quyền chiếm hữu được hiểu là mức độ xử sự mà pháp luật cho phép
một chủ thể được thực hiện các quyền năng nắm giữ và quản lý trong những điều kiện
nhất định. Theo nghĩa này, có thể nói quyền chiếm hữu chính là những quyền năng
dân sự chủ quan của từng loại chiếm hữu nhất định đối với một tài sản cụ thể, được
xuất hiện trên cơ sở nội dung của quy phạm pháp luật chiếm hữu.
Ngoài ra, theo một phương diện khác, quyền chiếm hữu trong BLDS 2015 quy
định tại điều 186: Quyền chiếm hữu là quyền năng của chủ sở hữu được thực hiện mọi
hành vi theo ý chí của mình, nắm giữ, chi phối tài sản thuộc sở hữu nhưng không được
trái pháp luật, đạo đức xã hội.

Quyền chiếm hữu được xác định là một trong ba loại quyền cấu thành quyền sở
hữu của chủ sở hữu tài sản (quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt).
Quyền chiếm hữu với tính chất là một trong các quyền năng của chủ sở hữu, nên khi
đã xác định được chính xác chủ sở hữu thì lúc này việc chiếm hữu tài sản được xác
định là “quyền”. Còn việc chiếm hữu tài sản của một chủ thể trong xã hội chỉ phản ánh
thực tế chiếm hữu của người đó chứ chưa chắc chủ thể này đã thực sự có “quyền”
trong việc chiếm hữu tài sản đó. Đây là lý do BLDS năm 2015 dùng thuật ngữ “quyền
chiếm hữu” và “chiếm hữu” để quy định về hai nội dung này. Việc phân biệt cụ thể
giữa “quyền chiếm hữu” (với tư cách là một quyền năng của chủ sở hữu) và chiếm
hữu (với tư cách là một tình trạng pháp lý) là điều cần thiết, tránh những nhầm lẫn
không đáng có giữa hai nội dung này. Nếu như trước đây quyền chiếm hữu là quyền
nắm giữ, quản lý tài sản; thì hiện nay BLDS 2015 lại khẳng định quyền chiếm hữu là
quyền nắm giữ, chi phối tài sản. So với quản lý thì chi phối rộng hơn, bao hàm cả việc
quản lý. Việc chi phối được hiểu là ngay cả trường hợp tài sản đã chuyển giao sang
cho chủ thể khác cầm giữ, quản lý thì chủ sở hữu vẫn còn tiếp tục được chi phối tài
sản. Bởi suy cho cùng thì tài sản vẫn là của chủ sở hữu nên họ có quyền giám sát, chi
phối tài sản của họ là điều hợp lý. Việc ghi nhận “chiếm hữu” vào BLDS 2015 có ý
nghĩa quan trọng trong thực tiễn đời sống xã hội: người đang thực tế chiếm hữu sẽ
được suy đoán là chiếm hữu ngay tình và được bảo vệ trước sự xâm phạm của các chủ
11


thể khác. Nếu các chủ thể khác muốn bác bỏ việc chiếm hữu của một chủ thể là không
ngay tình thì phải chứng minh (Điều 184, 185 BLDS 2015). Với ghi nhận này, BLDS
2015 đã phản ánh đúng thực tế trong xã hội và ổn định các quan hệ xã hội.
Quyền chiếm hữu là một quyền năng của quyền sở hữu nên quyền chiếm hữu là
kết quả của quyền sở hữu mang lại. Bên cạnh đó, nhiều quy định trong BLDS xuất
phát từ tình trạng chiếm hữu của một chủ thể mà qua đó xác lập quyền sở hữu đối với
vật, chiếm hữu được coi là điều kiện để xác lập quyền, như các quy định: xác lập
quyền sở hữu đối với vật vô chủ, vật không xác định được chủ sở hữu; xác lập quyền

sở hữu đối với vật bị chôn giấu, bị chìm đắm chưa được tìm thấy.
Quyền chiếm hữu là một quan hệ pháp luật dân sự, bản thân nó chính là hệ quả
của sự tác động của một bộ phận pháp luật vào các quan hệ xã hội, vì vậy, quyền
chiếm hữu bao gồm đầy đủ ba yếu tố của quan hệ pháp luật dân sự: chủ thể, khách thể,
nội dung như mọi quan hệ pháp luật bất kỳ.
1.1.2.3.
1.1.2.4. Đặc điểm
Chiếm hữu đối với tài sản có ý nghĩa lớn với mọi mặt của đời sống xã hội, nó là
nền tảng, là tiền đề tài sản cho phát triển sản xuất, kinh doanh và thực hiện các yêu cầu
khác về vật chất, văn hoá tinh thần của con người. Chỉ khi nào sở hữu được tài sản thì
chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp mới có thể đem đầu tư và tiến hành sản xuất
kinh doanh và thực hiện các mục đích của bản thân.
Từ các quan điểm định nghĩa về quyền chiếm hữu, có thể rút ra các đặc điểm của
quyền chiếm hữu như sau:
Quyền chiếm hữu có điểm chung với các quyền chủ thể khác ở chỗ: nó xuất hiện
cùng với các sự kiện thực tế là việc chiếm hữu tài sản trên thực tế; bảo vệ chiếm hữu
chỉ bắt đầu xuất hiện cùng với sự kiện xác lập sự thống trị thực tế đối với đồ vật kết
hợp với ý chí coi đồ vật như là của mình. Sự tiếp diễn của các sự kiện pháp lý là sự
chiếm hữu tài sản trên thực tế làm phát sinh quyền chiếm hữu là điều kiện cho sự tồn
tại của quyền yêu cầu bảo vệ.
Đặc thù riêng của chiếm hữu chính là ở chỗ: đối với tất cả các quyền chủ thể
khác, ví dụ: quyền sở hữu, quyền đối nhân - quyền trong các trường hợp này khi vừa
xuất hiện, ngay lập tức, chúng dường như tách biệt khỏi các sự kiện làm phát sinh
chúng (hợp đồng, vi phạm), những sự kiện này đã thuộc về quá khứ, cái đang tiếp diễn
12


chỉ là những hệ quả pháp lý của các sự kiện mà thôi. Đối với quyền chiếm hữu, sự tiếp
diễn của các sự kiện pháp lý là sự chiếm hữu tài sản trên thực tế làm phát sinh quyền là
điều kiện cho sự tồn tại của quyền yêu cầu bảo vệ. Người chiếm hữu có quyền chỉ khi

nào anh ta thực tế đã có vật. Như vậy, đối với quyền chiếm hữu sự kiện xác lập quyền
đồng thời là điều kiện thường xuyên để quyền này tồn tại.
Đặc trưng quan trọng nhất của quyền chiếm hữu là chủ sở hữu, người chiếm hữu
hợp pháp tự mình chiếm giữ, quản lý tài sản thuộc sở hữu của mình không một tổ chức
hay cá nhân nào có quyền hạn chế, can thiệp hay cản trở chủ sở hữu, người chiếm hữu
hợp pháp thực hiện quyền năng đó, trừ khi pháp luật có quy định. Người chiếm hữu
hợp pháp có thể loại trừ bất cứ hành vi của người nào đó có sự can thiệp, chi phối làm
ảnh huởng đến tài sản thuộc quyền của mình. Đây là quyền năng đặc biệt mà các chủ
thể khác không phải là người chiếm hữu hợp pháp không có đuợc. Quyền chiếm hữu
là tiền đề cơ sở để thực hiện hai quyền tiếp theo của chủ sở hữu
Đặc trưng tiếp theo là quyền chiếm hữu là một loại vật quyền mang tính tuyệt
đối. Quyền chiếm hữu buộc các chủ thể khác phải tôn trọng quyền của người chiếm
hữu, không đuợc cản trở hoặc xâm phạm việc thực hiện quyền của người chiếm hữu.
Điều 58 Hiến pháp 1992 ghi nhận: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và
quyền thừa kế của công dân”. Điều đó cũng có nghĩa là sự bảo hộ của nhà nước đối
với quyền chiếm hữu hợp pháp tài sản cũng đuợc khẳng định. Nhà nước khuyến khích
việc khai thác tài sản hợp pháp để thu lợi và làm giàu chính đáng, nhà nước có chính
sách bảo hộ quyền lợi của người sản xuất và tiêu dùng. Đồng thời, nhà nước sẽ xử lý
thật nghiêm khắc với các hành vi phá hoại nền kinh tế, xâm phạm đến lợi ích và tài sản
của nhà nước, của tập thể, quyền lợi ích hợp pháp của công dân [27].
Quyền chiếm hữu là một quyền được pháp luật ghi nhận và bảo vệ, nó phát sinh
khi chủ thể trực tiếp chiếm hữu tài sản: Chủ thể khi chiếm hữu tài sản thì có thể được
pháp luật bảo vệ trong những trường hợp nhất định.
Về bản chất của quyền chiếm hữu: Trong mỗi hệ thống pháp luật của các nước
đều ghi nhận sự tồn tại của quyền chiếm hữu, tuy nhiên các quan điểm có thể chưa
thực sự đầy đủ, đồng nhất, vì vậy, việc xác định bản chất thật sự của quyền chiếm hữu
sẽ cho ta cái nhìn khoa học, logic và khái quát để từ đó có được những đánh giá khách
quan đối với các quy định thực định của pháp luật Việt Nam về quyền chiếm hữu.
Nhìn nhận các quan điểm định nghĩa về quyền chiếm hữu, có thể thấy rõ nét nhất sự
13



đồng nhất xuyên suốt trong các quan điểm này là: Quyền chiếm hữu là một quan hệ
pháp luật dân sự, bản thân nó chính là hệ quả của sự tác động của một bộ phận pháp
luật vào các quan hệ xã hội, bao gồm đầy đủ ba yếu tố của quan hệ pháp luật dân sự:
chủ thể, khách thể, nội dung như mọi quan hệ pháp luật bất kỳ. Có thể nói quyền
chiếm hữu chính là những quyền năng dân sự chủ quan của từng loại chiếm hữu nhất
định đối với một tài sản cụ thể, được xuất hiện trên cơ sở nội dung của quy phạm pháp
luật chiếm hữu, là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành để điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chiếm giữ và quản lý các tư liệu sản
xuất, tư liệu tiêu dùng, những tài sản khác. Quan điểm cho rằng quyền chiếm hữu được
xác định là một trong ba loại quyền cấu thành nên quyền sở hữu của chủ sở hữu tài sản
được những người soạn thảo Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 1995 và cả BLDS năm
2005 sau này thấm nhuần và trở thành tư tưởng chủ đạo, được quán triệt trong quá
trình xây dựng các quy tắc của Bộ luật liên quan đến quyền sở hữu. Chế độ pháp lý về
sở hữu ở Việt Nam trở nên đặc thù và điều này khiến cho việc cải cách pháp luật dân
sự trong khung cảnh hội nhập, đặc biệt về phần liên quan đến tài sản, là việc không
đơn giản. Trở ngại chính đối với việc cải cách là sự khác biệt lớn giữa Việt Nam và
các nền văn hoá pháp lý tiêu biểu trong cách hiểu về nội dung của quyền sở hữu, từ đó
ảnh hưởng đến cách định vị chế định chiếm hữu trong pháp luật tài sản [18]. Mặc dù
không xác định quyền chiếm hữu đối với tài sản là “quyền khác đối với tài sản”, tuy
nhiên, quyền chiếm hữu trong Bộ luật Dân sự năm 2015 đã được tiếp cận theo hướng
vật quyền, được xem là quyền đối với vật và được bảo vệ chứ không còn đơn thuần chỉ
là một quyền năng trong quyền sở hữu. Theo Bộ luật Dân sự năm 1995 và cả Bộ luật
Dân sự năm 2005, quyền chiếm hữu được định nghĩa chính thức là một quyền năng
trong quyền sở hữu và nội hàm của quyền sở hữu cũng có nét tương đồng với các nước
tiên tiến, đặc biệt là các nước theo hệ thống dân luật như Pháp, Đức, Nhật. Tuy nhiên,
Luật cổ La Mã cũng như luật của các nước Châu Âu trên cơ sở quán triệt của Luật La
Mã không sử dụng cụm từ “quyền chiếm hữu” trực tiếp trong khái niệm quyền sở hữu.
Chẳng hạn, theo Điều 544 Bộ luật Dân sự năm 2005 của Pháp thì “quyền sở hữu là

quyền được hưởng dụng và định đoạt tài sản một cách tuyệt đối nhất, miễn là không sử
dụng tài sản vào những việc pháp luật cấm”. Việc sử dụng thuật ngữ quyền chiếm hữu
bó hẹp trong quyền sở hữu đã làm cho làm cho luật Việt Nam khó hiểu so với các
nước và khó khăn, phức tạp trong việc thực hiện các quy định liên quan đến quyền sở
14


hữu, chiếm hữu. Việt Nam không tiếp nhận hoàn toàn quy định này từ các nước Châu
Âu khi Bộ luật Dân sự năm 2015 vẫn tiếp tục giữ lại cụm từ “quyền chiếm hữu” trong
khái niệm, nội dung quyền sở hữu (Điều 158, BLDS 2015).
1.1.3.

Phân loại

Căn cứ vào tình trạng chiếm hữu, có thể phân loại chiếm hữu thành: Chiếm hữu
liên tục (Điều 182, BLDS 2015) và Chiếm hữu không liên tục (Điều 190, BLDS
2015); Chiếm hữu công khai (Điều 183, BLDS 2015) và Chiếm hữu không công khai
(Điều 191, BLDS 2015).
 Chiếm hữu liên tục được quy định tại Điều 182 BLDS 2015 được hiểu là việc
chiếm hữu về mặt thực tế và về mặt pháp lý của một chủ thể đối với tài sản. Chiếm
hữu về mặt thực tế là việc chủ sở hữu, hoặc người có quyền chiếm hữu tự mình nắm
giữ tài sản. Khi chủ sở hữu trao quyền chiếm hữu tài sản của mình cho một chủ thể
khác, thì chủ sở hữu chỉ có quyền chiếm hữu về mặt pháp lý đối với tài sản, còn chủ
thể được chủ sở hữu trao quyền chiếm hữu thì có quyền chiếm hữu thực tế đối với tài
sản. Đây là trường hợp chủ sở hữu trao quyền chiếm hữu thực tế một cách tự nguyện.
Ví dụ: A gửi xe moto của mình cho tại bãi gửi xe tại siêu thị X, người trông xe là B,
thì A là người chiếm hữu về mặt pháp lý đối với tài sản, B là người chiếm hữu về mặt
thực tế đối với tài sản.
Tính liên tục của chiếm hữu được ghi nhận bao gồm hai điều kiện: việc chiếm
hữu diễn ra trong một khoảng thời gian xác định và điều kiện thứ hai là không có tranh

chấp về quyền đối với tài sản hoặc có tranh chấp nhưng chưa được giải quyết bằng
một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật tại Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền khác. Việc chiếm hữu của chủ thể không bị gián đoạn trong quá trình
chiếm hữu đồng thời không xảy ra các tranh chấp về quyền sở hữu, quyền chiếm hữu,
quyền sử dụng,… đối với tài sản, hoặc nếu có các loại tranh chấp này thì chưa được
giải quyết tại tòa án hoặc cơ quan nước có thẩm quyền bằng một bản án hoặc quyết
định có hiệu lực pháp luật. Điều 190 BLDS 2005 chỉ ghi nhận chiếm hữu liên tục
trong một khoảng thời gian và không có tranh chấp về tài sản thì đến BLDS 2015 bổ
sung thêm trường hợp có tranh chấp nhưng chưa được giải quyết bằng một bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền
khác. Như vậy theo tinh thần của điều luật này thì dù việc chiếm hữu được thực hiện

15


trong một khoảng thời gian mà có tranh chấp hay không có tranh chấp về quyền đối
với tài sản thì vẫn được coi là chiếm hữu liên tục.
 Chiếm hữu công khai được thể hiện chính là ở việc người chiếm hữu thực hiện
các tác động vật chất đối với tài sản một cách minh bạch, không giấu giếm. Người
chiếm hữu có thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách rõ ràng, không che giấu vì một ý
đồ gì. Cần phân biệt việc chiếm hữu giấu giếm với trường hợp chiếm hữu với loại tài
sản đặc thù không thể hiện ra bên ngoài, ví dụ: mua vàng để cất giữ trong két sắt, dù
không thể hiện ra bên ngoài cho các chủ thể khác biết về việc để dành tài sản là vàng
này nhưng người chiếm hữu này không hướng đến việc giấu giếm nhằm một ý đồ gì.
Ngoài ra, chiếm hữu công khai còn thể hiện qua việc chủ thể chiếm hữu có đầy đủ căn
cứ chứng minh tình trạng chiếm hữu của mình đối với tài sản, thể hiện tính minh bạch
trong việc chiếm hữu tài sản.
Việc chiếm hữu liên tục, công khai vừa có ý nghĩa trong xác định và bảo vệ
quyền sở hữu của chủ sở hữu, vừa là căn cứ quan trọng để xác định quyền sở hữu theo
thời hiệu theo quy định tại Điều 236 BLDS 2015: “ Người chiếm hữu, người được lợi

về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời
hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài
sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có
liên quan có quy định khác”.
Khi xảy ra tranh chấp về quyền đối với tài sản thì người chiếm hữu được ưu
tiên suy đoán là người có quyền đó. Việc chứng minh người chiếm hữu không có
quyền thuộc về người có tranh chấp với người chiếm hữu. Trong trường hợp chủ sở
hữu của tài sản phủ nhận quyền của người chiếm hữu thì cũng không có ngoại lệ, đòi
hỏi chủ sở hữu phải đưa ra các căn cứ chứng minh quyền sở hữu tài sản của mình cũng
như chứng minh người chiếm hữu không có quyền đối với tài sản. Ví dụ: A là chủ sở
hữu một chiếc xe máy, A cho B thuê để chạy, sau đó B bán chiếc xe máy đó cho C. A
muốn phủ nhận việc chiếm hữu xe máy của C thì A phải chứng minh quyền sở hữu
của mình, có thể thông qua dấu hiệu đặc trưng của tài sản, qua giấy đăng ký quyền sở
hữu xe máy,…
Việc chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai được coi là căn cứ để áp dụng thời
hiệu hưởng quyền và hưởng hoa lợi, lợi tức mà tài sản mang lại. Đây là một quy định
mới trong BLDS 2015 hướng đến việc bảo vệ việc chiếm hữu có căn cứ pháp luật của
16


chủ thể. Chủ thể chiếm hữu tài sản này bao gồm: Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản; Người
được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản; Người được chuyển giao quyền chiếm hữu
thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật; Người phát hiện và
giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị
bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo quy định của
Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; Người phát hiện và giữ gia súc,
gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ
luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan và trường hợp khác do pháp luật
quy định [12].
Trong trường hợp việc chiếm hữu bị người khác xâm phạm thì người chiếm hữu

hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Trên thực tế, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự
bảo vệ việc chiếm hữu của mình bằng rất nhiều cách thức khác nhau như tự bảo quản,
giữ gìn tài sản. Người chiếm hữu có thể tự mình thực hiện quyền yêu cầu người có
hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành vi, khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại tài sản
và bồi thường thiệt hại bằng những biện pháp không trái quy định của pháp luật. Hoặc
người chiếm hữu có thể yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc
người có hành vi xâm phạm việc chiếm hữu thực hiện các trách nhiệm này.
 Chiếm hữu không liên tục: Theo Điều 182 BLDS 2015, “việc chiếm hữu tài
sản được thực hiện trong một khoảng thời gian mà không có tranh chấp về tài sản đó
là chiếm hữu liên tục, kể cả khi tài sản được giao cho người khác chiếm hữu”. Như
vậy, để có sự chiếm hữu liên tục với tư cách chủ sở hữu cần có đầy đủ các điều kiện
sau: Có sự liên tục của corpus và animus; Không có sự tranh chấp của người thứ ba về
tài sản. Những trường hợp chiếm hữu không đáp ứng đầy đủ những điều kiện này sẽ
được xem là sự chiếm hữu không liên tục.
 Chiếm hữu không công khai: Theo Điều 191 BLDS, “việc chiếm hữu được coi
là công khai khi thực hiện một cách minh bạch, không giấu giếm; tài sản đang chiếm
hữu được sử dụng theo tính năng, công dụng và được người chiếm hữu bảo quản, giữ
gìn như tài sản của chính mình”. Yếu tố cơ bản và quan trọng nhất của khái niệm
chiếm hữu công khai chính là sự công khai của corpus, nghĩa là người chiếm hữu thực
hiện các tác động vật chất đối với tài sản một cách minh bạch, không giấu giếm. Và
ngược lại, sự chiếm hữu trở nên không công khai một khi các giao dịch tạo thành
corpus được thực hiện không minh bạch hoặc giấu giếm nhằm ngăn chặn sự truy tìm
17


tài sản của người có quyền kiện đòi lại tài sản. Khi đó, sự chiếm hữu công khai với tất
cả mọi người, trừ người có quyền kiện đòi lại tài sản vẫn là sự chiếm hữu công khai
theo ý nghĩa pháp lý. Do đó, có thể nói rằng sự chiếm hữu công khai theo ý nghĩa pháp
lý chỉ là một khái niệm tương đối. Việc chiếm hữu không công khai không được coi là
căn cứ để suy đoán về tình trạng và quyền của người chiếm hữu theo quy định tại Điều

184 BLDS 2015. Việc quy định thêm này giúp cho các trường hợp được phép áp dụng
Điều 184 BLDS 2015 trở nên có chọn lọc và thống nhất với quy định tại khoản 3 Điều
184. Không phải người chiếm hữu nào cũng được suy đoán là người có quyền đối với
tài sản. Chỉ người chiếm hữu 1 cách công khai, minh bạch mới được pháp luật suy
đoán là người có quyền đối với tài sản đó.
1.1.4.

Sự xuất hiện của quyền chiếm hữu trong Pháp luật Dân sự Việt Nam

1.1.4.1. Sự cần thiết của chế định về quyền chiếm hữu trong luật đương đại
Chiếm hữu có quá trình hình thành và phát triển lâu dài, thay đổi theo mỗi giai
đoạn phát triển của lịch sử - trình độ kinh tế xã hội, nên nó còn là một phạm trù lịch sử
[6, tr.745-756]. Trong quá khứ, khi Nhà nước và pháp luật chưa ra đời, đã tồn tại chế
độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất (chế độ cộng sản nguyên thuỷ). Tuy còn giản
đơn và sơ khai, nhưng quan hệ chiếm hữu đã phản ánh được mối quan hệ giữa con
người với nhau trong việc chiếm giữ các sản phẩm xã hội. Khi Nhà nước ra đời, vấn
đề chiếm hữu có vai trò rất quan trong, nó khẳng định địa vị của mỗi con người, mỗi
gia đình và khẳng định quyền lực của nhà nước thông qua quan hệ chiếm hữu.Như
vậy, về bản chất, chiếm hữu là quan hệ giữa người với của cải vật chất trong xã hội.
Quan hệ giữa người với vật tự nhiên phát sinh là do quan hệ giữa người với người
trong sản xuất, từ đó mới có quan hệ chiếm hữu. Chiếm hữu là phạm trù lịch sử, thay
đổi cùng với sự thay đổi của các hình thái xã hội trong lịch sử.
Khi nhà nước và pháp luật ra đời thì quyền chiếm hữu được điều chỉnh bằng
pháp luật và trở thành quan hệ pháp luật. Quyền chiếm hữu là một trong ba quyền
năng của quyền sở hữu, là một chế định pháp luật vừa mang tính chủ quan, vừa mang
tính khách quan bởi vì nó vừa là sự ghi nhận của nhà nước, đồng thời là sự phản ánh
những quan hệ kinh tế phát sinh từ quá trình sản xuất.Như vậy, chiếm hữu với tư cách
là một phạm trù pháp lý, nó là sản phẩm của sự kết hợp giữa yêu cầu chủ quan và yêu
cầu khách quan, trong đó yêu cầu khách quan giữ vai trò quyết định đối với bản chất,
nội dung của pháp luật. Các hình thức chiếm hữu khác nhau trong nền kinh tế luôn

18


×