Hợp đồng nhượng quyền thương mại theo pháp
luật Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Nguyễn Thị Vân
Khoa Luật
Luận văn ThS ngành: Luật Quốc tế; Mã số: 60 38 60
Người hướng dẫn: TS. Nông Quốc Bình
Năm bảo vệ: 2011
Abstract: Khái quát chung về nhượng quyền thương mại và hợp đồng nhượng
thương mại. Nghiên cứu các vấn đề pháp lý cơ bản về hợp đồng nhượng quyền
thương mại (HĐNQTM) bao gồm quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp
đồng, việc gia hạn, chấm dứt và thời hạn của hợp đồng từ đó giúp các bên khi
tham gia quan hệ hợp đồng hiểu được bản chất của loại hợp đồng này cũng như
đưa ra nhận định về quy định của pháp luật Việt Nam trong trường hợp liên quan.
Phân tích thực trạng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam. Đưa ra những giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh HĐNQTM.
Keywords: Pháp luật Việt Nam; Luật Quốc tế; Hợp đồng thương mại; Hội nhập
quốc tế; Luật thương mại
Content
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Franchise (nhượng quyền thương mại) có nguồn gốc từ tiếng Pháp, có nghĩa là đặc
quyền, ưu đãi là một hình thức nhân rộng thương hiệu, nhân rộng mô hình kinh doanh đã
được du nhập và đang phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam, đặc biệt sau khi Việt Nam trở
thành thành viên chính thức Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO).
Quan hệ nhượng quyền thương mại liên quan đến nhiều lĩnh vực như: quyền sở hữu
trí tuệ, cạnh tranh, bản thân quyền thương mại lại được hình thành từ một gói các quyền
liên quan đến nhiều đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ, vì vậy việc kiểm soát sở hữu đối
với loại tài sản này không dễ dàng. Do bên nhận quyền cũng độc lập về hoạt động kinh
doanh, thường không phải là công ty con hoặc công ty bị chi phối bởi bên nhượng quyền
nên có xu hướng muốn được thực hiện các hoạt động thương mại một cách độc lập, không
muốn chịu sự kiểm soát của bên nhượng quyền. Trong khi đó, bên nhượng quyền thông
qua thỏa thuận với bên nhận quyền trên cơ sở HĐNQTM luôn bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
của mình và thực hiện việc giám sát chặt chẽ đối với toàn hệ thống nhượng quyền mà cụ
thể là các bên nhận quyền. Chính vì vậy, mối quan hệ tưởng chừng như được kết nối bởi sự
hợp tác giữa các bên nhượng quyền và nhận quyền lại là mối quan hệ chứa đựng những
khả năng phát sinh tranh chấp. Thêm vào đó, thực tiễn của hoạt động nhượng quyền
thương mại ở Việt Nam cho thấy, có nhiều tác động tiêu cực, bắt nguồn từ việc thực hiện
nhượng quyền thương mại, tới các bên chủ thể của quan hệ nhượng quyền thương mại,
người tiêu dùng và nền kinh tế nói chung.
Xuất phát từ thực tế nói trên, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO,
đề tài “Hợp đồng nhượng quyền thương mại theo pháp luật Việt Nam trong bối cảnh
hội nhập quốc tế” được tác giả chọn để nghiên cứu là một vấn đề mang tính thời sự và
cấp thiết. Việc nghiên cứu, đánh giá có hệ thống và toàn diện quy định pháp luật về
HĐNQTM, đề ra những giải pháp cụ thể nhằm tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
áp dụng pháp luật về HĐNQTM là cần thiết, góp phần hoàn thiện pháp luật về thương
mại tại Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển hoạt động thương mại trong bối cảnh hội
nhập quốc tế.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU , Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA
ĐỀ TÀI
Trên thế giới các công trình nghiên cứu về nhượng quyền thương mại đã được thực
hiện gắn liền với suốt quá trình hình thành và phát triển nhượng quyền thương mại ở mỗi quốc
gia.
Ở Việt Nam, pháp luật về HĐNQTM là một phần của pháp luật về nhượng quyền
thương mại và là nội dung quan trọng của pháp luật thương mại trong bối cảnh hội nhập
kinh tế sâu và rộng như ngày nay. Vấn đề này đang được nhiều nhà khoa học thuộc các
lĩnh vực khác nhau quan tâm nghiên cứu. Với từng phạm vi và mức độ khác nhau, có một
số công trình đã được công bố, đề cập đến một vài khía cạnh kinh tế, pháp lý của hoạt
động nhượng quyền thương mại và những ảnh hưởng của hoạt động thương mại này tới
đời sống xã hội.
Luận văn này tiếp cận và đi sâu nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện và có hệ
thống các vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng về nhượng quyền thương mại và pháp
luật về HĐNQTM trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
3. MỤC TIÊU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài này tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và các quy định cụ thể về HĐNQTM
theo pháp luật Việt Nam, cụ thể ở đây là HĐNQTM theo Luật Thương mại 2005 và các
văn bản hướng dẫn thi hành.
Trong phần nội dung, tác giả sẽ phân tích các vấn đề pháp lý cơ bản về
HĐNQTM bao gồm quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng, việc gia hạn,
chấm dứt và thời hạn của hợp đồng v.v từ đó giúp các bên khi tham gia quan hệ hợp đồng
hiểu được bản chất của loại hợp đồng này cũng như đưa ra nhận định về quy định của
pháp luật Việt Nam trong từng trường hợp liên quan. Qua đó, tác giả sẽ nêu lên những
kiến nghị có thể được áp dụng trong việc hoàn thiện pháp luật về HĐNQTM một cách
hợp lý, khoa học và phù hợp với thông lệ quốc tế.
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau, như
phương pháp tổng hợp và phân tích để phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam
trong HĐNQTM để từ đó đánh giá mức độ hiệu quả khi áp dụng các quy định đó trên
thực tiễn áp dụng của các bên trong hợp đồng; phương pháp thống kê, phương pháp so
sánh và đối chiếu các quy đinh của các quy định của pháp luật Việt Nam với các quy
định của pháp luật các nước, từ đó rút ra những điểm đã đạt được và những điểm cần phải
sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện pháp luật về HĐNQTM; phương pháp kết hợp nghiên
cứu lý luận với thực tiễn Các phương pháp nghiên cứu trong Luận văn được thực hiện
trên nền tảng của phương pháp duy vật lịch sử, duy vật biện chứng; trên cơ sở các quan
điểm, đường lối về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam
5. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Luận văn này được bố cục như sau:
Phần mở đầu
Chương 1. Khái quát chung về nhượng quyền thương mại và hợp đồng nhượng
quyền thương mại
Chương 2. Những vấn đề pháp lý cơ bản của hợp đồng nhượng quyền thương mại
Chương 3. Thực trạng việc thực hiện hợp đồng nhượng quyền thương mại và giải
pháp hoàn thiện
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo.
CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI VÀ
HỢP ĐỒNG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI
1.1 Khái quát chung về nhƣợng quyền thƣơng mại
1.1.1 Định nghĩa về nhượng quyền thương mại
Để thấy được bản chất của quan hệ HĐNQTM, chúng ta cùng tìm hiểu và phân
tích các định nghĩa/khái niệm nhượng quyền dưới lăng kính pháp lý.
Ở Việt Nam, Luật Thương mại 2005 đã lần đầu tiên trong hệ thống pháp luật Việt
Nam đưa ra định nghĩa về nhượng quyền thương mại như sau: “Nhượng quyền thương
mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận
quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau
đây:
1. Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh
doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hóa, tên
thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh,
quảng cáo của bên nhượng quyền;
2. Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều
hành công việc kinh doanh.”
Định nghĩa trên đã nêu lên những nét chính, đặc trưng của nhượng quyền thương
mại. Tuy nhiên, định nghĩa đã bỏ qua một yếu tố chính của nhượng quyền là phí nhượng
quyền. Do hai bên tham gia quan hệ nhượng quyền là hai bên độc lập không có quan hệ
về vốn với nhau và hoạt động nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại do
các thương nhân thực hiện nên việc quy định về phí là cần thiết. Ngoài ra, việc quy định
cụ thể các đối tượng mà việc kinh doanh gắn với như nhãn hiệu hàng hóa, tên thương
mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo là
không cần thiết vì trên thực tế việc kinh doanh có thể chỉ gắn liền với một trong hoặc một
vài các đối tượng trên và ngược lại cũng có thể gắn với các đối tượng khác ngoài các đối
tượng trên. Theo quan điểm của tác giả thì nhượng quyền thương mại ở Việt Nam nên
được định nghĩa như sau:
“Nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại theo đó thông qua một
hợp đồng bên nhượng quyền cho phép bên nhận quyền độc lập tiến hành việc mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo một phương thức kinh doanh và gắn liền với các đối
tượng sở hữu trí tuệ do bên nhượng quyền sở hữu hoặc kiểm soát, bên nhượng quyền sẽ
tiến hành việc hỗ trợ và kiểm soát thường xuyên đối với việc kinh doanh của bên nhận
quyền, đổi lại, bên nhận quyền sẽ trả cho bên nhượng quyền một khoản phí”.
1.1.2 Các đặc điểm của nhượng quyền thương mại
Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại mang những đặc điểm, tính
chất tổng hợp của một số loại hoạt động thương mại khác, đặc biệt là quan hệ chuyển
giao công nghệ, li-xăng và hoạt động phân phối thương mại. Tuy nhiên, nhượng quyền
thương mại cũng mang những đặc điểm riêng biệt giúp chúng ta có thể phân biệt rõ ràng
hoạt động này với các hoạt động thương mại khác:
1.1.2.1 Đối tượng của nhượng quyền thương mại là “quyền thương mại”
Việc xác định đây là một hoạt động thương mại có ý nghĩa trong việc xác định pháp
luật áp dụng và xác định cơ quan tài phán trong trường hợp có tranh chấp. Theo NĐ số
35/2006/ND-CP thì “quyền thương mại” được hiểu bao gồm một, một số hoặc toàn bộ
các quyền sau đây:
Quyền được Bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu Bên nhận quyền tự mình tiến
hành công việc kinh doanh cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ theo một hệ thống do
Bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại,
khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của Bên nhượng quyền;
Quyền được Bên nhượng quyền cấp cho Bên nhận quyền sơ cấp quyền thương mại
chung. Bên nhận quyền sơ cấp là thương nhân nhận quyền thương mại từ Bên
nhượng quyền ban đầu;
Quyền được Bên nhượng quyền thứ cấp (là thương nhân có quyền cấp lại quyền
thương mại mà mình đã nhận từ Bên nhượng quyền ban đầu cho Bên nhận quyền
thứ cấp) cấp lại cho Bên nhận quyền thứ cấp (là thương nhân nhận lại quyền
thương mại) theo HĐNQTM chung.
Quyền được Bên nhượng quyền cấp cho Bên nhận quyền quyền thương mại theo
hợp đồng phát triển quyền thương mại.
Hiểu một cách khái quát thì “quyền thương mại” là quyền tiến hành kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ theo cách thức của bên nhượng quyền quy định cùng với đó là việc sử
dụng các nhãn mác, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng
cáo của bên nhượng quyền.
1.1.2.2 Luôn có sự kiểm soát của bên nhượng quyền và bên nhận quyền phải tuân thủ các
quy định của mô hình nhượng quyền thương mại.
Nhượng quyền thương mại là việc nhiều chủ thể tiến hành kinh doanh với một tên
gọi, cách thức thống nhất. Do vậy, yêu cầu của hoạt động này là phải đảm bảo được tính
đồng nhất về các yêu tố liên quan đến quy trình kinh doanh như thống nhất về chất lượng
hàng hóa, dịch vụ, phương thức phục vụ, cách thức bài trí cơ sở kinh doanh và để thực
hiện được điều đó thì bên nhượng quyền luôn yêu cầu các bên bên nhận quyền phải có
nghĩa vụ tuân thủ theo mô hình kinh doanh của mình
1.1.2.3 Bên nhận quyền là bên độc lập so với bên nhượng quyền.
Trong hoạt động nhượng quyền thương mại, giữa bên nhượng quyền và bên nhận
quyền luôn tồn tại mối quan hệ hỗ trợ mật thiết được hình thành ngay sau khi các bên ký
kết HĐNQTM. Sau thời điểm ký kết hợp đồng, Bên nhượng quyền phải tiến hành cung
cấp tài liệu, đào tạo nhân viên đồng thời cùng với sự lớn mạnh và phát triển theo thời
gian của hệ thống, bên nhượng quyền cũng phải thường xuyên hỗ trợ về mặt kỹ thuật cho
bên nhận quyền nhưng điều đó không có nghĩa là bên nhượng quyền sẽ kinh doanh thay
cho bên nhận quyền mà bên nhận quyền phải tự mình tiến hành các hoạt động kinh doanh
dưới tên gọi, bí quyết của bên nhượng quyền.
1.1.2.4 Tính đồng bộ và tính hệ thống của quan hệ nhượng quyền thương mại.
Mục đích chính của bên nhượng quyền, khi chấp nhận nhượng lại “quyền thương
mại” của mình cho người khác, sau đó tiếp tục cũng kinh doanh với “quyền thương mại”
ấy là để mở rộng hệ thống sản xuất, phân phối hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ của mình.
Sự giống nhau trong chất lượng và hình thức của hàng hoá, dịch vụ, cách thức phục vụ
của nhân viên khi cung ứng các sản phẩm trên thị trường tạo nên tính hệ thống của quan
hệ nhượng quyền thương mại. Bằng cách này hay cách khác, những đặc trưng cơ bản
nhất của hàng hoá, dịch vụ và cách thức cung ứng của bên nhượng quyền phải được bên
nhận quyền lặp lại. Mọi sự phát triển và sáng tạo không xuất phát từ ý chí của bên
nhượng quyền hoặc không có sự cho phép hoặc thỏa thuận trước với bên nhượng quyền
sẽ phá hỏng tính hệ thống của mạng lưới cung cấp dịch vụ, hàng hóa sản phẩm được tạo
ra từ quan hệ nhượng quyền thương mại.
1.1.3 Phân loại nhượng quyền thương mại
Nhượng quyền thương mại tồn tại trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội và
hoạt động này cũng được phân loại theo từng tiêu chí khác nhau:
1.1.3.1 Căn cứ vào mục đích của việc kinh doanh nhượng quyền ta có thể phân nhượng
quyền thương mại thành ba dạng cơ bản sau đây:
Nhượng quyền bán sản phẩm (product franchise)
Nhượng quyền gia công (process franchise)
Nhượng quyền phương thức kinh doanh (business format franchise)
1.1.3.2 Căn cứ vào đối tượng được cơ sở kinh doanh nhượng quyền cung cấp:
Nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực dịch vụ (Service Franchise)
Nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực tiêu thụ hàng hóa (Distribution
Franchise).
1.1.3.3 Căn cứ vai trò của các chủ thể trong mối quan hệ nhượng quyền thương mại, có
thể chia nhượng quyền thương mại thành các loại:
Nhượng quyền thương mại chung (Master Franchise)
Nhượng quyền thương mại thứ cấp (gián tiếp) (Sub-Franchising).
1.2 Vai trò của nhƣợng quyền thƣơng mại
Việt Nam trong những năm gần đây có những điều kiện rất thuận lợi cho hoạt
động kinh doanh thương mại nói chung và nhượng quyền thương mại nói riêng. Với tốc
độ tăng trưởng GDP bình quân trên 8%, một quốc gia có dân số trên 82 triệu người, tình
hình kinh tế ổn định, nhà nước khuyến khích đầu tư, sức mua của thị trường được đánh
giá là rất cao trên thế giới. Hơn nữa, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150
của WTO, mở ra nhiều cơ hội cho các nhà kinh doanh cả trong và ngoài nước. Trong bối
cảnh hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ như vậy, rõ ràng việc quyết định lựa chọn hình thức
kinh doanh nào đảm bảo cho nhà đầu tư có được hiệu quả tốt nhất về sử dụng vốn, phát
triển nhanh thị trường, mở rộng nhanh thị phần và kiểm soát được hệ thống nhằm tạo
được tiếng nói đối với thị trường này là điều rất được quan tâm.
Nhiều tập đoàn lớn của thế giới đã “đổ bộ” vào thị trường Việt Nam tìm cơ hội
phát triển thương hiệu: KFC, Lotteria, Jollibee… Và gần đây nhất, thương hiệu cà phê
nổi tiếng của Úc đã tiến vào thị trường Việt Nam thông qua hợp đồng franchise với công
ty Viet Lifestyle.
Gloria Jean là tập đoàn toàn cầu có trụ sở ở Australia. Đây là tập đoàn có hệ thống
franchise lớn nhất thế giới với khoảng 800 điểm nhận franchise ở trên 30 quốc gia như
Nhật, Philippines, Malaysia, Singapore Ông Billy Sin, Giám đốc kinh doanh vùng châu
Á, Tập đoàn Gloria Jean cho biết "Trước khi vào Việt Nam, chúng tôi đã nghiên cứu kỹ
về thị trường Việt Nam. Chúng tôi biết rõ cà phê là thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam.
Tuy nhiên, rất may là điều đó không ảnh hưởng nhiều đến sản phẩm cà phê của chúng
tôi”. Ở những lĩnh vực khác, nhiều thương hiệu nổi tiếng cũng bắt đầu bước vào thị
trường có sức mua thuộc hạng "top ten" thế giới này. Có thể kể đến những tên tuổi mới
như: Coffee Bean & Tea Leaf, Bread Talk hay Pizza Hut…Một bức tranh rất nhộn nhịp
của nền kinh tế Việt Nam thời hội nhập kinh tế quốc tế là như thế. Với những lợi ích mà
nhượng quyền thương mại mang đến có thể khẳng định chắc chắn rằng nhượng quyền
thương mại có vai trò và ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập quốc
tế.
1.2.1 Vai trò của nhượng quyền thương mại đối với bên nhượng quyền
Đối với bên nhượng quyền, ưu điểm lớn nhất mà nhượng quyền thương mại mang
lại là giúp cho hệ thống kinh doanh của bên này được mở rộng quy mô, lợi thế về quy mô
mang lại cho bên nhượng quyền khả năng ảnh hưởng đến thị trường để thu lợi nhuận tối
đa.
Thông qua hoạt động nhượng quyền thì chi phí đầu tư xây dựng một cửa hiệu mới
sẽ do bên nhận quyền bỏ ra, điều này giúp cho bên nhận quyền có khả năng mở rộng quy
mô kinh doanh nhưng không phải đầu tư nhiều về mặt tài chính.
Khi nhượng quyền thì hoạt động kinh doanh được thực hiện dưới hình thức một hệ
thống vì vậy các chi phí về tiếp thị, quảng cáo sẽ được giảm thiểu do có sự chia sẻ từ các
chủ thể khác nhau; đồng thời, nếu có rủi ro xảy ra thì nó cũng được san sẻ cho cả hệ
thống cho nên thiệt hại phát sinh cho từng chủ thể kinh doanh là nhỏ nhất.
Tuy nhiên, việc đồng ý ràng buộc bởi HĐNQTM, nắm chắc trong tay những
khoản lợi nhuận không nhỏ và rất ổn định, ít rủi ro nói trên, cũng đồng nghĩa với việc bên
nhượng quyền phải trao toàn bộ những bí quyết, công thức, bí mật kinh doanh của mình
cho một bên độc lập khác. Tính chất độc lập của bên nhận quyền sẽ có khả năng thúc đẩy
bên này vi phạm hợp đồng nhượng quyền bất cứ khi nào bên nhận quyền nhận thấy phần
lợi nhuận mà mình thu được từ việc thực hiện trung thành các điều khoản HĐNQTM ít
hơn rất nhiều so với việc vi phạm hợp đồng đó. Nguy cơ mất bí quyết kinh doanh, lộ bí
mật kinh doanh là nguy cơ thường trực mà bên nhượng quyền phải đối mặt. Giải pháp
cho tình thế này là bên nhượng quyền phải ràng buộc chặt chẽ bên nhận quyền bằng các
điều khoản cấm trong hợp đồng.
1.2.2 Vai trò của nhượng quyền thương mại đối với bên nhận quyền
Đối với bên nhận quyền, không phải tốn kém nhiều chi phí và thời gian vào việc
xây dựng một mô hình kinh doanh, đào tạo một đội ngũ quản lý hoặc xây dựng một
thương hiệu trên thị trường, bên nhận quyền có thể tiến hành kinh doanh ngay sau khi
được nhượng “quyền thương mại”. Nói cách khác, xác suất thành công của bên nhận
quyền với các thương hiệu nổi tiếng sẽ cao hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp mới bắt
đầu kinh doanh với các nhãn hiệu chưa được biết đến, bởi vì ngày nay thương hiệu được
xem là yếu tố quyết định lựa chọn sản phẩm đối với người tiêu dùng.
Bên cạnh đó, khi nhận nhượng quyền thương mại, bên nhận quyền sẽ nhận được
sự hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo, tiếp thụ và quảng cáo từ bên nhượng quyền vì vậy sẽ giảm tối
đa các chi phí thực và chi phí cơ hội khi bắt đầu kinh doanh. Hơn nữa, kinh doanh theo
một mô hình quản lý có sẵn, cung cấp một loại hàng hoá, dịch vụ đã có sức cạnh tranh
trên thị trường, phần trăm rủi ro trong kinh doanh được giảm xuống mức đáng kể. Khi đã
tham gia vào hệ thống nhượng quyền thương mại, bên nhận quyền thương mại thụ hưởng
được những lợi ích mà hiệu ứng đám đông mang lại. Sự nổi tiếng của tên thương mại tỉ lệ
thuận với sự mở rộng của hệ thống nhượng quyền thương mại, vì vậy, công việc kinh
doanh của bên nhượng quyền cũng như các bên nhận quyền trở nên dễ dàng hơn. Có thể
nói, với bên nhận quyền, sức hấp dẫn của nhượng quyền thương mại có thể tổng kết ở hai
điểm căn bản: chi phí thấp và ít rủi ro.
1.2.3 Vai trò của nhượng quyền thương mại trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ở
Việt Nam
Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đang từng giờ, từng ngày tác động
nhiều lãnh vực họat động kinh tế xã hội Việt Nam. Sự hội nhập nền kinh tế thế giới càng
được nhận thấy rõ qua các chỉ tiêu kinh tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài, số lượng công ty,
sự phong phú về hàng hoá, dịch vụ, quảng cáo… Hệ thống Franchise của các công ty
nước ngoài tại thị trường Việt Nam thể hiện rất rõ xu thế này. Hệ thống này phát triển
mạnh mẽ và rất năng động trong thời gian qua. Cũng chính từ sự phát triển mạnh mẽ này
có thể dẫn đến hệ thống phân phối nội địa ở Việt Nam sẽ đứng trước nguy cơ bị điều
khiển bởi các tập đoàn nước ngoài do sự non yếu của mình. Chính vì vậy, nhượng quyền
thương mại là cách để tăng sức mạnh cho các thương hiệu Việt Nam và cũng chính là
cách tốt nhất để quảng bá cũng như tạo nội lực cho thương hiệu đó.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế này, tình hình cạnh tranh càng trở nên gay
gắt hơn, khi chỉ xét riêng hình thức nhượng quyền thương mại thì chúng ta cũng thấy rất
rõ xu thế này. Trong bối cảnh ấy, xây dựng và phát triển hệ thống nhượng quyền thương
mại của các doanh nghiệp Việt Nam là một cách thức phát triển thương hiệu, thâm nhập
thị trường, bảo vệ thị phần và mở rộng thị trường tốt. Với phương thức liên kết chặt chẽ,
cả bên nhượng quyền và bên nhận quyền kinh doanh đều có lợi và quan trọng hơn nữa là
có thể cùng hợp sức cạnh tranh với các công ty lớn trong cùng lĩnh vực hoạt động. Do đó,
hình thức này rất phù hợp với chúng ta trong giai đoạn Việt Nam đang rất cần tập hợp
nguồn lực từ các doanh nghiệp nhỏ và vừa để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Như chúng ta đều biết nhượng quyền thương mại ra nước ngoài khó khăn nhiều
hơn so với trong nước. Đó là thị hiếu tiêu dùng có nhiều khác biệt nên làm sao để giữ
được bản sắc riêng của bên nhượng quyền nhưng vẫn phù hợp với thị hiếu, văn hoá, tranh
thủ thiện cảm và có sự chấp nhận của người tiêu dùng nước sở tại. Thêm nữa, chi nhánh
được franchise làm sao hoạt động tốt và mang đến sản phẩm, dịch vụ với chất lượng
tương đương với chi nhánh chính thức của bên nhượng quyền thì mới đảm bảo được uy
tín và sự bền vững trong hoạt động. Chính vì vậy vấn đề huấn luyện, chuyển giao kinh
nghiệm phải diễn ra thường xuyên, thực hiện điều này ngay ở trong nước còn gặp rất
nhiều khó khăn thì những chi nhánh nhượng quyền ở nước ngoài còn khó khăn gấp nhiều
lần. Những quy định của pháp luật nước sở tại là rất kỹ, doanh nghiệp Việt Nam còn
chưa hiểu về vấn đề này nên gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa đó là khung pháp lý về
nhượng quyền thương mại của Việt Nam chưa thật vững chắc nên dễ phát sinh các tranh
chấp về ăn chia, về ý tưởng Chính vì vậy, xây dựng một cơ sở pháp lý vững chắc cho
nhượng quyền thương là một yêu cầu cấp bách hiện nay.
1.3 Khái quát chung về hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại
1.3.1 Định nghĩa về hợp đồng nhượng quyền thương mại
HĐNQTM cũng giống như các loại hợp đồng thông thường khác, là sự thỏa thuận
của các bên trong quan hệ nhượng quyền thương mại làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động nhượng quyền và cũng chính là căn
cứ, cơ sở để giải quyết tranh chấp có thể sẽ phát sinh giữa các bên trong quá trình thực
hiện hợp đồng.
Đối với Việt Nam, pháp luật không đưa ra một định nghĩa nào về HĐNQTM. Điều
285 Luật Thương mại 2005 với tiêu đề “hợp đồng nhượng quyền thương mại” chỉ quy
định về hình thức của loại hợp đồng này. Như vậy, có thể hiểu, trên phương diện pháp
luật, HĐNQTM là loại hợp đồng được các thương nhân ký kết trong quá trình thực hiện
hoạt động thương mại, cụ thể là thực hiện hoạt động nhượng quyền thương mại. Vì vậy,
hợp đồng này phải có những đặc điểm chung của hợp đồng được quy định ở chương VI
của Bộ luật Dân sự năm 2005. HĐNQTM, do vậy, phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện
pháp luật dân sự đặt ra đối với một giao dịch dân sự. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách tổng
quát, HĐNQTM chính là thoả thuận giữa các bên nhượng quyền và bên nhận quyền về
việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ liên quan đến hoạt động nhượng quyền thương mại.
Về cơ bản, HĐNQTM thể hiện bản chất của giao dịch nhượng quyền thương mại như
được quy định tại Điều 284 Luật Thương mại 2005.
1.3.2. Chủ thể của hợp đồng nhượng quyền thương mại
Trong quan hệ nhượng quyền thương mại, tồn tại hai chủ thể, đó là bên nhượng
quyền và bên nhận quyền. Về cơ bản, HĐNQTM chính là những thoả thuận của hai chủ
thể này về nội dung của hoạt động nhượng quyền. Do nhượng quyền thương mại là hoạt
động thương mại đặc thù, vì vậy, hầu hết các nước đều quy định chủ thể của quan hệ
nhượng quyền phải là thương nhân, tồn tại hợp pháp, có thẩm quyền kinh doanh và có
quyền hoạt động thương mại phù hợp với đối tượng được nhượng quyền. Những đặc
trưng về chủ thể này của HĐNQTM làm cho HĐNQTM có những đặc điểm khác biệt so
với các loại hợp đồng khác. Quan hệ nhượng quyền không chỉ dừng lại giữa một bên
nhượng quyền và một bên nhận quyền mà còn xuất hiện thêm nhiều bên nhận quyền khác
nữa tạo thành một hệ thống nhượng quyền thương mại, xuất phát từ sự khác biệt của quan
hệ nhượng quyền này làm cho chủ thể của loại hợp đồng này cũng khác với các hợp đồng
khác. Bên nhận quyền thứ hai là bên nhận lại quyền kinh doanh thương mại của bên
nhượng quyền từ bên nhận quyền thứ nhất. Trong trường hợp này, các bên lại phải có
những thoả thuận, phù hợp với quyền và lợi ích.
Đối với Việt Nam, pháp luật thương mại cũng đã ghi nhận các đối tượng có thể trở
thành chủ thể của một quan hệ nhượng quyền thương mại, bao gồm: bên nhượng quyền,
bên nhận quyền, bên nhượng quyền thứ cấp, bên nhận quyền sơ cấp và bên nhận quyền
thứ cấp (Khoản 1,2,3,4,5 Điều 3, NĐ số 35/2006/NĐ-CP). Theo đó, hoạt động nhượng
quyền thương mại có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức. Ở hình thức cơ bản nhất,
tồn tại các bên nhượng quyền và bên nhận quyền. Tuy nhiên, ở hình thức phức tạp hơn,
các bên nhận quyền sơ cấp được thực hiện việc nhượng lại quyền thương mại cho các bên
nhận quyền thứ cấp và trở thành bên nhượng quyền thứ cấp.
1.3.3. Hình thức của hợp đồng nhượng quyền thương mại
Do tính chất phức tạp và quy định nhiều vấn đề của HĐNQTM mà pháp luật và
các quy định của hiệp hội nhượng quyền các nước đều yêu cầu hợp đồng nhượng quyền
phải lập thành văn bản. Điều 285 Luật Thương mại 2005 của Việt Nam quy định:
“HĐNQTM phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý
tương đương”. Trong đó, các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo,
telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật. Có thể nói,
hoạt động nhượng quyền thương mại là một hoạt động mới mẻ ở Việt Nam. Dưới góc độ
pháp lý, trước năm 2005, hầu như chưa có một văn bản pháp luật nào đề cập một cách trực
tiếp tới nhượng quyền thương mại. Chính vì vậy, sự phức tạp của hoạt động này đã đặt pháp
luật trước một nghĩa vụ là bảo vệ tối đa quyền lợi hợp pháp của các thương nhân. Quy định
rõ ràng về hình thức của HĐNQTM, bắt buộc các bên chủ thể phải thể hiện loại hợp đồng
này dưới dạng văn bản cũng chính là một trong những cách thức bảo vệ các thương nhân
khỏi những rủi ro có thể xảy ra khi mà những thương nhân này chưa có nhiều kinh nghiệm
trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại.
1.3.4 Đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại
Nói tới nội dung của HĐNQTM, không thể không nói tới đối tượng của hợp đồng
loại này. Đây là lợi ích mà các bên trong quan hệ nhượng quyền đều hướng tới, đó chính
là “quyền thương mại” (bao gồm: tên thương mại, công nghệ, bí quyết kinh doanh, quy
trình kinh doanh, nhãn hiệu hàng hoá, tài liệu hướng dẫn ) mà các bên thoả thuận trong
HĐNQTM. Ở các nước khác nhau, với cái nhìn không đồng nhất về hoạt động nhượng
quyền thương mại, “quyền thương mại” mà một thương nhân có thể đem nhượng cho một
thương nhân khác có nội dung rộng, hẹp khác nhau. Một số nước cho rằng, đối tượng của
nhượng quyền thương mại chỉ là việc sử dụng tên thương mại, kiểu dáng thiết kế của
hàng hoá, trong khi đó một số nước khác lại mở rộng đối tượng của nhượng quyền
thương mại là tất cả những quyền hợp pháp liên quan thiết thân tới hoạt động thương mại
của một thương nhân. Tuy nhiên, xu hướng phát triển của thương mại quốc tế chỉ ra rằng,
khái niệm về đối tượng của hoạt động nhượng quyền thương mại sẽ ngày càng được mở
rộng trong bối cảnh hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày một sôi động. Lúc đó “quyền
thương mại” không chỉ là một phép cộng đơn giản của các đối tượng của quyền sở hữu trí
tuệ mà cao hơn, đó là sự kết hợp toàn diện tất cả các yếu tố ấy trong một thể thống nhất
không phân tách. Có thể nói, chỉ có cách hiểu như trên về đối tượng của HĐNQTM mới
nói lên được bản chất của quan hệ thương mại đặc biệt này. Xuất phát từ bản chất của
“quyền thương mại”, khi giao kết HĐNQTM, các bên cần thiết phải cân nhắc những yếu
tố sẽ được nhắc đến và kết hợp trong “quyền thương mại”. Đối với những quốc gia mà
pháp luật thương mại chưa đưa ra được một định nghĩa cụ thể về “quyền thương mại”,
các bên chủ thể trong quan hệ sẽ là những người xác định nội hàm của “quyền thương
mại” cho từng hợp đồng cụ thể. Đó chính là việc liệt kê những đối tượng được đưa vào
gói quyền thương mại. Bên cạnh đó, dưới góc độ pháp lý, pháp luật sẽ hỗ trợ các bên
trong việc làm cho định nghĩa của các bên sáng tỏ hơn thông qua việc quy định về tính
kết hợp của các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ mà các bên đã liệt kê ra trước đó.
1.3.5 Thời hạn của hợp đồng nhượng quyền thương mại
Thời hạn của HĐNQTM do các bên thoả thuận và ghi trong hợp đồng. Tuy nhiên
pháp luật quy định một thời hạn tối thiểu cho loại hợp đồng này. Pháp luật Trung Quốc
quy định thời hạn của hợp đồng nhượng quyền nói chung cũng phải ít nhất là ba năm. Cá
biệt, xuất phát từ tính chất dễ bị lạm dụng của loại hợp đồng này, Australia coi quan hệ
HĐNQTM là quan hệ hợp đồng ràng buộc vĩnh viễn (a permanent contractual
relationship) . Tuy nhiên, tuỳ vào lĩnh vực nhượng quyền, thời hạn này có thể dài hoặc
ngắn hơn. Thời gian này được tính toán sao cho vừa đủ để bên nhận quyền có thể khai
thác được quyền thương mại tương ứng với mức phí mà bên này đã chi trả cho việc mua
quyền. Cũng như vậy, ba năm hay năm năm là thời gian hợp lý để bên nhượng quyền có
thể thu được một khoản phí tương ứng với giá trị của quyền thương mại đem bán. Pháp
luật thương mại Việt Nam không có giới hạn nào cho thời hạn tối thiểu của HĐNQTM.
1.3.6 Gia hạn hợp đồng nhượng quyền thương mại
Khi thời hạn của hợp đồng kết thúc và nếu trước đó bên nhận quyền đã thực hiện
một cách đầy đủ các nghĩa vụ của mình theo hợp đồng, không có các hành vi - vi phạm
hợp đồng cũng như tuân thủ đầy đủ các hướng dẫn, chỉ thị của bên nhượng quyền thì
thông thường bên nhượng quyền sẽ đồng ý gia hạn hợp đồng với bên nhận quyền. Việc
này cũng là hợp lý bởi vì trong thời gian hợp đồng có hiệu lực, bên nhận quyền đã thúc
đẩy quá trình tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ, đã đầu tư đáng kể vào việc kinh doanh và đã góp
phần đáng kể trong việc xây dựng danh tiếng và uy tín cho hệ thống. Tuy nhiên trong
một số trường hợp, vì những lý do đặc biệt, bên nhượng quyền không gia hạn hợp đồng
cho bên nhận quyền thì họ cũng sẽ cam kết trong một khoảng thời gian nhất định sẽ
không cấp quyền cho bất kỳ một bên nhận quyền nào khác trong lãnh thổ.
1.3.7 Chuyển nhượng hợp đồng nhượng quyền thương mại
Luật Thương mại 2005 quy định bên nhận quyền có quyền nhượng lại quyền cho
bên thứ ba nếu được sự chấp thuận của bên nhượng quyền. Sự chấp thuận của bên
nhượng quyền là một điều kiện cần để bên nhận quyền có thể chuyển nhượng lại việc
kinh doanh cho bất kỳ bên thứ ba nào. Trước khi quyết định nhượng quyền cho bên nhận
quyền, bên nhượng quyền đã kiểm tra rất kỹ các điều kiện của bên nhận quyền, đồng thời
cũng ràng buộc bên nhận quyền với những cam kết nhất định. Do đó, khi bên nhận quyền
chuyển nhượng lại việc kinh doanh của mình thì bên nhượng quyền cũng muốn bên nhận
chuyển nhượng đó cũng phải thoả mãn các điều kiện như bên nhận quyền đồng thời cũng
sẽ chịu ràng buộc bởi những cam kết như bên nhận quyền.
1.3.8 Chấm dứt hợp đồng nhượng quyền thương mại
Hợp đồng nhượng quyền chấm dứt khi hết hạn hợp đồng mà không được gia hạn
hoặc khi chấm dứt trước thời hạn theo các điều khoản của hợp đồng. Khi hết thời hạn của
hợp đồng, nếu cả hai bên đều mong muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng với bên kia thì hai
bên có thể gia hạn hợp đồng. Trong trường hợp ngược lại thì hợp đồng đương nhiên
chấm dứt. Bên cạnh đó, do hợp đồng thường có thời hạn dài như được trình bày trên đây,
hợp đồng luôn chứa đựng các quy định về quyền chấm dứt hợp đồng của một trong hai
bên.
Việc chấm dứt hay tiếp tục thực hiện HĐNQTM có ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích
của các bên trong quan hệ – đây là mốc quan trọng để đánh dấu sự chấm dứt quyền khai
thác “quyền thương mại” của bên nhận quyền, đồng thời chấm dứt quyền giám sát cũng
như đòi phí nhượng quyền của bên nhượng quyền. Về cơ bản, HĐNQTM sẽ chấm dứt
trong các trường hợp sau: (i) chấm dứt thông thường là việc chấm dứt hợp đồng khi hợp
đồng đã hết thời hạn mà không có thoả thuận gia hạn thêm giữa các bên; (ii) chấm dứt
trong trường hợp chưa hết thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng hay còn gọi là đơn
phương chấm dứt hợp đồng.
CHƢƠNG 2
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN CỦA HỢP ĐỒNG
NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI
Những vấn đề pháp lý cơ bản của một HĐNQTM thực chất là các điều khoản quy
định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong HĐNQTM dựa trên ý chí của của bên đã được
thống nhất và thoả thuận theo quy định của pháp luật.
2.1.1 Quyền của bên nhượng quyền
Một là, nhận tiền nhượng quyền. Để đáp lại việc bên nhượng quyền cấp quyền cho
bên nhận quyền hoạt động theo hệ thống, cho phép sử dụng các đối tượng sở hữu trí tuệ
và cung cấp các hỗ trợ thường xuyên trong suốt quá trình kinh doanh, bên nhận quyền sẽ
thanh toán cho bên nhượng quyền các khoản phí.
Hai là, tổ chức quảng cáo cho hệ thống nhượng quyền thương mại và mạng lưới
nhượng quyền thương mại. Nhượng quyền thương mại được áp dụng trong lĩnh vực mua
bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ. Trong khi đó, quảng cáo là một việc làm không thể
thiếu được trong các hoạt động thương mại nói chung và các hoạt động mua bán hàng
hóa và cung ứng dịch vụ nói riêng. Do đó quảng cáo là một hoạt động không thể thiếu
trong các hệ thống nhượng quyền thương mại. Ngoài ra, một phần tạo nên thành công của
các hệ thống nhượng quyền chính là những chiến dịch quảng cáo rầm rộ mà bên nhượng
quyền thực hiện cho toàn hệ thống.
Ba là, kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất hoạt động của bên nhận quyền nhằm bảo
đảm sự thống nhất của hệ thống nhượng quyền thương mại và sự ổn định về chất lượng
hàng hoá, dịch vụ.
Luật Thương mại 2005 đã quy định đây là một trong những quyền của thương
nhân nhượng quyền (Khoản 3 Điều 286). Tuy nhiên, đối với quyền được kiểm soát của
bên nhượng quyền trong hệ thống nhượng quyền nói chung và trong quan hệ đối với từng
bên nhận quyền trong từng HĐNQTM nói riêng thì ở Việt Nam chưa có quy định cụ thể.
2.1.2 Nghĩa vụ của bên nhượng quyền
Xuất phát từ bản chất của quan hệ nhượng quyền thương mại, Luật Thương mại
2005 đã quy định, nếu không có thỏa thuận nào khác thì bên nhượng quyền có các nghĩa
vụ sau đây:
Một là, cung cấp tài liệu hướng dẫn về hệ thống nhượng quyền thương mại cho
bên nhận quyền. Quảng cáo là một việc làm không thể thiếu được trong các hoạt động
thương mại nói chung và các hoạt động mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ nói riêng.
Việc tạo nên thành công của các hệ thống nhượng quyền chính là những chiến dịch quảng
cáo rầm rộ mà bên nhượng quyền thực hiện cho toàn hệ thống.
Ngoài ra, một trong những yếu tố trọng tâm đảm bảo cho sự thành công của kế
hoạch nhượng quyền là một hệ thống đã được quy định đảm bảo chất lượng và tính đồng
nhất trong suốt hệ thống nhượng quyền. Trong hầu hết các hệ thống nhượng quyền,
những yếu tố cơ bản này đã được xây dựng và tập hợp lại trong hoạt động của nơi đầu
tiên của bên nhượng quyền. Việc điều hành hệ thống này đòi hỏi một tài liệu đầy đủ và
hiệu quả phải được cung cấp cho mỗi bên nhận quyền ngay khi bắt đầu mối quan hệ cũng
như trên cơ sở thường xuyên. Tài liệu này chính là sách hướng dẫn hoạt động (Operation
Manual). Sách hướng dẫn hoạt động sẽ giúp cho bên nhận quyền nhận thức đúng và tuân
thủ được một cách chặt chẽ các quy định của hệ thống tránh tình trạng bên nhận quyền do
không biết mà vi phạm các quy định của hệ thống. Sách hướng dẫn hoạt động là một tài
liệu không thể thiếu trong bất kỳ hệ thống nhượng quyền nào. Nó là tài liệu ghi lại tất cả
các phương pháp, quy trình, kỹ thuật, hệ thống, kế hoạch và tất cả các vấn đề liên quan
đến hoạt động của hệ thống nhượng quyền do bên nhượng quyền thiết kế và tập hợp lại
được giao cho bên nhận quyền trước khi bên nhận quyền bắt đầu tiến hành hoạt động
kinh doanh. Bên nhận quyền có nghĩa vụ phải tuân thủ và thực hiện theo sách hướng dẫn
hoạt động trong suốt quá trình điều hành việc kinh doanh của mình.
Hai là, đào tạo ban đầu và cung cấp trợ giúp kỹ thuật thường xuyên cho thương
nhân nhận quyền để điều hành hoạt động theo đúng hệ thống nhượng quyền thương mại.
Đào tạo vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của cả hai bên trong hợp đồng nhượng quyền. Đối
với bên nhượng quyền có nghĩa vụ trợ giúp, đào tạo để bên nhận quyền có đủ kiến thức
mà tiến hành việc kinh doanh, nhưng đó cũng là quyền của bên nhượng quyền buộc bên
nhận quyền phải tham gia đào tạo để có thể thực hiện việc kinh doanh theo đúng phương
thức kinh doanh của mình, theo đúng những chuẩn chung do mình đề ra, đảm bảo tính
đồng bộ, thống nhất của hệ thống. Đối với bên nhận quyền có quyền được bên nhượng
quyền trợ giúp, đào tạo để đảm bảo việc kinh doanh thành công, nhưng bên nhượng
quyền cũng có nghĩa vụ đảm bảo mình và các nhân viên của mình tham gia đầy đủ các
chương trình đào tạo do bên nhượng quyền đề ra
Chi phí liên quan đến việc đào tạo thường sẽ do hai bên thỏa thuận và ghi trong
hợp đồng nhượng quyền. Chi phí đào tạo thông thường được bao gồm trong khoản phí
ban đầu. Tuy nhiên vẫn có một vài bên nhượng quyền tính phí đào tạo riêng. Khoản phí
đào tạo được dùng để trả cho nhân công và các nguồn cung cấp bên ngoài.
Ba là, thiết kế và sắp xếp địa điểm bán hàng, cung ứng dịch vụ bằng chi phí của
thương nhân nhận quyền. Để đảm bảo tính thống nhất của các cơ sở kinh doanh nhượng
quyền trong cùng một hệ thống, bên nhượng quyền luôn quản lý rất chặt chẽ việc thiết kế,
sắp xếp cũng như trang trí cơ sở kinh doanh. Bên nhượng quyền sẽ cung cấp cho bên
nhận quyền các tiêu chuẩn xây dựng, bản vẽ chuyển đổi, quy cách trình bày bên trong,
biển hiệu, nội thất, và các tư vấn liên quan đến việc xây dựng, làm lại cơ sở hoặc sẽ kiểm
tra và phê chuẩn các bản vẽ và việc xây dựng do bên nhận quyền tự tiến hành để đảm bảo
rằng việc xây dựng tuân thủ các tiêu chuẩn của hệ thống. Bên nhượng quyền cũng sẽ
giám sát chung việc xây dựng hoặc chuyển đổi cơ sở thành một cơ sở kinh doanh nhượng
quyền. Ngược lại bên nhận quyền có nghĩa vụ đảm bảo việc xây dựng lại cơ sở và cơ sở
sau khi được thay đổi, trang bị lại và trang trí lại đáp ứng các điều kiện của bên nhượng
quyền.
Việc bên nhượng quyền đặt ra các tiêu chuẩn chặt chẽ đối với việc lựa chọn địa
điểm cũng như thiết kế và trang trí cơ sở kinh doanh theo tác giả là cần thiết và đáng
được thực hiện. Nó không những giúp duy trì, phát triển tên tuổi, danh tiếng của bên
nhượng quyền mà còn giúp đảm bảo thành công cho việc kinh doanh của bên nhận
quyền. Pháp luật Việt Nam cũng đã quy định về nghĩa vụ của bên nhượng quyền thực
hiện việc thiết kế, sắp xếp cơ sở kinh doanh cho bên nhận quyền và nghĩa vụ của bên
nhận quyền tuân thủ các yêu cầu về thiết kế, sắp xếp địa điểm bán hàng, cung cấp dịch vụ
của bên nhượng quyền.
Bốn là, bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ đối với đối tượng được ghi trong hợp đồng
nhượng quyền. Cùng với việc ký kết hợp đồng nhượng quyền, bên nhượng quyền sẽ cấp
cho bên nhận quyền quyền sử dụng không độc quyền các đối tượng sở hữu trí tuệ và
hướng dẫn bên nhận quyền sử dụng đúng đắn các đối tượng này. Để có thể cấp quyền sử
dụng cho bên nhận quyền, bên nhượng quyền đảm bảo mình là chủ sở hữu hoặc người
kiểm soát các đối tượng trên và có quyền cấp quyền cho bên nhận quyền sử dụng.
Năm là, đối xử bình đẳng với các thương nhân nhận quyền trong hệ thống nhượng
quyền thương mại. Nghĩa vụ này bao gồm việc lúc nào cũng có sẵn để cung cấp cho bên
nhận quyền các dịch vụ và tiện ích mà bên nhượng quyền cung cấp cho các bên nhận
quyền khác và các cơ sở kinh doanh của riêng bên nhượng quyền.
2.1.1 Quyền của bên nhận quyền
Trong quan hệ HĐNQTM, xét về khía cạnh kinh tế cũng như khía cạnh pháp lý,
bên nhận quyền phải chịu nhiều ràng buộc từ phía bên nhượng quyền ở mọi thời điểm,
lúc ký kết hợp đồng cũng như lúc thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, bên cạnh những ràng
buộc về mặt nghĩa vụ đó, bên nhận quyền cũng có một số quyền đối với bên nhượng
quyền, những quyền này cũng chính là mối ràng buộc trở lại của bên nhận quyền đối với
bên nhượng quyền. Cụ thể, bên nhận quyền có thể:
Một là, yêu cầu thương nhân nhượng quyền cung cấp đầy đủ trợ giúp kỹ thuật có
liên quan đến hệ thống nhượng quyền thương mại.
Hai là, yêu cầu thương nhân nhượng quyền đối xử bình đẳng với các thương nhân
nhận quyền khác trong hệ thống nhượng quyền thương mại.
Hai quyền cơ bản nói trên của thương nhân nhận quyền có thể được triển khai
khác nhau, phù hợp với quy định cụ thể của từng quốc gia hay tổ chức quốc tế về nhượng
quyền thương mại. Ở Việt Nam, hai quyền trên được quy định cụ thể trong Điều 288 Luật
Thương mại, các quy định này chỉ dừng lại ở những quy định mang tính chất định hướng,
không có những quy định vạch ra những giới hạn cụ thể hay những điều kiện cụ thể để
thực hiện những quyền này.
2.1.2 Nghĩa vụ của bên nhận quyền
Nghĩa vụ của bên nhận quyền đối với bên nhượng quyền và các bên thứ ba chính
là những điều kiện mà bên nhận quyền phải đáp ứng khi chấp nhận tham gia quan hệ
HĐNQTM. Mối quan hệ này có thể bị chấm dứt bất cứ thời điểm nào nằm ngoài sự chủ
động của bên nhận quyền với lý do bên nhận quyền không đáp ứng đủ điều kiện của quan
hệ nhượng quyền, nói cách khác, là bên nhận quyền không thực hiện đủ nghĩa vụ của
mình. Điều 289, Luật Thương mại 2005 đã quy định, nếu không có thỏa thuận nào khác
thì bên nhượng quyền có các nghĩa vụ sau đây:
Một là, trả tiền nhượng quyền và các khoản thanh toán khác theo HĐNQTM.
Hai là, đầu tư đủ cơ sở vật chất, nguồn tài chính và nhân lực để tiếp nhận các
quyền và bí quyết kinh doanh mà bên nhượng quyền chuyển giao.
Ba là, chấp nhận sự kiểm soát, giám sát và hướng dẫn của bên nhượng quyền;
tuân thủ các yêu cầu về thiết kế, sắp xếp địa điểm bán hàng, cung ứng dịch vụ của thương
nhân nhượng quyền. Theo hợp đồng nhượng quyền, bên nhận quyền chấp nhận sự kiểm
soát thường xuyên và liên tục từ bên nhượng quyền. Việc này vừa giúp đảm bảo được
tính hệ thống của hoạt động nhượng quyền vừa đảm bảo được việc hướng cho việc kinh
doanh của bên nhận quyền đi đúng hướng và thành công. Hơn nữa, do tính chất độc lập
về vốn về vốn cũng như hoạt động kinh doanh của bên nhận quyền đã làm cho bên nhận
quyền luôn có xu hướng muốn được thực hiện các hoạt động thương mại một cách độc
lập, thoát ly khỏi sự kiểm soát của bên nhượng quyền
Bốn là, giữ bí mật về bí quyết kinh doanh đã được nhượng quyền, kể cả sau khi
HĐNQTM kết thúc hoặc chấm dứt. Nghĩa vụ bảo mật các thông tin được cung cấp liên
quan đến các đối tượng sở hữu trí tuệ theo HĐNQTM là cần thiết không những cho bên
nhượng quyền mà còn cho cả bên nhận quyền. Bên nhượng quyền quan tâm đến việc giữ
bí mật để bảo vệ sở hữu trí tuệ của mình trước đối thủ cạnh tranh, còn bên nhận quyền
quan tâm đến việc giữ bí mật này bởi sự thành công của họ phụ thuộc vào sự thành công
của cả hệ thống nhượng quyền.
Năm là, ngừng sử dụng nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, khẩu hiệu kinh
doanh, biểu tượng kinh doanh và các quyền sở hữu trí tuệ khác (nếu có) hoặc hệ thống
của bên nhượng quyền khi kết thúc hoặc chấm dứt HĐNQTM. Quy định này nhằm đảm
bảo cho bên nhượng quyền luôn bảo vệ được hệ thống, tránh tình trạng bên nhận quyền,
người lao động của bên nhận quyền sử dụng các kiến thức có được từ bên nhượng quyền
để tiến hành việc kinh doanh riêng đồng thời cũng tránh tình trạng các bên nhận quyền
cạnh tranh với nhau.
Sáu là, điều hành hoạt động phù hợp với hệ thống nhượng quyền thương mại.
Nghĩa vụ điều hành việc kinh doanh tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của sách hướng
dẫn hoạt động và luôn tuân thủ đối với mọi khía cạnh của hệ thống như được sửa đổi vào
từng thời điểm và không được bất cứ lúc nào sử dụng thêm các nhãn hiệu hàng hóa hoặc
biểu tượng hoặc làm bất cứ điều gì thêm vào hoặc không tuân thủ hệ thống mà không có
sự chấp thuận trước của bên nhượng quyền.
Bảy là, không được nhượng quyền lại trong trường hợp không có sự chấp thuận
của bên nhượng quyền.
Như vậy, về cơ bản giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật một số nước khác trên
thế giới liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ nhượng quyền
thương mại không có nhiều điểm khác biệt. Tuy nhiên, sự cụ thể hoá một cách chi tiết các
dấu hiệu nhận biết từng nghĩa vụ trong trọn vẹn của chúng thì không phải đã được thể
hiện rõ trong pháp luật thương mại Việt Nam. Thực tế là, trong hoạt động nhượng quyền
thương mại, tranh chấp có thể nảy sinh tại bất cứ giai đoạn nào của việc thực hiện hợp
đồng và chủ yếu xuất phát từ hai nguyên nhân chính: (i) cách tính phí nhượng quyền và
(ii) cách hiểu về việc thực hiện đúng nghĩa vụ của mỗi bên. Chính vì vậy, việc miêu tả
chi tiết nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ nhượng quyền và định ra cho những nghĩa vụ
ấy những ranh giới phân biệt nhất định giữa việc hoàn thành và vi phạm chúng là một
trong những cách thức giúp cho các bên tránh được những tranh chấp không đáng có trong khi
thực hiện kinh doanh bằng phương thức nhượng quyền thương mại.
2.2 Quyền và nghĩa vụ khác
Liên quan đến việc bên nhượng quyền cho phép bên nhận quyền sử dụng các đối
tượng sở hữu trí tuệ thuộc quyền sở hữu của mình, bên nhượng quyền và bên nhận quyền
có những quyền và nghĩa vụ liên quan đến việc này.
2.2.1 Bên nhượng quyền có các quyền và nghĩa vụ
Cùng với việc ký kết hợp đồng nhượng quyền, bên nhượng quyền sẽ cấp cho bên
nhận quyền quyền sử dụng không độc quyền các đối tượng sở hữu trí tuệ và hướng
dẫn bên nhận quyền sử dụng đúng đắn các đối tượng này. Để có thể cấp quyền sử
dụng cho bên nhận quyền, bên nhượng quyền đảm bảo mình là chủ sở hữu hoặc
người kiểm soát các đối tượng trên và có quyền cấp quyền cho bên nhận quyền sử
dụng. Đồng thời bên nhượng quyền cũng cam kết sẽ không để cho bên nhận quyền
chịu bất kỳ thiệt hại nào trong trường hợp có bất kỳ tranh chấp nào với bên thứ ba
về quyền sở hữu của các đối tượng đó.
2.2.2 Bên nhận quyền có các quyền và nghĩa vụ:
Xác nhận rằng bên nhượng quyền là chủ sở hữu của tất cả các quyền sở hữu và lợi
ích trong các nhãn hiệu hàng hóa và danh tiếng gắn liền với các nhãn hiệu hàng
hóa đó. Bên nhận quyền chỉ được xác định mình là bên được li-xăng chứ không
phải chủ sở hữu của nhãn hiệu hàng hóa và thực hiện các thủ tục đăng ký liên quan
để xác nhận việc này. Bên nhận quyền không được đăng ký hoặc tìm cách đăng ký
nhãn hiệu hàng hóa dưới tên của mình hoặc dưới tên của người khác. Việc bên
nhận quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hóa theo hợp đồng nhượng quyền không làm
cho bên nhận quyền có lợi ích chủ sở hữu đối với các nhãn hiệu hàng hóa ngoại
trừ một li-xăng không độc quyền.
2.3 Phân biệt hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại với một số hợp đồng khác
HĐNQTM với các đặc điểm của nó, nếu không được hiểu một cách thấu đáo,
chúng ta có thể nhầm lẫn với các loại hợp đồng khác. Vì vậy, tác giả đi vào phân biệt hợp
đồng nhượng quyền với một số loại hợp đồng khác để từ đó các bên trong hợp đồng có
cơ sở pháp lý khi tham gia đàm phán và ký kết HĐNQTM.
2.2.3 Phân biệt với hợp đồng đại lý thương mại
2.2.4 Phân biệt với hợp đồng phân phối
2.2.5 Phân biệt với hợp đồng li-xăng quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp
CHƢƠNG 3.
THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG NHƢỢNG QUYỀN
THƢƠNG MẠI VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
3.1 Thực trạng nhƣợng quyền thƣơng mại ở Việt Nam
Thời gian gần đây, sau khi trở thành một thành viên chính thức của Tổ chức
Thương mại Thế giới WTO, hoạt động thương mại của Việt Nam ngày càng trở nên sôi
động. Nhượng quyền thương mại cũng không thể nằm ngoài làn sóng phát triển này. Một
loạt các tên thương mại mới ra đời đã được các chủ đầu tư phát triển thành các tên thương
mại có thể thực hiện việc nhượng quyền. Trong thực tế, việc phát triển một tên thương
mại với mục đích nhượng quyền thương mại sẽ có những điểm khác biệt cơ bản so với
việc phát triển một cơ sở kinh doanh nhằm thu lợi nhuận thông thường. Chi phí cho việc
xúc tiến thương mại với mục đích làm nổi bật tên thương mại, nhãn hiệu hàng hoá, dịch
vụ của các thương nhân là một khoản chi đáng kể để xây dựng một “quyền thương mại”
có giá trị tiềm năng trong tương lai.
Sau một thời gian phát triển, chúng ta có thể nhìn nhận và đánh giá thực trạng hoạt
động này, cà phê Trung Nguyên có thể có thể coi là doanh nghiệp tiên phong thực hiện
hoạt động nhượng quyền ở Việt Nam. Thương hiệu này phát triển mạnh vào những năm
2001-2002 với hàng trăm cửa hiệu trên khắp các tỉnh thành trong cả nước và từng bước
thâm nhập ra thị trường nước ngoài. Nhìn chung, trong thời gian đầu với Trung Nguyên
có thể được xem là thành công và tạo lập được thương hiệu, tuy nhiên việc tạo lập một
thương hiệu là rất khó nhưng duy trì và gia tăng giá trị của thương hiệu còn khó hơn
nhiều. Theo đánh giá của tác giả, đến thời điểm hiện nay thương hiệu cà phê Trung
Nguyên cũng như hình thức kinh doanh nhượng quyền thương mại của chính nó là một
thực trạng cần xem xét và là bài học cho các doanh nghiệp trẻ của Việc Nam bước đầu
tham gia thị trường kinh doanh mới đó là nhượng quyền.
3.2 Thực trạng pháp luật điều chỉnh HĐNQTM ở Việt Nam
Cũng như tất cả mọi hình thức kinh doanh khác, nhượng quyền thương mại ngoài
những ưu điểm, cũng có những nhược điểm không thể không nói tới. Bên nhượng quyền
trao quyền cho một bên khác để thực hiện ý tưởng kinh doanh của mình, đương nhiên
cũng phải chịu rủi ro khi bên nhận quyền thực hiện không đúng các ý tưởng này khiến
công việc kinh doanh bị đổ bể gây ấn tượng xấu cho hoạt động kinh doanh của mình,
đồng thời làm giảm giá trị thương hiệu của bên nhượng quyền. Khi hoạt động kinh doanh
phát triển mạnh, đem lại lợi nhuận cao, bên nhận quyền rất dễ phá vỡ HĐNQTM và trở
thành đối thủ cạnh tranh đối với bên nhượng quyền. Nhược điểm của nhượng quyền
thương mại thể hiện rất rõ khi bên nhượng quyền lợi dụng ưu thế của mình để áp đặt, o
ép các bên nhận quyền, khiến cho bên nhận quyền phải chịu những nguyên tắc hoàn toàn
phi lý và cuối cùng dẫn đến toàn bộ hệ thống bị đổ bể.
Theo Điều 8 và Điều 9 của Nghị định số 35/NĐ-CP của Chính Phủ ngày
31/03/2006 quy định chi tiết Luật Thương mại 2005 về hoạt động nhượng quyền thương
mại bắt buộc bên nhượng quyền phải công bố công khai thông tin nhượng quyền đối với
bên nhận quyền trong một khoảng thời gian là 15 ngày làm việc trước khi ký kết hợp
đồng nhượng quyền và quy định cụ thể những nội dung chủ yếu mà bản thông tin này cần
phải có. Đồng thời, pháp luật thương mại Việt Nam cũng yêu cầu bên nhượng quyền có
nghĩa vụ đăng ký việc nhượng quyền và hỗ trợ, cung cấp thông tin cho bên nhận quyền
trong toàn bộ thời gian hợp đồng nhượng quyền có hiệu lực. Xuất phát từ tính chất mất
tương xứng về thông tin giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền thương mại trong
quan hệ nhượng quyền thương mại, pháp luật yêu cầu nội dung công bố thông tin mà bên
nhượng quyền đưa ra phải toàn diện, bao quát tất cả các mặt hoạt động chính của chủ thể
nhượng quyền đồng thời phải chi tiết, cụ thể từng lĩnh vực.
Về thời hạn, gia hạn, thay đổi và chấm dứt HĐNQTM. Chứa đựng rủi ro cho các
bên tham gia quan hệ là đặc trưng được tạo bởi sự phức tạp của quan hệ nhượng quyền
thương mại. Những cặp khái niệm tưởng như mâu thuẫn như: độc lập, thống nhất; công
khai, bảo mật luôn song hành với quan hệ nhượng quyền. Chính vì vậy, những quy định
về thời hạn hay gia hạn đối với HĐNQTM cũng mang ý nghĩa làm giảm rủi ro trong một
mức độ nhất định đối với các bên trong hợp đồng loại này. Pháp luật thương mại Việt
Nam không có giới hạn nào cho thời hạn tối thiểu của HĐNQTM. Điều này được lý giải
bởi lý do hầu hết các lĩnh vực nhượng quyền thương mại ở Việt Nam chủ yếu là các lĩnh
vực cung cấp các dịch vụ ăn uống hoặc sản xuất nhỏ.
Đối với hoạt động nhượng quyền thương mại, quyền sở hữu trí tuệ của bên
nhượng quyền giữ vai trò xương sống trong nội hàm khái niệm quyền thương mại. Bên
nhượng quyền, với tư cách là chủ sở hữu, có nghĩa vụ bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp
của mình và tránh cho bên nhận quyền khỏi những khiếu kiện từ bên thứ ba về việc bên
nhượng quyền hoặc bên nhận quyền xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của bên thứ ba trong
khi thực hiện HĐNQTM. Do quyền sở hữu trí tuệ của bên nhượng quyền có nguy cơ bị
xâm phạm cũng như bị lợi dụng, bên nhận quyền có nghĩa vụ tôn trọng tuyệt đối quyền
sở hữu trí tuệ của bên nhượng quyền, khai thác sử dụng đúng thoả thuận và theo quy định
của pháp luật.
Có thể nói, trước khi ban hành Luật Thương mại 2005, hoạt động nhượng quyền
thương mại ở Việt Nam vẫn chưa được luật hoá. Thời điểm này trở về trước, không thể
phủ nhận được rằng ở Việt Nam các hoạt động thương mại mang bản chất của nhượng
quyền thương mại vẫn diễn ra, tuy nhiên, các hoạt động này trên thực tế đều phải áp dụng
những văn bản hướng dẫn dưới luật, hầu hết là các văn bản liên quan đến mảng chuyển
giao công nghệ. Tuy nhiên, sự ra đời của Luật Thương mại 2005 đã đánh dấu thời điểm
hoạt động nhượng quyền thương mại chính thức được quy định và điều chỉnh bởi pháp
luật. Cụ thể là Điều 284 của Luật Thương mại 2005 đã quy định một khái niệm khá đầy
đủ về hoạt động nhượng quyền thương mại. Mặt khác, việc Luật Chuyển giao Công nghệ
của Việt Nam ngày 29/11/2006 đã loại hoạt động mang bản chất của nhượng quyền
thương mại ra khỏi đối tượng điều chỉnh của luật này (Điều 7) đã khẳng định vị trí độc
lập đáng phải có của hoạt động nhượng quyền thương mại dưới sự điều chỉnh của pháp
luật. Kể từ thời điểm này, hoạt động nhượng quyền thương mại được pháp luật điều chỉnh
một cách độc lập, tuy vậy, do bản chất khá phức tạp của quan hệ, trong quá trình diễn ra
trên thực tế, hoạt động này vẫn phải chịu một số sự điều chỉnh của pháp luật về sở hữu trí
tuệ đối với một số lĩnh vực có liên quan.
Các quy định pháp luật sở hữu trí tuệ sẽ điều chỉnh các vấn đề liên quan đến đối
tượng sở hữu trí tuệ trong HĐNQTM là hợp lý nhưng để sự hợp lý này tạo nên hiệu quả
trong việc điều chỉnh các quan hệ thương mại thì pháp luật về sở hữu trí tuệ cần có những
thay đổi hoặc những quy định riêng gắn với sở hữu trí tuệ trong HĐNQTM
Từ thực tế thực hiện các HĐNQTM đã bắt đầu xuất hiện những tranh chấp phát
sinh từ cách thức sử dụng các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động nhượng
quyền thương mại.
3.3 Những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh HĐNQTM
3.3.1 Hoàn thiện quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng
Trên cơ sở bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa hai bên trong hợp đồng nhượng
quyền cũng như giảm thiểu những rủi ro hay tranh chấp xảy ra khi thực hiện hợp đồng,
xét ở góc độ chung nhất, pháp luật về nhượng quyền thương mại ở Việt nam đã có những
quy định nhằm điều chỉnh và hạn chế các tranh chấp có thể xảy ra. Tuy nhiên, các quy
định điều chỉnh một số nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng trong pháp luật thương mại
Việt Nam vẫn còn sơ sài, chưa đầy đủ, chưa có tính pháp lý cao bảo vệ được quyền lợi
của bên đối trọng trong hợp đồng.
Luật Thương mại 2005 do chưa có quy định đầy đủ bao hàm chi tiết nội hàm cũng
như ngoại diên của một số khái niệm pháp lý liên quan đến hoạt động nhượng quyền
thương mại nên đã quy định được chi tiết cũng như nêu ra được một số khái niệm, định
nghĩa thuật ngữ pháp lý khi quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng
nhượng quyền thương mại. Đối với những quyền và nghĩa vụ đối ứng, tranh chấp rất dễ
xảy ra, đi kèm với những tranh chấp ấy là sự cố ý lạm dụng quan hệ nhượng quyền
thương mại để trục lợi hoặc cạnh tranh không lành mạnh. Chẳng hạn như quyền kiểm
soát của bên nhượng quyền, các quy định của pháp luật phải cụ thể hóa được quyền kiểm
soát bao gồm những quyền gì và kiểm soát đến đâu, mức độ kiểm soát như thế nào để
tránh bên nhượng quyền tham gia quá sau vào hoạt động của bên nhận quyền.
Luật Thương mại 2005 cũng quy định nghĩa vụ của bên nhận quyền là đầu tư đủ
cơ sở vật chất, nguồn tài chính và nhân lực để tiếp nhận các quyền và bí quyết kinh doanh
mà bên nhượng quyền chuyển giao. Đây có thể coi là trách nhiệm của bên nhận quyền
khi kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại. Tuy nhiên, khi xem xét
dưới góc độ pháp lý, thì bên nhận quyền không có cơ sở để phải thực hiện một nghĩa vụ
mà nếu không hoàn thành nghĩa vụ đó thì quyền lợi của mình bị ảnh hưởng. Hơn nữa,
trước khi ký kết hợp đồng thì bên nhượng quyền cũng phải có trách nhiệm tìm hiểu đối
tác của mình và phải đánh giá được năng lực tài chính và năng lực pháp lý của đối tác mà
mình mong muốn hợp tác và đôi khi phải chấp nhận những rủi ro nhất định. Vì vậy, quy
định về nghĩa vụ của bên nhận quyền tại khoản 2 Điều 289 Luật Thương mại Việt Nam
2005 không có nhiều ý nghĩa pháp lý mà nên quy định chi tiết các nghĩa vụ công bố
thông tin của bên nhận quyền cũng như chế tài, trách nhiệm vật chất áp dụng cho bên
nhận quyền nếu cung cấp các thông tin không trung thực và không chính xác cho bên
nhượng quyền.
Luật Thương mại 2005 cũng quy định nghĩa vụ của bên nhận quyền là không được
nhượng lại quyền thương mại cho bên thứ ba khi không có sự đồng ý của bên nhượng
quyền (khoản 7 Điều 289). Nghĩa vụ này thực sự là một công cụ rất hiệu quả nhằm bảo
vệ cho quyền lợi hợp pháp của bên nhượng quyền không bị xâm hại. Tuy nhiên, tại NĐ
số 35/2006/NĐ-CP, khoản 2, điều 15 lại cho phép bên nhận quyền được quyền nhượng
lại quyền thương mại ngay cả khi không có sự đồng ý của bên nhượng quyền. Quy định
này đã mâu thuẫn với quy định pháp luật và không có tính thực tiễn.
Tóm lại, nhằm hoàn thiện hệ thống quy định pháp luật điều chỉnh quyền và nghĩa
vụ của các bên trong quan hệ nhượng quyền thương mại, Việt Nam phải xoá bỏ một số
quy định và bổ sung những quy định hợp lý hơn. Việc làm này giúp các thương nhân
trong quá trình đầu tư, kinh doanh hạn chế được rủi ro và thiệt hại, tránh các tranh chấp
xảy ra.
3.3.2 Hoàn thiện các quy định về thời hạn và chấm dứt HĐNQTM
Pháp luật thương mại Việt Nam cần bổ sung một số trường hợp chấm dứt
HĐNQTM và quy định rõ hơn về sự ràng buộc giữa các bên sau khi hợp đồng chấm dứt.
Rõ ràng, trong số các quy định về trường hợp chấm dứt HĐNQTM, pháp luật chưa đề
cập đến trường hợp bên nhượng quyền là cá nhân chết mà không có người thừa kế quyền
và nghĩa vụ, là tổ chức bị phá sản, giải thể theo quy định của pháp luật. Đối với các loại
hợp đồng thương mại khác như hợp đồng phân phối, hợp đồng đại lý, việc một bên
không còn tồn tại sẽ dẫn đến việc chấm dứt hợp đồng và hậu quả pháp lý của việc chấm
dứt này hầu như không có gì đáng nói. Tuy nhiên, với HĐNQTM, nếu vì một lý do nhất
định, bên nhượng quyền không còn tồn tại, trong khi đó việc kinh doanh bằng các dấu
hiệu nhận biết thương nhân của bên nhận quyền vẫn tốt đẹp thì công việc kinh doanh của
bên này có bắt buộc phải ngừng lại hay không. Ngoài ra nên bổ sung thêm quy định về
quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng của bên nhượng quyền như trong trường hợp bên
nhận quyền không thanh toán phí nhượng quyền trong một thời hạn nhất định thì bên
nhượng quyền có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng và phải có chế tài đối với bên