Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Ứng dụng sữa vào các sản phẩm chăm sóc da

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (713.69 KB, 99 trang )


1

LỜI MỞ ĐẦU
[  \

Khi đời sống kinh tế ngày càng phát triển, con người ngày càng chú ý
đến hình thức và vẻ đẹp của mình. Việc sở hữu một làn da đẹp luôn là ước mơ
của mỗi người phụ nữ. Trong thời đại công nghiệp phát triển như ngày nay thì
nhu cầu ấy càng trở nên cần thiết.
Nền công nghiệp phát triển, ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm
trọng, lượng khói, bụi gia tăng, ánh nắng mặt trời ngày càng gây gắt…là
những nguyên nhân gây hư tổ
n thậm chí hủy hoại làn da của con người, cho
nên nhu cầu chăm sóc làn da của phụ nữ ngày càng cấp thiết. Đó là lí do hàng
loạt các sản phẩm chăm sóc da liên tục ra đời, đã và đang đáp ứng được nhu
cầu trên.
Từ xa xưa, cách đây 4000 ngàn năm người Ai Cập cổ đã phát hiện ra sữa
có tính năng nuôi dưỡng đồng thời tái tạo da rất hiệu quả. Chính vì lí do này
họ đã sử dụng s
ữa vào việc làm đẹp của mình. Mãi cho đến ngày nay, sữa
luôn được xem như một thành phần không thể thiếu trong nhiều loại mỹ phẩm
chăm sóc cá nhân, đặc biệt là trong các sản phẩm dưỡng da vì trong sữa chứa
rất nhiều tố chất quan trọng, phù hợp, góp phần cải thiện, phục hồi làn da hư
tổn; chăm sóc và duy trì một làn da đẹp.
Đề tài “Ứng dụng sữa vào các sản phẩm chăm sóc da” có thể cung cấ
p
thêm hai loại sản phẩm chăm sóc da là sữa tắm và sữa dưỡng thể phù hợp với
mọi làn da và đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Mục tiêu của đề tài
là có thể tạo ra được các sản phẩm chăm sóc da có chứa hoạt chất sữa nhằm
góp phần tăng thêm vẻ tươi trẻ của làn da khỏe mạnh, mịn màng giúp người


phụ nữ trở nên tự tin hơn trong giao tiế
p và trong mọi lĩnh vực của đời sống.




2

PHẦN I
TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI

Việc làm đẹp đã được chú ý đến cách đây 10000 năm trước công
nguyên. Đã có những cuộc khảo cổ chứng minh về việc sử dụng các sản phẩm
chăm sóc cá nhân ở thời đại đồ đá và những sản phẩm làm đẹp đó cũng được
cải tiến theo sự phát triển văn minh của nhân loại. Người Babylon đã tìm ra
sơn môi, sau đó là việc sử dụng phấ
n trang điểm của người Hy Lạp cổ. Tất cả
chúng đều có nguồn gốc từ thiên nhiên và hầu như được sử dụng dưới dạng
dịch chiết được trích trực tiếp từ các loại thảo dược đó.
Sữa lần đầu tiên được người Ai Cập cổ sử dụng đến như là một loại dầu
tắm có tác dụng dưỡng da, làm cho việc tắm r
ửa dễ dàng, giúp nước dịu hơn.
Đồng thời đối tượng sử dụng cũng có được cảm giác về một sản phẩm béo,
trơn tru sau khi tắm bồn. Vào thời đại đó, người Ai Cập sử dụng trực tiếp sữa
lừa dành cho việc tắm rửa. Kể từ đó, họ đã tìm ra phương pháp và phát triển
các sản phẩm làm đẹp từ sữa, điển hình là kem bôi tr
ơn.
Ngày nay các sản phẩm ngày càng đa dạng về chủng loại. Sữa hay các
thành phần được chiết xuất từ sữa có mặt hầu như trong tất cả các sản phẩm
làm đẹp, đặc biệt là các sản phẩm liên quan đến da như sữa tắm, sữa dưỡng

thể, sữa làm trắng da, lotion dưỡng da, kem làm trắng da, phai mờ vết thâm,
ngăn ngừa mụn….
Nhiệm vụ thứ nhất củ
a đề tài sẽ khảo sát tất cả tính chất, thành phần của
sữa cũng như tính năng của sữa trong việc làm đẹp da. Ở đây, đề tài chỉ chủ
yếu quan tâm đến sữa bò vì đây là loại sữa phổ biến nhất trên thế giới nói
chung và ở Việt Nam nói riêng. Nhiệm vụ thứ hai là tiến hành ứng dụng thành
phần sữa vào sản phẩm sữa tắm và sữa dưỡng th
ể trong phòng thí nghiệm.




3
Chương 1: LÝ THUYẾT VỀ MỸ PHẨM CHĂM SÓC DA

1.1. Giới thiệu chung
Mỹ phẩm chăm sóc da là một loạt các sản phẩm rất quan trọng góp phần
làm đẹp cho con người. Có đầy đủ các dạng sản phẩm chăm sóc da như dạng
lotion, dạng sữa, dạng kem mềm, kem cứng, được sử dụng cho tất cả các loại
da từ da khô, da nhờn, da trưởng thành đến da nhạy cảm. Tùy theo nhu cầu và
mục đích sử dụng mà nhà sản xuất tạo ra từng loại sản phẩm khác nhau.
Mỹ phẩm chăm sóc da là hệ nhũ tương tướng dầu và tướng nước có tác
dụng giữ ẩm, chăm sóc da, phục hồi và cải tạo làn da tổn thương. Chúng giữ
vai trò tạo màng mỏng trên da, tác dụng làm mềm, ngăn ngừa sự khô da và
duy trì lượng nước cho da, có tác dụng lấy bẩn, loại thải tế bào chết trên da
một cách nhẹ nhàng, tạo sự tươi mát, sạch sẽ trên da.
1.2. Thành phần cơ bản trong mỹ phẩm chăm sóc da [5]
1.2.1. Chất dầu
Sản phẩm mỹ phẩm dạng nhũ nói chung là một hệ nhũ gồm có một pha

dầu, một pha nước được kết hợp với nhau nhờ một chất nhũ hóa. Vì vậy,
chất dầu là một thành phần cơ bản trong sản xuất mỹ phẩ
m. Tùy theo yêu cầu
và công dụng sản phẩm mà chất dầu có thể là dầu, mỡ hay sáp.
Ngày nay, các chất dầu sử dụng trong mỹ phẩm có nguồn gốc rất rộng,
có thể phân ra các nhóm chính sau đây:
- Dầu và mỡ có nguồn gốc từ động vật, thực vật.
- Các dẫn xuất từ dầu mỏ.
- Các rượu và acid béo.
- Dầu, mỡ, sáp tổng hợp.
Vai trò của chất dầu trong mỹ phẩm cũng r
ất đa dạng, có thể là tác nhân
trợ nhũ, chất làm mềm, tạo độ bóng hoặc giữ vai trò tạo màng chống thấm
nhờ tính kị nước.


4
1.2.2. Chất giữ ẩm
Trong suốt qúa trình lão hóa da, số lượng mucopolysaccarit ở lớp biểu
bì dưới da giảm dẫn đến sự giảm lượng nước của da. Những biến đổi vật lí và
hóa học của lớp biểu bì cũng dẫn đến sự khô da. Qúa trình lão hóa này sẽ tăng
nhanh dưới bức xạ tia UV.
Khi da khô lớp sừng của da bị bong vẩy. Và khi da bị khô sẽ trở nên
cứng và không đàn hồi như tr
ước nữa. Da cũng có thể bị rạn nứt.
Với lí do trên mà thành phần chủ yếu trong sản phẩm chăm sóc da là
chất giữ ẩm có tác dụng lôi cuốn và giữ nước, kết quả là tích trữ được lượng
nước cho làn da. Trong công thức pha chế sản phẩm luôn có các loại dầu hỗ
trợ quá trình lưu trữ nước. Vì sự có mặt của các giọt dầu nhỏ sẽ làm giảm tốc
độ mấ

t nước trên bề mặt da.
Chất giữ ẩm có khả năng giữ ẩm cho da bằng cách hấp phụ hơi ẩm có
trong thành phần của lotion và bảo vệ da không bị khô. Lượng nước thu được
trong da lúc này bao hàm lượng nước trong thành phần của lotion và lượng
nước vốn có của da.
Chất giữ ẩm là các vật liệu hút ẩm có tính chất hút hơi nước từ không khí
ẩm cho đến khi đạt được cân bằng. Chất giữ
ẩm được thêm vào các kem mỹ
phẩm, đặc biệt là loại mỹ phẩm dầu trong nước như lotion dưỡng da để tránh
các kem bị khô khi tiếp xúc với không khí.
Tuy nhiên chất giữ ẩm chắc chắn không loại trừ được hoàn toàn sự khô
sản phẩm. Nó chỉ có thể làm giảm tốc độ mất nước vào không khí, do đó bao
bì đóng gói có một vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa sự khô sản phẩm.
Các loại chất gi
ữ ẩm:
- Chất giữ ẩm vô cơ: CaCl
2
là điển hình.
- Chất giữ ẩm cơ kim (kim loại – hữu cơ): chất chính là natri lactat, hút
ẩm cao hơn glycerine, nhưng không tương hợp với một số vật liệu thô, thường
được dùng trong kem da vì không độc và không gây viêm da.
- Chất giữ ẩm hữu cơ: được sử dụng rộng rãi nhất là các rượu đa chức,
các ester và ete của chúng như ethylenglycol, glycerine, sorbitol.

5
Các hợp chất thường được sử dụng nhất cho mục đích hút ẩm trong sản
phẩm mỹ phẩm dưỡng da là: glycerine, ethylen glycol, propylen glycol,
glycerol, sorbitol, polyethylene glycol.



1. Pha H
2
O ngoài cùng đảm bảo hàm lượng ẩm cho da.
2. Pha Dầu gồm những giọt dầu nhỏ tạo thành lớp trên da.
3. Pha H
2
O duy trì độ ẩm cho làn da.
4. Lớp biểu bì.
Hình 1.1: Cơ chế giữ ẩm da của mỹ phẩm chăm sóc da [9]
1.2.3. Chất làm mềm
Chất làm mềm da là sản phẩm được công nhận có tính năng làm da trở
nên nhẵn bóng và căng mịn. Chúng có thể là chất ưa nước như glyxerine,
sorbitol… hoặc những chất kị nước như dầu paraffin, mỡ hải ly, triglyxerit,
vaselin vàng, dầu khoáng, dầu thực vât, mỡ cừu, silicon lỏng … Trong
đó dầu
khoáng trắng được dùng phổ biến nhất.
Dầu khoáng trắng là phần sản phẩm lấy từ dầu mỏ, được sử dụng trong
mỹ phẩm nên còn gọi là dầu mỹ phẩm, có tỷ trọng từ 0.84-0.88 ở 60
o
F, phạm
vi nhiệt độ sôi từ 310
o
-410
o
F. Dầu khoáng trắng là một hỗn hợp phức tạp của
các loại hydocacbon khác nhau, chúng là các hợp chất polymethylen đa vòng
hay các vòng no với công thức chung (CH
2
)
n

.
Ngoài ra, dầu khoáng trắng có chứa một lượng nhỏ parafin mạch dài, các
napthten, hệ đa vòng chứa nhân thơm. Trong hệ vòng naphten gắn với nhánh
parafin, nhóm – CH là nơi dễ bị oxy hóa, khi tiếp xúc với không khí, đặc biệt
khi có ánh sáng mặt trời, có thể làm biến đổi màu hay gây mùi khó chịu.

6


1. Cung cấp lớp dầu nhằm ngăn cản sự mất nước của da
2. Xuyên qua lớp trên làn da nhằm hồi phục làn da hư tổn
Hình 1.2: Cơ chế làm mềm da của mỹ phẩm chăm sóc da [9]
1.2.4. Chất làm đặc
Chất làm đặc sử dụng trong mỹ phẩm chăm sóc da có tác dụng như:
- Làm đặc dung dịch
- Tạo độ nhớt cho sản phẩm
- Chống sự tái bám bẩ
n trở lại
- Chuyển cấu trúc sản phẩm về dạng gel
- Tạo cảm quan tốt cho sản phẩm
Thường sử dụng chất làm đặc polymer như Poly vinyl alcolhol (PVA),
Carboxy metyl cellulose (CMC), Hydroxy ethyl cellulose (HEC),
Carbomer…Trong đó người ta dùng phổ biến nhất là Carbomer 940 do nó có
tính năng làm đặc tốt, cho độ nhớt cao, hút nước và ngậm nước tốt, chống tái
bám bẩn cao.
1.2.5. Chất hoạt động bề mặt
Hiện tượng cơ bản của ch
ất hoạt động bề mặt là hấp phụ, nó có thể dẫn
đến hai hiệu ứng hoàn toàn khác nhau:
- Làm giảm một hay nhiều sức căng bề mặt ở các mặt phân chia giới

trong hệ thống.

7
- Bền hóa một hay nhiều mặt phân giới bằng sự tạo thành các lớp bị hấp
phụ.
Tác nhân hoạt động bề mặt có tính chất làm thay đổi năng lượng bề mặt
mà nó tiếp xúc. Sự giảm năng lượng bề mặt có thể dễ quan sát thấy trong sự
tạo bọt, sự lan rộng một chất lỏng trên một chất rắn, sự phân tán các hạt rắn
trong môi trường lỏ
ng và tạo sự huyền phù.
Chất hoạt động bề mặt trong mỹ phẩm có 5 lĩnh vực tùy thuộc vào tính
chất của chúng:
- Tẩy rửa.
- Làm ướt khi cần có sự tiếp xúc tốt giữa dung dịch và đối tượng.
- Tạo bọt.
- Nhũ hóa trong các sản phẩm.
- Làm tan khi cần đưa vào sản phẩm cấu tử không tan.
Chất hoạt động bề mặt gồm 2 phần: một phần t
ử kị nước và một phần ưa
nước. Phần kị nước thường là các mạch hay vòng hydrocacbon hay hỗn hợp
của cả hai, phần ưa nước thường là các nhóm phân cực như các nhóm
carbocylic, sulfate, sulfonate, hay trong các CHĐBM không ion, nó là một số
nhóm hydroxyl hay ether. Chất hoạt động bề mặt được chia 4 loại:
- Anion: là các chất mà phân tử của chúng trong nước có ion hoạt động
bề mặt tích điện âm như: alkyl sulfate, alkyl sulfonate, alkyl aryl sulfonate…
- Cation: hoạt động bề mặt trong dung d
ịch tích điện dương như: muối
alkyl trimethyl amonium, muối dialkyl dimetyl amonium, muối alkyl benzyl
dimethyl amonium…
- Không ion: phần ưa nước thường cấu tạo từ vô số các nhóm phân cực

- Lưỡng tính: có khả năng tạo các ion họat động bề mặt tích điện dương
lẫn âm.
1.2.6. Chất bảo quản
Chất bảo quản được thêm vào sản phẩm với 2 lý do:
- Ngăn ngừa hư hỏng sản phẩm.
- Bảo v
ệ người tiêu dùng.

8
Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng các chất bảo quản:
- pH của môi trường
- Nồng độ của chất bảo quản
- Hệ số phân bố
- Sự tương tác giữa các cấu tử và chất bảo quản
- Ảnh hưởng của chất hoạt động bề mặt
1.3. Cơ chế tẩy rửa và nuôi dưỡng da [3,5]
1.3.1. Sữa tắm
M
ục đích của sản phẩm sữa tắm là loại bỏ những chất không cần thiết
ra khỏi bề mặt da như chất nhờn, bụi bẩn… Những chất này có thể ở dạng lớp
film mỏng hay hạt rắn. Cách tẩy rửa cổ điển là sử dụng nước với xà phòng và
cho đến ngày nay là các sản phẩm tẩy rửa dạng kem, lotion hay dạng sữa.
Đối vớ
i nước, qúa trình tẩy rửa đơn giản là qúa trình hòa tan các chất bẩn
có thể tan trong nước và như vậy chúng sẽ được loại ra khỏi bề mặt. Đối với vết
dầu hay chất rắn không tan trong nước thì vẫn còn nằm trên bề mặt nên quá trình
tẩy rửa bằng nước không cho hiệu quả cao nhất. Cảm giác sau khi rửa mặt hay
tắm rửa bằng nước là da sẽ bị nhờn hay khô và không thật sạch.
Để
đạt hiệu qủa tẩy rửa tốt, người ta sử dụng xà phòng và nước. Có thể

hình dung qúa trình tẩy rửa bằng xà phòng giống như qúa trình giặt quần áo,
các chất hoạt động bề mặt có trong xà phòng sẽ giúp loại bỏ cả chất bẩn dạng
dầu trên bề mặt da. Đó là nhờ các phần ưa dầu của chất hoạt động bề mặt tấn
công vào chất bẩn trong khi đầu ư
a nước sẽ kết hợp với nước và kết quả là sẽ
bị nước kéo ra khỏi bề mặt da. Tuy quá trình tẩy rửa bằng xà phòng cho hiệu
quả tẩy rửa tốt vì loại được cả chất bẩn tan trong nước và dầu nhưng sau khi
tẩy rửa lại làm cho bề mặt da khô và ráp. Vì vậy, ngày nay sản phẩm tẩy rửa
dạng nhũ rất được ưa thích. Gọi là sản phẩm s
ữa tắm.
Sử dụng sản phẩm sữa tắm có nhiều ưu điểm nổi bật hơn so với phương
pháp cổ điển ở trên. Một mặt, các sản phẩm sữa tắm có thể dễ dàng loại bỏ
chất bẩn một cách hiệu quả mà không gây khô ráp da. Mặt khác, bằng cách
thay đổi các thành phần trong công thức nền, người ta có thể phối chế ra một

9
sản phẩm tẩy rửa đa chức năng, vừa có tính năng tấy sạch làn da vừa có tính
năng dưỡng da. Cơ chế tẩy rửa của sữa tắm cũng tương tự như xà phòng là
nhờ vào chất hoạt động bề mặt. Thêm vào đó, vì sữa tắm ở dạng nhũ hay
lỏng sẽ giúp các chất dễ dàng phân tán và thấm vào da. Vì vậy, quá trình tẩy
rửa sẽ diễn ra dễ dàng h
ơn. Sau khi lấy đi vết bẩn, một lớp film mỏng sẽ
được giữ trên bề mặt da giúp da có cảm giác mềm mại và duy trì được độ
ẩm.
Một số sản phẩm còn có các hoạt chất như sũa tươi, chiết suất thiên
nhiên từ dưa leo, aloe vera, mật ong…đóng vai trò thực hiện một chức năng
nào đó trên da như làm sáng da, trắng da, nuôi dưỡng da…
Một số sản phẩm sữa tắ
m có chứa hoạt chất sữa trên thị trường:




Hình 1.3: Một số hình ảnh sữa tắm
1.3.2. Sữa dưỡng thể
Các sản phẩm dưỡng da có nhiều loại với nhiều tác dụng khác
nhau. Nhìn chung, các tác dụng thường gặp của sản phẩm dưỡng thể là làm
ẩm, làm se lỗ chân lông, làm sáng và trắng da, chống lão hóa da, làm phai mờ
nếp nhăn… Trong đó, cơ chế làm ẩm là tác dụng chính của các sản phẩm sữa
dưỡng thể.
Làn da khỏe mạnh bình thường có khả n
ăng duy trì một độ ẩm nhất
định. Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân mà da có thể bị mất nước và bị khô.
Các tác động bên ngoài như nắng, gió… thường là nguyên nhân gây khô da.
Cũng có trường hợp da thuộc loại khô do tuyến nhờn hoạt động không tốt.
Nhưng dù do nguyên nhân gì thì da khô cũng gây nhiều bất lợi, vì vậy để duy
trì độ ẩm cần thiết cho da, người ta thường sử dụng các sản phẩm làm ẩm.

10
Lotion dưỡng thể thường được sử dụng sau sữa tắm, khi mà da đã được làm
sạch. Khi sử dụng, các sản phẩm này sẽ tạo một lớp dầu thật mỏng trên bề
mặt da, giúp hạn chế sự thoát hơi nước từ bề mặt da và như thế giúp da duy
trì độ ẩm. Chính vì vậy, các sản phẩm dưỡng thể thường có dạng lotion hay
dạng sữa vì hai dạng này dễ dàng phân tán và tan đều trên b
ề mặt da. Cũng
tương tự như sữa tắm, sản phẩm dưỡng thể cũng thường được kết hợp một số
hoạt chất để tạo sự hấp dẫn cho sản phẩm và tăng hiệu quả làm đẹp cho làn
da.
Một số sản phẩm sữa dưỡng thể có hoạt chất sữa trên thị trường:



Hình 1.4: Một số hình ảnh sữa dưỡng thể
1.3.3. Sự khác nhau cơ bản giữa cơ chế tẩy rửa và cơ chế dưỡng da
Qua phân tích về cơ chế tẩy rửa và cơ chế dưỡng da như trên, sự khác
nhau giữa hai loại sản phẩm sữa tắm và sữa dưỡng thể thể hiện rất rõ:
- Sản phẩm sữa tắm chủ yếu có tác dụng làm sạch là chính, tác dụ
ng
dưỡng da chỉ có ở một vài sản phẩm đa năng nhưng cũng với tác dụng tạo sự
hấp dẫn cho người tiêu dùng.
- Sản phẩm sữa dưỡng thể có tác dụng chính là làm ẩm, đưa các hoạt
chất vào da để nuôi dưỡng da.
Hiện nay, trong cả hai loại sản phẩm đều được sử dụng các hoạt
chất thiên nhiên để gây hấp lực cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, để hoạt chất
thực sự có tác dụng thì cần một thời gian lưu nhất định trên da. Vì thế, hoạt
chất được dùng trong sản phẩm dưỡng da mới thể hiện hết tác dụng của nó

11
Chương 2: LÝ THUYẾT VỀ NHŨ MỸ PHẨM

2.1. Một số khái niệm [5]
2.1.1. Nhũ tương mỹ phẩm
Nhũ tương là hệ hai pha chứa hai chất lỏng không tan lẫn vào nhau,
trong đó một pha phân tán trong pha còn lại dưới dạng những hạt cầu nhỏ có
đường kính trong khoảng 0.2 – 50 µm.
Pha là một thành phần riêng biệt, đồng nhất, phân biệt với các thành
phần khác của hệ thống qua bề mặt phân cách xác định.
Khi nói đế
n nhũ tương mỹ phẩm, người ta không hạn chế ở những hệ
lỏng–lỏng đơn giản mà còn những hệ phức. Tuy nhiên, đặc trưng chung của hệ
đó là phải có một pha háo nước và một pha háo dầu. Khi pha háo nước phân
tán trong pha háo dầu, ta có hệ W/O và ngược lại ta có hệ O/W.



Nhũ Dầu/H
2
O (O/W) Nhũ H
2
O/Dầu (W/O)
1. PhaDầu, 2.PhaH
2
O
Hình 2.1: Hình ảnh mô tả các pha trong nhũ tương [9]


12

a) 1. Pha H
2
O bên ngoài b) 1. Pha dầu bên ngoài
2. Pha dầu bên trong 2. Pha H
2
O bên trong
Hình 2.2: Sự phân bố pha trong nhũ tương W/O(a) và O/W(b) [9]
2.1.2. Nhũ phức
Dầu có thể phân tán trong pha nước của nhũ W/O để tạo ra hệ phức
O/W/O. Nhà sản xuất không chú ý tạo ra loại nhũ này, như sự hình thành
nhũ phức xảy ra một cách tự nhiên trong một vài sản phẩm mỹ phẩm.
Tương tự, ta cũng có hệ phức W/O/W.
2.1.3. Nhũ trong
Phần lớn các loại nhũ được đề cập ở


trên đều đục, do ánh sáng bị tán xạ
khi gặp các hạt nhũ phân tán. Khi đường kính của những giọt cầu xuống
khoảng 0.05 µm, tác dụng tán xạ giảm, lúc này mắt không thấy được các hạt
phân tán và khi đó nhũ sẽ trong suốt. Nhũ trong còn được gọi là vi nhũ.
Có hai loại nhũ trong: W/O và O/W. Hệ nhũ trong O/W được ứng dụng trong
những sản phẩm vệ sinh cũng như các sản phẩm mỹ phẩm cao cấp.
2.2. Nh
ững vấn đề trong sản xuất nhũ
2.2.1. Định hướng nhũ
Trong trường hợp đơn giản, không dùng chất nhũ hóa khi trộn pha nước
vào pha dầu và ngược lại. Định hướng của nhũ tùy thuộc vào máy khuấy, vận
tốc khuấy cũng như vị trí đặt cánh khuấy.
- Nếu cánh khuấy được đặt trong pha W thì nhũ O/W hình thành và
ngược lại.
- Tương tự, nếu ban đau bình chứa pha nào đó thì pha này r
ất dễ là pha

13
liên tục trước khi thêm pha thứ hai vào.
- Ngoài ra, khi vận tốc khuấy cao thì pha nặng có khuynh hướng là pha
liên tục.
2.2.2. Kiểm tra loại nhũ tương
Để kiểm tra loại nhũ tương, ta có thể căn cứ vào:
- Phẩm màu:
Nếu nhũ nhuộm màu methyl violet nhũ thuộc loại O/W. Nếu nhũ
nhuộm màu xanh thì nhũ thuộc loại W/O.
- Đo độ dẫn điện:
Nếu nhũ dẫn điện: nhũ thuộc lo
ại O/W.
Nếu nhũ không dẫn điện: nhũ thuộc loại W/O.

2.2.3. Kiểm tra nhanh tính ổn định của sản phẩm
Tất cả các sản phẩm loại nhũ như kem, lotion, dạng sữa rất dễ bị phá
nhũ trong thời gian lưu trữ. Các yếu tố gây phá nhũ rất đa dạng như ánh
sáng, nhiệt độ, chuyển động cơ học, môi trường. Vì vậy, trong sản xuất,
để
có kết quả nhanh người ta thực hiện các phép thử căn cứ vào các yếu tố tác
động mạnh lên sản phẩm. Hai thông số được chọn thường là thử nhiệt độ và
thử tác động cơ học.
- Thử nhiệt độ: giữ màu ở điều kiện -5
o
C và 40
o
C trong vòng 24h.
- Thử ly tâm hoặc lắc: nhũ tốt có thể chịu được tốc độ ly tâm từ 5000-
10000 vòng/phút.
2.2.4. Một số yếu tố làm phá nhũ
Nhũ tương có thể bị phá vỡ trong một số trường hợp sau đây:
- Thêm chất điện ly hóa trị cao vào hệ. Nhóm ion hóa trị cao có thể tác
dụng với nhóm ion của nhũ tạo những hợp chất không tan trong nước,
chuyển chất nhũ hóa về dạ
ng không hoạt động.
- Dùng thêm chất nhũ hóa có tác dụng ngược với chất nhũ hóa ban đầu.
- Đưa vào hệ một chất hoat động bề mặt hoặc chất nào đó có khả năng
đẩy chất nhũ hóa ra khỏi hệ.
- Nhũ có thể bị phá bằng cách ly tâm, lọc, điện li, đun nóng.

14
Chương 3: LÝ THUYẾT VỀ SỮA

3.1. Một số tính chất vật lý của sữa bò [2]

Sữa bò là một chất lỏng đục. Độ đục của sữa là do các chất béo, protein
và một số chất khoáng trong sữa tạo nên. Màu sắc của sữa phụ thuộc chủ yếu
vào hàm lượng β-caroten có trong chất béo của sữa. Sữa bò thường có màu
trắng đến vàng nhạt Sữa bò có mùi rất đặc trư
ng và vị ngọt nhẹ.
Giá trị pH của sữa trung bình là 6.6
Sữa no, tức phần sữa đầu tiên trong một chu kỳ tiết sữa của động vật, có
giá trị pH thường thấp hơn và khoảng chừng 6.0
Khi sữa bị nhiễm vi sinh vật như nhóm vi khuẩn lactic, chúng sẽ chuyển
hóa lượng lactose trong sữa thành axit lactic và làm giảm giá trị pH của sữa.
Độ chua: thường được biểu diễn bằng độ Soxhlet Henkel (
o
SH), độ
Thorner (
o
Th) hoặc độ Dornic (
o
D). Trong đó:
o
SH: là số ml dung dịch NaOH N/4 cần thiết để chuẩn độ 100ml sữa có
bổ sung vài giọt phenolphthalein cho đến khi xuất hiện màu hồng bền trong
20 giây. Sữa bò tươi có độ chua trung bình 7
o
SH.
o
Th: là số ml dung dịch NaOH N/10 cần thiết để chuẩn độ hỗn hợp
100ml sữa và 200ml nước cất có bổ sung vài giọt phenolphtlein cho đến khi
xuất hiện màu hồng bền trong 20 giây. Sữa bò bình thường có độ chua 17
o
Th.

o
D: là số ml dung dịch NaOH N/9 cần thiết để chuẩn độ 100ml sữa có bổ
sung vài giọt phenolphtlein cho đến khi xuất hiện màu hồng bền trong 20
giây.
Bảng 3.1: Mối liên hệ giữa các đơn vị đo độ chua của sữa

o
SH
o
Th
o
D
o
SH 1 2.5 2.25
o
Th 0.4 1 0.9
o
D 4/9 10/9 1


15
Tỉ trọng sữa: tỉ trọng sữa là do hàm lượng các chất khô trong sữa quyết
định. Các chất béo có tỷ trọng nhỏ hơn 1 g/cm
3
, hàm lượng chất béo trong sữa
càng cao thì tỉ trọng sữa càng thấp.
Khi biết được thành phần khối lượng các chất béo và các chất không béo
có trong sữa, ta có thể tính được tỉ trọng của sữa ở 15.5
o
C theo công thức sau:

D
15.5
o
C
= 100/(F/0.93 + SNF/1.608 + W)
Trong đó:
F: hàm lượng chất béo có trong sữa (% khối lượng)
SNF: hàm lượng các chất khô không béo trong sữa (% khối lượng)
W: hàm lượng nước trong sữa (% khối lượng)
W = 100 − F − SNF (%)
Điểm đông đặc của sữa dao động trong sữa khoảng từ −0.54-0.59
o
C.
3.2. Thành phần hóa học của sữa bò [2]
Sữa là một hỗn hợp với các thành phần chính bao gồm: nước, lactose,
protein và các chất béo. Ngoài ra sữa còn có một số hợp chất khác với hàm
lượng nhỏ như các hợp chất chứa nitơ phi protein, vitamin, hormon, các chất
màu và khí.
Hàm lượng các chất trong sữa có thể dao động trong một khoảng rộng
và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chủng động vật nuôi, tình trạng sinh lí của
t
ừng con vật, điều kiện chăn nuôi.
Bảng 3.2: Thành phần hóa học của sữa ở một số động vật và người (%kl)
Động vật Protein tổng Casein Chất béo Carbonhydrate Khoáng


Cừu
Ngựa
Người
3.4

3.6
5.8
2.2
1.2
2.8
2.7
4.9
1.3
0.5
3.9
4.1
7.9
1.7
3.8
4.8
4.7
4.5
6.2
7.0
0.8
0.8
0.8
0.5
0.2




16
Bảng 3.3: Sự thay đổi hàm lượng các chất trong sữa bò (% kl)

Các thành phần chính Khoảng biến thiên Giá trị trung bình
Nước
Tổng các chất khô
Lactose
Protein
Chất béo
Khoáng
Vitamin
85.5-89.5
10.5-14.5
3.6-5.5
2.9 -5.0
2.5-6.0
0.6- 0.9
0.3-0.7
87.5
13.0
4.8
3.4
3.9
0.8
0.4

Tổng các chất khô là lượng các chất còn lại trong sữa sau quá trình bài
khí và làm bốc hơi toàn bộ lượng nước có trong sữa. Đại lượng này thường
được biểu diễn dưới dạng % khối lượng. Chất khô không béo là hiệu số giữa
tổng các chất khô và hàm lượng chất béo trong sữa. Từ bảng trên suy ra giá trị
trung bình hàm lượng chất khô không béo trong sữa bò là 13.0 – 3.9 = 9.1%
3.2.1. Đường lactose
Lactose là một disaccharide do một phân tử flucose và một phần tử

galactose liên kết với nhau tạ
o thành.
Trong sữa, đường lactose tồn tại dưới 2 dạng:
- Dạng α-lactose monohydrate C
12
H
12
O
11
.H
2
O (phân tử α-lactose ngậm 1
phân tử nước).
- Dạng β-lactose anhydrous C
12
H
12
O
11
(phân tử β-lactose khan).
Bảng3.4: Tính chất vật lí của Lactose
Đại lượng Đơn vị đo
α-lactose
monohydrate
β-lactose
anhydrous
Phân tử lượng
Nhiệt độ nóng chảy
Độ hòa tan ở 15
o

C
Góc quay cực [α]
D
20

Da
o
C
g đường/100g nước
độ
360
202
7
+89.4
342
242
50
+35

17
Khi hòa tan α-lactose monohydrate dạng tinh thể vào nước, góc quay
cực của dung dịch sẽ là +89.4
o
. Nếu giữ dung dịch ở nhiệt độ phòng, sau 24
giờ góc quay cực sẽ giảm xuống còn +55
o
. Đó là do 1 phân tử α-lactose
monohydrate đã chuyển sang dạng β-lactose anhydrous. Trong dung dịch tồn
tại sự cân bằng:
L - α-lactose monohydrate = L - β-lactose anhydrous

Bảng3.5: Tỉ lệ thành phần α-lactose monohydrate và β-lactose
anhydrous ở trạng thái cân bằng trong dung dịch tại các nhiệt độ khác nhau.
Nhiệt độ dung dịch (
o
C) 15 20 50 70 90
Tỉ lệ thành phần (%kl) 1/1.63 1/1.59 1/1.51 1/1.45 1/1.40

Lactose là đường khử. Độ ngọt của lactose thấp hơn nhiều so với
disccharide và monosaccharide thường gặp. Nếu như độ ngọt của saccharose
được đánh giá với chỉ số 100, của maltose là 32, glucose là 74, frucose là 173
thì của lactose là 16.
Lactose có thể bị thủy phân tạo ra 2 monosaccharide là glucose và
galactose bởi enzyme β-galactosidase.
3.2.2. Các hợp chất có chứa Nitơ: 100%
a) Protein (95%) gồm casein và protein hòa tan
Casein (75-85%): α
s
-casein, β-casein, χ-casein, γ-casein. Phân đoạn
protein trong micell (đông tụ ở pH = 4.6).
Casein là thành phần chủ yếu có trong sữa. Chúng tồn tại ở dạng micell.
Mỗi micell chứa khoảng 65% nước, phần còn lại là các loại casein và khoáng.
Mỗi micell do khoảng 400-500nm tiểu micell hợp thành. Tiểu micell có
dạng hình cầu, đường kính dao động 10-15nm bao gồm khoảng 10 phân tử
casein kết hợp lại với nhau…Thành phần các casein α
s
, β và κ trong tiểu
micell có thể thay đổi theo những tỉ lệ khác nhau. Các phân tử α
s
và β-casein
nằm tập trung tại tâm tiểu micell tạo nên vùng ưa béo, còn các phân tử κ –

casein được bố trí tại vùng biên tiểu micell. Phân tử κ -casein có 2 đầu, đầu ưa
nước sẽ hướng ra ngoài vùng biên micell.

18
Ở nhiệt độ thấp, các mạch β-casein bị phân li từ từ và hydroxy-
phosphate calic bị tách ra khỏi cấu trúc micell. Đó là do β-casein có các gốc
ưa béo, sự tương tác giữa các gốc ưa béo thường bị yếu đi khi nhiệt độ giảm.
Casein là những protein có tính axit vì phân tử của chúng có chứa nhiều
gốc axit glutamic và axit aspartic. Các phân tử casein thường được
phosphoryl hóa với những mức độ khác nhau trên gốc serine và therononine.
Casein trong sữa có nguồn gốc từ những chủng bò khác nhau có th
ể có
cấu trúc bậc I khác nhau. Tuy nhiên cấu trúc bậc I của cùng một loại casein
chỉ khác nhau bởi vài góc acid amin trong phân tử protein của chúng.
Casein có tính bền nhiệt hơn so với các protein còn lại có trong sữa. Khi
sữa được đun sôi, protein hòa tan sẽ bị thủy phân trong khi casein vẫn bền
nhiệt trong một khoảng thời gian dài.Khi thủy phân casein sẽ cho ta các
amino acid có mạch ngắn hơn, tên thương mại là Nutrilan ® MilK.
Protein hòa tan (15-25%) gồm: β-lactoglobulin; α-lactabulin; Proteose-
peptone; Aserum-abumin, Imunoglubulin.
b) Các hợp chất chứa nitơ phi protein (5%) gồm Acid amin tự do, Nucleotide,
Ure, Acid uric.
Để xác định hàm lượng nitơ tổng trong sữa, người ta sử dụng phương
pháp Kjedahl, từ đó ta sẽ suy ra được nitơ phi protein trong sữa.
3.2.3. Enzym
Năm 1881, lần đầu tiên Arnold phát hiện sự có mặt của enzym trong sữa
bò. Enzym lần đầu tiên được tìm thấy trong sữa là lactoperoxydase. Đến nay
hàng trăm nghiên cứu công bố hơn 60 enzym khác nhau đã tìm thấy trong
sữa. Chúng do tuyến vú tiết ra hoặc do các vi sinh vật trong sữa tổng hợp.
Enzym là những chất xúc tác phả

n ứng, có bản chất là protein. Sự có mặt của
các enzym có trong sữa là nguyên nhân gây biến đổi thành phần hóa học của
sữa trong quá trình bảo quản, từ đó làm giảm chất lượng hoặc làm hư hỏng
sữa. Tuy nhiên một số enzym có trong sữa như lactoperoxydase, lysozym có
vai trò kháng khuẩn. Chúng tham gia vào việc ổn định chất lượng sữa tươi
trong quá trình bảo quản trước khi chế biến.

19
Hàm lượng vi sinh vật trong sữa càng cao thì thành phần enzym có trong
sữa đa dạng và hoạt tính enzym sẽ càng cao.
Người ta sử dụng phương pháp định tính thông qua việc phát hiện sự có
mặt vài enzym trong sữa và xem đó là một chỉ tiêu có trong sữa như:
a) Lactoperoxydase:
Có pH thích hợp là 6.8, khi đun nóng sữa đến 80
o
C trong vài giây
lactoperoxydase sẽ bị vô hoạt.
b) Catalse:
Được tìm thấy trong protein màng bao xung quanh các hạt cầu béo. Khi
casein bị đông tụ, một số phân tử catalse cũng bị đông tụ theo, pH thích hợp
là 6.8-7.0. Catalse bị vô hoạt ở 75
o
C sau 1 phút hoặc ở 65-68
o
C sau 30 phút.
c) Lipase:
Chúng xúc tác thủy phân liên kết ester trong triglycerid và giải phóng ra
các axit béo tự do. Trong sữa, một số lipase hấp thụ lên màng bao xung quanh
các hạt cầu béo, một số khác được tìm thấy trong plasma, chúng liên kết với
các micell của casein.

d) Phosphate:
Chủ yếu thuộc về nhóm phosphomonoesterase. Có 2 dạng trong sữa là
phosphate kiềm và phostphate acid, pH tối ưu là 9.6.
- Phosphate kiềm: tính chất đặc trưng của photphase kiềm là khả năng
tái hoạt hóa sau khi được thanh trùng, đến nay vẫn chưa có lời giải thích rõ
ràng. Để tránh hiện tượ
ng này, ta cần làm lạnh nhanh sữa sau quá trình thanh
trùng và bảo quản sữa ở nhiệt độ thấp (2
o
C).
- Phosphate acid: pH tối ưu là 4.7, là enzyme bền nhiệt nhất trong sữa.
e) Lysozyme:
Bền nhiệt với pH tối ưu là 7.9, xúc tác phản ứng thủy phân liên kết β
giữa acid muramic và glucosamine của mucopolysaccharide trong màng tế
bào vi khuẩn, từ đó gây phân hủy tế bào.
f) Protease:

20
Thường liên kết với casein, cũng bị kết tủa ở pH là 4.6, có 2 loại
protease xúc tác thủy phân protein, tạo các sản phẩm như protease-peptone,
peptide và các acid amin tự do. κ-casein ít bị tấn công nhất. Protease acid có
pH tối ưu là 4.0, protease kiềm là 7.5-8.0. Chúng bị vô hoạt hoàn toàn ở 80
o
C.
3.2.4. Chất béo
a) Acid bão hòa
Acid bão hòa gồm: acid Butyric, acid Caproic, acid Caprylic, acid
Capric, acid Lauric, acid Myristic, acid Palmitic, acid Stearic, acid Arachidic.
b) Acid không bão hòa
Acid không bão hòa gồm: acid Oleic, acid Linoleic, acid Linolenic,

acid Arachidonic. Hàm lượng các acid béo không bão hòa trong sữa được xác
định bởi chỉ số iod của chất béo. Chỉ số khúc xạ của sữa thay đổi phụ thuộc
vào thành phần định tính và định lượng các acid béo trong sữa. Đối với bò,
chỉ số dao động từ 40-60.
Nếu sữa chứa nhiều acid béo nóng chảy ở nhiệt độ cao thì lipid sữa có
“cấu trúc cứng”; ngược l
ại, sữa chứa nhiều acid béo nóng chảy ở nhiệt độ thấp
thì lipid sữa sẽ có “cấu trúc mềm” hơn.
c) Lipid phức tạp gồm 2 nhóm:
- Nhóm 1: hợp chất với glycerol
- Nhóm 2: hợp chất với sphigosine (C
18
H
37
NO
2
)
Các chất béo trong sữa thường có dạng hình cầu, đường kính dao động
từ 0,1-20μm. Có thể coi sữa là hệ nhũ tương dầu trong nước O/W. Các hạt
cầu béo được bao bọc bởi 1 màng lipo-protein tích điện âm. Các màng này có
vai trò làm bền hệ nhũ tương trong sữa.
Bảng 3.6: Thành phần chất béo trong sữa bò
Thành phần
Hàm lượng (% so với tổng
khối lượng chất béo)
Lipid đơn giản
Glyceride gồm:
- Triglyceride
98.5


95-96

21
- Diglyceride
- Monoglyceride
Cholesteride
Ceride
2-3
0.1
0.03
0.02
Lipid phức tạp
Các hợp chất tan trong chất béo
- Cholesterol
- Acid béo tự do
- Hydrocacbon
- Vitamine A, D, K, E
Rượu: phynol, palmitic, stearic, oleic.
1

0.5
0.3
0.1
0.1
Vết

3.2.5. Khoáng: 8-10 mg/l
Các muối trong sữa ở dạng hòa tan hoặc dung dịch keo (kết hợp với
casein). Các nguyên tố có trong sữa chiếm trong hàm lượng cao: Ca, P, Mg.
Một phần chúng tham gia vào cấu trúc micell, phần còn lại tồn tại dưới dạng

muối hòa tan trong sữa.
Các nguyên tố khác: K, Na, Cl… đóng vai trò là chất điện li.
3.2.6. Vitamin: gồm 2 nhóm
- Vitamin hòa tan trong nước: B
1
, B
2
, B
3
, B
5
, B
6
, C…
- Vitamin hòa tan trong chất béo: A, D, E
Bảng 3.7: Hàm lượng một số vitamin trong sữa bò
Vitamin Hàm lượng (mg/l) Vitamin Hàm lượng (mg/l)
A
D
E
K
C
Biolin
0.2-2.0
0.375- 0.5
0.75- 1.00
0.08
20
30
B

1
B
2
B
3
B
5
B
6

B
12
0.44
1.75
0.94
3.46
0.5
4.3


22
Chương 4: DA VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA DA

4.1. Cấu tạo da [5]
Chúng ta biết rằng da là một lớp mỏng bao xung quanh cơ thể, có cấu
trúc phức tạp. Lớp ngoài của da là lớp sừng, là biểu bì đã chết. Lớp sừng dày
1220μm, có 15-20 lớp tế bào giữa các tế bào là dịch chất. Độ ẩm được duy trì
10-15%. Chu kì tế bào 6-8 tuần. Lớp sừng có chức năng ngăn chặn những tác
nhân có hại, duy trì và chố
ng bay hơi nước, làm bóng và làm mịn.

Lớp ngoài cùng của biểu bì cấu tạo bởi một lớp tế bào chất là keratin.
Đó là lớp tế bào nhám, không thấm nước và có chức năng bảo vệ cơ thể. Lớp
bì thì dày hơn biểu bì và tạo cho da có tính đàn hồi và sức bền. Hai lớp này
gắn với nhau bởi một lớp mô mỏng nhưng phức tạp. Lớp mô này bao gồm
hàng loạt các phân tử liên kết chặt ch
ẽ đóng vai trò liên kết các lớp của da
với nhau. Dưới lớp bì là một lớp mô chứa các bó protein và mô mỡ. Mặc dù
không phải là thành phần chính của da nhưng lớp mỡ có chứa các tuyến cũng
như những cấu trúc khác của da, nó cũng là cơ quan thụ cảm giác của da.

Hình 4.1 Cấu tạo da

23
4.2. Phân loại da [13]
Trước khi chọn mua một sản phẩm mỹ phẩm hay chọn lựa một phương
pháp chăm sóc da, cần thiết phải kiểm tra da thuộc loại nào để có lựa chọn phù
hợp và đạt hiệu quả tốt nhất. Loại da có thể sẽ thay đổi theo thời gian nên
cần thường xuyên kiểm tra để có thể có cách chăm sóc da tốt nhất.
4.2.1. Da thường

Da thường là loại da mềm, mịn và hồng. Da thường có độ ẩm cân bằng
ổn định, không quá nhờn và không quá khô. Da thường là loại da khỏe mạnh.
Vì vậy, để duy trì thì nên sử dụng các sản phẩm làm sạch và giữ ẩm có chiết
xuất thiên nhiên để cho da luôn sạch và khỏe mạnh. Loại da thường dễ trở nên
khô theo độ tuổi nên rất cần phải kiểm tra và chăm sóc.
4.2.2. Da nhạy cảm

Da nhạy cảm có thể thuộc loại da thường, da nhờn nhưng hầu hết là
loại da khô và thường dễ bị bong, bị ngứa hay vỡ mao mạch. Da nhạy cảm rất
dễ phản ứng lại các điều kiện tác động của môi trường bên ngoài, đặc biệt là

ánh nắng mặt trời. Loại da này cũng thường phản ứng lại với các hóa chất có
trong sản phẩm mỹ phẩm nh
ư cồn, thành phần tổng hợp, hương, màu…
4.2.3. Da hỗn hợp

Loại da hỗn hợp thường kết hợp nhiều loại: da nhờn ở vùng “chữ T”
gồm vùng trán, mũi và cằm trong khi các vùng khác là da khô hay da
thường. Đối với loại da này, tùy theo loại da kết hợp mà các sản phẩm và
phương pháp được chọn lựa sao cho phù hợp.
4.2.4. Da khô
Da khô được đặc trưng bởi màu da sạm, có khuynh hướng dễ bong. Da
khô là do tuyến nhờn hoạ
t động kém dẫn đến kết qủa là không cung cấp đủ
lượng dầu cần thiết để giữ ẩm cho da. Da khô thường rất nhạy cảm vì vậy cần
tránh dùng xà phòng và những sản phẩm có tính tẩy rửa.

24
4.2.5. Da nhờn
Da nhờn thường có màu vàng, bóng và có lỗ chân lông to. Da nhờn là
kết quả hoạt động của tuyến nhờn tiết ra qua nhiều chất nhờn dư thừa làm
cho bề mặt da luôn có một lớp dầu. Da nhờn thường rất dễ có mụn.Tuy
nhiên, theo thời gian, da nhờn thường duy trì vẻ trẻ trung và mềm mại lâu
hơn các loại da khác.
4.3. Các vấn đề về da [5]
4.3.1. Sự lão hóa da
- Lão hóa tự nhiên: khi tuổi tăng lên, các tế bào ở l
ớp biểu bì phát triển
chậm nên không thể rự thay đổi chính nó. Kết quả là lượng ẩm trong lớp sừng
giảm, dẫn đến xu hướng tạo thành bó tế bào trên bề mặt da làm da bị tróc vẩy,
xù xì và khô. Độ tuổi càng cao, lớp bì càng trở nên mạnh hơn, các sợi đàn hồi

yếu hơn và số lượng sợi mềm tăng lên, tỷ lệ collagen tổng hợp bị giảm, vì thế
xuất hiện các l
ớp nhăn rõ trên da.
- Lão hóa quang học: chồng lên lão hóa tự nhiên. Nguyên nhân do da bị
phơi nắng liên tục, bề dày của sợi đàn hồi tăng, sợi collagen bị tổn thương và
bị mất tác dụng. Da bị lão hóa quang học có màu vàng, trở nên bị khô, xuất
hiện vết nhăn sâu, kém đàn hồi, bị tróc da và thường có màu sắc không đều.
4.3.2. Độ ẩm của da
Lớp sừng bình thường ở 21
o
C, có độ ẩm tương đối 65%, lượng hơi ẩm
xấp xỉ 10-15%. Khi mức chứa hơi ẩm từ 15-20%, các sợi mềm của lớp sừng
căng ra dễ dàng và làm cho da có cảm giác mềm mại, mượt mà. Nếu lớp sừng
có lượng hơi ẩm dưới 10%, thì da bị khô, tạo vết nhăn trên bề mặt hoặc tạo
thành những lớp vẩy. Đối với da bị khô, có thể làm mềm da tr
ở lại bằng cách
tăng hàm lượng ẩm trong lớp sừng:
- Dùng chất giữ ẩm
- Tạo màng bán thấm: thường dùng chất béo, chất dầu. Những chất này
tạo một lớp mỏng không thấm nước trên da nhằm giữ ẩm cho lớp sừng.

25
- Cần duy trì lượng ẩm cho do 10-20% đối với lớp sừng. Khi đủ ẩm, làn
da luôn trơn lán và có cảm giác tươi mát dễ chịu.

4.3.3. Sắc tố melanin
Melanin được sinh ra do tác dụng của men thirocinager từ anthirocin
trong tế bào sắc tố melanosite có trong lớp nền của biểu bì. Melanin thường
tồn tại chủ yếu dưới 2 dạng: melanin màu da, melanin màu đen. Đối với da
bình thường, melanin được loại thải ra ngoài nhờ ống turnorver.

Nguyên nhân hình thành các vết nám và tàn nhang: dưới tác d
ụng của tia
tử ngoại, tuổi tác và di truyền có hiện tượng tạo tàn nhang, hay tạo các vết
nám, đó là hiện tượng sinh ra do tích lũy dư thừa sắc tố melanin màu đen.

×