Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tieu luan david ricardo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.45 KB, 14 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HCM


Tiểu luận môn : Lịch sử các học thuyết kinh tế

ĐỀ TÀI:

HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA
DAVID RICARDO


LỜI MỞ ĐẦU



Anh, từ khi thương nghiệp mất dần đi ý nghĩa lịch sử, giai cấp tư sản Anh đã
sớm nhận thấy lợi ích của họ trong sự phát triển công trường thủ công công
nghiệp. Họ chỉ rõ: muốn làm giàu phải bóc lột lao động, lao động làm thuê của
những người nghèo là nguồn gốc làm giàu vô tận cho người giàu. Đó là điểm
cốt lõi của kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh, là học thuyết kinh tế chủ yếu của giai cấp
tư sản ở nhiều nước lúc bấy giờ.
Kinh tế học cổ điển hay kinh tế chính trị cổ điển là một trường phái kinh tế học
được xây dựng trên một số nguyên tắc và giả định về nền kinh tế để giải thích các hoạt
động kinh tế của xã hội loài người trong đó giả định quan trọng nhất là nền kinh tế có thể
tự điều chỉnh dựa trên các quy luật tự nhiên của việc sản xuất và trao đổi hàng hóa. Đây
là một trong những xu hướng tư tưởng kinh tế để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử phát
triển các luận thuyết kinh tế. Nhiều quan điểm chủ đạo của trường phái này vẫn còn có


ảnh hưởng đến tận ngày nay. Xu hướng tư tưởng của trường phái cổ điển bắt đầu xuất
hiện từ thế kỷ 17 và phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ 18 đến nửa cuối thế kỷ 19.
Những tên tuổi lớn của trường phái này gồm Adam Smith (1723-1790), David
Ricardo (1772-1823), Thomas Malthus (1766-1834), John Stuart Mill (1806-1873). Theo
họ kinh tế chính trị là kinh tế được nhìn bằng con mắt của chính trị gia do đó khoa kinh tế
chính trị học nghiên cứu về sự giàu có của các quốc gia và cách thức các quốc gia này
làm tăng của cải lên.
Đặc biệt không thể không kể đến những đóng góp to lớn của nhà kinh tế học –
David Ricardo. Ông được coi là đại biểu xuất sắc của kinh tế chính trị tư sản cổ điển.
Phần lớn các tài sản vô giá ông để lại xuất phát từ kiến thức kinh tế thực tế, nhất là trong
lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. Đồng thời ông cũng là người phát triển các tư tưởng kinh tế
học cổ điển tới đỉnh cao rực rỡ nhất trước khi trường phái này bước vào thời kỳ khủng
hoảng. Các tác phẩm chủ đạo có giá trị to lớn và mang tầm ảnh hưởng quan trọng cho
đến nay.
Là một người học kinh tế đòi hỏi phải nắm rõ các học thuyết trên để có thể vận
dụng thật tốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế thị trường trong nước cũng như trên thế
giới. Nên em quyết định lựa chọn tìm hiểu phân tích về đề tài “Học thuyết kinh tế của
David Ricardo”. Vì đây là một đề tài lớn nên khó tránh khỏi thiếu xót , em rất mong
muốn được nhận sự góp ý từ thầy để ngày càng hoàn thiện hơn.
2


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG
I. Những đặc điểm của kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh:









Về đối tượng nghiên cứu: Kinh tế chính trị tư sản cổ điển chuyển đối tượng
nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất, nghiên cứu các quan hệ
kinh tế trong quá trình tái sản xuất, trình bày có hệ thống các phạm trù kinh tế
trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa: hàng hoá, giá trị, tiền tệ, giá cả, tiền lương, lợi
nhuận, lợi tức, địa tô… để rút ra các quy luật vận động của nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa.
Về mục tiêu nghiên cứu: Luận chứng cương lĩnh kinh tế và các chính sách kinh
tế của giai cấp tư sản, cơ chế thực hiện lợi ích kinh tế trong xã hội tư bản nhằm
phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất.
Về nội dung nghiên cứu: Lần đầu tiên đã xây dựng được một hệ thống phạm trù,
quy luật của nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa đặc biệt là lý luận Giá trị Lao động. Tư tưởng bao trùm là ủng hộ tự do kinh tế, chống lại sự can thiệp của
nhà nước, nghiên cứu sự vận động của nền kinh tế đơn thuần do các quy luật tự
nhiên điều tiết.
Về phương pháp nghiên cứu:
Thể hiện tính chất hai mặt:
 Một là, sử dụng phương pháp trừu tượng hoá để tìm hiểu các mối liên hệ bản
chất bên trong các hiện tượng và các quá trình kinh tế, nên đã rút ra những
kết luận có giá trị khoa học.
 Hai là, do những hạn chế về mặt thế giới quan, phương pháp luận và điều
kiện lịch sử cho nên khi gặp phải những vấn đề phức tạp, họ chỉ mô tả một
cách hời hợt và rút ra một số kết luận sai lầm.

II. Sơ lược về tác giả David Ricardo:
David Ricardo (1772-1823) là một nhà kinh tế học cổ điển nổi tiếng với lí thuyết
về tiền lương và lợi nhuận, li thuyết về giá trị lao động, lí thuyết về lợi thế so sánh và
3



lí thuyết về thuế tô. David Ricardo và một số nhà kinh tế khác cũng đồng thời tìm ra
ra qui luật hiệu suất giảm dần. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là "Nguyên tắc kinh
tế chính trị và thuế" (1817).
Sinh ra ở Anh vào năm 1772, David Ricardo bắt đầu làm việc với cha mình là một
nhà môi giới chứng khoán khi mới 14 tuổi. Thế nhưng, ông đã bị cha mình từ vào
năm 21 tuổi, vì kết hôn ngoài tôn giáo. Ông trở nên giàu có từ một doanh nghiệp do
ông thành lập kinh doanh chứng khoán kho bạc. Ông đã nghỉ hưu ở tuổi 41 sau khi
kiếm được khoảng 1 triệu bảng Anh.
Ricardo đã viết bài viết đầu tiên của mình về kinh tế, được xuất bản trên "The
Morning Chronicle", ở tuổi 37. Bài báo ủng hộ Ngân hàng Anh giảm hoạt động phát
hành kì phiếu. Trong cuốn Nguyên tắc kinh tế chính tr ị và thuế (1817) là những lí
thuyết nổi tiếng nhất của ông.

III. Thế giới quan, phương pháp luận:
Thế giới quan có tính chất duy vật, máy móc, xa rời quan điểm lịch sử, nhưng dựa
trên quan điểm sản xuất của chủ nghĩa tư do tư sản. Phương pháp của ông có tính
chất siêu hình, nhưng ông lại sử dụng khá rộng rãi phương pháp trừu tượng hóa khoa
học để phân tích các hiện tượng kinh tế, quá trình kinh tế cho nên trong sự phân tích
bản thân nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, David Ricardo đã chiếm địa vị quan trọng.

IV. Vị trí, vai trò:
Do sống trong thời kỳ cách mạng công nghiệp kết thúc và chủ nghĩa tư bản giành
thắng lợi hoàn toàn đối với phương thức sản xuất cu,õ nhờ sự xuất hiện của đại công
nghiệp cơ khí nên khi kế tục Adam Smith, David Ricardo đã đưa học thuyết kinh tế
chính trị tư sản cổ điển đạt đỉnh cao nhất của nó. Ở đỉnh cao này, Ricardo đã bảo vệ
chủ nghĩa tư bản, nhưng không xuyên tạc, mỵ dân vì tin vào tính ưu việt của chủ
nghĩa tư bản, do vậy ông đã không ngại bóc trần những xấu xa trong xã hội tư bản
chủ nghĩa, nhờ đó từ học thuyết kinh tế của ông về sau người ta đã rút ra những kết
luận xã hội chủ nghĩa.


V. Lí luận về giá trị của David Ricardo:
Sau khi ngẫu nhiên được biết đến tác phẩm kinh tế nổi tiếng của Adam Smith ,
David Ricardo đã đánh giá rất cao công trình này. Trong quá trình nghiên cứu của
4


mình, ông đã đưa vào các kết luận của Adam Smith và cố gắng phát triển triệt để
chúng. Trước hết ông phân biệt rõ ràng và dứt khoát hơn hai thuộc tính của hàng hoá.
Giá trị sử dụng được ông gọi là tính có ích của hàng hoá, là điều kiện cân đối với
giá trị trao đổi, song không thể là thước đo của giá trị trao đổi.
Giá trị trao đổi của đại đa số hàng hoá (ở đây David Ricardo loại trừ những hàng
hoá không mang tính chất sản xuất như tranh cổ, hoặc rượu vang quá lâu năm) được
David Ricardo xác định bằng chi phí lao động sản xuất ra chúng.
Song David Ricardo đi xa hơn trong sự phân tích của mình. Ông coi giá trị trao đổi
biểu hiện ở khối lượng hàng hoá khác (hoặc tiền), do đó trong hàng hoá tồn tại một
giá trị tuyệt đối. Gía trị tuyệt đối này chính là kết tinh giá trị, chứa dựng một khối
lượng nhất định. Giá trị trao đổi là một hình thái cần thiết cần thiết và duy nhất có thể
biểu hiện giá trị tuyệt đối của hàng hoá. Tư tưởng này của David Ricardo là rất sâu
sắc và sau này được Karl Marx phát triển.
Tiếc thay, tư tưởng của David Ricardo bị dứt đoạn, nó chỉ tồn tại như một nhận xét
rời rạc, không kịp hoàn chỉnh trong một tác phẩm dự kiển của David Ricardo về “giá
trị tuyệt đối và tương đối”.






David Ricardo đã gạt bỏ tính không triệt để, không nhất quan điểm về các xác định

giá trị của Adam Smith (giả thiết bàng lao động mua được). David Ricardo kiên định
với quan điểm: lao động là nguồn gốc giá trị, công lao to lớn của ông đã được đứng
trên quan điểm đó để xác định lí luận khoa học của mình. Đồng thời ông cũng phê
phán Adam Smith cho rằng giá trị là do các nguồn gốc thu nhập hợp thành. Theo ông
giá trị hàng hoá không phải do các nguồn thu nhập hợp thành mà ngược lại được
phân thành các nguồn thu nhập.
Về cơ cấu giá trị hàng hóa, ông cũng có ý kiến khác với sai lầm giáo diễn của Adam
Smith bỏ c ra ngoài giả thiết hàng hoá. Ông cho rằng : giả thiết hàng hoá không chỉ
do lao động trực tiếp tạo ra mà còn là lao động cần thiết trước đó nữa như máy móc,
nhà xưởng ( tức ông chỉ biết có C1 - chỉ có đến Mã mới hoàn chỉnh được công thức
tính giả thiết hàng hoá = c+vm.)
Ricardo đã có những nhận xét tiến gần đến lợi nhuận , ông cho rằng những tư bản có
đại lượng bằng nhau thì đem lại lợi nhuận như nhau. Nhưng cũng không chứng minh
được vì ông hiểu được giá cả sản xuất. Theo ông sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị
là ngoại lệ, trên thực tế chỉ có giá trị chứ không có giá cả sản xuất. Mã đã chỉ ra cơ
cấu lẻ háo giá trị thặng dư thành lợi nhuận bg và giá trị hàng hoá thành giá cả sản
5


xuất trong điề kiện tự do cạnh tranh. Từ đó đã giải quyết được nhiều vấn đề mà các
nhà kinh tế học trước không vượt qua được.
Trong vấn đề lợi nhuận bình quân, David Ricardo đã nhận xét được khuynh hướng
san bằng của tỷ xuất lợi huận giữa các ngành khác nhau, đã thấy được ảnh hưởng của
tư bản sử dụng đối với việc hình thành giá cả và phần nào hiểu được cơ chế di chuyển
của tư bản trong quá trình san bằng tỷ xuất lợi nhuận. Sự phát triển mạnh mẽ của hệ
thống tín dụng thời kỳ này, cùng với những kiến thức thực tế của David Ricardo
trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ đã giúp cho ông hiểu được rằng việc di chuyển tư
bản được thực hiện không chỉ bằng con đường giản đơn, mà là chuyển các nhà tư bản
từ ngành có lợi nhuận sang ngành có lợi nhuận cao, trên quy mô lớn hơn. Đó là con
đường thu hẹp tư bản đi vay ở các ngành mang lại ít lợi nhuận và tăng cường chúng ở

ngành có lợi cao. Rõ ràng là các vấn đề lý luận giá trị, David Ricardo đã đi gần đến
chỗ hoàn hảo.
Đánh giá cao những cố gắng của David Ricardo, Karl Marx viết rằng: “Nếu David
Ricardo đi sâu hơn trong sự phân tích của mình thì ông đã có thể tìm ra rằng chính
sự khác biệt giữa giá trị với giá cả các chi phí là một điều có ý nghĩa quan trọng hơn
rất nhiều so với việc ông ta đi phân tích những thay đổi trong các giá cả đó bị ảnh
hưởng bởi việc nâng cao hay hạ thấp mức tiền công như thế nào”.

6


CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH CÁC HỌC
THUYẾT KINH TẾ CỦA DAVID
RICARDO
I. Lý luận về giá trị-lao động:
Lý luận về giá trị-lao động là lý luận chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống quan điểm
kinh tế của Ricardo, là cơ sở của học thuyết của ông và được xây dựng trên cơ sở kế thừa,
phê phán, phát triển lý luận giá trị của Adam Smith.














Ông định nghĩa giá trị hàng hoá, hay số lượng của một hàng hoá nào khác mà hàng
hoá khác trao đổi, là số lượng lao động tương đối cần thiết để sản xuất ra hàng hoá
đó quyết định. Ông phê phán sự không nhất quán trong khi định nghĩa về giá trị
của
Adam Smith.
Ông cũng đã có sự phân biệt rõ ràng dứt khoát hơn giữa giá trị sử dụng và giá trị
trao đổi, ông nhấn mạnh " tính hữu ích không phải là thước đo giá trị trao đổi, mặc
dầu nó rất cần thiết cho giá trị này". Từ đó ông phê phán sự đồng nhất hai khái
niệm tăng của cải và tăng giá trị.
Theo ông lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá không phải chỉ có lao động trực
tiếp, mà còn có cả lao động cần thiết trước đó để sản xuất ra các công cụ, dụng cụ,
nhà xưởng dùng vào việc sản xuất ấy.
Về thước đo giá trị, ông cho rằng cả vàng hay bất cứ một hàng hoá nào không bao
giờ là một thước đo giá trị hoàn thiện cho tất cả mọi vật. Mọi sự thay đổi trong giá
cả hàng hoá là hậu quả của những thay đổi trong giá trị của chúng.
Về giá cả ông khẳng định: giá cả hàng hoá là giá trị trao đổi của nó, những biểu
hiện bằng tiền, còn giá trị được đo bằng lượng lao động hao phí để sản xuất ra
hàng hoá, ông cũng đã tiếp cận với giá cả sản xuất thông qua việc giải thích về giá
cả tự nhiên.
Ricardo cũng đã đề cập đến lao động phức tạp và lao động giản đơn nhưng ông
chưa lý giải việc quy lao động phức tạp thành lao động giản đơn.
Ông cũng là người đầu tiên mô tả đầy đủ cơ cấu lượng giá trị, bao gồm 3 bộ
phận: c, v, m, tuy nhiên ông chưa phân biệt được sự chuyển dịch của c vào sản
phẩm như thế nào, và không tính đến yếu tố c2. David Ricardo bác bỏ quan điểm
cho rằng tiền lương ảnh hưởng đến giá trị hàng hoá.
7





Tuy nhiên trong lý luận giá trị của David Ricardo cũng còn những hạn chế, đó là:
 Chưa phân biệt giá trị và giá cả sản xuất mặc dù đã nhìn thấy xu hướng bình
quân hoá tỷ suất lợi nhuận.
 Coi giá trị là phạm trù vĩnh viễn, là thuộc tính của mọi vật (theo Mác phạm
trù này chỉ tồn tại trong nền sản xuất hàng hoá).
 Chưa phát hiện ra tính chất hai mặt của sản xuất hàng hoá.
 Chưa làm rõ tính chất lao động xã hội quy định giá trị như thế nào, thậm chí
cho răng lao động xã hội cần thiết do điều kiện sản xuất xấu nhất quyết định.
 Chưa phân tích được mặt chất của giá trị và các hình thái giá trị.

II. Lý thuyết về tiền tệ và tín dụng
Vấn đề lưu thông tiền tệ và ngân hàng chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong học
thuyết của David Ricardo. Tư tưởng chính của ông là:









Một nền kinh tế muốn phát triển tốt cần dựa trên một sự lưu thông tiền tệ vững
chắc. Ông đã cho thấy rõ bản chất hàng hóa của tiền tệ cùng chức năng thước đo
giá trị và phương tiện lưu thông.
Lưu thông tiền tệ chỉ vững chắc khi hệ thống tiền tệ dựa vào vàng làm cơ sở.
Vàng trong lưu thông có thể được thay thế một phần hoặc toàn bộ là tiền giấy
nhưng với điều kiện nghiêm ngặt là tiền giấy này phải được vàng đảm bảo. Ricardo
vẫn coi vàng là cơ sở của tiền tệ, nhưng theo ông muốn việc trao đổi thuận lợi thì

ngân hàng phải phát hành tiền giấy. Ông cho rằng giá trị của tiền là do giá trị của
vật liệu làm ra tiền quyết định. Nó bằng số lượng lao động hao phí để khai thác
vàng bạc quyết định. Tiền giấy không có giá trị nội tại, chỉ là ký hiệu giá trị của
tiền tệ, giá trị của tiền giấy phụ thuộc vào giá trị của số vàng mà nó đại diện, do
nhà nước và ngân hàng quy định.
Theo ông trong một nước nào đó thừa vàng thì giá cả hàng hóa ở đó sẽ tăng và
nhập khẩu sẽ có lợi. Những thiếu hụt trong cân đối thương mại sẽ được trả bằng
vàng. Vàng đi ra khỏi nước, số lượng vàng giảm xuống, sẽ làm giá cả hàng hóa
giảm, hạn chế nhập khẩu. Tất cả sẽ trở lại trạng thái cân bằng. Từ đó ông đã đưa
đến kết luận rằng tự do thương mại giữa các nước là có lợi.
Ông phát triển lý luận của Wiliam Petty về tính quy luật của số lượng tiền trong
lưu thông. Ông đối chiếu giá trị của khối lượng hàng hoá với giá trị của tiền tệ và
cho rằng tác động qua lại giữa số lượng hàng hoá với lượng tiền trong lưu thông
diễn ra trong những khuôn khổ nhất định.

 Nhận xét:
8


Ricardo đã có nhiều luận điểm đúng đắn về tiền tệ song vẫn còn những hạn chế nhất
định, như:





Ông chưa phân biệt được tiền giấy với tiền tín dụng.
Chưa phân biệt rõ ràng giữa lưu thông tiền giấy và tiền kim loại nên đi đến một
kết luận chung rằng: giá trị của tiền là do lượng của chúng điều tiết, còn giá cả
của hàng hoá thì tăng lên một cách tỷ lệ với tăng số lượng tiền.

Ông là người theo lập trường của thuyết số lượng tiền và lý thuyết của ông chưa
phân tích đầy đủ các chức năng của tiền tệ.

III. Lý luận phân phối:




Về tiền lương:
Ông coi tiền lương là giá cả tự nhiên của hàng hoá lao động, là giá cả các tư
liệu sinh hoạt nuôi sống người công nhân và gia đình anh ta. Ông cho rằng mức
tiền lương vào yếu tố lịch sử văn hoá. Theo ông tiền lương cao sẽ làm cho nhân
khẩu tăng nhanh, dẫn đến thừa lao động, lại làm cho tiền lương hạ xuống, đời sống
công nhân xấu đi, là kết quả của việc tăng dân số. Công lao to lớn của Ricardo là
phân tích tiền lương thực tế và đặc biệt là đã xác định được tiền lương như là một
phạm trù kinh tế. Ông xét tiền lương trong mối quan hệ giai cấp, mối quan hệ về
lợi ích.
 Ông đã phân tích mối quan hệ giữa tiền lương và lợi nhuận và cho rằng sự
thay đổi của lợi nhuận phụ thuộc vào tiền lương, chứ không phải ngược lại. Ông
nếu ra hai khuyh hướng trái ngược. Một là xu hướng hạ thấp tiền lương, do giảm
giá trị tư liệu sinh của người công nhân, nhờ vào việc tăng năng suất lao động. Hai
là, xu hướng tăng tiền lương khi giá cả nông phẩm tăng lên, vì năng suất lao động
của ngành công nghiệp giảm theo quy luật độ mùa mỡ của đất đai ngày càng giảm.
Ông cũng đã nhận thấy sự đối lập giữa tiền lương và lợi nhuận, khi tiền lương tăng
thì lợi nhuận giảm và ngược lại. Từ đó dẫn đến mâu thuẫn và đối lập về lợi ích
kinh tế giữa công nhân và nhà tư bản, dẫn đến cuộc đấu tranh của công nhân và
giai cấp tư bản.
Về lợi nhuận:
Ricardo xác nhận giá trị mới do công nhân sáng tạo ra bao gồm tiền
lương và lợi nhuận. Ông đã phát hiện ra quy luật vận động của tư bản là: Nếu năng

suất lao động tăng thì tiền lương sẽ giảm tương đối còn lợi nhuận của tư bản sẽ
tăng tuyệt đối. Tuy nhiên ông chưa biết đến phạm trù giá trị thặng dư. Ông đã có
nhận xét tiến gần đến lợi nhuận bình quân (những tư bản có đại dương bằng nhau
9


thì đem lại lợi nhuận như nhau) nhưng không chứng minh được. Ông cho rằng nếu
hạ thấp tiền công thì lợi nhuận tăng lên còn giá trị hàng hoá không đổi. Ông đã
thấy xu hướng giảm xuống của tỷ suất lợi nhuận và giải thích nguyên nhân giảm
sút nằm ở sự vận động biến đổi thu nhập giữa ba giai cấp địa chủ, công nhân và
nhà tư bản cạnh tranh.
Theo ông, với việc canh tác trên các mảnh đất có chất lượng khác nhau, theo
quy luật độ màu mỡ của đất đai ngày càng giảm, giá cả nông phẩm tăng lên, làm
cho tiền lương công nhân tăng và địa tô tăng lên, còn lợi nhuận thì không. Như vậy
địa chủ là người có lợi, công nhân không có lợi cũng không bị hại, còn nhà tư bản
thì bị hại , vì tỷ suất lợi nhuận giảm xuống.
 Hạn chế ở đây chính là chỗ lý giải nguyên nhân tỷ suất lợi nhuận giảm sút
là do giá cả nông phẩm tăng dẫn đến địa tô tăng và tiền công cũng tăng lên, coi sự
đối lập giữa tiền lương lợi nhuận là một quy luật tự nhiên.


Về địa tô:
Ông là người đầu tiên dựa trên cơ sở lý thuyết giá trị-lao động để giải thích
địa tô. Ông cho rằng do ruộng đất có giới hạn, độ mùa mỡ của đất đai giảm sút,
năng suất đầu tư bất tương xứng, dân số lại tăng nhanh, dẫn đến nạn khan hiếm
nông sản, cho nên xã hội phải canh tác tất cả ruộng đất xấu và giá trị nông phẩm là
do hao phí trên ruộng đất xấu quyết định. Nếu kinh doanh trên ruộng đất xấu và
trung bình sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch, phần này phải nộp cho địa chủ dưới
hình thức địa tô.
Ông cũng đã phân biệt được địa tô và tiền tô: Địa tô là việc trả công cho

những khả năng thuần tuý tự nhiên, còn tiền tô bao gồm cả địa tô và lợi nhuận do
tư bản đầu tư vào ruộng đất.
 Hạn chế của ông trong lí thuyết này là ở chỗ phủ nhận địa tô tuyệt đối,
chưa phân biệt địa tô phong kiến và địa tô tư bản chủ nghĩa, thừa nhận địa tô là do
tư hữu ruộng đất nhưng khi phân tích lại chưa đề cập sự tồn tại quyền tư hữu ruộng
đất.

IV. Lý thuyết về tư bản
David Ricardo coi tư bản là những vật nhất định (tư liệu sản xuất, vật phẩm tiêu dùng)
chứ không phải là quan hệ xã hội, đồng thời ông cũng cho rằng tư bản cũng là một bộ
phận của cải tong nước được đưa vào sản xuất. Ông đã phân biệt tư bản cố định và tư bản
lưu động, trong đó:
10






Tư bản cố định: là bộ phận tư bản ứng trước để mua công cụ lao động, phương tiện
lao động, bộ phận này có sự hao mòn dần khi chuyển giá trị vào sản phẩm và
không làm tăng giá trị hàng hoá (đây là một quan điểm đúng đắn).
Tư bản lưu động: Là bộ phận tư bản ứng ra để thuê công nhân.

Tuy nhiên, trong tư bản lưu động ông chỉ tính đến yếu tố tiền lương, sự phân tích của
ông cũng chưa đạt tới khái niệm tư bản bất biến và tư bản khả biến.

V. Lý thuyết tái sản xuất
Theo David Ricardo, vấn đề sống còn của chủ nghĩa tư bản là tích luỹ tư bản, mở
rộng sản xuất vượt quá tiêu dùng sẽ tạo ra thị trường, vì thế trong chủ nghĩa tư bản

không có khủng hoảng thừa.
David Ricardo coi tiêu dùng quyết định bởi sản xuất, muốn mở rộng sản xuất thì phải
tích luỹ, phải làm cho sản xuất vượt quá tiêu dùng. Khi sản xuất phát triển sẽ tạo ra thị
trường. Tuy nhiên ông không thấy được mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng. Ông
phủ nhận khủng hoảng sản xuất thừa trong chủ nghĩa tư bản. Vì theo ông lượng cầu
thường là lượng cầu có khả năng thanh toán. Lượng cầu đó được củng cố thêm lượng
cung hàng hoá và và sản phẩm thì bao giờ cũng được mua bằng sản phẩm hay sự phục
vụ, tiền chỉ dùng làm thước đo khi thực hiện sự trao đổi đó.

VI. Lý luận về thuế khoá:






David Ricardo đã phát triển lý luận thuế khóa của Adam Smith và có nhiều luận
điểm đặc sắc về thuế khóa. Ông chỉ rõ hậu quả của thuế khoá: Nếu thuế đánh vào
tư bản sẽ làm giảm tương ứng quĩ tư bản, chi phối qui mô các ngành sản xuất. Nếu
đánh vào thu nhập sẽ làm giảm tương ứng lượng tiêu dùng.
Ông khẳng định, “Thuế cấu thành các phần của chính phủ trong sản phẩm xã hội”.
Từ sự phân tích thuế ông chỉ ra nhiệm vụ của chính phủ là phải có chính sách
khuyến khích “khuynh hướng tích luỹ” và không nên thực hiện những loại thuế
“nhất định sẽ rơi vào tư bản”.
Ông chia thuế thành hai loại:
• Một là, thuế trực thu: Là thuế đánh vào thu nhập, bao gồm: lợi nhuận, lợi
tức, địa tô, tiền công và tài sản thừa kế. Đây là nghĩa vụ, không một giai cấp
nào trong xã hội có thể trốn khỏi những thứ thuế đó, mỗi người sẽ đóng góp
theo những phương tiện của mình.Thuế đánh vào lợi nhuận: nếu thuế có tính
chất phổ biến và đụng chạm đến lợi nhuận của các chủ xưởng và lợi nhuận

của các chủ đất một cách giống nhau, thì sẽ không ảnh hưởng gì đến giá cả
của các hàng hoá và nguyên vật liệu, mà trực tiếp và cuối cùng sẽ rơi vào
11






người chủ sản xuất (nhà tư bản). Thuế đánh vào tiền công, thì lợi nhuận của
nhà tư bản sẽ giảm xuống, nhưng công nhân cũng phải đóng một phần thuế,
bởi vì lợi nhuận giảm xuống sẽ làm giảm nhịp độ tích lũy tư bản và lượng
cầu về lao động, do đó sẽ dẫn đến hạ thấp chính ngay tiền công của người
lao động. Vì vậy, ông bác bỏ luận điểm đánh thuế vào tiền công của
A.Smith. Nhưng ông lại đồng ý với A.Smith là các giai cấp lao động không
thể tham gia nhiều trong việc “gánh vác những gánh nặng của nhà nước”.
• Hai là, thuế gián thu: Là thuế đánh vào chi tiêu. Ông đã khuyến cáo, phải
hết sức thận trọng khi đánh thuế vào lương thực, sẽ làm cho giá lương thực
tăng, dẫn tới tiền công tăng, lợi nhuận sẽ giảm xuống.
Theo ông, đối tượng đánh thuế thích hợp nhất là những hàng hoá nào “nhờ tự
nhiên hay trình độ sản xuất mà được sản xuất ra trong điều kiện đặc biệt thuận lợi”.
Tuy nhiên, thuế đánh vào bất cứ hàng hoá nào (chứ không riêng gì lúa mì) cũng sẽ
làm tăng giá cả của nó.
David Ricardo tán thành đánh thuế vào vàng. Vì đánh thuế vào vàng chỉ đụng
chạm đến những người có tài sản bằng tiền và kết quả là làm giảm đáng kể người
khai thác vàng để tăng đầu tư vào sản xuất các hàng hoá khác có lợi cho xã hội.
Ngoài vàng ra, David Ricardo còn thấy cần phải đánh thuế vào những hàng hoá mà
số lượng không thể giảm xuống một cách nhanh chóng như nhà cửa cho thuê
chẳng hạn.


VII. Lý thuyết về "lợi thế so sánh"
Trên cơ sở phát triển lợi thế tuyệt đối của Adam Smith, Ông đã xây dựng lý thuyết về
lợi thế so sánh, còn gọi là lý thuyết về chi phí so sánh, cụ thể:






Quan hệ kinh tế quốc tế là quan hệ "đường hai chiều" có lợi cho mọi nước tham
gia, vì bất kỳ nước nào cũng có lợi thế tương đối, tức là lợi thế có được trên cơ sở
so sánh với các nước khác.
Các lợi thế tương đối được xem xét dưới ánh sáng của lý luận giá trị lao động, có
nghĩa là chỉ thông qua trao đổi quốc tế mới xác định được mối tương quan giữa
mức chi phí lao động cá biệt của từng quốc gia so với mức chi phí lao động trung
bình quốc tế, trên cơ sở đó mà lựa chon phương án tham gia vào quá trình phân
công chuyên môn hoá quốc tế cho có lợi nhất.
Mục đích cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại là tiết kiệm chi phí lao động xã
hội - tức là tăng năng suất lao động xã hội. Bởi vậy mỗi quốc gia chỉ nên tập trung
sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm có hiệu quả cao, hoặc mức độ bất lợi thấp
hơn và nhập khẩu những hàng hoá có bất lợi cao hơn thì khi so sánh mức độ hao
phí lao động trung bình ở trình độ quốc tế theo từng sản phẩm sẽ có lợi - tiết kiệm
12


được chi phí sản xuất, mặt khác lỗ trong xuất khẩu sẽ được bù lại nhờ lãi trong
nhập khẩu.

CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN
Học thuyết kinh tế của David Ricardo đã đạt tới đỉnh cao của kinh tế chính trị tư

sản cổ điển. Nếu Adam Smith có công hệ thống hóa các quan điểm kinh tế có từ trước thì
David Ricardo đã xây dựng hệ thống này trên cơ sở lý luận giá trị - lao động. Các nhà
kinh tế học tư sản sau này không quan tâm nhiều đến lý luận giá trị- lao động, họ xa rời
nguyên tắc này và duy nhất chỉ có Karl Marx kế thừa xuất sắc lý luận giá trị - lao động để
đặt nền móng vững chắc cho toàn bộ học thuyết kinh tế của mình.
David Ricardo là đại biểu xuất sắc của kinh tế chính trị tư sản cổ điển, là người kế tục
xuất sắc của Adam Smith. Ông đã vạch ra những mâu thuẫn trong học thuyết của Adam
Smith và vượt qua được giới hạn mà Adam Smith phải dừng lại, phân tích sâu sắc hơn
các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản. Theo Mác: Adam Smith là nhà kinh tế của thời
kỳ công trường thủ công còn David Ricardo là nhà kinh tế của thời đại cách mạng công
nghiệp.
Với đề tài: “Học thuyết kinh tế của David Ricardo” đã giúp em hiểu rõ hơn rất
nhiều về các lí thuyết kinh tế của các nhà tư bản. Từ đó phần nào cung cấp nền tảng vững
chắc về lí thuyết kinh tế giúp ích rất nhiều trong công cuộc kiến thiết nền kinh tế nước
nhà. Tuy nhiên đây là một đề tài lớn, khả năng nhận thức của em còn nhiều hạn chế,
chính vì vậy không thể không tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được sự chỉ
bảo của thầy.

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. />2. />3. />4. />5. Giáo trình LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ-TRƯỜNG ĐH KINH TẾ
TPHCM-TS Nguyễn Minh Tuấn;TS Nguyễn Hữu Thảo đồng chủ biên (2009)

14




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×