Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Một số giải pháp tổ chức các tình huống thực tế vào bài dạy nhằm tạo hứng thú và nâng cao hiệu quả học tập môn sinh học 11 ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (575.54 KB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT HÀ TRUNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

“MỘT SỐ GIẢI PHÁP TỔ CHỨC CÁC TÌNH HUỐNG
THỰC TẾ VÀO BÀI DẠY NHẰM TẠO HỨNG THÚ VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HỌC TẬP MÔN SINH HỌC 11 Ở
TRƯỜNG THPT ”.

Người thực hiện: Nguyễn Thị Hạnh
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Sinh Học

THANH HOÁ NĂM 2020

0


MỤC LỤC

Trang

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………………2
1.2. Mục đích nghiên cứu………………………………………………………..3
1.3. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………………….3
1.4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………3
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến…………………………..………………….......4


2.2. Thực trạng của đề tài......................................................................................5
2.3. Các giải pháp thực hiện……………………………………………………..6
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm............................................................15
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận……………………………………………………………………19
3.2. Kiến nghị …….……………………………………………………………19

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đề ra phương
hướng: Đầu tư phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và
đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Chuyển
mạnh giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển nhân lực và phẩm
chất người học, phát triển giáo dục đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh
tế xã hội, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Trong đó, phát triển giáo dục và đào tạo
phải tuân theo nguyên lý: Học đi đôi với hành, giáo dục phải kết hợp với lao
động sản xuất, lí luận phải gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường phải kết
hợp với giáo dục xã hội [3].
Sinh học là một bộ môn khoa học tự nhiên có nhiệm vụ nghiên cứu các đặc
điểm cấu tạo, hoạt động sống và các điều kiện sống của sinh vật cũng như các
mối quan hệ giữa các sinh vật với nhau và với môi trường. Ở Sinh học 11 các
em được tìm hiểu sâu về đặc điểm cấu tạo và sinh lí của con người, về những
điều bí ẩn trong chính bản thân các em.
Trong thực tế giảng dạy bộ môn Sinh học cấp trung học phổ thông
(THPT) , tôi nhận thấy phần lớn học sinh đều không thích học bộ môn Sinh học
vì cho rằng môn học này thường khô khan, khó hiểu [1]. Nên dẫn đến nhiều em
còn có thái độ chưa quan tâm, chưa chú ý vào bài học. Điều này đã gây ra ảnh

hưởng không nhỏ đến việc nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn. Mặt khác, ở
lứa tuổi học sinh lớp 11 các em đang bước vào giai đoạn dậy thì nên cơ thể phát
triển mạnh. Tuy nhiên, mức độ phát triển của hệ thần kinh chưa đạt đến độ hoàn
thiện, do đó các em chóng mệt mỏi, dễ hưng phấn song cũng dễ chuyển sang
trạng thái ức chế khi phải tiếp thu bài một cách thụ động, kém hào hứng. Vấn đề
đặt ra là bản thân mỗi giáo viên cần phải không ngừng học hỏi, tìm tòi các
phương pháp cũng như cách thức giảng dạy để có thể khơi dậy sự hứng thú cũng
như sự chủ động trong học tập của học sinh, nếu không sẽ dẫn đến tiết học trở
nên nhàm chán, khó thành công.
Các tình huống có trong thực tiễn rất gần gũi và thân quen đối với chúng ta
cũng như đối với các em học sinh. Việc vận dụng các tình huống thực tiễn vào
trong giảng dạy bộ môn tạo cho các em cảm thấy môn Sinh học trở nên gần gũi
và thiết thực. Đặc biệt trong phần vào bài trước khi học bài mới giáo viên sử
dụng những tình huống thực tiễn, những câu chuyện ngắn có ý nghĩa giáo dục,
các câu ca dao, tục ngữ ... sẽ tạo cho các em một tâm thế học tập tốt, sự thích
thú, muốn khám phá ra những kiến thức để lí giải những vấn đề đó. Từ đó các
em yêu thích môn học hơn, đồng thời chất lượng bộ môn được nâng cao hơn.
Từ những lí do trên cùng với kinh nghiệm mà tôi đã đúc kết được qua
nhiều năm giảng dạy tại trường THPT Hà Trung, Tôi xin mạnh dạn chọn đề tài:
“ Một số giải pháp tổ chức các tình huống thực tế vào bài dạy nhằm tạo hứng
thú và nâng cao hiệu quả học tập môn sinh học 11 ở trường THPT ”.
2


1.2. Mục đích nghiên cứu
Tìm ra những giải pháp hợp lí nhằm tạo hứng thú học tập đối với bộ môn,
giúp học sinh chủ động, tích cực, tự giác trong học tập, biết vận dụng kiến thức
vào thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng học tập của học sinh.
Tìm hiểu các thông tin từ các nguồn tư liệu về những vấn đề thực tiễn liên
quan đến bộ môn, để lựa chọn và đưa ra các tình huống vào bài phù hợp với nội

dung bài học nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh, từ đó vận dụng vào giảng
dạy đạt hiệu quả cao nhất.
Đưa ra được các giải pháp, biện pháp cần thiết và hiệu quả cho việc áp
dụng nhằm nâng cao chất lượng học tập đối với bộ môn Sinh học THPT.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh lớp 11 tại trường THPT Hà Trung.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Để có thể lồng ghép các tình huống vào bài tôi đã thực hiện các công việc
sau:
+ Tìm hiểu kĩ mục tiêu bài học bao gồm các kiến thức, kĩ năng và thái độ
mà học sinh cần đạt được qua bài học.
+ Tìm hiểu kĩ về các nội dung cần giáo dục cho học sinh qua trang web
google trên mạng internet và sách giáo dục cho HS Trung học phổ thông.
+ Tìm hiểu về đối tượng học sinh cần giáo dục.
+ Sử dụng phương pháp thống kê để thống kê, xử lý, đánh giá kết quả thu
được sau khi tiến hành nghiên cứu.

3


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến.
Tại Đại hội Đảng lần thứ XII Đảng ta đã xác định đổi mới giáo dục và đào
tạo theo hướng phải phù hợp, thiết thực với từng cấp học, từng đối tượng, đảm
bảo tính khoa học, cơ bản, hiện đại; lựa chọn những kiến thức có tính ứng dụng
cao. Chuyển từ nặng về trang bị kiến thức lí thuyết trừu tượng sang nội dung gắn
với thực tiễn đời sống, chú trọng vận dụng kiến thức vào giải quyết các tình
huống trong học tập và cuộc sống…nội dung các môn học cần lựa chọn những
gì cần thiết cho việc phát triển phẩm chất năng lực người học, những tri thức
thiết thực, gần gũi, gắn với đời sống có thể vận dụng tốt trong thực tế.

Trong công văn hướng dẫn nhiệm vụ và các biện pháp thực hiện trong năm
học 2019-2020 của Sở giáo dục và đào tạo Thanh Hoá đã chỉ rỏ: “Tiếp tục đổi
mới phương pháp dạy và học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo,
rèn luyện phương pháp tự học và vận dụng kiến thức, kỹ năng của học sinh. Đẩy
mạnh việc vận dụng dạy học giải quyết vấn đề, các phương pháp thực hành, dạy
học theo dự án trong các môn học; tích cực ứng dụng công nghệ thông tin phù
hợp với nội dung bài học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ
máy móc; tập trung dạy cách học, cách nghĩ, phương pháp tự học; đảm bảo cân
đối giữa trang bị kiến thức, rèn luyện kỹ năng và định hướng thái độ, hành vi
cho học sinh…”.
Theo các chuyên gia tâm lí học thì cùng với sự tự giác thì hứng thú học tập
tạo nên tính tích cực nhận thức, giúp học sinh học tập đạt kết quả cao, có khả
năng khơi dậy được sự sáng tạo, là động lực để người học có thể say mê, tự giác
nghiên cứu và đạt được hiệu quả cao trong chương trình giáo dục.
Ở lứa tuổi trung học cơ sở, các em có sự phát triển mạnh mẽ về tâm sinh lí,
các em rất tò mò, muốn tìm hiểu cũng như giải đáp được những vấn đề nảy sinh
trong cuộc sống hằng ngày. Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy nhiều giáo viên
còn quá coi trọng các kiến thức lí thuyết nên tổ chức các hoạt động học còn
thiên về cung cấp kiến thức trong sách giáo khoa, ít chú trọng đến việc đưa các
vấn đề thực tế vào giảng dạy. Điều này làm cho các em cảm thấy kiến thức của
các môn học trở nên xa lạ và khô khan, từ đó các em ít hứng thú đối với môn
học hơn.
Qua thực tế giảng dạy tại trường THPT Hà Trung, tôi nhận thấy rằng trong
mỗi tiết học mà giáo viên chỉ đưa ra những câu hỏi, những kiến thức đơn thuần
có trong sách giáo khoa thì tiết học sẽ trở nên khô khan, nhàm chán, không tạo
được tâm thế học tập tốt cho các em, các em không hứng thú với học tập, tiếp
thu bài một cách bị động, nên dẫn các em học mang tính chất học vẹt, không
nắm được kiến thức trọng tâm, khả năng tổng hợp cũng như vận dụng kiến thức
vào thực tiễn còn hạn chế đã dẫn đến kết quả học tập bộ môn còn thấp. Điều này
đã làm tôi suy nghĩ rất nhiều, làm thế nào để có tạo được hứng thú học tập cho

4


các em? Làm thế nào để các em có thể chủ động trong học tập? Làm thế nào để
có thể các em yêu thích môn Sinh học hơn? Làm thế nào để các em có thể vận
dụng những kiến thức môn học vào xử lí các tình huống có trong thực tiễn?....
Từ những suy nghĩ này, tôi đã tìm tòi, sưu tầm những tình huống thực tế, các câu
chuyện ngắn, các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ... liên quan đến kiến thức bộ
môn để áp dụng tổ chức các tình huống vào bài ở một số tiết dạy và tôi tự nhận
thấy rằng nếu giáo viên biết cách tổ chức các tình huống vào bài đặc biệt là các
tình huống có trong thực tế vào giảng dạy sẽ tạo cho học sinh một tâm thế tốt,
kích thích được hứng thú học tập của các em, làm nảy sinh trong các em suy
nghĩ muốn khám phá ra những kiến thức và có thể áp dụng những kiến thức đã
học vào giải quyết những vấn đề trong thực tiễn, từ đó các em yêu thích môn
học hơn, chất lượng bộ môn cũng được nâng cao [4].
2.2. Thực trạng
Hiện nay, để đáp ứng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, ngành giáo
dục đã và đang thực hiện đổi mới giáo dục căn bản, toàn diện với mục tiêu đào
tạo nên những con người Việt Nam Xã hội chủ nghĩa phát triển một cách toàn
diện về “ đạo đức- trí tuệ - thẩm mỹ”. Để làm được điều này cần phải đổi mới
một cách mạnh mẽ các phương pháp dạy và học nhằm phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của học sinh; tăng cường rèn luyện các kỹ năng thực hành,
vận dụng kiến thức kỹ năng vào giải quyết các vấn đề thực tiễn. Vậy vấn đề đặt
ra là giáo viên phải có biện pháp gì để góp phần giáo dục nên những thế hệ trẻ
vừa chủ động, vừa sáng tạo,vừa có kỹ năng thực hành tốt, biết vận dụng những
kiến thức môn học vào giải quyết các tình huống thực tiễn.
Trong thực tế, tôi thấy rằng đa số giáo viên thường hay sử dụng Phương
pháp dạy học truyền thống trong giảng dạy. Ở phương pháp này chủ yếu là hoạt
động của giáo viên nhằm truyền đạt các kiến thức có trong sách giáo khoa cho
học sinh. Phương pháp này có ưu điểm là học sinh nắm được nội dung kiến thức

của bài ngay trong tiết học, các em có thể trả lời được những câu hỏi liên quan
có trong sách giáo khoa. Tuy nhiên, khi dạy học theo phương pháp này vẫn còn
nhiều hạn chế như: Học sinh học bài còn mang tính chất học vẹt, tiếp thu bài
một cách thụ động, không nắm được kiến thức trọng tâm nên dẫn đến rất nhanh
quên, khả năng tư duy còn hạn chế, khả năng vận dụng kiến thức bộ môn vào
giải quyết các vấn đề thực tiễn còn kém…điều này thể hiện qua kết quả ở các
bài kiểm tra của các em còn thấp, khi gặp các vấn đề thực tiễn có liên quan đến
kiến thức bộ môn các em còn lúng túng hoặc không giải đáp được.
Ở lứa tuổi trung học phổ thông đặc biệt là học sinh lớp 11, các em đang ở
giai đoạn dậy thì nên cơ thể có sự phát triển mạnh về kích thước và thể lực.
Đồng thời các em có sự phát triển mạnh mẽ về tâm sinh lí, các em rất tò mò,
ham hiểu biết, muốn tìm hiểu cũng như giải đáp được những vấn đề nảy sinh
trong cuộc sống hàng ngày. Những câu hỏi: “Tại sao?” Hay “Do đâu?” thường
xuất hiện trong đầu các em. Các em tự cho mình là người lớn và cũng muốn
được coi là người lớn, muốn được tham gia học tập một cách độc lập, muốn thử
sức mình…Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy nhiều giáo viên chưa lựa chọn
5


được các phương pháp dạy học phù hợp nên chưa tích cực hóa được hoạt động
học tập của học sinh, ít chú trọng đến việc đưa các vấn đề thực tế vào trong
giảng dạy. Điều này đã làm cho các em cảm thấy các kiến thức của môn học trở
nên khô khan, xa lạ …từ đó các em ít hứng thú hơn đối với môn học. Mặt khác,
cùng với sự bùng nổ của công nghệ thông tin các em có rất nhiều sân chơi khác
như: Facebook, Zing me, Game online, Zalo…điều này đã làm phân tán sự tập
trung của các em, hứng thú học tập của các em ngày càng giảm sút, các em tiếp
thu bài một cách thụ động nên không nắm được kiến thức trọng tâm. Do đó, chất
lượng học tập bộ môn chưa cao.
Bên cạnh đó, nhiều phụ huynh còn có tư tưởng phó mặc việc giáo dục con
em họ cho nhà trường, nên bỏ bê việc quan tâm đến học tập của con cái. Ngoài

ra, kinh tế của một số gia đình học sinh còn nhiều khó khăn, bố mẹ mãi lo làm
ăn kinh tế nên ít quan tâm đến việc học tập, không giám sát việc học ở nhà của
con em mình, đến lớp các em lại không chú ý nghe giảng, không nắm được kiến
thức trọng tâm của bài nên dần dần sinh ra tâm lí chán nản, không thích học,
không tập trung trong học tập…dẫn đến chất lượng học tập không cao.
Qua kết quả kiểm tra trên, tôi thấy rằng kết quả học tập môn Sinh học 11
của các em còn thấp, tỉ lệ bài kiểm tra bị điểm yếu và kém vẫn còn cao, tỉ lệ các
bài đạt loại khá và giỏi còn ít.
Trong thực tế giảng dạy tôi nhận thấy rằng nếu trong quá trình dạy
hocjgiaos viên tổ chức các tình huống vào bài trước khi học bài mới, đặc biệt là
sử dụng các tình huống có liên quan đến các vấn đề có trong thực tế hoặc một
tình huống giả định, các câu chuyện ngắn hay các câu ca dao, tục ngữ mang tính
chất giáo dục… và yêu cầu học sinh cùng tìm hiểu và giải thích qua bài học, sẽ
tạo cho các em một tâm thế học tập tốt, các em sẽ chủ động trong việc lĩnh hội
kiến thức. Từ đó, kích thích được hứng thú học tập của học sinh, chất lượng bộ
môn cũng được nâng cao. Ngoài ra, thông qua các tình huống vào bài giáo viên
còn có thể lồng ghép các nội dung khác nhau chẳng hạn như: giáo dục ý thức
bảo vệ cơ thể, biết chăm sóc, giữ gìn sức khỏe và giáo dục đạo đức lối sống cho
các em.
2.3. Các giải pháp thực hiện.
Trước những thực trạng trên, bản thân tôi mạnh dạn đưa ra một số giải
pháp, biện pháp mà tôi đã đúc rút được qua nhiều năm giảng dạy tại trường
THPT. Nhằm mục đích trao đổi với các đồng nghiệp trong và ngoài nhà trường
để cùng nhau tháo gỡ những khó khăn, hạn chế của công tác giảng dạy bộ môn
Sinh học nói chung và môn Sinh học 11 nói riêng trong nhà trường. Từng bước
nâng cao chất lượng bộ môn.
Trong quá trình giảng dạy môn Sinh học 11 ở trường THPT Hà Trung tôi
đã tìm tòi, sưu tầm và đúc kết được một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống
vào bài và đã sử dụng, trải nghiệm trong quá trình giảng dạy môn Sinh học 11 và
bước đầu đã mang lại hiệu quả. Tôi xin mạnh dạn đưa ra đây để cùng trao đổi

với thầy cô và bạn bè đồng nghiệp.
6


2.3.1. Giải pháp 1: Sử dụng các câu chuyện ngắn có trong thực tế vào giảng
dạy.
Các câu chuyện ngắn có nội dung liên quan đến thực tế là những câu
chuyện kể về những sự việc diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, mang tính chất
thời sự, làm cho các em cảm thấy môn Sinh học trở nên gần gũi và thiết thực.
Cách thức thực hiện: Đối với giải pháp sử dụng các câu chuyện ngắn vào
giảng dạy giáo viên có thể sử dụng ở các nội dung: Tuần hoàn máu, hô hấp ở
động vật, tiêu hóa ở động vật, phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều
kiện…
* Một số ví dụ cụ thể:
- VD1: Khi dạy nội dung Vận chuyển máu qua hệ mạch.

Cuộc thi chạy Maratông
Để tạo hứng thú trước khi vào bài giáo viên kể cho các em một câu chuyện:
“Nguồn gốc cuộc thi chạy Maratông”
Năm 490 trước công nguyên, tại làng Maratông trong vùng Attic, quân
đội Hi Lạp đã đánh tan quân xâm lược Ba Tư, một người lính nhận lệnh
chạy từ làng Maratông về thủ đô Aten để báo tin chiến thắng. Anh đã chạy
một mạch 42,195 km và chết ngay sau khi báo tin chiến thắng. Để kỉ niệm sự
kiện đáng nhớ đó, từ 1896 người ta đã tổ chức cuộc thi chạy hằng năm từ
Maratông đến Aten và vô số vận động viên đã vượt qua quảng đường này an
toàn với thời gian ngày càng rút ngắn. Tại sao các vận động viên có thể chạy
một quảng đường dài như vậy nhưng vẫn an toàn?
Qua câu chuyện này sẽ tạo cho các em sự tò mò, muốn tìm hiểu kiến thức
để có thể giải thích được sự phi thường mà các vận động viên đã làm được khi
phải chạy qua một quảng đường rất dài như vậy. Qua đó giáo dục cho các em ý

thức tự giác rèn luyện để có một cơ thể khỏe mạnh.

7


- VD2: Khi dạy nội dung hô hấp ở động vật
Trước khi học bài mới, giáo viên có thể mở bài bằng một câu chuyện
“Đốt than để sưởi ấm…”
Ngày 27 tháng 11 năm 2018 do thời tiết quá lạnh nên một gia đình ở
thành phố Vinh thuộc tỉnh Nghệ An đã đốt than trong nhà để sưởi ấm. Cả gia
đình đã phải nhập viên cấp cứu trong tình trạng khó thở, tức ngực và 1 người
đã bị tử vong. Vậy tại sao lại có hiện tượng này? Để giải đáp câu hỏi này
chúng ta cùng tìm hiểu qua nội dung hô hấp bằng phổi. Khi học phần này cần
bảo vệ hệ hô hấp khỏi các tác nhân có hại, giáo viên nhắc lại câu chuyện và yêu
cầu học sinh lí giải hiện tượng đó. Qua việc chủ động tìm hiểu kiến thức học
sinh chỉ ra được: Đốt than sưởi ấm trong nhà đã thải ra khí cacbon ôxit, khí
cacbon ôxit này sẽ chiếm chỗ của ôxi trong máu, làm giảm hiệu quả hô hấp, có
thể dẫn đến tử vong.
- VD3: Khi dạy nội dung tiêu hóa ở dạ dày
Để tạo hứng thú học tập cho học sinh, trước khi học bài mới giáo viên kể
cho các em một câu chuyện :“Dạ dày biết nói…”
Một vụ án mạng xảy ra tại một khu trung cư, nạn nhân là một cô gái
khoảng 25 tuổi. Sau khi tiếp nhận vụ án, bác sĩ pháp y tiến hành lấy dịch của
dạ dày rồi phân tích chúng và đã xác định được giờ chết của nạn nhân. Từ
đặc điểm này các chiến sĩ công an đã lần ra các đầu mối và tìm ra được thủ
phạm. Vậy tại sao khi kiểm tra dịch ở dạ dày bác sĩ pháp y có thể xác định
được giờ chết của nạn nhân? Liệu có phải chính dạ dày đã nói lên điều gì với
bác sĩ pháp y? Để giải đáp được câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu qua nội
dung tiêu hóa ở dạ dày. Khi học nội dung: Tiêu hóa ở dạ dày, giáo viên yêu cầu
học sinh giải thích câu hỏi trong tình huống ở đầu bài. Sau khi các em trình bày

suy nghĩ của mình, giáo viên chốt kiến thức và cung cấp thêm một số thông tin
cho học sinh: Dạ dày giữ thức ăn một thời gian, dài hay ngắn tùy thuộc vào bản
chất và trạng thái thức ăn. Đối với thức ăn lỏng như cháo hoặc sữa qua dạ dày và
được đẩy xuống ruột ngay. Thức ăn gluxit như cơm tẻ lưu lại khoảng 2 giờ, cơm
nếp khoảng 4 giờ. Thức ăn chứa nhiều mỡ như thịt chiên, cá chiên…lưu lại
trong dạ dày rất lâu khoảng 9 giờ hoặc hơn một chút… Bác sĩ pháp y dựa vào
đặc điểm này để xác định giờ chết của nạn nhân. Chẳng hạn, tử thi được phát
hiện lúc 5 giờ sáng. Bác sĩ mổ khám nghiệm và phát hiện cơm đang rời dạ dày
qua ruột thì ngừng lại. Như vậy nạn nhân chết khoảng 2 giờ sau khi ăn. Lúc này
chỉ cần điều tra xem nạn nhân ăn tối lúc mấy giờ thì sẽ xác định được giờ chết
của nạn nhân.
- VD4: Khi dạy nội dung Vitamin và muối khoáng

8


Giáo viên có thể mở bài bằng một câu chuyện ngắn:
“Chuyến thám hiểm của tàu Cartier”
Năm 1536, các thủy thủ và đoàn viên tàu Cartier tiến hành chuyến thám
hiểm đi Canađa, chuyến đi kéo dài mấy tháng trời, lượng thức ăn rau, củ,
quả tươi mang từ đất liền đã hết, mọi người trong đoàn chủ yếu ăn thịt cá
suốt một thời gian dài. Nhiều thủy thủ và đoàn viên trên tàu đã mắc một căn
bệnh nghiêm trọng, đó là bệnh Xcorbut, người bệnh bị chảy máu lợi, chảy
máu dưới da, viêm khớp, đau cơ….và nhiều người đã bị chết. Vậy tại sao họ
lại bị mắc căn bệnh này? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu trong
nội dung: Vitamin và muối khoáng. Điều này sẽ tạo cho học sinh sự tò mò,
muốn tìm hiểu kiến thức để lí giải được nguyên nhân gây bệnh trên. Sau khi tìm
hiểu phần vitamin, giáo viên nhắc lại tình huống vào bài và yêu cầu học sinh
trình bày quan điểm của mình. Học sinh sẽ chỉ ra được nguyên nhân chính của
căn bệnh này là do trong khẩu phần ăn thiếu rau, củ, quả tươi nên cơ thể bị thiếu

vitamin C làm cho mạch máu giòn, dễ vỡ, gây chảy máu. Đồng thời qua đây
giáo dục các em kỹ năng thiết lập khẩu phần ăn chứa đầy đủ các chất, đặc biệt
phải đủ các loại vitamin và muối khoáng.
- VD5: Khi dạy nội dung Phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện
Để tạo hứng thú học tập cho học sinh giáo viên mở bài bằng câu chuyện:
“ Tào tháo với rừng mơ”
Trong một lần hành quân qua một chặng đường dài, trời vừa nắng và
nóng, quân sĩ của Tào Tháo vừa đói lại vừa khát, mọi người đều mệt lã tưởng
chừng không thể đi nổi nữa. Tình hình khá là nguy cấp vì còn phải hành
quân qua một đoạn đường rất dài nữa mới đến nơi đóng quân. Thấy vậy, Tào
Tháo liền thông báo cho quân sĩ rằng: Các quân sĩ hãy cố gắng lên một chút
nữa, ở phía trước có một khu rừng mơ chín mọng, mọi người tha hồ mà ăn.
Cuối cùng quân sĩ của Tào Tháo cũng đến được nơi đóng quân. Vậy tại sao
quân sĩ lại hết khát ? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu nội dung:
Phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện. Khi học phần: Sự hình thành
phản xạ có điều kiện, giáo viên nhắc lại câu hỏi ở đầu bài và yêu cầu học sinh
đưa ra quan điểm của mình, sau khi học sinh đưa ra các ý kiến, giáo viên chốt
kiến thức, từ đó giúp các em khắc sâu kiến thức về sự hình thành phản xạ có
điều kiện.

9


Cũng trong bài này giáo viên có thể sử dụng một câu chuyện khác vào phần
mở bài như câu chuyện:
“ Mèo của Trạng Quỳnh ”
Một vị chúa nọ có một con mèo rất đẹp, chúa rất yêu quý con mèo. Suốt
ngày chúa chăm bẵm, chơi đùa với mèo mà không quan tâm gì đến việc triều
chính. Thấy vậy, Trạng Quỳnh liền bắt trộm mèo của chúa và mang về nhà
nuôi. Chúa cho quân lính tìm kiếm khắp nơi, mãi một thời gian sau chúa

thấy nhà Trạng Quỳnh có một con mèo giống của mình liền đến đòi mèo lại.
Trạng quỳnh liền nói: Đây là mèo của thần và để chứng minh là mèo của
mình, Trạng Quỳnh liền mang ra hai bát cơm, một bát bỏ đầy thịt, cá còn một
bát chỉ có cơm chan nước canh. Con mèo liền tiến lại gần bát cơm chan nước
canh và ăn một cách ngon lành. Lúc này, Trạng Quỳnh liền nói: Chúa thấy
đấy, nhà thần nghèo, không có tiền mua cá, thịt nên chỉ toàn ăn cơm chan với
canh nên mèo nhà thần chỉ quen ăn món này mà thôi. Mèo nhà chúa sống
sung sướng , chỉ quen ăn cơm với cá và thịt, nên đây chính là mèo của thần.
Lúc này chúa đành mất mèo và ấm ức đi về. Vậy tại sao chúa chịu mất mèo?
Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu nội dung: Phản xạ không điều
kiện và phản xạ có điều kiện. Qua tìm hiểu kiến thức để giải đáp câu hỏi này học
sinh chỉ ra được: Chính Trạng Quỳnh đã tập cho mèo một thói quen mới, đó là
chỉ được ăn cơm chan với nước canh mà thôi. Từ đó, học sinh sẽ khắc sâu được
kiến thức về sự hình thành phản xạ có điều kiện. Đồng thời qua đây giáo viên
lồng ghép giáo dục học sinh rèn luyện các thói quen học tập tốt, các nếp sống
văn minh…
2.3.2. Giải pháp 2: Sử dụng các tình huống có trong thực tế vào giảng dạy.
Trong cuộc sống hằng ngày, có rất nhiều những tình huống nảy sinh làm
xuất hiện trong đầu các em rất nhiều thắc mắc, các em rất muốn tìm ra lời giải
đáp cho những thắc mắc đó. Trong giảng dạy, giáo viên sử dụng những tình
huống có thể là những tình huống có sẵn trong thực tế hoặc là những tình huống
giả định mà giáo viên tạo ra có nội dung liên quan đến bài học, nhằm mục đích
yêu cầu học sinh hãy suy nghĩ và tìm ra cách xử lí tình huống đó, điều này đã
đặt ra cho các em một câu hỏi lớn buộc các em phải huy động trí não, sự tập
trung trí tuệ để giải quyết vấn đề, từ đó tạo cho các em tâm thế học tập tốt, chủ
động trong việc tìm tòi và lĩnh hội kiến thức, nâng cao chất lượng bộ môn.
2.3.2.1. Biện pháp 1: Sử dụng tình huống thực tế
Các tình huống có sẵn là những tình huống nảy sinh trong cuộc sống hằng
ngày, rất quen thuộc với học sinh. Việc sử dụng các tình huống này trong giảng
dạy, tạo cho học sinh sự hứng thú, muốn tìm hiểu kiến thức để có thể giải quyết

các tình huống đó.
Cách thức thực hiện: Đối với giải pháp sử dụng các tình huống có trong
thực tế vào giảng dạy giáo viên có thể sử dụng ở các nội dung như: Phản xạ;
tuần hoàn máu, hô hấp ở động vật...
10


* Một số ví dụ cụ thể:
- VD1: Khi dạy nội dung phản xạ
Giáo viên có thể mở bài bằng một tình huống: Khi tay ta chạm phải vật
nóng, liền rụt tay lại. Tại sao lại có hiện tượng này? Để giải đáp câu hỏi này
chúng ta cùng tìm hiểu trong nội dung: Phản xạ từ tình huống này, sẽ tạo cho các
em sự tò mò, muốn tìm ra kiến thức để lí giải hiện tượng trên. Qua tìm hiểu kiến
thức các em sẽ chỉ ra được đây chính là một phản xạ của cơ thể để trả lời kích
thích từ môi trường. Đồng thời các em cũng giải thích được cơ chế của phản xạ
trên. Từ đó các em có thể giải thích được các hiện tương tự mà các em gặp trong
cuộc sống hằng ngày.
- VD2: Khi dạy nội dung cân bằng nội môi
Khi vào phần mở bài giáo viên đưa ra một tình huống có trong thực tế :
Gia đình bác Nam ở thôn Tân Lập có cô con gái đang bị bệnh tiêu chảy, sau
khi lấy thuốc về cho con uống, bác còn bắt con gái phải uống nhiều nước,
bác bảo: phải uống nhiều nước để bổ sung lượng nước bị thiếu. Theo em việc
bắt con gái uống nhiều nước khi bị bệnh tiêu chảy của bác Nam như vậy có
đúng không? Tại sao? Từ câu chuyện này sẽ tạo cho các em hứng thú muốn tìm
hiểu những kiến thức để lí giải cho các dự đoán của mình …sau khi học phần hệ
tuần hoàn . Giáo viên yêu cầu học sinh nói ra quan điểm của mình. Sau đó giáo
viên chốt kiến thức: 90% huyết tương là nước nên khi bị tiêu chảy hay bị sốt cơ
thể mất nước nhiều, máu trở nên đặc và khó lưu thông trong hệ mạch. Vì vậy
người bệnh cần phải uống nhiều nước để bổ sung lượng nước bị hao hụt. Từ đó
giáo viên giáo dục kỹ năng sống cho các em, để các em có thể xử lí được khi

gặp các tình huống tương tự trong cuộc sống.
- VD3: Khi dạy nội dung tuần hoàn máu

Để tạo hứng thú cho học sinh trước khi vào học bài mới giáo viên đưa ra
tình huống: Có người nói rằng “Trong khẩu phần ăn mà thức ăn chứa nhiều
chất côlesterôn (có trong thịt, cá, trứng, sữa…) có nguy cơ bị mắc bệnh sơ
vữa động mạch” Em có suy nghĩ gì về câu nói này? Bệnh sơ vữa động mạch
gây ra tác hại gì? Sau khi học nội dung tuần hoàn máu, giáo viên yêu cầu học
sinh nói lên quan điểm của mình về tình huống ở đầu bài. Qua tìm hiểu kiến
11


thức bài học kết hợp với hiểu biết về thực tế học sinh có thể đưa ra câu suy nghĩ
của mình, giáo viên nhận xét và chốt kiến thức: Trong khẩu phần ăn mà chứa
nhiều chất côlesterôn sẽ có nguy cơ bị bệnh xơ vữa động mạch. Ở bệnh này,
côlesterôn ngấm vào thành mạch kèm theo sự ngấm các ion canxi làm cho mạch
bị hẹp lại, không còn nhẵn như trước, gây xơ vữa. Động mạch xơ vữa làm cho
sự vận chuyển máu trong mạch gặp khó khăn, tiểu cầu dễ bị vỡ và hình thành
cục máu đông gây tắc mạch. Đặc biệt nguy hiểm ở động mạch vành nuôi tim
gây các cơn đau tim, ở động mạch não gây đột qụy. Bên cạnh đó động mạch xơ
vữa gây ra các tai biến trầm trọng như xuất huyết dạ dày, xuất huyết não, thậm
chí gây tử vong. Qua tình huống này, giáo viên định hướng cho các em biết cách
xây dựng một khẩu phần ăn hợp lí, tốt cho sức khỏe.
- VD4: Khi dạy nội dung hô hấp bằng phổi
Giáo viên có thể mở bài bằng một tin tức có trên thời sự: Một em bé ở Gia
Lai đã tử vong do bị nghẹt thở sau khi ăn thạch rau câu. Vậy tại sao lại có
hiện tượng này? Để giải đáp câu hỏi này, chúng ta cùng tìm hiểu nội dung hô
hấp bằng phổi. Khi học các cơ quan trong hệ hô hấp của người và chức năng
của chúng, giáo viên nhắc lại tình huống ở đầu bài và yêu cầu học sinh giải
thích. Sau đó giáo viên chốt kiến thức: Ở thanh quản có nắp thanh quản có thể

cử động để đậy kín đường hô hấp khi chúng ta nuốt thức ăn. Trong trường hợp
trên khi em bé khi ăn thạch rau câu đã mút mạnh để lấy thạch vào miệng. Khi
mút mạnh thì nắp thanh quản sẽ mở to, cùng với độ trơn của miếng thạch đã
chạy tọt vào cổ và lọt vào đường thở, chắn ngang gây nghẹt thở và tử vong. Qua
tình huống giáo viên có thể lồng ghép cách sơ cứu khi trẻ bị hóc dị vật hoặc khi
ăn không nên cười đùa có thể dẫn đến bị sặc…
- VD5: Khi dạy nội dung hoạt động hô hấp
Để kích thích sự tò mò, hứng thú học tập của học sinh, giáo viên có đưa ra
một tình huống: Khi phát hiện một em bé mới sinh bị chết, làm thế nào để biết
được chính xác em bé đó chết trước hay sau khi lọt lòng? Để giải đáp câu hỏi
này chúng ta cùng tìm hiểu bài nội dung hoạt động hô hấp. Khi học nội dung
thông khí ở phổi, giáo viên nhắc lại tình huống vào bài và yêu cầu học sinh đưa
ra suy nghĩ của mình, sau đó giáo viên chốt lại kiến thức: Trẻ mới sinh đã cắt
rốn mà vẫn còn sống sẽ có động tác hít vào thở ra lần đầu làm bật tiếng khóc
chào đời. Trước khi có tiếng khóc chào đời phổi trẻ chưa hề có không khí. Nên
nếu trẻ chết từ trong bụng mẹ thì mô phổi còn đặc do đó nặng hơn nước, còn nếu
trẻ lọt lòng mà còn sống dù chỉ cất tiếng khóc một lần thôi, khi không khí tràn
vào phổi có một phần sẽ ở lại mãi trong đó nên mô phổi trở nên xốp và nhẹ hơn
nước. Vì vậy trong pháp y, khi cần xác định một trẻ sơ sinh chết từ khi còn nằm
trong bụng mẹ hay sau khi lọt lòng, chỉ cần cắt một miếng phổi, bỏ vào một cốc
nước rồi theo dõi xem nó chìm hay nổi. Nếu phổi chìm thì em bé đó bị chết
trong bụng mẹ, còn nếu phổi nổi thì em bé đó chết sau khi lọt lòng. Cũng trong
bài này giáo có thể đặt ra câu hỏi “ Vì sao có tiếng khóc chào đời” trước khi
vào bài mới.
12


2.3.2.2. Biện pháp 2: Tạo ra các tình huống giả định
Bên cạnh các tình huống có sẵn trong thực tế, giáo viên có thể sáng tạo ra
các tình huống giả định để kích thích hứng thú học tập cho học sinh. Từ các tình

huống đó buộc học sinh phải tự tìm hiểu kiến thức nền và đưa ra cách giải quyết
tình huống đó, giúp các em khắc sâu kiến thức.
Cách thức thực hiện: Giáo viên có thể áp dụng biện pháp này vào các nội
dung cụ thể như: Máu và môi trường trong cơ thể, vai trò của thận...
* Một số ví dụ cụ thể:
- VD1: Khi dạy nội dung máu và môi trường trong cơ thể
Trước khi vào học bài mới giáo viên có thể đưa ra một tình huống :
Bạn Hà và bạn Hải đang tranh luận với nhau về bệnh thiếu máu.
Bạn Hà: Theo tớ nghĩ người bị bệnh thiếu máu là do thiếu số lượng máu
trong cơ thể nên mới hay bị mệt mỏi, hoa mắt, chóng mặt.
Bạn Hải: Tớ lại nghĩ khác, người bị thiếu máu có thể do thiếu ôxi trong
máu.
Em nghĩ như thế nào về quan điểm của hai bạn trên? Vì sao? Từ tình huống
này sẽ kích thích sự tò mò, của các em muốn tìm hiểu những kiến thức để lí giải
cho các dự đoán của mình. Sau khi học nội dung máu. Giáo viên yêu cầu học
sinh nói ra quan điểm của mình. Sau đó giáo viên chốt kiến thức: Ở người, trung
bình có khoảng 7,5ml máu/kg cơ thể. Như vậy ở người trưởng thành có trung
bình khoảng từ 4,5 -5,5 lít máu. Những người bị bệnh thiếu máu thường không
phải do thiếu số lượng máu mà do thiếu số lượng hồng cầu trên đơn vị thể tích
máu, làm cho khả năng trao đổi khí của máu kém đi, cơ thể không nhận đủ máu
giàu ôxi nên hay bị mệt mỏi, hoa mắt và chóng mặt…
- VD2: Khi dạy vai trò của thận trong cân bằng áp suất thẩm thấu

Ghép thận
Giáo viên mở bài bằng một tình huống: Nam và Hà đang tranh luận với
nhau về một vấn đề.
Nam: Theo tớ nghĩ, mỗi người chúng ta đều có hai quả thận nên nếu
tặng một quả thận cho người bị suy thận để cứu sống họ, thì cơ thể chúng ta
vẫn bình thường.
13



Hà: Tớ lại nghĩ khác, hai quả thận trong cơ thể mỗi người đều phải phối
hợp với nhau trong việc lọc và thải các chất thừa, các chất độc hại. Nên nếu
cho đi một quả thì cơ thể sẽ bị yếu đi rất nhiều, thậm chí có thể bị chết.
Em đồng ý với quan điểm của bạn nào? Tại sao? Để giải đáp câu hỏi này
giáo viên nhắc lại tình huống ở đầu bài và yêu cầu học sinh trình bày quan điểm
của mình. Sau đó, giáo viên chốt kiến thức: Ở người, mỗi quả thận có khoảng
hơn một triệu đơn vị chức năng. Nên khi cơ thể chỉ còn một quả thận, nó sẽ tự
điều chỉnh công suất để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ lọc như khi còn hai quả
thận. Khi đó, để bù đắp quá trình xử lí chất thải thừa của quả thận đã mất, các
đơn vị thận trong quả thận còn lại sẽ tăng kích thước lên. Vì thế sức khỏe của
người hiến thận vẫn bình thường. Đây là một nghĩa cử cao đẹp của con người
đang được xã hội quan tâm và ủng hộ.
2.3.3. Giải pháp 3: Sử dụng các câu hỏi liên quan đến thực tế vào trong giảng
dạy.
Các câu hỏi nảy sinh trong thực tế rất gần gũi với các em học sinh. Việc sử
dụng các câu hỏi liên quan đến thực tế trong giảng dạy sẽ tạo cho các em hứng
thú muốn tìm hiểu kiến thức bộ môn để có thể lí giải những vấn đề mà các em
thường gặp, qua đó các em thấy môn học trở nên gần gũi và thiết thực và yêu
thích môn học hơn.
* Một số ví dụ cụ thể:
- VD1 : Khi dạy nội dung tim và mạch máu
Để tạo hứng thú học tập cho học sinh, giáo viên mở bài bằng câu hỏi: Vì
sao tim đập suốt đời sao không mỏi? Để giáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm
hiểu trong nội dung tim và mạch máu. Khi tìm hiểu nội dung chu kì tim, giáo
viên nhắc lại câu hỏi và yêu cầu học sinh giải thích, sau đó giáo viên chốt kiến
thức: Tim đập nhịp nhàng suốt đời kể từ tháng thứ 3, lúc thai trong bụng mẹ cho
đến lúc ta nhắm mắt xuôi tay. Một chu kì tim kéo dài 0,8 giây, Pha tâm nhĩ co
kéo dài chừng 0,1 giây, pha tâm thất co kéo dài chừng 0,3 giây. Như vậy cả giai

đoạn co tim kéo dài 0,4 giây, sau đó cả tâm thất và tâm nhĩ đều nghỉ 0,4 giây.
Tim đập suốt đời không mỏi vì thực ra, trong mỗi chu kì co tim, tâm nhĩ chỉ làm
việc 0,1 giây nghỉ ngơi 0,7 giây, còn tâm thất làm việc 0,3 giây, nghỉ ngơi 0,5
giây. Do đó, cả tâm thất và tâm nhĩ đã hồi sức dễ dàng, nên có thể đập suốt đời
không mỏi.
- VD2: Khi dạy nội dung hô hấp và các cơ quan hô hấp
Giáo viên có thể mở bài bằng câu hỏi: Chắc hẳn các em đã có lần hắt hơi,
vậy hắt hơi là hoạt động gì của cơ thể? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng
tìm hiểu trong nội dung hô hấp và các cơ quan hô hấp. Khi tìm hiều phần các cơ
quan trong hệ hô hấp của người và chức năng của chúng, giáo viên nhắc lại câu
hỏi ở đầu bài và yêu cầu học sinh giải thích, qua tìm hiểu kiến thức học sinh sẽ
chỉ ra được hắt hơi là một phản xạ hô hấp của cơ thể nhằm loại bỏ vật lạ hay khí
lạ lọt vào đường hô hấp.
14


- VD3 : Khi dạy nội dung tiêu hóa và các cơ quan tiêu hóa
Để tạo hứng thú học tập cho học sinh, giáo viên mở bài bằng câu hỏi: Tại
sao khi ăn vừa nói, vừa cười lại hay bị sặc? Sau khi tìm hiểu kiến thức phần
các cơ quan tiêu hóa, học sinh sẽ chỉ ra được khi nuốt vừa nói, vừa cười làm cho
nắp thanh quản không đậy kín được khí quản, thức ăn có thể lọt vào đường dẫn
khí làm ta bị sặc.
- VD4 : Khi dạy nội dung tiêu hóa ở dạ dày
Giáo viên có thể mở bài bằng câu hỏi: Tại sao prôtêin trong thức ăn bị
dịch vị phân hủy nhưng prôtêin của lớp niêm mạc dạ dày lại được bảo vệ,
không bị phân hủy? Sau khi tìm hiểu kiến thức học sinh sẽ chỉ ra được: Trong
dạ dày có enzim pepsin có khả năng phân hủy prôtêin rất mạnh, nhưng lớp niêm
mạc của dạ dày vẫn được bảo vệ, không bị ăn mòn là vì mặt trong của dạ dày
được lót một lớp niêm mạc. Lớp niêm mạc tiết chất nhầy bảo vệ phủ kín cả bề
mặt niêm mạc ngăn chặn tác dụng tiêu hóa của pepsin.

- VD5 : Khi dạy nội dung tiêu hóa ở ruột non
Để tạo hứng thú học tập cho học sinh, giáo viên mở bài bằng câu hỏi: Vì
sao người ta nói, người bị mắc các bệnh về gan thì khả năng tiêu hóa kém?
Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu nội dung: Tiêu hóa ở ruột non,
sau khi tìm hiểu kiến thức học sinh chỉ ra được: Dịch mật do gan tiết ra, tạo môi
trường kiềm giúp đóng mở cơ vòng môn vị, điều khiển thức ăn từ dạ dày xuống
ruột, góp phần tiêu hóa và hấp thụ mỡ. Nên nếu gan bị mắc bệnh sẽ làm giảm
khả năng tiết mật, từ đó làm giảm khả năng tiêu hóa thức ăn.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
2.4.1. Kết qủa định tính
Qua quá trình phân tích bài kiểm tra ở các lớp thực nghiệm và lớp đối
chứng và theo dõi trong suốt quá trình giảng dạy, tôi có những nhận xét sau:
- Ở các lớp đối chứng:
+ Phần lớn học sinh chỉ dừng lại ở mức độ nhớ và tái hiện kiến thức. Tính
độc lập nhận thức không thể hiện rõ, cách trình bày rập khuôn trong SGK hoặc
vở ghi của giáo viên.
+ Nhiều khái niệm các em chưa hiểu sâu nên trình bày chưa chính xác,
thiếu chặt chẽ.
+ Việc vận dụng kiến thức đối với đa số các em còn khó khăn, khả năng
khái quát hóa và hệ thống hóa bài học chưa cao.
+ Giờ học trầm lắng, kém hứng thú, các em vẫn trả lời câu hỏi nhưng chưa
nhiệt tình.
Tuy nhiên, vẫn có một số học sinh hiểu bài khá tốt, trình bày khá lôgic, chặt chẽ.
- Ở các lớp thực nghiệm:
+ Phần lớn học sinh hiểu bài tương đối chính xác và đầy đủ
+ Lập luận rõ ràng, chặt chẽ
15


+ Độc lập nhận thức, có khả năng trình bày vấn đề một cách chủ động theo

quan điểm riêng, không theo nguyên mẫu SGK hoặc của giáo viên.
+ Các em tham gia đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi với tinh thần say mê, hào
hứng, không khí giờ học thoải mái.
+ Tuy nhiên, vẫn còn một số ít học sinh chưa nắm vững nội dung bài học,
khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát hóa và vận dụng kiến thức chưa tốt.
2.4.2. Kết quả định lượng
Trong quá trình giảng dạy tôi đã kết hợp với kiểm tra cùng một đề với nội
dung như nhau trong 7 phút sau khi kết thúc bài giảng ở lớp TN(11Đ, 11E,11M)
và lớp ĐC (11N,11P,11Q). Đề được bố trí dưới dạng các câu hỏi trắc nghiệm
khách quan để đảm bảo tính khách quan giữa 2 nhóm lớp. Kết quả bài kiểm tra
bài thể hiện qua bảng 1,2.
Bảng 1: Kết quả bài kiểm tra số 1

16


Bài KT
số 1

Nhóm

Sè bµi
(n)

§C

123

TN


123

Møc díi
TB(% )

Møc
TB ( % )

10.4
1
4.44
9

Møc

Møc
giái( % )

kh¸
(%)
37.5
45.8
4
28.8
55.5
5
2

6.25
11.1


Biểu
đồ 1.
Đường
biểu
diễn tần suất kết quả bài kiểm tra của lớp TN và ĐC
*Nhận xét: Qua bảng 1 biểu đồ 1 cho thấy, tỉ lệ học sinh lớp thực nghiệm đạt điểm 7
trở lên cao hơn lớp đối chứng.
Bảng 2: Kết quả bài kiểm tra số 2
Bài KT
số 1

Nhóm
§C

Sè bµi Møc díi
(n)
TB(% )
123

Møc
TB ( % )

Møc

kh¸
(%)
35.4
50


6.25

Møc
giái( % )
8.33

2
TN

123

4.44

24.4
5

62.2

8.89

2

*Nhận xét:
Qua bảng 2 cho thấy, đường tần suất của lớp thực nghiệm điểm trên 7 luôn
cao hơn và nằm bên phải so với đối chứng và có sự tịnh tiến về bên phải so với
lần kiểm tra 2.

17



Biểu đồ .2. Đường biểu diễn tần suất kết quả bài kiểm tra số 2 của lớp TN và ĐC
Qua kết quả nghiên cứu ta thấy rằng, ở các lớp thực nghiệm tỷ lệ đạt điểm
khá giỏi đều cao hơn các lớp đối chứng. Ngược lại, tỷ lệ điểm trung bình và
dưới trung bình của các lớp đối chứng lại cao hơn. Điều đó phần nào cho thấy
học sinh các lớp thực nghiệm tiếp thu kiến thức nhiều hơn và tốt hơn. Một trong
những nguyên nhân đó là: Ở lớp thực nghiệm, lớp học diễn ra nghiêm túc, học
sinh hứng thú học tập, tích cực, chủ động “đóng vai”, số lượng học sinh tham
gia xây dựng bài nhiều làm cho không khí lớp học sôi nổi kích thích sự sáng tạo,
chủ động nên khả năng hiểu và nhớ bài tốt hơn.
Trong chương trình trung học phổ thông, quá trình đổi mới phương pháp
dạy học, cũng như kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học
sinh là dựa trên nền sách giáo khoa hiện hành. Vì vậy, quá trình đổi mới phải
tiến hành từ từ, có thể áp dụng cho từng phần nhỏ trong bài dạy hoặc trong các
bài kiểm tra sao cho vừa đảm bảo kiến thức, kĩ năng cho học sinh theo chuẩn
kiến thức kĩ năng vừa phát triển được các năng lực của học sinh.
+ Với HS lớp thực nghiệm, các em đã tự tin hơn khi trình bày trước lớp,
các em đã mạnh dạn bày tỏ quan điểm của mình trước một vấn đề đặt ra, các em
tích cực tham gia các hoạt động nhóm nhiều hơn…
Qua kết quả trên, tôi nhận thấy rằng chất lượng học tập bộ môn Sinh học 11
được tăng lên rỏ rệt, tỉ lệ học sinh yếu kém đã giảm đi đáng kể.
Qua thực tế giảng dạy ở trường THPT trong nhiều năm, tôi nhận thấy trong
bài học nếu giáo viên tổ chức các tình huống vào bài nhằm tạo tình huống có
vấn đề, tạo tâm thế tốt cho học sinh trước khi vào bài mới thì tiết học trở nên
sinh động hơn rất nhiều, đa số học sinh hứng thú phát biểu xây dựng bài, vì thấy
được sự gần gũi giữa giữa kiến thức của bộ môn với cuộc sống, tạo hứng thú
học tập cho học sinh. Những tình huống vào bài có thể là những câu chuyện
ngắn, những câu hỏi liên quan đến thực tế, những câu ca dao, tục ngữ…được
vận dụng trong phần mở đầu sẽ tạo tâm thế học tập tốt, làm kích thích tính tò
mò, muốn khám phá, tạo cho các em động lực để giải quyết các vấn đề đặt ra.
Khi học đến nội dung chính liên quan đến tình huống ở phần mở bài trên thì

giáo viên yêu cầu học sinh lí giải cho các nhận định của mình đối với tình huống
18


đã được đề cập. Từ đó, vừa kích thích hứng thú học tập cho các em vừa giúp các
em khắc sâu được những kiến thức bộ môn và có thể vận dụng những kiến thức
bộ môn vào giải thích những tình huống trong thực tiễn. Ngoài ra, còn rèn cho
các em kỹ năng vận dụng được những kiến thức khoa học bộ môn để lí giải
được một số tình huống thực tế liên quan. Các em sẽ có cái nhìn sâu sắc hơn về
cuộc sống, từ đó hứng thú học tập hơn, chất lượng bộ môn cũng cao hơn.
2.4.3. Kết luận chung về thực nghiệm
Với kết quả thực nghiệm này, tôi có thêm cơ sở thực tiễn để tin tưởng vào
khả năng ứng dụng giải pháp tổ chức các tình huống thực tế vào giảng dạy kết
hợp hình ảnh minh họa theo hướng mà đề tài đã chọn.
Qua thực nghiệm dạy học, tôi nhận thấy:
- Hứng thú học tập của học sinh cao hơn, hoạt động thảo luận sôi nổi hơn
và hiệu quả cao hơn, HS tập trung để quan sát và phân tích, phát biểu xây dựng
bài tốt hơn.
- Tăng cường thêm một số kỹ năng hoạt động học tập cho HS như quan sát,
phân tích, tổng hợp, so sánh, kỹ năng làm việc độc lập, và trình bày một vấn đề
trước tập thể.
- Hoạt động của giáo viên nhẹ nhàng, thuận lợi hơn để có thể tập trung vào
việc đưa HS vào trung tâm của hoạt động dạy học. Thông qua phương pháp này,
HS trong nhóm và giữa các nhóm phát biểu ý kiến, tranh luận, bổ sung cho nhau
tạo không khí học tập rất tích cực, nâng cao hiệu quả tiếp thu, lĩnh hội tri thức
của HS.
- Kiến thức được cung cấp thêm, bổ sung và làm rõ SGK, đồng thời gắn với
thực tiễn nhiều hơn.
Do giới hạn về thời gian cũng như các điều kiện khác nên tôi chưa thực
hiện thực nghiệm được trên quy mô lớn hơn. Chính vì thế mà kết quả thực

nghiệm chắc chắn chưa phải là tốt nhất.
Mặc dù vậy, qua thời gian giảng dạy, tôi nhận thấy rằng, việc sử dụng giải
pháp tổ chức các tình huống thực tế vào dạy học Sinh học 11 là điều rất cần
thiết, góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy, phát huy năng lực của học sinh,
đáp ứng được yêu cầu đổi mới về nội dung và phương pháp trong dạy học hiện
nay.

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Sự sinh động, hấp dẫn của bộ môn phụ thuộc rất nhiều đến sự linh động,
sáng tạo của người giáo viên. Nếu thật sự đầu tư và biết cách đầu tư cho từng
tiết dạy thì môn Sinh học sẽ không còn khô khan, nhàm chán như nhiều người
vẫn nghĩ nữa. Việc tổ chức các tình huống vào bài bằng cách sử dụng các câu
19


chuyện ngắn, các câu hỏi, các tình huống trong thực tế, các câu ca dao, tục
ngữ…vào trong giảng dạy môn Sinh học 11 ngoài việc tạo hứng thú học tập cho
học sinh còn góp phần rèn cho các em kỹ năng vận dụng các kiến thức bộ môn
để giải quyết một số vấn đề thực tiễn nảy sinh trong cuộc sống.
Trên đây là những kinh nghiệm mà bản thân tôi đã đúc kết được qua nhiều
năm giảng dạy bộ môn Sinh học 11 tại trường THPT, Tôi đã tiến hành áp dụng
đề tài trong năm học 2019 - 2020 và bước đầu đã đạt được hiệu quả, chất lượng
bộ môn đã được nâng cao.
3.2. Kiến nghị
Để làm tốt công tác giảng dạy bộ môn Sinh học 11 nói riêng và môn Sinh
học nói chung, tôi xin có một số kiến nghị như sau:
Đối với nhà trường: Tổ chức thường xuyên hơn nữa các buổi sinh hoạt
chuyên môn, các chuyên đề, hội giảng, để các giáo viên có thể học hỏi, nâng cao
hơn năng lực chuyên môn của mình.

Đối với Sở giáo dục: Có thể tổ chức nhiều hơn nữa các chuyên đề về đổi
mới phương pháp dạy học, triển khai những sáng kiến kinh nghiệm hay để mọi
người cùng học hỏi nâng cao năng lực chuyên môn của mình.
Trong quá trình giảng dạy bộ môn Sinh học 11 tại trường THPT , với kinh
nghiệm còn hạn chế tôi rất mong nhận được sự góp ý chân thành từ đồng
nghiệp, để giúp cho quá trình giảng dạy bộ môn đạt hiệu quả cao hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, Ngày 20 tháng 6 năm 2020
CAM KẾT KHÔNG COPY
Người viết

Nguyễn Thị Hạnh

STT

Tên tài liệu

1

Sách giáo khoa Sinh học 11

Tác giả
Nhà xuất bản Giáo dục
20



2

Tài liệu chuẩn KT- KN môn Sinh học

Nhà xuất bản Giáo dục

3

Lý luận dạy học Sinh học

Nguyễn Phúc Chỉnh

4

Tham khảo các tài liệu qua internet, báo
chí, các phương tiện thông tin đại chúng và
thực tế địa phương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
21


Họ và tên tác giả:. NGUYỄN THỊ HẠNH
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường THPT Hà Trung

1.


Vận dụng phương pháp dạy học lấy học sinh làm

Cấp đánh
Năm học
Kết
giá xếp
đánh giá xếp
quả
loại
loại
Sở GD
C
2005 - 2006

2.

trung tâm vào dạy học sinh học 10
Nâng cao hiệu quả sử dụng thí nghiệm trong dạy

Sở GD

C

2011-2012

3.

học sinh học tế bào( Sinh học 10 ).
Xây dựng Graph để hệ thống hóa kiến thức phần


Sở GD

C

2012-2013

4.

chuyển hóa vật chất và năng lượng ở động vật
Một số kinh nghiệm tổ chức tiết học ngoại khóa

Sở GD

C

2013-2014

5.

học bộ môn công nghệ lớp 10 ở trường THPT.
Một số phương pháp giải bài tập sinh học 11 đạt

Sở GD

C

2014-2015

6.


hiệu quả cao ở trường THPT Nguyễn Hoàng
Sử dụng phương pháp đóng vai trong giảng dạy

Sở GD

B

2015-2016

Sở GD

C

2016-2017

TT

Tên đề tài SKKN

nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy

môn Công nghệ 10 nhằm phát huy tính chủ động,
7.

sáng tạo của học sinh THPT.
Một số kinh nghiệm xây dựng nội dung dạy học
nhằm phát huy năng lực ghi nhớ nhanh kiến thức

8.


môn Sinh học cho hS phổ thông.
Sử dụng phương pháp đóng vai trong giảng dạy
môn Công nghệ 10 nhằm phát huy tính chủ động,

9.

sáng tạo của học sinh THPT.
Một số kinh nghiệm nhằm giáo dục và nâng cao

HĐKHSK B
Tỉnh
Thanh
Hóa
Sở GD
B

Tháng 8/2017

2017-2018

kỹ năng sống cho học sinh THPT qua chủ đề tập
tính ở động vật

22



×