Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật việt nam về đưa người lao động việt nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.65 KB, 39 trang )

-1-

LỜI NÓI ĐẦU
Lao động là hoạt động không thể thiếu trong bất kỳ một xã hội nào bởi lao động tạo
ra những giá trị và của cải cho cuộc sống. Ngày nay, vấn đề lao động và quan hệ lao
động đang càng trở lên phức tạp và được mở rộng trên phạm vi toàn thế giới. Theo đó,
người lao động có thể di chuyển tự do đến những quốc gia mà họ mong muốn để thoả
mãn nhu cầu làm việc nếu được luật pháp cho phép. Việc người lao động di chuyển tư
quốc gia này sang quốc gia khác là hiện tượng bình thường và tương đối phổ biến trong
bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay.
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, với lực lượng lao động đông đảo, hàng
năm có hàng triệu lao động cần việc làm. Bên cạnh đó, do sự thay đổi của cơ cấu kinh tế,
đất nông nghiệp bị thu hẹp, lao động nông thôn dư thưa ngày càng nhiều, bổ sung thêm
vào nguồn cung lao động. Còn tại khu vực công nghiệp, dịch vụ, do sức ép cạnh tranh,
nhiều doanh nghiệp không đứng vững buộc phải thu hẹp qui mô sản xuất hoặc thay đổi
công nghệ,… dẫn đến hậu quả là một bộ phận lớn người lao động bị dôi dư không có
việc làm, gây ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của chính bản thân và gia đình họ cũng
như toàn xã hội.
Trong khi đó, nhiều quốc gia, nhiều vùng lãnh thổ trên thế giới lại đang rơi vào tình
trạng thiếu lao động hoặc giá nhân công tại chỗ quá cao. Họ cần tuyển lao động là người
tư các quốc gia khác sang làm việc. Tư đó phát sinh nhu cầu cung ứng sức lao động và di
chuyển lao động tư quốc gia này sang quốc gia khác. Đây là một nhu cầu tất yếu xuất
phát tư sự vận động khách quan của thị trường lao động quốc tế. Xu thế này đã thu hút
sự tham gia cung ứng lao động của nhiều quốc gia đông dân và dư thưa lao động, trong
đó có Việt Nam.
Trong bối cảnh tình hình chung của thế giới và xuất phát tư nhu cầu khách quan của
Việt Nam hiện nay, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề lao động và giải quyết
việc làm. Để giải quyết việc làm cho người lao động trong nước và cải thiện đời sống
của người lao động cũng như gia đình họ, Nhà nước đã có nhiều chính sách giải quyết
việc làm, trong đó có hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
Trước đây, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài


được qui định trong mục 5ª chương XI Bộ luật lao động và các văn bản dưới luật khác.
Nhưng nhìn chung các quy định này còn rất sơ sài, chưa cụ thể và còn nhiều điểm không


-2-

phù hợp. Điều này đã gây nhiều bất cập trong việc áp dụng pháp luật, gây thiệt hại cho
người lao động và tạo ra nhiều tranh chấp phức tạp trong quá trình đưa người lao động đi
làm việc ở nước ngoài. Trước tình hình đó, tháng 11 năm 2006 tại kỳ họp thứ 10, Quốc
hội khóa XI đã thông qua Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo
hợp đồng (có hiệu lực tư 01 tháng 7 năm 2007). Sau đó, hàng loạt các Nghị định và
Thông tư hướng dẫn các quy định của Luật này đã được ban hành.
Cho đến nay, sau hơn hai năm thực hiện, Luật người lao động Việt Nam đi làm việc
ở nước ngoài theo hợp đồng vẫn bộc lộ nhiều bất cập làm ảnh hưởng tới lợi ích của
người lao động, gây khó khăn cho các doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngoài, cũng như chưa thực sự thúc đẩy sự hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam với
Chính phủ các nước trong lĩnh vực này.
Để tiếp tục hoàn thiện pháp luật Việt Nam về đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng, việc nghiên cứu tổng quan hoạt động đưa người lao động
Việt Nam ra nước ngoài làm việc, cũng như thực trạng ban hành và thực thi pháp luật
Việt Nam điều chỉnh hoạt động này để tìm ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật trong
thời gian tới là vấn đề cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Đó chính là lý do để tác giả lựa
chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về đưa người lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng” làm bài tiểu luận hết môn cho
mình.


-3-

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐƯA NGƯỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM ĐI
LÀM VIỆC Ở NƯỚC NGOÀI THEO HỢP ĐỒNG VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1. Khái quát chung về hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng
1.1.1. Khái niệm và tầm quan trọng của hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
Trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay, việc người lao động di chuyển tư quốc gia
này sang quốc gia khác để tìm kiếm việc làm đã trở thành một hiện tượng phổ biến. Để
nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản của chế độ pháp lý về vấn đề này, cần làm rõ
một số khái niệm có liên quan, đó là khái niệm “hợp tác quốc tế về lao động” và “xuất
khẩu lao động”. Đây là những thuật ngữ đã tưng được sử dụng trong tưng giai đoạn nhất
định của hoạt động đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Trên cơ sở đó, làm
rõ nội hàm của khái niệm “đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài”.
Trong một số văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động đưa lao động Việt Nam ra
làm việc ở nước ngoài đã sử dụng thuật ngữ thay thế là “xuất khẩu lao động”. Thông
thường, thuật ngữ “xuất khẩu” dùng để chỉ hoạt động kinh tế của chủ thể kinh doanh
nhằm đưa hàng hoá, tư bản ra nước ngoài hoặc của chủ thể nào đó nhằm phổ biến tư
tưởng ra nước ngoài. Việc sử dụng thuật ngữ kép “xuất khẩu lao động” do đó rất dễ làm
nảy sinh quan điểm coi sức lao động là hàng hoá có thể xuất khẩu được và nhiều trường
hợp bị hiểu nhầm là người lao động cũng có thể trở thành hàng hoá xuất khẩu được.
Điều này trái với bản chất của quá trình đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài bởi
những chủ thể đưa người lao động ra nước ngoài được hưởng lợi (lệ phí) tư hoạt động
dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài chứ không phải là hưởng tiền bán
người lao động hoặc bán sức lao động của những người lao động.
Hiện nay, trong Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng, cụm tư “xuất khẩu lao động” đã chính thức được thay thế bằng cụm tư “đưa người
lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng”. Trong đạo luật này và các
văn bản hướng dẫn, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng được hiểu là hoạt động được tiến hành bởi các cơ quan, tổ chức nhằm đưa



-4-

người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc trên cơ sở sự thỏa thuận bằng văn bản
giữa người lao động và các doanh nghiệp, tổ chức có thẩm quyền của Việt Nam. Kết quả
của hoạt động này là các quan hệ lao động được hình thành giữa người lao động Việt
Nam và doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài là người sử dụng lao động theo hợp đồng lao
động được ký trực tiếp giữa các bên. Tuy nhiên, do hoạt động dịch vụ cung ứng lao động
giữa nhà trung gian cung ứng lao động Việt Nam và đối tác nước ngoài có nhu cầu tuyển
dụng lao động chịu sự điều chỉnh chủ yếu của các điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia
đó nên tạm thời chưa được đề cập trong phạm vi của đề tài này.
Như vậy, có thể hiểu hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng là hoạt động bao gồm quy trình khép kín bắt đầu khi chủ thể làm
dịch vụ đưa lao động đi nước ngoài (trong luận văn này chúng tôi gọi tắt là bên A) bắt
đầu tiến hành các hoạt động tìm kiếm các ứng viên phù hợp (trong luận văn này chúng
tôi gọi tắt là bên B) để giới thiệu cho các đối tác nước ngoài đang có nhu cầu tuyển lao
động (trong luận văn này chúng tôi gọi tắt là bên C). Sau đó bên A sẽ tiến hành các hoạt
động đào tạo định hướng hoặc dạy nghề cho bên B để cung cấp cho bên B những kiến
thức và kỹ năng cần thiết (được gọi tắt là quá trình giáo dục định hướng). Đồng thời, bên
A cũng tiến hành các thủ tục cần thiết để giúp bên B xuất cảnh khỏi Việt Nam, nhập cảnh
vào nước tiếp nhận lao động. Cuối cùng, sau khi bên B đã chấm dứt việc thực hiện hợp
đồng lao động với bên C tại nước ngoài, bên B sẽ trở về Việt Nam.
Có thể thấy hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là
một quy trình khép kín bao gồm nhiều giai đoạn, với nhiều chủ thể khác nhau tham gia
và chịu sự điều chỉnh của nhiều hệ thống pháp luật khác nhau. Các chủ thể tham gia quá
trình này bao gồm: i) Doanh nghiệp, tổ chức Việt Nam đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngoài (bên A); ii) Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài (bên B), iii)
Bên nước ngoài có nhu cầu tiếp nhận lao động (bên C).
Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ đưa người lao động Việt Nam đi

làm việc ở nước ngoài được chủ yếu thoả thuận trong ba loại hợp đồng cơ bản sau đây:
Hợp đồng cung ứng lao động ký giữa bên A và bên C, Hợp đồng đưa người lao động đi
làm việc ở nước ngoài ký giữa bên A và bên B và Hợp đồng lao động ký giữa bên B và
bên C. Hợp đồng cung ứng lao động mà doanh nghiệp Việt Nam (bên A) ký kết với bên
nước ngoài (bên C) là một loại hợp đồng dịch vụ có bản chất pháp lý gần giống các loại


-5-

hợp đồng trong kinh doanh, thương mại mà theo đó, bên cung ứng lao động (bên A) sẽ
được nhận khoản thù lao chính là khoản phí môi giới mà người lao động phải trả theo
quy định của nhà nước, được xác định căn cứ vào mức lương tháng của người lao động.
Còn Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài được ký kết giữa các chủ
thể của Việt Nam, đó là doanh nghiệp, tổ chức đưa người lao động đi làm việc ở nước
ngoài và người lao động. Đây thực chất là hợp đồng dịch vụ việc làm và phải tuân thủ
hoàn toàn các quy định của pháp luật Việt Nam. Đối tượng của hợp đồng này là công
việc được pháp luật cho phép thực hiện: đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Nội dung của hợp đồng này phải phù hợp với nội dung của Hợp đồng cung ứng lao động
đã ký với bên nước ngoài (bên C). Hợp đồng lao động giữa bên B và bên C có thể được
ký kết ở Việt Nam hoặc ở nước ngoài nhưng được thực hiện ở nước ngoài và hoàn toàn
chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước tiếp nhận lao động. Tuy nhiên, việc ký kết hợp
đồng này phải dựa trên sơ sở của Hợp đồng cung ứng lao động và phải có nội dung phù
hợp với Hợp đồng cung ứng lao động đã ký giữa bên A và bên C.
Theo ước tính của Ngân hàng Nhà nước và Bộ Lao động – Thương binh và Xã
hội, năm 2017, chỉ riêng lao động Việt Nam ở nước ngoài chuyển về nước khoảng 2 tỷ
USD. Khoản tiền người lao động gửi về nhà được chia làm hai phần: một phần gia đình
chi tiêu vào việc nâng cao mức sống, chăm sóc sức khỏe của gia đình, đặc biệt là chi tiêu
cho việc học tập của con cái góp phần nâng cao dân trí, một phần lớn dành để tiết kiệm
nhằm mục đích đầu tư trong tương lai. Đối với đa số doanh nghiệp đưa người lao động
đi làm việc ở nước ngoài, đây là một hoạt động kinh doanh thuần tuý, do đó, mục tiêu

của họ là hướng tới các khoản lợi nhuận thu được thông qua hoạt động này. Đối với nhà
nước, việc cho phép đưa người lao động ra nước ngoài làm việc tạo điều kiện để chúng
ta tận dụng nguồn nhân lực làm tăng thu nhập quốc gia. Việt Nam có nguồn lao động dồi
dào và trẻ. Việc thực hiện chính sách đưa người lao động ra nước ngoài làm việc sẽ tạo
cơ hội để sử dụng số lao động thất nghiệp vào việc sản xuất ra hàng hóa, dịch vụ tại
nước khác, mang lại thu nhập cho người lao động; đồng thời góp phần làm tăng thu nhập
quốc gia. Theo thống kê của Ngân hàng thế giới, năm 2016, người Việt Nam ở nước
ngoài gửi tiền về nước bằng con đường chính thức là 4,8 tỉ USD, tương đương với 7,9%
GDP năm 2016.


-6-

Bên cạnh đó, việc đưa người lao động ra nước ngoài làm việc còn góp phần thúc
đẩy chi tiêu của Chính phủ cho việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Người lao
động ra nước ngoài làm việc muốn được doanh nghiệp nước sở tại tiếp nhận thì họ phải
có kỹ năng nghề nghiệp và trình độ ngoại ngữ nhất định theo yêu cầu của chủ sử dụng
lao động. Do vậy, Chính phủ phải đầu tư về cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên và các
điều kiện khác để đảm bảo cho việc đào tạo người lao động. Điều này sẽ làm tăng chi
tiêu của Chính phủ. Khi chi tiêu cho đầu tư của Chính phủ tăng sẽ góp phần làm tăng
GDP cả trong ngắn hạn và dài hạn. Việc đưa lao động ra nước ngoài làm việc cũng tạo
điều kiện cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sắp xếp lại cơ cấu ngành nghề cho phù
hợp với sự thay đổi của thực tiễn kinh tế - xã hội.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động đưa người lao động ra nước ngoài làm việc
Thứ nhất, hoạt động đưa người lao động ra nước ngoài làm việc là hoạt động
mang tính xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, sức lao động được coi là một dạng hàng hóa đặc
biệt. Mà sức lao động lại luôn gắn với người lao động, không thể tách rời người lao
động, do vậy hoạt động đưa người lao động ra nước ngoài làm việc luôn gắn với chính
cuộc sống của người lao động. Do đó, mọi chính sách, pháp luật trong lĩnh vực này phải

kết hợp với các chính sách xã hội để bảo đảm các chế độ cho người lao động một cách
cao nhất (ví dụ như quyền được hưởng bảo hiểm xã hội, quyền được tôn trọng danh dự
và nhân phẩm, tham gia tổ chức công đoàn…). Hơn nữa, do người lao động Việt Nam
chỉ đi làm việc ở nước ngoài có thời hạn nên cần có chính sách tiếp nhận và sử dụng
người lao động một cách hợp lý sau khi họ về Việt Nam. Điều đó sẽ giúp người lao động
yên tâm làm việc ở nước ngoài và làm việc có hiệu quả hơn.
Thứ hai, hoạt động đưa người lao động ra nước ngoài làm việc là một hoạt động
mang tính kinh tế.
Ở nhiều nước trên thế giới, đưa người lao động ra làm việc ở nước ngoài là một
trong những giải pháp quan trọng nhằm giải quyết việc làm cho lực lượng lao động đang
gia tăng ở nước họ, thu ngoại tệ bằng hình thức chuyển tiền về nước của người lao động
và các lợi ích khác. Những lợi ích này buộc các nước có đưa người lao động đi làm việc
ở nước ngoài phải chiếm lĩnh thị phần ở thị trường lao động ngoài nước. Việc chiếm lĩnh
được hay không phụ thuộc vào khả năng xúc tiến quan hệ với nước ngoài, nguồn nhân


-7-

lực trong nước và chịu sự điều tiết của các quy luật của kinh tế thị trường như quy luật
cạnh tranh, quy luật giá cả, quy luật cung – cầu. Bên cung cấp lao động phải tính toán
mọi hoạt động của mình làm sao để bù đắp được chi phí và có lãi, vì vậy cần phải có cơ
chế thích hợp để tăng khả năng tối đa về cung lao động. Bên có nhu cầu lao động cũng
phải tính toán kỹ lưỡng hiệu quả của việc tiếp nhận lao động. Như vậy, việc quản lý nhà
nước, sự điều chỉnh của pháp luật luôn luôn phải bám sát đặc điểm này để mục tiêu kinh
tế luôn là mục tiêu trọng tâm của các chính sách pháp luật về hoạt động này.
Thứ ba, hoạt động đưa người lao động ra nước ngoài làm việc là sự kết hợp hài
hòa giữa tầm vĩ mô và tầm vi mô.
Ở tầm vĩ mô, nhà nước ký kết các Hiệp định song phương và đa phương, những
thỏa thuận với các quốc gia dựa trên những nguyên tắc chung của thị trường lao động
quốc tế. Đồng thời, nhà nước ban hành các văn bản pháp lý quy định cụ thể về hoạt động

đưa người lao động ra nước ngoài làm việc. Còn ở tầm vi mô, các doanh nghiệp trực tiếp
tham gia quan hệ pháp luật này căn cứ vào các quy định của pháp luật để tiến hành hoạt
động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài một cách có hiệu quả. Bên cạnh đó,
trong quá trình thực hiện pháp luật, các doanh nghiệp còn phát hiện những điểm bất cập
của pháp luật và kiến nghị để nhà nước có biện pháp điều chỉnh phù hợp.
Trong giai đoạn 1980 – 1990, Việt Nam đưa người lao động đi làm việc ở nước
ngoài chủ yếu dựa trên các Hiệp định song phương trong đó quy định khá chi tiết về điều
kiện tiền lương, ăn ở, đi lại và bảo vệ quyền lợi của người lao động. Về cơ bản, nhà nước
vưa thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hợp tác lao động, vưa trực tiếp quản lý lao
động làm việc ở nước ngoài.
Hiện nay, trong cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế thì hầu như toàn bộ hoạt
động đưa người lao động ra nước ngoài làm việc đều do các tổ chức, doanh nghiệp có
chức năng thực hiện theo quy định của pháp luật. Các tổ chức, doanh nghiệp hoàn toàn
tự chịu trách nhiệm trong toàn bộ quá trình tư khâu tuyển chọn, đưa đi, quản lý người lao
động cũng như hiệu quả kinh tế trong hoạt động của mình.
Thứ tư, hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài phải đảm bảo
được lợi ích của cả 3 bên: Nhà nước - Người lao động - Doanh nghiệp đưa đi.
Trong hoạt động này, lợi ích kinh tế của Nhà nước là khoản ngoại tệ mà người lao
động ở nước ngoài gửi về, là khoản thu tư thuế thu nhập của họ. Lợi ích của tổ chức,


-8-

doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này là các khoản thu tư các loại phí dịch vụ. Còn
lợi ích của người lao động là có công ăn việc làm, thu nhập chắc chắn sẽ cao hơn nhiều
so với ở trong nước. Xuất phát tư lợi ích, các doanh nghiệp rất dễ vi phạm quy định của
Nhà nước trong việc thu các loại phí dịch vụ, đóng thêm các khoản tiền ngoài quy định
của pháp luật. Ngược lại, vì chạy theo lợi ích, mong muốn nhanh chóng thu hồi những
khoản chi phí đã bỏ ra để được đi làm việc ở nước ngoài, nhiều người lao động đã vi
phạm hợp đồng (như bỏ trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp, vi phạm pháp luật nước sở

tại…). Do đó, các chế độ, chính sách pháp luật về đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngoài khi ban hành phải được xem xét trên mọi khía cạnh, phải được tính toán sao
cho đảm bảo sự hài hoà lợi ích của các bên, đặc biệt quan tâm tới lợi ích của người lao
động.
Thứ năm, hoạt động đưa người lao động ra nước ngoài làm việc chịu sự điều chỉnh
của nhiều loại quy phạm pháp luật.
Đây cũng là một loại quan hệ phát sinh trong lĩnh vực lao động, vì vậy nó được
pháp luật lao động điều chỉnh một cách thống nhất. Bên cạnh đó, hoạt động này còn chịu
sự điều chỉnh của luật dân sự (về hợp đồng, bảo lãnh, tiền ký quỹ,...), luật hành chính (về
vấn đề xuất, nhập cảnh, xử lý vi phạm hành chính), luật hình sự (đối với các vi phạm
hình sự), luật tố tụng dân sự (đối với vấn đề giải quyết tranh chấp),...
Quan hệ này còn chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật quốc tế như các
Hiệp định ký kết giữa Chính phủ với các nước, các quy phạm pháp luật quốc gia mà
người lao động đến làm việc. Đôi khi, không tránh khỏi tình trạng xung đột pháp luật. Vì
vậy, trong quá trình xây dựng các chính sách, pháp luật điều chỉnh hoạt động đưa người
lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần có sự thống nhất giữa các văn bản pháp
luật trong nước với nhau và giữa pháp luật trong nước với pháp luật và thông lệ quốc tế.
1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật Việt Nam đưa người lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
1.2.1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng điều chỉnh của pháp luật Việt Nam đối với
hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
Xuất phát tư tính chất phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động đưa người lao
động đi làm việc ở nước ngoài có thể thấy rõ sự cần thiết phải có pháp luật điều chỉnh
các vấn đề phát sinh trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, do pháp luật quốc tế và pháp luật của


-9-

quốc gia tiếp nhận lao động đã có sự điều chỉnh đối với những vấn đề về quyền và nghĩa
vụ của người lao động Việt Nam ở nước ngoài nên cần xác định rõ phạm vi điều chỉnh

và đối tượng điều chỉnh của pháp luật Việt Nam đối với những vấn đề phát sinh tư hoạt
động đưa lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc.
Cụ thể là, nếu Việt Nam và quốc gia tiếp nhận lao động Việt Nam đã có những
hiệp định tương trợ tư pháp quy định chi tiết, cụ thể về quyền và nghĩa vụ của 3 bên
(người lao động, tổ chức dịch vụ lao động và người sử dụng lao động) trong quá trình
tìm kiếm - đưa lao động đi làm việc - tiếp nhận lao động - thanh lý hợp đồng thì luật Việt
Nam chỉ đưa ra những vấn đề chung về nguyên tắc áp dụng pháp luật quốc tế và việc
thanh tra, xử lý vi phạm đối với những trường hợp vi phạm các cam kết giữa hai Chính
phủ.
Tóm lại, pháp luật Việt Nam về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài chỉ điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp, tổ chức Việt Nam đưa người lao
động đi làm việc ở nước ngoài (bên A) và người lao động Việt Nam (bên B) đối với các
vấn đề về lao động và giải quyết tranh chấp (nếu có) trước khi người lao động ra nước
ngoài làm việc và sau khi người lao động về nước. Những vấn đề này bao gồm điều kiện
gia nhập thị trường, hoạt động tìm kiếm thị trường, tuyển dụng lao động của bên A, trách
nhiệm của bên A và bên B trong việc giáo dục định hướng cho bên B để đáp ứng yêu cầu
của bên nước ngoài tiếp nhận lao động (bên C), quyền và nghĩa vụ của hai bên trong
việc ký kết, thực hiện và thanh lý hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước
ngoài, việc xử lý vi phạm và việc giải quyết tranh chấp giữa hai bên (nếu có). Ngoài ra,
có thể điều chỉnh một phần quan hệ Hợp đồng cung ứng lao động giữa bên A và bên C
sao cho phù hợp với những nguyên tắc của pháp luật Việt Nam trong trường hợp không
có Điều ước quốc tế điều chỉnh quan hệ giữa hai bên. Còn mối quan hệ giữa người lao
động Việt Nam với bên nước ngoài tiếp nhận lao động diễn ra ở nước ngoài và hoàn toàn
chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước ngoài hoặc các Điều ước quốc tế ký kết giữa
Chính phủ Việt Nam với các quốc gia tiếp nhận lao động. Những vấn đề khác liên quan
đến lĩnh vực này như: việc thành lập của các doanh nghiệp đưa lao động đi nước ngoài,
tiến hành các thủ tục để người lao động xuất cảnh, nhập cảnh, việc xử lý vi phạm hình sự
đối với các chủ thể vi phạm pháp luật trong quá trình đưa người lao động đi làm việc ở



- 10 -

nước ngoài... sẽ không được pháp luật Việt Nam (pháp luật lao động) về đưa người lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trực tiếp điều chỉnh.
1.2.2. Những nội dung cơ bản cần được điều chỉnh bởi pháp luật Việt Nam trong quá
trình đưa người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc theo hợp đồng
Trên cơ sở việc xác định và phân biệt tương đối rõ nét về phạm vi và đối tượng
điều chỉnh của pháp luật Việt Nam về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng lao động như đã nêu ở trên, có thể thấy trong lĩnh vực này, pháp
luật lao động Việt Nam cần điều chỉnh những vấn đề sau: i) Các hình thức đưa lao động
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài; ii) Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, doanh nghiệp
đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài (bên A); iii) Quyền và nghĩa vụ của người lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài (bên B); iv) Vấn đề thanh tra và xử lý vi phạm
pháp luật Việt Nam về đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài; v) Vấn đề giải
quyết tranh chấp trong hoạt động đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài khi
liên quan đến các vấn đề (i); (ii); (iii). Những vấn đề cụ thể nổi lên trong thời gian qua
và được đưa tin khá nhiều lần trên các phương tiện thông tin đại chúng như: bảo vệ
quyền lợi của người lao động Việt Nam ở nước ngoài, trách nhiệm của các doanh nghiệp
dịch vụ khi “đem con bỏ chợ”; xử lý các doanh nghiệp dịch vụ chạy theo lợi nhuận,
không bảo vệ người lao động... thực chất là những trường hợp cụ thể phát sinh tư năm
vấn đề trên. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu khách quan đối với việc điều chỉnh bằng pháp
luật lao động Việt Nam, pháp luật lao động Việt Nam về đưa người lao động Việt Nam ra
nước ngoài làm việc theo hợp đồng cần có những nội dung cơ bản sau đây:
-

Các hình thức đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng và thủ tục tiến hành các hình thức đó.

-


Quyền và nghĩa vụ của chủ thể đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài (trong luận văn này gọi là bên A)

-

Quyền và nghĩa vụ của người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo
hợp đồng (trong luận văn này gọi là bên B).

-

Vấn đề xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam trong quá trình
đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.

-

Việc giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đưa lao động Việt Nam ra nước ngoài
làm việc.


- 11 -

Các tranh chấp trong lĩnh vực này có thể phát sinh giữa bên A và bên B, giữa bên A
và bên C, giữa bên B và bên C ở bất cứ giai đoạn nào của quá trình đưa người lao động
đi làm việc ở nước ngoài. Tuy nhiên, trong phạm vi điều chỉnh của pháp luật Việt Nam
thì chỉ giải quyết các tranh chấp giữa bên A và bên B, giữa bên A và bên C (trư trường
hợp điều ước quốc tế có những quy định khác) bởi tranh chấp trong quan hệ lao động
giữa bên A và bên C được điều chỉnh bởi pháp luật của nước tiếp nhận lao động. Các
quy định của pháp luật về việc giải quyết tranh chấp cần xác định rõ các vấn đề sau đây
để làm cơ sở cho việc giải quyết tranh chấp giữa các bên:
i)


Các nguyên tắc của việc giải quyết tranh chấp;

ii)

Các dạng tranh chấp và phân loại tranh chấp, trên cơ sở đó quy định thủ tục tố
tụng được áp dụng để giải quyết tranh chấp.

iii)

Cơ chế giải quyết tranh chấp như cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp, trình tự thủ tục giải quyết,...

Các quy định này phải phù hợp với quy định khác của hệ thống pháp luật như Bộ luật
tố tụng dân sự, các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia.
Tiểu kết chương 1
Có thể nói hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là hoạt
động mang lại lợi ích kinh tế cho bản thân người lao động, doanh nghiệp đưa đi và nhà
nước. Đối với người lao động, việc ra nước ngoài làm việc góp phần làm tăng thu nhập
của bản thân người lao động và gia đình họ. Khi ra nước ngoài làm việc, ng ười lao động
thường có có thu nhập cao hơn so với làm việc trong nước thông. Nhờ có nguồn thu
nhập đó, người lao động gửi khoản tiền đó về cho gia đình để tiết kiệm.
Việc đưa người lao động ra nước ngoài làm việc còn góp phần trực tiếp nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực. Khi đi làm việc ở nước ngoài, người lao động được trang bị
một khối lượng kiến thức học vấn và ngoại ngữ cơ bản. Khi được làm việc trong môi
trường công nghiệp hiện đại, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, trình độ tay nghề và kỹ
năng nghề nghiệp của họ ngày càng được nâng cao. Sau một thời gian làm việc ở nước
ngoài, trình độ tay nghề, ý thức kỷ luật, phong cách làm việc, trình độ ngoại ngữ và vốn
hiểu biết của người lao động được nâng cao vượt bậc.



- 12 -

CHƯƠNG 2
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ ĐƯA NGƯỜI LAO ĐỘNG VIỆT
NAM ĐI LÀM VIỆC Ở NƯỚC NGOÀI THEO HỢP ĐỒNG VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN
2.1. Nội dung của pháp luật Việt Nam hiện hành về đưa người lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
Như đã đề cập ở chương 1, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài là quy trình tổng thể gồm nhiều mối quan hệ đan xen với nhau, ảnh
hưởng đến lợi ích của nhiều chủ thể và chịu sự điều chỉnh của nhiều ngành luật trong
một quốc gia, của pháp luật các quốc gia có liên quan và pháp luật quốc tế. Do đó, trong
phạm vi chuyên đề nghiên cứu này, tác giả chỉ tập trung đề cập đến những vấn đề của
hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài được điều chỉnh bởi
các quy phạm pháp luật lao động hiện hành. Cụ thể là các vấn đề cơ bản sau đây: i) Các
hình thức đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài được pháp luật Việt
Nam thưa nhận và thủ tục tiến hành các hình thức đó; ii) Quyền và nghĩa vụ của chủ thể
đủ thẩm quyền đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo luật Việt Nam,
trong đó đặc biệt nhấn mạnh các nghĩa vụ đối với người lao động Việt Nam; iii) Quyền
và nghĩa vụ của người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, tuy nhiên những
quyền và nghĩa vụ gắn với quan hệ lao động với chủ sử dụng lao động do được điều
chỉnh chủ yếu bởi pháp luật của quốc gia tiếp nhận lao động nên được đề cập không rõ
nét lắm trong quy định của pháp luật Việt Nam (là nước đưa lao động đi làm việc); iv)
Vấn đề xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật Việt Nam trong việc đưa lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài; v) Giải quyết tranh chấp trong việc đưa lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài.
Xét một cách toàn diện, các vấn đề đã được pháp luật lao động Việt Nam điều
chỉnh trên đây chưa phải là tất cả các vấn đề có liên quan hoặc trực tiếp phát sinh tư hoạt
động đưa lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc. Nhưng do còn chịu sự điều chỉnh

của pháp luật nước tiếp nhận lao động Việt Nam và các công ước, điều ước quốc tế về
lao động nước ngoài (thuật ngữ chung trong các văn bản pháp luật quốc tế gọi là “lao
động di trú”) nên sẽ được đề cập cụ thể ở những chuyên đề nghiên cứu khác.


- 13 -

Để có căn cứ đánh giá một cách tương đối khách quan về thực trạng pháp luật
lao động Việt Nam hiện hành về đưa người lao động ra nước ngoài làm việc, những ưu
điểm và hạn chế cần khắc phục của hệ thống pháp luật hiện hành, trước hết cần phân tích
và tìm hiểu về nội dung cơ bản của tưng nhóm quy định cụ thể như đã xác định ở phần
trên.
2.1.1. Các hình thức người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo pháp luật hiện
hành
Thứ nhất, người lao động đi làm việc ở nước ngoài thông qua hợp đồng ký kết với
doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài (tạm gọi
là bên A).
Đây là hình thức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài phổ biến nhất hiện
nay. Ở hình thức này có sự tham gia của các doanh nghiệp dịch vụ (tạm gọi là bên A)
làm trung gian giữa người lao động Việt Nam (tạm gọi là bên B) với bên tiếp nhận lao
động của nước ngoài (sau đây chúng tôi tạm gọi là bên C). Để được cấp Giấy phép hoạt
động trong lĩnh vực đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, bên A phải đáp ứng
các điều kiện cần thiết theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh các điều kiện thông thường mà bên B khi thành lập doanh nghiệp dịch
vụ đưa lao động đi nước ngoài phải có theo quy định của Luật doanh nghiệp, bên A còn
phải có thêm một số điều kiện khác như: phải có mức vốn pháp định là 5 tỉ đồng, ký quỹ
tại Ngân hàng 1 tỉ đồng; có đề án hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước
ngoài; người lãnh đạo điều hành hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài
phải có trình độ tư đại học trở lên, có ít nhất ba năm kinh nghiệm trong lĩnh vực đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài hoặc hoạt động trong lĩnh vực hợp tác và quan

hệ quốc tế; có bộ máy chuyên trách để bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động,
trong đó phải bao gồm cán bộ về lĩnh vực pháp luật, ngoại ngữ…
Hoạt động của bên A là hoạt động kinh doanh nhằm mang lại lợi nhuận cho doanh
nghiệp. Trong hoạt động dịch vụ đưa người đi làm việc ở nước ngoài, bên A có vai trò
trung gian, là cầu nối giữa doanh nghiệp nước ngoài có nhu cầu tiếp nhận lao động (bên
C) với người lao động Việt Nam (bên B). Trước hết, bên A ký kết với bên C hợp đồng
cung ứng lao động. Hợp đồng cung ứng lao động phải có những nội dung phù hợp với
quy định của pháp luật Việt Nam, pháp luật nước sở tại và phải đăng ký với Bộ Lao


- 14 -

động – Thương binh và Xã hội theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở đó, bên A sẽ tiến
hành tìm kiếm người lao động, sau đó ký kết với người lao động hợp đồng đưa người
lao động đi làm việc ở nước ngoài (là văn bản ký giữa bên A và bên B để đưa bên B ra
nước ngoài làm việc theo hợp đồng lao động ký giữa bên B và bên C). Đây là hai văn
bản này có ý nghĩa pháp lý quan trọng vì nó là cơ sở đảm bảo quyền lợi và ràng buộc
trách nhiệm của các bên, nhất là bảo vệ quyền lợi của người lao động (bên B) khi xảy ra
tranh chấp giữa các bên. Do đó, pháp luật Việt Nam quy định khá chi tiết về các điều
khoản bắt buộc trong hai hợp đồng này. Đây cũng được đánh giá là biện pháp hữu hiệu
để góp phần bảo vệ quyền lợi của người lao động Việt Nam trước, trong và sau khi họ ra
nước ngoài làm việc theo hợp đồng.
Để có thể ký kết được hợp đồng cung ứng lao động với bên nước ngoài, bên A
phải đầu tư tìm kiếm nguồn lao động, đào tạo – giáo dục định hướng nghề nghiệp, trang
bị cho người lao động những kiến thức cơ bản về văn hóa, xã hội, pháp luật, phong tục,
tập quán của nước tiếp nhận lao động. Thực hiện tốt những công việc này trong giai
đoạn chuẩn bị tại Việt Nam sẽ góp phần mang lại lợi ích cho các bên khi tham gia quan
hệ đưa người lao động ra nước ngoài làm việc. Về phía người lao động, khi được trang
bị đầy đủ các kiến thức và kỹ năng cấn thiết, họ sẽ giảm đi sự bỡ ngỡ, xa lạ khi phải
sống và làm việc trong môi trường mới. Phía tiếp nhận lao động cũng có thể nắm được

thông tin về người lao động, quản lý dễ dàng hơn, tránh được những tranh chấp có thể
xảy ra. Phía doanh nghiệp đưa đi sẽ nâng cao được uy tín của mình, giảm thiểu được
những tranh chấp với người lao động và thu được nhiều lợi nhuận tư hoạt động cung ứng
lao động.
Thứ hai, người lao động đi làm việc ở nước ngoài cho doanh nghiệp Việt Nam
trúng thầu, nhận thầu hoặc tổ chức, cá nhân Việt Nam đầu tư ra nước ngoài đưa người
lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Chủ thể tham gia trong quan hệ này gồm doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu hoặc
tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài (gọi chung là doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài)
và người lao động Việt Nam làm việc cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân này. Trong
thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài bên cạnh việc sử dụng lao
động tại chỗ là người nước ngoài còn có nhu cầu sử dụng lao động là người Việt Nam (là
các chuyên gia hoặc người lao động có trình độ tay nghề cao theo doanh nghiệp ra n ước


- 15 -

ngoài làm việc). Họ có thể trực tiếp tuyển dụng lao động hoặc ủy quyền cho doanh
nghiệp cung ứng lao động tuyển cho mình. Người lao động tham gia ký kết hợp đồng lao
động phải đáp ứng đủ điều kiện về sức khỏe, trình độ và các tiêu chuẩn, điều kiện khác
mà doanh nghiệp sử dụng lao động đưa ra.
Như vậy, khác với hình thức trên, ở hình thức này, người sử dụng lao động và
người lao động đều mang quốc tịch Việt Nam, chỉ có hợp đồng lao động được thực hiện
ở nước ngoài. Doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài trực tiếp quản
lý, điều hành lao động và bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động.
Do vậy, quan hệ lao động tương đối ổn định, ít phát sinh tranh chấp do không có nhiều
bất đồng về ngôn ngữ, phong cách và lối sống. Tuy nhiên, do hợp đồng lao động được
thực hiện ở nước ngoài ngoài việc tuân thủ pháp luật lao động Việt Nam, các bên còn
phải thực hiện đúng các quy định của pháp luật lao động nước sở tại.
Thứ ba, người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực tập nâng

cao tay nghề.
Thực chất đây là hình thức đưa người lao động đi học nghề ở nước ngoài dưới
dạng tu nghiệp sinh, thực tập sinh hoặc đơn giản là học nghề để nâng cao khả n ăng làm
việc.
Doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực
tập nâng cao tay nghề (tạm gọi là bên A) phải ký kết hợp đồng nhận lao động thực tập
với cơ sở tiếp nhận thực tập ở nước ngoài (tạm gọi là bên C) và ký hợp đồng đưa người
lao động đi thực tập ở nước ngoài với người lao động (tạm gọi là bên B). Kết thúc giai
đoạn học nghề, người lao động có thể làm việc tại chính doanh nghiệp nước ngoài đã
dạy nghề cho họ. Việc học nghề có thể có hoặc không có tiền trợ cấp sinh hoạt, nhưng
luôn gắn với nghĩa vụ lao động sau quá trình học nghề cho nơi đã bỏ chi phí đào tạo
nghề cho người lao động. Bên A phải đảm bảo các điều kiện đưa đi, điều kiện làm việc,
sinh hoạt, phải quản lý người lao động và bảo vệ các quyền lợi hợp pháp cho người lao
động, đồng thời phải phối hợp chặt chẽ với bên C để giải quyết kịp thời các rủi ro cho
người lao động trong quá trình thực tập ở nước ngoài.
Hình thức này hiện nay đang được khuyến khích nhằm giúp cho người lao Việt
Nam nâng cao trình độ tay nghề, học hỏi kinh nghiệm quản lý của quốc tế, tạo điều kiện
để nước ta thực hiện tốt công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa.


- 16 -

Thứ tư, người lao động đi làm việc ở nước ngoài thông qua các tổ chức sự nghiệp
của nhà nước.
Đây là trường hợp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo các thỏa
thuận hoặc điều ước quốc tế giữa Việt Nam với các quốc gia khác. Đây là hoạt động phi
lợi nhuận, mang tính chất hợp tác quốc tế, tương trợ giữa các nước trong lĩnh vực lao
động và đào tạo nghề, do vậy chỉ có những tổ chức sự nghiệp thuộc Bộ, cơ quan ngang
Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ được Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ
trưởng cơ quan thuộc Chính phủ giao nhiệm vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước

ngoài mới được phép thực hiện.
Về cơ bản, thủ tục tiến hành đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài giống với hình thức thứ nhất. Nhưng điểm khác biệt là điều kiện đối với chủ thể
đưa lao động ra nước ngoài (bên A) trong hoạt động này.
Thứ năm, người lao động đi làm việc ở nước ngoài thông qua hợp đồng cá nhân
giữa bản thân người lao động và người sử dụng lao động ở nước ngoài.
Đây là hình thức người lao động trực tiếp ký kết hợp đồng lao động với người sử
dụng lao động nước ngoài không thông qua các tổ chức trung gian làm dịch vụ. Hợp
đồng này được gọi là hợp đồng cá nhân. Để có thể ký kết được hợp đồng cá nhân, người
lao động phải tự tìm hiểu về người sử dụng lao động, tự trang bị cho mình để đáp ứng
được những yêu cầu của người sử dụng lao động nước ngoài về trình độ nghề nghiệp,
ngoại ngữ và các kiến thức, kỹ năng cần thiết khác. Việc ký kết hợp đồng cá nhân do hai
bên tự thỏa thuận trực tiếp với nhau nên không mất khoản chi phí môi giới, tiền dịch vụ
và những khoản tiền khác như chi phí đào tạo, tiền đặt cọc. Sau khi ký kết, người lao
động phải tiến hành đăng ký hợp đồng cá nhân với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Hình thức này còn khá mới ở Việt Nam vì chỉ những người lao động có trình độ
hiểu biết cao, ngoại ngữ tốt, năng động, nhạy bén mới có khả năng tự tìm hiểu và thỏa
thuận, ký kết hợp đồng với đối tác nước ngoài. Trong khi đó, đa phần người lao động ở
nước ta, trình độ hiểu biết về các vấn đề kinh tế, xã hội, pháp luật còn nhiều hạn chế.
2.1.2. Quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp, tổ chức đưa người lao động đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sau đây tạm gọi là bên A)
Các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước
ngoài, các doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu công trình, dự án hoặc đầu tư ở nước


- 17 -

ngoài, doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực
tập nâng cao tay nghề có các quyền và nghĩa vụ cơ bản sau đây:
- Thông báo công khai, cung cấp đầy đủ các thông tin về số lượng, tiêu chuẩn,

điều kiện tuyển chọn, quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động đi làm việc ở nước
ngoài.
- Tổ chức bồi dưỡng những kiến thức cần thiết, giáo dục định hướng cho người
lao động trước khi ra nước ngoài làm việc.
- Ký kết hợp đồng với người lao động và các hợp đồng có liên quan đến việc đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài, tổ chức đưa người lao động đi và về nước
- Thanh lý hợp đồng hoặc đơn phương thanh lý hợp đồng đã ký theo quy định của
pháp luật.
- Tổ chức quản lý và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động trong
thời gian làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài.
- Bồi thường hoặc yêu cầu đối tác nước ngoài bồi thường cho người lao động về
những thiệt hại do doanh nghiệp gây ra hoặc đối tác nước ngoài gây ra theo quy định của
pháp luật Việt Nam và pháp luật nước sở tại.
- Yêu cầu người lao động (hoặc người bảo lãnh) bồi thường những thiệt hại do
người lao động gây ra theo quy định của pháp luật.
- Khiếu nại, khởi kiện về các quyết định hoặc hành vi vi phạm pháp luật trong
hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
- Báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền về tình hình đưa người lao động đi
làm việc ở nước ngoài theo quy định của pháp luật.
2.1.3. Quyền và nghĩa vụ của người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
(sau đây tạm gọi là bên B)
Người lao động đi làm việc ở nước ngoài có các quyền và nghĩa vụ cơ bản sau đây:
- Được cung cấp các thông tin về chính sách, pháp luật của Việt Nam và chính
sách, pháp luật có liên quan, phong tục, tập quán của nước tiếp nhận lao động.
- Được cung cấp thông tin về điều kiện tuyển dụng, quyền và nghĩa vụ của các bên
khi đi làm việc ở nước ngoài.
- Được đào tạo, giáo dục định hướng trước khi đi làm việc ở nước ngoài.


- 18 -


- Chủ động học nghề, học ngoại ngữ, tìm hiểu các quy định của pháp luật có liên
quan va tham gia khóa bồi bưỡng kiến thức cần thiết trước khi đi làm việc ở nước ngoài.
- Ký kết và thực hiện đúng hợp đồng.
- Được bảo đảm các quyền lợi trong hợp đồng đã ký theo quy định của pháp luật
Việt Nam và pháp luật nước sở tại.
- Được bảo hộ về lãnh sự và tư pháp.
- Giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, tôn trọng phong
tục, tập quán của nước tiếp nhận lao động, phát huy tình thần đoàn kết.
- Tuân thủ pháp luật Việt Nam, pháp luật nước tiếp nhận lao động.
- Khiếu nại, tố cáo hoặc khởi kiện về những hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt
động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
- Đóng góp và hưởng các quyền lợi tư Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước theo quy
định của pháp luật.
- Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng đã ký.
- Được bồi thường thiệt hại trong trường hợp doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài vi phạm hợp đồng.
Ngoài ra, người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo các hình thức khác nhau có
thêm các quyền và nghĩa vụ cụ thể quy định tại các điều 46, 47, 48, 49 và 53 của Luật
người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
2.1.4. Xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đưa người lao động đi làm việc ở nước
ngoài
Đối với doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, nếu vi phạm
các quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động này thì bị xử phạt hành chính theo quy
định của Nghị định số 144/2007/NĐ-CP ngày 10/9/2007 của Chính phủ về xử phạt vi
phạm hành chính trong hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài . Doanh nghiệp có thể bị xử phạt chính cảnh cáo hoặc phạt tiền với mức phạt tối
đa cho một hành vi vi phạm là 40.000.000 đồng.
Ngoài ra, tùy theo tính chất và mức độ vi phạm, doanh nghiệp còn có thể bị áp
dụng các hình thức xử phạt bổ sung: Thu hồi Giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao

động đi làm việc ở nước ngoài; Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm
hành chính.


- 19 -

Doanh nghiệp còn có thể bị áp dụng một trong các biện pháp khắc phục hậu quả: i)
Đình chỉ hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài tư 03 tháng đến 12
tháng; ii) Tạm đình chỉ thực hiện Hợp đồng cung ứng lao động tư 1 tháng đến 6 tháng;
iii) Đình chỉ thực hiện Hợp đồng cung ứng lao động; iv) Buộc đưa người lao động về
nước theo yêu cầu của nước tiếp nhận người lao động hoặc của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền của Việt Nam; Buộc bồi thường thiệt hại và chịu mọi chi phí phát sinh do
hành vi vi phạm hành chính gây ra; Buộc đóng góp đủ tiền vào Quỹ hỗ trợ việc làm
ngoài nước theo quy định hiện hành.
Người lao động và các chủ thể có liên quan khác nếu vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực này thì có thể bị xử lý vi phạm hành chính theo Nghị định số 144/2007 nói trên với
các hình thức: cảnh cáo, phạt tiền đến 5.000.000 đồng tùy theo tính chất của hành vi vi
phạm, buộc về nước, buộc bồi thương thiệt hại và chịu các chi phí phát sinh do hành vi
vi phạm, cấm đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài trong thời hạn tư 2 năm đến 5 năm
tùy tưng hành vi vi phạm.
Bên cạnh việc xử lý vi phạm hành chính, các cá nhân có hành vi tổ chức cho
người lao động ở lại nước ngoài trái phép, cưỡng ép người lao động ở lại nước ngoài trái
phép, người lao động trốn ở lại nước ngoài trái phép có thể bị truy cứu trách nhiệm hình
sự theo quy định tại Thông tư liên tịch số 09/2006/TTLT/BLĐTBXH-BCA-VKSNDTCTANDTC ngày 04/8/2006 giữa Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, Bộ Công an,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân tối cao về hướng dẫn truy cứu trách nhiệm
hình sự người có hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực xuất khẩu lao động.
2.1.5. Giải quyết tranh chấp trong hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước
ngoài.
Tranh chấp giữa người lao động và doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa người lao
động đi làm việc ở nước ngoài được giải quyết trên cơ sở hợp đồng ký giữa các bên và

quy định của pháp luật Việt Nam.
Tranh chấp giữa người lao động và người sử dụng lao động nước ngoài được giải
quyết trên cơ sở hợp đồng đã ký giữa các bên và quy định pháp luật của nước tiếp nhận
người lao động, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, thoả thuận quốc tế mà Việt
Nam đã ký với bên nước ngoài.


- 20 -

Tranh chấp giữa doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngoài với người sử dụng lao động hoặc bên môi giới nước ngoài được giải quyết
trên cơ sở hợp đồng đã ký giữa các bên và quy định của pháp luật Việt Nam, pháp luật
của nước tiếp nhận người lao động, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, thoả
thuận quốc tế mà Việt Nam đã ký với bên nước ngoài.
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật Việt Nam hiện hành về đưa người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
Tư năm 2007 đến nay, với sự ra của Luật đưa người lao động Việt Nam đi làm việc
ở nước ngoài, có hiệu lực tư ngày 01/7/2007 và hàng loạt các văn bản quy phạm pháp
luật điều chỉnh hoạt động này, nhà nước Việt Nam đã thực sự tạo ra hành lang pháp lý
khá thông thoáng thúc đẩy hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài phát triển, giải quyết tốt vấn đề việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Nếu
trong giai đoan tư 2001 – 2005, bình quân mỗi năm đưa được khoảng 58.000 lao động đi
làm việc ở nước ngoài thì con số này trong giai đoạn tư 2007 đến nay là hơn 82.000
người, chiếm khoảng 5% tổng số lao động được giải quyết việc làm. Hiện nay, Việt Nam
có khoảng 500.000 lao động đang làm việc ở trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ với hơn
30 nhóm ngành, nghề khác nhau. Hàng năm, số lao động này gửi về nước khoảng 1,6 - 2
tỷ USD. Đến cuối năm 2009 đã có 164 doanh nghiệp được cấp giấy phép hoạt động dịch
vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.

Tiểu kết chương 2

Để hoạt động XKLĐ thực sự là kênh giúp người dân giảm nghèo bền vững cần
phải sớm củng cố những vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, rà soát lại toàn bộ hệ thống chính sách pháp luật, tập trung vào một
thông tư hướng dẫn đầy đủ các điều kiện để người lao động và doanh nghiệp chủ
động làm theo.
Thứ hai, tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý nhưng với tinh thần tạo cơ hội cho
DN phát triển chứ không phải tạo áp lực cho doanh nghiệp.
Thứ ba, Bộ nên sớm tổng kết 10 năm thực hiện luật xem gì còn vướng mắc, gây
khó khăn cho doanh nghiệp để tháo gỡ.


- 21 -

Thứ tư, khi tham gia xuất khẩu lao động, phía doanh nghiệp và người lao động có
đóng quỹ, ngoài hỗ trợ cho người lao động khi mất việc, cơ quan quản lý nhà nước
nên dùng một phần quỹ đi khai thác thị trường giúp doanh nghiệp.
Được biết, Luật Người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài sẽ được sửa đổi
theo hướng: Quy định cấp giấy phép có thời hạn 3-5 năm, hết thời hạn đó mà doanh
nghiệp không đáp ứng đủ yêu cầu sẽ không được cấp lại giấy phép, cho phép tạo
nguồn lao động để chuẩn bị cung ứng cho hợp đồng do những quy định về tuyển
chọn lao động như hiện nay có thể khiến doanh nghiệp bỏ lỡ hợp đồng do không có
nguồn lao động sẵn có để đối tác tuyển.


- 22 -

CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ ĐƯA NGƯỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM ĐI LÀM VIỆC
Ở NƯỚC NGOÀI THEO HỢP ĐỒNG

3.1. Những yêu cầu cơ bản đối với việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về đưa người
lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
Thứ nhất, việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về đưa người lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài phải thể chế hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với hoạt
động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Khi xây dựng và ban hành pháp luật, một trong những nguyên tắc quan trọng là
phải thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực văn bản đó
điều chỉnh. Đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước là kim chỉ nam xuyên suốt
trong quá trình xây dựng pháp luật, định hướng cho người soạn thảo. Chủ trương của
Đảng và Nhà nước đối với lĩnh vực đưa người Việt Nam đi làm việc ở nươc ngoài được
thể hiện ở nhiều văn bản, nhưng rõ nét và tập trung nhất là ở Chỉ thị số 41-CT/TW ngày
22/9/1998 của Bộ Chính trị. Ngay trong phần mở đầu của Chỉ thị, hoạt động xuất khẩu
lao động đã được coi là “một hoạt động kinh tế - xã hội góp phần phát triển nguồn nhân
lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động,
tăng thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác giữa các giữa nước ta với
các nước”. Do vậy, chủ trương của Đảng là chúng ta phải “mở rộng và đa dạng hóa hình
thức, thị trường (...), phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước ”, đồng
thời phải “phát triển và đào tạo nghề gắn với nhu cầu của thị trường lao động, đào tạo
ngoại ngữ, giáo dục ý thức pháp luật... ” cho người lao động trước khi đi làm việc ở
nước ngoài. Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đã
được xây dựng dựa trên những quan điểm, chủ trương nêu trên của Đảng, trong quá trình
sửa đổi, hoàn thiện pháp luật vẫn phải phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước.
Thứ hai, pháp luật về đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài phải tạo hành
lang pháp lý minh bạch, công khai, làm rõ trách nhiệm, quyền hạn của các chủ thể tham
gia các quan hệ trong lĩnh vực này.
Pháp luật là một trong những công cụ hữu hiệu để Nhà nước quản lý xã hội. Pháp
luật có vai trò quan trọng vưa điều chỉnh các quan hệ xã hội, giữ cho các quan hệ đó ở


- 23 -


trong vòng trật tự, ổn định, vưa hướng dẫn hành vi xử sự của các chủ thể tham gia quan
hệ xã hội, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động trong xã hội đạt hiệu quả
cao. Thực tiễn đã khẳng định sự quản lý của nhà nước đối với xã hội chỉ có thể phát huy
đầy đủ, hiệu quả khi được xác lập dưới một hình thức pháp luật nhất định và được bảo
đảm thực hiện bằng một cơ chế pháp luật thích hợp. Do vậy, trong quá trình xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cần
xác định rõ ràng về các chủ thể tham gia, điều kiện tham gia quan hệ, hình thức, trình tự,
thủ tục đưa người lao động ra nước ngoài làm việc, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
tham gia quan hệ, đồng thời cũng phải đưa ra những chế tài xử lý nghiêm khắc với
những hành vi vi phạm trong lĩnh vực này.
Thứ ba, pháp luật về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài phải
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động Việt Nam.
Khi tham gia các quan hệ pháp luật lao động, người lao động thường là bên yếu thế
và bất lợi hơn về nhiều mặt. Việc xây dựng pháp luật về lao động nói chung và luật về
đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài nói riêng luôn cần quan tâm, quy định cụ
thể về quyền và nghĩa vụ của người lao động cũng như có cơ chế nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho người lao động, nhất là những quy định có liên quan đến sự tham
gia của tổ chức Công đoàn với tư cách là đại diện bảo vệ quyền lợi của người lao động.
Thứ tư, pháp luật về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài phải
phù hợp với thực tiễn và đảm bảo sự thống nhất với các văn bản pháp luật khác.
Pháp luật chỉ có thể phát huy hiệu quả trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội nếu
nó phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn và đồng bộ trong toàn hệ thống pháp luật. Pháp luật
về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài được xây dựng trên cơ sở kế
thưa các văn bản pháp luật điều chỉnh về hoạt động xuất khẩu lao động trước đây và
thực tế của hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài của nhà nước trong
thời gian 30 năm qua. Việc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này cần phải dựa vào
điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của đất nước trong giai đoạn hiện nay và những năm
tiếp theo, đồng thời phải phù hợp với xu hướng hội nhập và những yêu cầu của thị
trường lao động quốc tế.



- 24 -

Đồng thời những quy định nhằm hoàn thiện pháp luật về đưa người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài phải đảm bảo sự thống nhất với các văn bản pháp luật
trong nước và các quy định của pháp luật quốc tế.
3.2. Các kiến nghị và giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về đưa
người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
3.2.1. Các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về đưa
người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
Thứ nhất, nên bổ sung các quy định ràng buộc trách nhiệm đào tạo và giáo dục
định hướng đối với người lao động của các doanh nghiệp đưa lao động đi làm việc ở
nước ngoài (tạm gọi là bên A). Nhóm các quy định về vấn đề này bao gồm những vấn đề
cụ thể sau đây:
i)

Trách nhiệm đào tạo và giáo dục định hướng đảm bảo những kiến thức và nhận
thức tối thiểu về ngoại ngữ, pháp luật, tập quán sinh hoạt của nước tiếp nhận lao
động;

ii)

Trách nhiệm đào tạo tay nghề người lao động phù hợp với yêu cầu của đối tác nước
ngoài và có những hiểu biết cần thiết về kỷ luật lao động của doanh nghiệp nơi
người lao động đến làm việc (ví dụ như các thông tin cơ bản trong nội quy lao
động của doanh nghiệp...);

iii)


Có thể quy định những những điều kiện tối thiểu đối với cơ sở, trung tâm đào tạo,
giáo dục định hướng cho người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, tránh
để tình trạng “thả nổi tự do” cho doanh nghiệp tự thuê giáo viên dẫn đến việc
không đảm bảo chất lượng giảng dạy hoặc chỉ đào tạo có tính hình thức, đối phó
với quy định của nhà nước;

iv)

Về lâu dài, nên quy định rõ thẩm quyền kiểm tra sát hạch “đầu ra” đối với người
lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Thẩm quyền đó có thể chỉ giới hạn ở
1 số trung tâm, cơ sở đào tạo tránh tình trạng cấp giấy phép thẩm định tràn lan và
hạn chế tình trang tiêu cực trong thi cử. Cần đặc biệt chú trọng yếu tố này bởi giáo
dục định hướng và đào tạo nghề tốt cho người lao động Việt Nam trước khi ra nước
ngoài thực chất là đã cung cấp cho họ một cái “cần câu” tốt trước khi đưa họ ra
“biển lớn”. Với những kiến thức cơ bản (nếu có) về ngoại ngữ, tay nghề, pháp


- 25 -

luật... người lao động Việt Nam sẽ nâng cao khả năng tự bảo vệ mình khi ra nước
ngoài làm việc theo hình thức hợp đồng.
v)

Trong chiến lược phát triển dài hạn của chính sách giải quyết việc làm và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, các quy định hướng nghiệp và đào tạo nghề cho người
lao động cần phải căn cứ vào nhu cầu thực tế của thị trường lao động trong và
ngoài nước. Đây cũng là một hướng quy định nhằm hỗ trợ gián tiếp cho việc hoàn
thiện pháp luật về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng.
Thứ hai, bổ sung hoặc sửa đổi các quy định liên quan đến trách nhiệm của các chủ


thể có liên quan, đặc biệt là của các doanh nghiệp đưa người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài.
Cụ thể là, cần quy định rõ trách nhiệm của các doanh nghiệp đưa người lao động đi
làm việc ở nước ngoài (tạm gọi là bên A) sau khi ký kết hợp đồng với người lao động để
đi làm việc ở nước ngoài phải đưa người lao động đi trong thời hạn bao lâu, nếu không
thì trách nhiệm của doanh nghiệp và người lao động đối với việc thực hiện hợp đồng đã
ký được xử lý như thế nào để bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người lao động.
Việc xử lý vi phạm trong lĩnh vực đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài
được thực hiện theo Nghị định số 144/2007/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày
10/9/2007. Việc xử lý hình sự được thực hiện theo quy định tại Thông tư
số 09/2006/TTLT/BLĐTBXH-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 04/8/2006 và các quy
định của Bộ luật hình sự.
Tuy nhiên, hiện còn có một số vấn đề chưa được làm rõ như: trách nhiệm của cơ
quan y tế, doanh nghiệp dịch vụ trong việc để người lao động không đủ sức khỏe ra
nước ngoài làm việc dẫn đến kết quả người lao động bị chết ở nước ngoài, trách nhiệm
của các chủ thể có liên quan trong việc để lọt cả một số đối tượng có nhân thân xấu ra
nước ngoài làm việc và vi phạm nghiêm trọng pháp luật nước sở tại,... Do vậy, cần bổ
sung thêm một số vi phạm và có hình thức xử lý phù hợp.
Bên cạnh đó, cần nhanh chóng bổ sung các hành vi vi phạm của bên A dẫn đến ảnh
hưởng đến quyền lợi hợp pháp của bên B trong việc chuẩn bị và ký kết hợp đồng đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Ví dụ như: hành vi cố ý tuyển lao động thông
qua “trung gian, cò mồi”; hành vi đưa ra những điều khoản hợp đồng không rõ ràng hoặc


×