Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Sử dụng công nghệ 4 0 trong giáo dục kỹ năng bảo vệ môi trường và phòng chống thiên tai bài 15 SGK địa lí 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.84 MB, 21 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục 4.0 sẽ được đánh dấu bởi thay đổi lớn trong mục tiêu đào tạo,
chuyển từ truyền thụ kiến thức cho số đông qua trao quyền sáng tạo cho từng cá
nhân. Cách mạng công nghệ 4.0 cũng như con người trong xã hội 4.0 đang đem
đến nhiều thử thách cho giáo dục để đáp ứng được nhu cầu phát triển của mọi
quốc gia. Nền giáo dục ở các nước tiên tiến hiện đang ở 3.0 và đang xây dựng hạ
tầng cũng như cơ chế để chuyển qua 4.0 trong đó có Việt Nam của chúng ta.
Vai trò quan trọng của thầy cô trong giai đoạn này là hướng các em xây
dựng tư cách đạo đức với những giá trị cốt lõi Dũng - Nhân - Trí - Tự, cùng với
phát triển những kỹ năng mềm để học sinh có thể từ đó tự học hỏi suốt đời.
Song song với việc xây dựng kiến thức căn bản về văn hóa, khoa học và
xã hội, trường học là nơi nuôi dưỡng cơ hội để các em khám phá đam mê và
phát triển theo sở thích cá nhân.
Bên cạnh những tác động lớn đối với nền kinh tế thì cách mạng công
nghiệp 4.0 hẳn cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến ngành giáo dục nước ta. Cách
mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi sự đóng góp năng động, tự lập, tự do, tự học, tự
nghiên cứu, tự động viên, nhất là óc sáng tạo của mọi người nhất là đối với học
sinh đang ngối trên ghế nhà trường. Trong cách mạng công nghiệp 4.0, người ta
không nói tới bằng cấp nữa, con người sẽ được đánh giá theo giá trị mà họ mang
tới cho xã hội, bất chấp bằng cấp, bất chấp xuất xứ. Giáo viên tương lai sẽ phải
dạy người học cách tự học, tự tư duy, tự tiến bộ.
Vai trò của giáo viên trong thế kỉ XXI trở nên phức tạp ở một thế giới thay
đổi nhanh chóng, nơi mà tri thức hầu như vô tận. Dạy học phân hóa là quan
điểm phải được quan tâm đặc biệt. Người thầy phải quan tâm đến từng người
học, nhu cầu của từng người học trong lớp rất khác nhau và không đồng nhất.
Nhiệm vụ chính của giáo viên là tạo môi trường học tập, tạo điều kiện để người
học có cơ hội học tập theo phương pháp tích cực và sáng tạo. Sự biến đổi lớn về
vai trò người dạy, truyền thụ kiến thức theo cách truyền thống sang vai trò xúc
tác và điều phối, họ phải chuyển sang chức năng hướng dẫn người học.
Trong xã hội thông tin, giáo viên phải giúp học sinh điều chỉnh định


hướng về chất lượng và ý nghĩa của nguồn thông tin, phải là nhà giáo dục
chuyên nghiệp có đầu óc sáng tạo, biết phê phán, tư duy độc lập, năng lực hợp
tác tích cực và hỗ trợ có hiệu quả giữa người học với những gì họ muốn biết,
là người cung cấp cách hiểu mới cho người học. Kĩ năng quan trọng nhất là kỹ
năng giải quyết vấn đề, tư duy sáng tạo và xóa mù thông tin. Cách dạy cũ không
thể tạo ra những công dân thích hợp cho thế kỉ XXI – những công dân toàn cầu.
Tức là phương pháp giảng dạy cũng phải đổi mới mạnh mẽ hơn nữa trong việc
tổ chức giáo dục. Qua đó, hình thức giáo dục sẽ linh hoạt về thời gian, không
gian, phù hợp với điều kiện và nhu cầu cá nhân phát triển hay sử dụng ứng dụng
công nghệ cho phép người dạy có thể cung cấp tài liệu học tập cho người học
và thu thập lại các kết quả của quá trình dạy học từ phía người học một cách liên tục
và linh hoạt.[2].
Việc tìm kiếm một phương pháp giảng dạy mới để nâng cao chất lượng
giáo dục phổ thông trước sự đột phá của cách mạng 4.0 là một điều trăn trở của
1


những con người quan tâm tới sự nghiệp giáo dục. Để góp phần nâng cao chất
lượng đào tạo và đổi mới phương pháp giảng dạy đại học trước tác động của
cuộc cách mạng 4.0
Thứ nhất, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học giúp giáo viên
nâng cao tính sáng tạo và trở nên linh hoạt hơn trong quá trình giảng dạy của
mình.
Thứ hai, kết hợp phương pháp giảng dạy truyền thống với các phương
pháp giảng dạy hiện đại.
Phương pháp giảng dạy truyền thống là phương pháp mà trong đó chủ yếu
là thầy nói, trò nghe. Hiện nay, chưa có một phương pháp giảng dạy hiện đại nào
có thể thay thế hoàn toàn phương pháp giảng dạy truyền thống, mặc dù các
phương pháp giảng dạy truyền thống cụ thể như thuyết trình còn tồn tại nhiều
hạn chế như: không khuyến khích được tính chủ động của người học, người học

muốn học tốt phải lắng nghe, cố ghi chép, cố nhớ kiến thức thay vì sáng tạo
trong quá trình học tập.
Thứ ba, đổi mới mạnh mẽ nội dung chương trình và phương pháp dạy học
theo hướng hội nhập quốc tế.
Nội dung, chương trình dạy học cần được triển khai theo hướng mở, cho
phép cập nhật thường xuyên về kiến thức trong và ngoài nước, cần thiết sử dụng
giáo trình, học liệu nước ngoài một cách linh hoạt để mở mang sự hiểu biết cho
người dạy và người học, nội dung giảng dạy phải gắn chặt và phù hợp với yêu
cầu thực tiễn của ngành nghề mà người học đang theo đuổi. Cho phép sử dụng
đa dạng các phương pháp dạy học theo nguyên tắc “lấy người học là trung tâm”,
giảm tải tối đa giờ giảng trên lớp để người học có thời gian tự học và tự nghiên
cứu.
Thứ tư, đổi mới vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước trong tổ chức
giáo dục phổ thông trước tác động của cách mạng công nghiệp 4.0
Thứ năm, tăng cường các hoạt động nghiên cứu khoa học, tiến tới quốc tế
hóa các tiêu chuẩn đánh giá khoa học và các hoạt động chuyên môn tại các cơ sở
giáo dục.
Cách mạng công nghiệp 4.0 tác động toàn cầu, đối với công tác giáo dục
thì ứng dụng công nghệ khoa học là một tất yếu khách quan, hoạt động nghiên
cứu khoa học luôn là một trong hai nhiệm vụ hàng đầu của bất kỳ một trường
đại học nào. Kết hợp ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học trong giảng dạy
luôn là một giải pháp tất yếu, một nội dung quan trọng trong tiến trình giáo dục.
Ngày nay người học có thể học bằng công nghệ dạy học được trang bị đầy
đủ với không gian rộng hơn rất nhiều so với lớp học và vô số ông thầy trên
mạng so với chỉ một ông thầy trong lớp học kiểu cũ; đối tượng giao tiếp của
người học (cộng đồng mạng) sẽ lớn hơn rất nhiều so với số lượng bạn bè trong
lớp học…
Giáo dục cần phải mô phỏng và chuẩn bị cho người học bước vào cuộc
sống thực tiễn càng nhiều càng tốt khi công nghệ đã làm cho khả năng tiếp cận
kiến thức trở nên dễ dàng. Một trong những cách tiếp cận phù hợp là tăng cường

giáo dục khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học trong nhà trường. Theo đó,
học sinh sẽ được trang bị kiến thức gắn liền với những ứng dụng của chúng
2


trong thực tiễn; được trải nghiệm tìm tòi, khám phá công nghệ gắn với kiến thức
được học trong chương trình giáo dục, được khuyến khích sáng tạo khoa học, kỹ
thuật nhằm cải thiện phát triển công nghệ mới. Đây là một cách tiếp cận liên
môn nhằm trang bị cho người học những kiến thức, kỹ năng để người học có thể
áp dụng để giải quyết vấn đề trong cuộc sống.
Mỗi học sinh sẽ có nhu cầu và khả năng học tập khác nhau và nhiệm vụ
của giáo dục là phát hiện, nuôi dưỡng và tạo động lực để người học xác định và
theo đuổi sự quan tâm, niềm đam mê của mình. Điều này đòi hỏi hệ thống giáo
dục cần cung cấp các lộ trình giáo dục đa dạng để phục vụ cho những khuynh
hướng học tập và phong cách học tập khác nhau của mỗi cá nhân. Chương trình
giáo dục phổ thông mới đã có những bước thay đổi cơ bản .
Một trong những mục tiêu quan trọng nhất của giáo dục là phát hiện và
nuôi dưỡng tài năng, khuyến khích sự theo đuổi, đam mê và nhu cầu học tập
suốt đời của người học. Để đạt được mục tiêu này, một thay đổi lớn là cơ cấu lại
hệ thống các trung tâm giáo dục thường xuyên và các trung tâm học tập cộng
đồng, thay đổi các khuôn mẫu truyền thống để xây dựng các trung tâm học tập
suốt đời. Đây cũng là giải pháp cơ bản thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện nền
giáo dục “Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục
mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập” theo tinh thần Nghị quyết số
29-NQ/TW của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.
”[1].
Những năm gần đây chúng ta thường nói nhiều đến việc dạy học nhằm
phát triển hoạt động nhận thức độc lập nhất tư duy học sinh. Đây là một tư
tưởng, một quan điểm, một cách tiếp cận mới về hoạt động dạy học. Quan điểm
này được hiểu là khi học Địa lí, quá trình nhận thức của học sinh đi từ tri giác tài

liệu đến tạo biểu tượng rồi phân tích, so sánh, đối chiếu... để tìm ra dấu hiệu bản
chất thì phải kích thích đuợc tư duy. Hay nói cách khác, trong hoạt động nhận
thức của học sinh tư duy có vai trò quan trọng. Bởi nếu không có tư duy, thì học
sinh không nhận thức bản chất của các, hiện tượng của Địa lí tự nhiên hoặc kinh
tế -xã hội. Mặt khác, do đặc trưng của việc nhận thức trong học Địa lí quá trình
nhận thức những điều đã diễn ra trong quá khứ để hiểu về hiện tại và chuẩn bị
cho đổi mới trong tương lai. Địa lí không thể không quan quan sát, không thể
không khắc phục. Dạy Địa lí cũng như dạy bất cứ môn học khác “đòi hỏi người
thầy phải khêu gợi cái thông minh chứ không phải là bắt buộc trí nhớ làm việc,
bắt nó ghi chép rồi trả lại”[4].
Hơn thế nữa, hiện nay do nhu cầu đổi mới phương pháp dạy học Địa lí
cần tích cực hóa hoạt động của người học chính là nói tới vấn đền tổ chức hoạt
động lĩnh hội sáng tạo của học sinh trên cơ sở tư duy độc lập. Trong dạy học Địa
lí ở trường trung học phổ thông hiện nay vì vậy để phát triển tư duy cho học
sinh, giáo viên kết hợp hai loại lĩnh hội tái tạo và lĩnh hội sáng tạo. Song đặc
biệt chú ý tới hoạt động lĩnh hội sáng tạo ở học sinh. Đúng như Lép Tôn – xtôi
đã viết “kiến thức chỉ thực sự trở thành kiến thức khi nó là thành quả của tư duy
chứ không phải trí nhớ”.
Quán triệt quan điểm trên, trong quá trình học tập Địa lí thì trong một giờ
học, để phát huy tính tích cực đặc biệt là tư duy của học sinh, đòi hỏi người giáo
3


viên phải kết hợp nhiều phương pháp, kỉ thuật dạy học để gây sự chú ý và hứng
thú cho học sinh. Môn Địa lí có vị trí hết sức quan trọng ngay đối với sự phát
triển của xã hội loài người, Địa lí cho ta thấy được sự thay đổi của tự nhiên ngày
càng nhanh do tác động chủ quan và khách quan của con người. Do vậy việc dạy
học thời kì 4.0 cung cấp nhiều kỹ năng phù hợp cho học sinh hơn như: biết vận
dụng kiến thức vào thực tiễn, phát triển năng lực giải quyết vấn đề thực tiễn dựa
trên kiến thức khoa học, có phong cách học tập sáng tạo, chủ động học, chủ

động giải quyết vấn đề một cách tư duy và sáng tạo hơn.[4]
Vì những lí do trên, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Sử dụng công
nghệ 4.0 trong giáo dục kỹ năng: Bảo vệ môi trường và phòng chống thiên
tai" Bài 15: SGK Địa lí 12 – ban cơ bản
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.2.1. Đối với giáo viên
Trên cơ sở lí luận phương pháp dạy học Địa lí, đề tài đi sâu vào đề xuất
một số biện pháp nhằm phát triển tính tích cực, độc lập trong nhận thức, đặc biệt
là trong tư duy học sinh trong hoạt động dạy học tự học trong giáo dục “Sử
dụng công nghệ 4.0 trong giáo dục kỷ năng :Bảo vệ môi trường và phòng
chốn thiên tai”
1.2.2. Đối với học sinh
Vận dụng các con đường, biên pháp phát triển tính tích cực, độc lập trong
nhận thức, đặc biệt là tư duy giúp các em lĩnh hội sâu sắc và nhớ lâu kiến thức,
vận dụng nó trong đời sống hàng ngày trong việc bảo vệ môi trường và phòng
chống thiên tai.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Tìm hiểu những lí luận dạy học nói chung, dạy học Địa lí nói riêng để
đưa 4.0 trong giáo dục bảo vệ môi trường và phòng chống thiên tai bên cạnh đó
phát triển tính tích cực độc lập trong nhận thức đặc biệt là trong tư duy của học
sinh.
- Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa Địa lí lớp 12 Bài 15: Bảo vệ
môi trường và phòng chốn thiên tai. Đề xuất một số biện pháp sư phạm nhằm
phát huy, phát triển tính tích cực trong tư duy của học sinh trong dạy học: Mục
2 một số thiên tai chủ yếu và biện pháp phòng chống.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Về lí thuyết:
+ Đề tài sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, trong đó chủ yếu là những
phương pháp Địa lí, logic trên cơ sở nắm những hiểm họa mà thiên tai mang lại,
những tai họa không lường đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống vật chất

và tinh thân của con người.
+ Phương pháp nghiên cứu tổng hợp để tiếp cận nghiên cứu, đi sâu vào
các vấn đề về lí luận dạy học nói chung, dạy học Địa lí nói riêng để lí giải rõ nội
hàm khái niệm phát triển tính tích cực độc lập trong nhận thức đặc biệt là trong
tư duy của học sinh .
+ Phương pháp so sánh để tìm ra những nét chung và những nét nổi trội
khi vận dụng 4.0 trong quá trinhg giáo dục và các biện pháp nhằm phát triển tính
tích cực độc lập trong nhận thức đặc biệt là tư duy học sinh so với phương pháp
4


truyền thống trước đây. Đồng thời, sử dụng phương pháp này sẽ góp phần nhận
diện đặc trưng cửa việc đổi mới phương pháp dạy học Địa lí hiện nay.
- Về thực tiễn:
+ Dự giờ đồng nghiệp dạy cùng khối 12 chương trình ban cơ bản.
+ Thực nghiệm sư phạm: thực nghiệm đề tài vào giảng dạy “một số thiên
tai chủ yếu và biện pháp phòng chống” do bản thân trực tiếp đứng lớp ở
trường Trung học phổ thông Vĩnh Lộc.
+ Chọn hai lớp có năng lực tiếp thu bài tương đương nhau: một lớp có vận
dụng triệt để các biện pháp phát triển hoạt động nhận thức đưa công nghệ 4.0
lông nghép để giảng cùng với phát triển tư duy của học sinh trong giờ dạy, một
lớp chỉ sử dụng chung chung, trong hệ thống phương pháp dạy học nhằm kiểm
chứng những biện pháp mà đề tài nêu ra từ đó rút ra các kết luận khoa học và
khẳng định tính khả thi của đề tài.
+ Sử dụng phương pháp toán học thống kê trên cơ sở so sánh các giá trị
thu được giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng để đánh giá hiệu quả của những
biện pháp dạy học mà đề tài đưa ra.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận
Xuất phát từ quan điểm “dạy chữ để dạy người”, quan niệm đồng bộ, toàn

diện hiệu quả. Giờ học Địa lí đuợc xác định không chỉ hình thành kiến thức, mà
còn là kết quả của việc giáo dục và phát triển tư duy, kĩ năng, kĩ xảo, tính tích
cực học tập của học sinh. Để đạt đuợc điều này, một trong những biện pháp quan
trọng để nâng cao chất lượng dạy học là phải chú trọng đến vai trò của người
học, coi học sinh là chủ thể của quá trình dạy học giáo dục học sinh thông qua
kiến thức đã được học sau đó đưa từ kiến thức vận dụng vào thực tiển của cuộc
sống hàng ngày. Hiện nay ở Việt Nam, một trong những phương thức học của
giáo dục 4.0 được nhiều học sinh biết và tham gia nhất là học trực tuyến. Tại hệ
thống giáo dục Hocmai.vn, đến năm 2018, đã có hơn 3 triệu thành viên tham gia
học tập trực tuyến từ cấp tiểu học đến bậc THPT; mỗi năm có hơn 11.000 bài
giảng trực tuyến được xuất bản,với hình thức học này, học sinh có thể chủ động
lựa trong cách học tập của mình, các em có thể tương tác với giáo viên và các
bạn cùng học mọi lúc, mọi nơi thông qua nền tảng Internet và thiết bị công nghệ.
Tuy nhiên, để việc học thực sự hiệu quả, học sinh cần tự trau dồi kiến thức
về công nghệ, chủ động tìm tòi, cập nhật các thông tin mới để không bị lạc hậu.
Không chỉ vậy, bản thân các em cũng cần tự trải nghiệm, thực hành chính những
điều đang học để tích lũy kinh nghiệm và nghiên cứu, phát triển
Giáo dục 4.0 sẽ được đánh dấu bởi thay đổi lớn trong mục tiêu đào tạo,
chuyển từ truyền thụ kiến thức cho số đông qua khai lực (khai phóng tiềm lực,
năng lực, và động lực) đồng thời trao quyền sáng tạo (empowering innovation)
cho từng cá nhân. Trong khi việc cá nhân hóa đào tạo ngày càng nâng cao thì sứ
mệnh của đào tạo vượt khỏi ranh giới quốc gia để phục vụ cho nhân loại.[1]
Vận dụng quan điểm trên, trong học tập Địa lí, quá trình nhận thức của
học sinh được bắt đầu bằng quan sát (tri giác) tài liệu, từ đó nhớ, hình dung lại
để hình thành những mối liên hệ tạm thời tương ứng (biểu tượng). Biểu tượng là
dấu ấn ghi lại trong ý thức các em những hình ảnh về sự kiện, hiện tượng đã
5


được lịch sử lưu lại. Song để hiểu sự kiện, hiện tượng quá khứ, phải tìm ra bản

chất của chúng, Muốn làm được việc này phải thông qua việc kích thích các thao
tác tư duy như: đối chiếu, so sánh, phân tích, tổng hợp...vạch ra dấu hiệu bản
chất. Như vậy, trong các hoạt động nhận thức Địa lí của học sinh (tri giác, nhớ,
hình dung, tưởng tượng, tư duy...) thì tư duy có vai trò quan trọng. Nếu không có
hoạt động của tư duy thì không thể nhận thức được bản chất của sự kiện, hiện
tượng lịch sử. Trên cơ sở hoạt động tư duy độc lập học sinh lĩnh hội kiến thức
một cách vững chắc, sâu sắc hay còn gọi là lĩnh hội sáng tạo. Điều này hoàn
toàn khác so với lĩnh hội tái tạo trên cơ sở nhớ lại những hiểu biết về kiến thức
có sẵn.[4]
Việc phát huy hoạt động nhận thức tích cực, tự học, độc lập đặc biệt
là trong tư duy có ý nghĩa quan trọng
Việc phát triển các hoạt động nhận thức tích cực, độc lập, đặc biệt là tư
duy độc lập của học sinh có ý nghĩa to lớn đối với việc nâng cao chất lượng dạy
học, giáo dục và phát triển toàn diện học sinh.
Thứ nhất, tính tích cực, độc lập trong nhận thức đặc biệt là trong tư duy sẽ
đảm bảo cho các em lĩnh hội sâu sắc và nhớ lâu kiến thức.
Thứ hai, phát triển tính tích cực, độc lập trong nhận thức, đặc biệt trong tư
duy là phương tiện tốt để hình thành kiến thức, khơi dậy những xúc cảm, ý thức,
kích thích hứng thú học tập, tạo cơ sở để giáo dục tư tưởng, tình cảm học sinh.
Thứ ba đây là phương thức tốt góp phần phát huy các năng lực nhận thức,
năng lực thực hành, kĩ năng, kĩ xảo của học sinh nói chung và rèn luyện các thao
tác cũng như chất lượng của tư duy nói riêng.
Cuối cùng việc phát triển tính tích cực độc lập nhận thức, đặc biệt là tư
duy còn góp phần phát triển hứng thú học tập và rèn luyện tính tự lập cho học
sinh. Bởi vì sự phong phú sinh động của nhiều nguồn kiến thức, kết hợp với việc
khôn khéo gợi mở, hướng dẫn của giáo viên sẽ lôi cuốn học sinh tham gia xây
dựng bài.[3]
2.2. Thực trạng vấn đề
Bộ môn Đại lí ở trường phổ thông với nhiệm vụ cung cấp một khối lượng
kiến thức tương đối phong phú về Đia lí tự nhiên, kinh tế- xã hội. Mặt khác

giảng dạy môn địa lí trong trường phổ thông hiện nay cũng còn gặp nhiều khó
khăn khi truyền tải thông tin vẫn con mang nặng lý thuyết chưa có nhiều thiết bị
hổ trợ và không có khả năng cho học sinh thăm quan để nhìn nhận vấn đề một
cách sâu rộng hơn.
Những năm gần đây, việc dạy học địa lí ở trường phổ thông đã có nhiều
tiến bộ về nhận thức, nội dung và phương pháp dạy học, đa số giáo viên đã có sự
say mê, tâm huyết với nghề, nhiều học sinh đã yêu thích môn địa lí . Nhưng nhìn
chung, bộ môn địa lí vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của sự đổi mới của nước ta
hiện nay.
- Học sinh học bài chủ yếu theo cách học thuộc lòng, học vẹt, học đổi
phó, học để thi. Khi giáo viên kiểm tra kiến thức cũ thì học sinh không nắm
được trong khi đó làm bài kiểm tra còn chưa có tinh thần tự giác, kiểm tra đối
phó để lấy điểm.Vẫn còn nhiều học sinh không thích học, không biết phân tích
bản đồ, nhận xét biểu đồ, bảng số liệu, tranh ảnh...Trong giờ học giáo viên đặt
6


câu hỏi phát vấn học thường rất ít em phát biểu, các em nhìn hiện tượng, sự vật
các vấn đề xung quanh mình một cách thực sự mơ hồ
- Giáo viên giữ vai trò độc quyền trong đánh giá, do đó người học ít có cơ
hội phát triển, thể hiện năng lực sáng tạo của mình.
Ngoài những nguyên nhân nêu trên, theo bản thân tôi còn có yếu tố từ tâm
lí phụ huynh và học sinh. Đó là lâu nay vẫn quan niệm môn Địa lí là môn phụ,
không quan trọng. Do đó mục đích của các em có học chỉ đối phó với giáo viên
và qua các giờ kiểm tra, còn phụ huynh chỉ mong con học cốt sao cho qua tốt
nghiệp. Từ thực tiễn trên cho thấy một điều việc học sinh không thích học địa lí,
chưa tích cực trong hoạt động học tập ngoài yếu tố khách quan như xu hướng
nghề nghiệp, tâm lí xã hội... thì nguyên nhân chính xuất phát từ phương pháp
dạy học của giáo viên. Thiết nghĩ để giải quyết bài toán học sinh quay lưng với
Địa lí, ngại học Địa lí đòi hỏi giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học trong

đó cần chú ý hơn nữa đến cần phải đổi mới phương pháp dạy học chuyển từ “lấy
giáo viên làm trung tâm” sang dạy học theo hướng “lấy học sinh làm trung
tâm”[2] giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động đặc biệt là tư duy học
sinh
2.3. Một số biện pháp phát triển hoạt động nhận thức độc lập, sáng
tạo trong sử dụng công nghệ 4.0 dạy học: Mục 2 một số thiên tai chủ yếu và
biện pháp phòng chống.
2.3.1. Trao đổi, đàm thoại
Trao đổi, đàm thoại là công việc trong đó giáo viên nêu câu hỏi để học
sinh trả lời. Đồng thời các em có thể trao đổi với nhau dưới sự chỉ đạo của giáo
viên. Qua đó đạt được mục đích dạy học [7].
Trong dạy học địa lí có thể vận dụng nhiều dạng trao đổi, đàm thoại căn
cứ vào nội dung của từng bài học cụ thể như .Trao đổi tái hiện nhằm gợi lại kiến
thức cũ để tiếp thu kiến thức mới. Trao đổi đàm thoại phân tích, khái quát hóa
nhằm hướng học sinh tìm ra bản chất của sự việc.
Theo bản thân tôi để hình thành kiến thức trên cơ sở hoạt động tư duy tích
cực, độc lập của học sinh thì việc trao đổi, đàm thoại rất có ưu thế. Qua hoạt
động này rèn luyện cho các em những phẩm chất cần thiết của hoạt động nhận
thức như tính tích cực, độc lập, sáng tạo, óc phê phán, đặc biệt tính kiên nhẫn
trong học tập. Hơn nữa trao đổi đàm thoại còn có tác dụng tạo không khí lớp học
sôi động, cuốn hút, hứng thú của học sinh từ đó việc lĩnh hội kiến thức cũng dễ
dàng và sâu sắc hơn.
Khi dạy mục 2: một số thiên tai chủ yếu và biện pháp phòng chống.
Tiếp đó giáo viên yêu cầu học sinh đọc sách giáo khoa trang 62, 63 cùng với
việc sử dụng bản đồ, xem video, tranh ảnh về những hậu quả mà thiên tai gây ra
đối với môi trường sống của con người.(lũ lụt, hạn hán, bảo ....)
Từ đó học sinh vận dụng được kiến thức hiểu biết của bản thân qua kết
quả học tập để làm việc với bài học một cách có hiệu quả nhất.
Việc học tập trong thời đại công nghệ số và mạng Internet vượt qua sự
giới hạn về không gian, thời gian: những kiến thức, thông tin cơ bản ở hầu khắp

các lĩnh vực từ xưa đến nay hầu như có thể tìm trên Internet mà chỉ cần một
chiếc điện thoại thông minh hay máy tính bảng người học dễ dàng tìm được.
7


Hơn thế nữa, người học có thể trao đổi trực tiếp với người giảng bài. Điều này
đặc biệt thuận lợi cho việc xây dựng một xã hội học tập với nhu cầu học tập
suốt đời của mọi người, đáp ứng những yêu cầu của con người trong thời đại
4.0. Cách mạng công nghệ 4.0 đòi hỏi giáo dục - đào tạo phải tạo ra được những
con người năng động, tự lập, các kỹ năng tự học, tự nghiên cứu, nhất là phải tạo
điều kiện để phát huy tối đa óc sáng tạo của mỗi cá nhân.
Trong xã hội bùng nổ thông tin, người thầy từ vai trò truyền thụ kiến thức
theo cách truyền thống sang vai trò xúc tác và điều phối, họ phải chuyển sang
chức năng hướng dẫn người học. Giáo viên phải giúp người học định hướng về
chất lượng và ý nghĩa của nguồn thông tin, định hướng cho người học tự tìm đến
những cách hiểu mới. Hiện nay, nhiều phương pháp giáo dục mới đã được đưa
vào sử dụng trong các cấp học từ mầm non cho đến đại học theo hướng phát huy
tính tích cực của người học, hoạt động nhóm.… Tất cả nhằm hướng tới mục tiêu
xây dựng nên những con người với những kỹ năng, tư duy dần đáp ứng yêu cầu
của thời đại mới .
Kỹ năng làm việc nhóm là yêu cầu bắt buộc. Do vậy, người thầy phải rèn
luyện cho người học có khả năng làm việc nhóm, có óc tổ chức, tư duy… Muốn
vậy, phải đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng phát huy tính tích cực
của người học là yêu cầu bắt buộc.
Kỹ năng giải quyết vấn đề, thay vì bị động thực hiện theo những kế
hoạch đã vạch sẵn, con người trong thời đại mới cần luôn chủ động để đối phó
với các vấn đề phát sinh. Vì vậy, giáo dục - đào tạo cần tạo ra những công dân
thích hợp cho thế kỉ XXI - những công dân toàn cầu, đáp ứng nhu cầu của thị
trường lao động trong nước và hội nhập quốc tế.
Cùng với sự sáng tạo người giáo viên trong thời đại công nghệ 4.0 cần

quan tâm đặc biệt tới đối tượng người học. Nhiệm vụ của người thầy là tạo môi
trường học tập, tạo điều kiện để họ có cơ hội học tập theo phương pháp tích cực
và sáng tạo. Chỉ có như vậy mới tạo ra được những con người năng động và
sáng tạo. Hơn bao giờ hết, nghề dạy học với danh xưng “là nghề sáng tạo bậc
nhất trong những nghề sáng tạo... vì nó sáng tạo ra những con người sáng tạo”
lại càng thể hiện rõ nhất trong thời điểm hiện nay.[6].

8


Bản đồ khí hậu chung.

9


Mưa lớn gây ngập lụt tại huyện miền núi Thường Xuân Thanh Hóa năm 2019
và mưa đá với số lượng lớn và xảy ra trên diện rộng ở các xã biên giới huyện
huyện Phong Thổ Lai Châu 2020

Nước lên cao làm ngập cánh đồng, đường giao thông tại huyện miền núi
Thạch Thành và Lũ quyét ở Quan Sơn Thanh Hóa – Năm 2019
Ảnh: Đình Nam-TTXVN

10


Đây là những hình ảnh ở một huyện nghèo của tỉnh Ninh Thuận đang
phải đối mặt với hạn hán kỷ lục năm 2020
Như vậy muốn lôi cuốn các em vào bài giảng của giáo viên và trả lời
đuợc những câu hỏi của giáo viên đưa ra, học sinh phải chăm chú nghe giảng,

nghiên cứu sách giáo khoa, độc lập suy nghĩ và đặt trong bối cảnh của vấn đề để
nhận xét.
Với việc cung cấp những thông tin ở mục 2: một số thiên tai chủ yếu và
cách phòng chống. Giáo viên sử dụng công nghệ 4.0 để giảng dạy bằng
phương pháp dạy học nêu vấn đề và phương pháp nghiên cứu học tập.
2.3.2.Dạy học nêu vấn đề
Dạy học nêu vấn đề không phải là một phương pháp dạy học cụ thể mà là
nguyên tắc chỉ đạo việc tiến hành nhiều phương pháp dạy học. Nó được vận
dụng trong tất cả các khâu của giờ học và là mọi kiểu dạy học. Trong giờ học
theo dạy học nêu vấn đề có ý nghĩa đặc biệt đối với việc hình thành kiến thức
trên cơ sở hoạt động tư duy độc lập của học sinh. Dạy học nêu vấn đề khác hẳn
với cách giảng dạy nhồi nhét, học sinh chỉ biết nghe, ghi, nhớ, mà lười suy nghĩ,
lười tư duy [7].
Cũng như các dạng trình bày khác như thông báo, tường thuật, miêu tả...
trình bày nêu vấn đề phải dựa trên tính khoa học. Ngoài ra nó còn có thêm các
thành tố như khơi gợi, quyết định hoạt động tư duy độc lập của học sinh. Cần
lưu ý rằng khi trình bày nêu vấn đề giáo viên cần đặt học sinh trước tình huống
cần giải quyết một vấn đề mới chưa biết. Từ đó học sinh trên cơ sở kiến thức,
trình bày giáo viên, kĩ năng, kĩ xảo tự tìm ra bản chất sự kiện, hiện tượng, độc
lập rút ra các kết luận cần thiết. Với chủ đề “sử dụng công nghệ 4.0 trong giáo
dục kỹ năng: Bảo vệ môi trường và phòng chốn thiên tai: Bài 15 (SGK- Địa
lí 12 cơ bản) để giảng dạy bằng phương pháp dạy học nêu vấn đề và
phương pháp nghiên cứu học tập giáo viên phải đưa ra cho học sinh những
những nguyên nhân, hậu quả không lường mà thiên tai đã gây ra cho nhân loại.
Theo báo cáo của Văn phòng Ban chỉ đạo phòng chống thiên tai, từ đầu
năm 2016 đến nay, tình hình thiên tai ở nước ta đang diễn biến rất phức tạp.
11





Tình hình bão, hạn hán, mưa lũ, rét đậm, rét hại, sạt lở đất…diễn ra bất thường
với cường độ cực đoan. Đặc biệt là khu vực miền Trung và Tây Nguyên vừa trải
qua đợt hạn hán kéo dài thì từ tháng 10 trở lại đây lại phải hứng chịu mưa lũ trên
diện rộng. Tổng lượng mưa 2 tháng gần đây nhiều nơi lớn hơn trung bình năm,
cá biệt như Trà My (Quảng Nam) mưa 2.611mm, Minh Long (Quảng Ngãi)
2.729mm.
Mưa lớn đã làm lũ các sông lên cao, các hồ chứa thủy điện phải xả lũ gây
ngập lụt nghiêm trọng ở nhiều tỉnh; đường giao thông bị chia cắt, sản xuất đình
trệ, đời sống người dân trong vùng thiên tai gặp vô cùng khó khăn.
Từ giữa tháng 10/2016 đến nay, mưa lũ đã làm 111 người chết và mất
tích, 121 người bị thương. Hơn 316.000 ngôi nhà bị ngập, hư hại; 42.804 ha lúa,
4.703 ha mạ và 39.261 ha hoa màu bị ngập hư hại... Tổng thiệt hại ước tính trên
8.573 tỷ đồng.
Riêng đợt mưa lũ từ ngày 12/12 đến ngày 16/12 đã làm 15 người chết, mất tích.
Hơn 111.000 ngôi nhà bị ngập nước; hư hại và nhiều thiệt hại về cơ sở hạ tầng,
giao thông thủy lợi và các địa phương vẫn tiếp tục thống kế thiệt hại.
Như vậy, cùng với đợt lũ này, tổng thiệt hại do thiên tai gây ra từ đầu năm
đến nay ở Việt Nam làm 235 người chết và mất tích, ước tính về kinh phí trên
37.650 tỷ đồng (tương đương 1,7 tỷ USD). [5]
Từ những hình ảnh giáo viên đưa ra và các ý kiến khác nhau để học sinh
tự phân tích, đánh giá, nhìn nhận vấn đề một cách tổng quát và đúng nhất .
Giáo viên cũng có thể đặt câu hỏi sau đó giao nhiệm vụ cho các em để
các em trả lời với sự hướng dẫn của giáo viên.
+ Nguyên nhân chủ yếu gây ra hiện tượng lũ lụt là gì ?
+ Tại sao ở miền núi lũ quét và lũ ống thường xuyên xảy ra.
+ Hậu quả của nó đem lại.
+ Biện pháp phòng và chống thiên tai.
Để trả lời được những câu hỏi này học sinh bắt buộc phải suy nghĩ, theo
dõi sách giáo khoa, phân tích rút ra ý kiến đúng.

Thứ nhất, nguyên nhân khách quan do biến đổi khí hậu gây ra những đợt
mưa lũ bất thường còn có cả nguyên nhân chủ quan như phong tục tập quán của
người dân thường sinh sống ở các triền đồi, dưới chân núi hay gần các dòng
sông, khi có lũ lớn rất dễ xảy ra thiệt hại về người.
+ Ngoài nguyên nhân chính là các trận mưa bão ở miền thượng lưu cũng
như ở đồng bằng, còn có nhiều lý do thường được nhắc đến như nạn phá rừng,
việc khai thác cát sỏi và hệ thống đê đập, mức độ đô thi hóa cao, việc khai thác
bừa bãi cát sỏi ở các dòng sông cũng gia tăng mức độ của lũ lụt....
Thứ hai, là một học sinh trung học phổ thông các em cần học tập thật tốt
đề tuyên truyền cho nhân dân, về những biệp pháp bảo vệ môi trường đề giảm
thiễu lũ lụt như trồng nhiều cây xanh, sử dụng các chất liệu từ thiên nhiên, sử
dụng năng lượng sạch. tiết kiệm điện, giảm sử dụng túi nilông, tận dụng ánh
sáng mặt trời, áp dụng khoa học hiện đại vào đời sống. Tuy nhiên khi lồng ghép
“ 4.0 dạy học: Mục 2 một số thiên tai chủ yếu và biện pháp phòng chống ”
cần đảm bảo yêu cầu sau:
12


Thứ nhất, bài tập phải tập trung vào nội dung cơ bản của bài, của chương
hay cả khóa trình Địa lí là những điều học sinh chưa biết, cần giải quyết trong
giờ học đó và đòi hỏi các em phải tích cực, độc lập làm việc.
Thứ hai, bài tập giáo viên đưa ra phải thể hiện sự khó vừa đủ và tính vừa
sức đối với học sinh.
Thứ ba, bài tập thể hiện mối tương quan và hiệu quả của nó đối với các
khâu của quá trình dạy học.
Thứ tư, bài tập phải đa dạng, phải lôi cuốn, hấp dẫn làm cho học sinh
hứng thú giải quyết vấn đề.
2.3.3. Phương pháp nghiên cứu học tập
Trong quá trình dạy học, giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh làm quen
với phương pháp nghiên cứu Địa lí bằng cách đưa ra cho các em tìm hiểu những

vấn đề đã đuợc giải quyết thậm chí chưa đuợc giải quyết. Từ đó các em thấy
đuợc mối liên hệ giữa bằng giữa tự nhiên và con người là vô cùng quan trọng.
Do vậy việc bảo vệ môi trường vừa là một mục tiêu, vừa là một trong những nội
dung cơ bản của sự phát triển bền vững, phải được thể hiện trong các chiến lược,
qui hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành và từng địa
phương. Bảo vệ môi trường là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi tổ chức, mọi gia
đình và của mỗi người dân, là biểu hiện của nếp sống văn hoá, đạo đức, là tiêu
chí quan trọng của xã hội văn minh và là sự nối tiếp truyền thống yêu thiên
nhiên, sống hài hoà với tự nhiên của cha ông chúng ta. Bảo vệ môi trường phải
theo phương châm lấy phòng ngừa và hạn chế tác động xấu với môi trường là
chính, kết hợp với xử lý ô nhiễm, khắc phục suy thoái, cải thiện môi trường và
bảo tồn thiên nhiên; kết hợp giữa sự đầu tư của Nhà nước với đẩy mạnh huy
động nguồn lực trong xã hội, kết hợp giữa công nghệ hiện đại với các phương
pháp phòng chống.
Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ vừa phức tạp, vừa cấp bách, có tính đa
ngành và liên vùng rất cao; Vì vậy, cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các
cấp uỷ Đảng, sự thống nhất quản lý của Nhà nước, sự tham gia tích cực của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể; để từ đó làm cho môi trường ở khu dân
cư ngày càng “Xanh, sạch, đẹp” và làm cho mọi người dân có ý thức, kiến thức,
sống thân thiện với môi trường, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên; đấu tranh
khắc phục các tệ nạn, tập tục lạc hậu, thói quen trong sản xuất, sinh hoạt, tiêu
dùng; xâm hại đến tài nguyên, môi trường. Bảo vệ môi trường là một công việc
lâu dài, bền vững và phải được sự quan tâm thường xuyên của Đảng, Nhà nước,
các cấp, các ngành chức năng và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng như các đoàn
thể quần chúng; Nhà nước cần phải tạo điều kiện về mọi mặt cho Mặt trận thực
hiện nhiệm vụ to lớn và hết sức quan trọng này.
Để phát huy hơn nữa vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
các tổ chức đoàn thể và các ngành chức năng trong lĩnh vực có tầm quan trọng
đặc biệt này, đòi hỏi cần phải đẩy mạnh, đổi mới và nâng cao chất lượng công
tác bảo vệ môi trường của cả hệ thống chính trị ở cơ sở. Đây là một yêu cầu

khách quan trong quá trình đổi mới của đất nước. Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên
chúng ta cần làm tốt những việc sau đây:
13


Một là: Hoạt động bảo vệ môi trường tác động toàn diện đến các lĩnh vực
tự nhiên, xã hội và bản thân con người, đặc biệt là con người, với tư cách vừa là
khách thể, lại vừa chủ thể chi phối, quyết định chất lượng môi trường. Việc xây
dựng môi trường nhân văn, môi trường sinh thái - nhân văn có tầm quan trọng
quyết định tới toàn bộ sự nghiệp bảo vệ môi trường nói riêng và phát triển bền
vững nói chung. Do đó, trong hoạt động của mình, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể, các ngành chức năng luôn lấy con người làm trung tâm, động
lực của sự đoàn kết và phát triển đất nước. Việc bảo vệ môi trường chính là để
thực hiện các mục tiêu về chiến lược con người đã được đề ra trong các Nghị
quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, trong chương trình đại
đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự tương đồng về mục tiêu
không chỉ nói lên vị trí quan trọng của môi trường trong đời sống xã hội mà còn
phản ánh nhu cầu về sự cần thiết phải phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể chính trị trong sự nghiệp bảo vệ môi trường và phát triển
bền vững.
Hai là: Việc bảo vệ môi trường không chỉ có quan hệ tác động hỗ trợ đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững mà trong quá trình đó, luôn luôn phát
sinh những xung đột về lợi ích giữa các lĩnh vực kinh tế - xã hội và giữa các chủ
thể trong việc hưởng thụ, trong việc sử dụng các thành phần môi trường với việc
thực hiện nghĩa vụ bảo vệ môi trường, không chỉ nhằm tạo ra sự đồng thuận xã
hội, làm hậu thuẫn cho các hoạt động quản lý Nhà nước về tài nguyên và môi
trường, cho các hoạt động bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, mà còn
góp phần giải quyết những mâu thuẫn trên, đồng thời tăng cường mở rộng khối
Đại đoàn kết toàn dân tộc của chúng ta hiện nay.
Ba là:Xuất phát từ vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ

chức đoàn thể trong hệ thống chính trị của xã hội và trong mối quan hệ với các
tầng lớp nhân dân, với tính cách là tổ chức liên minh chính trị và là cơ sở chính
trị của chính quyền nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia bảo vệ môi
trường vừa để phát huy sức mạnh và huy động sức mạnh tổng hợp của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, lại vừa góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng,
nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước. Đây là những nhân tố quyết định thắng
lợi của sự nghiệp bảo vệ môi trường nói riêng và phát triển bền vững nói chung.
Mặt khác hoạt động thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường có mối quan hệ
tương tác chặt chẽ với nhiệm vụ công tác Mặt trận.
Do vậy, việc tham gia bảo vệ môi trường vừa là cơ hội, vừa là điều kiện
để xây dựng môi trường của chúng ta ngày càng “xanh, sạch, đẹp” là một việc
làm không chỉ của một cấp, một ngành mà là trách nhiệm và nhiệm vụ chung
của toàn xã hội [8]. Tuy nhiên khi sử dụng biện pháp này phải đảm bảo tính
vừa sức đối với học sinh.
2.3.4. Bài giảng minh họa “ Sử dụng công nghệ 4.0 trong giáo dục kỷ
năng: Bảo vệ môi trường và phòng chốn thiên tai: Bài 15. (SGK Địa lí 12 –
ban cơ bản.)
Bài 15: BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ PHÒNG CHỐNG THIÊN TAI
I. MỤC TIÊU
1. Kiến thức.
14


- Trình bày được một số tác động tiêu cực do thiên nhiên gây ra phá hoại sản xuất,
gây thiệt hại về người và của. Biết được một số biện pháp bảo vệ môi trường và
phòng chống thiên tai.
- Biết được một số chiến lược, chính sách về tài nguyên môi trường của nước ta.
2. Kỷ năng.
- Vận dụng được một số biện pháp về tự nhiên và phòng chống thiên tai ở địa
phương.

3.Thái độ
- Nhận thức được vai trò của môi trường đối với sự phát triển của xã hội, biện
pháp bảo vệ.
4.Định hướng năng lực của học sinh.
- Tư duy: tìm kiếm và xử lí thông tin về các vấn đề bảo vệ môi trường.
- Làm chủ bản thân: ứng phó với thiên tai ở nước ta. Quản lí thời gian, đảm nhận
trách nhiệm…
II. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH
1.Chuẩn bị của giáo viên
- Bản đồ Tự nhiên Việt Nam.
- Atlat địa lí Việt Nam.
-Một số hình ảnh về bão, lũ quét...ở nước ta.
- Một số hình ảnh về suy thoái tài nguyên, phá hủy cảnh quan thiên nhiên và ô
nhiễm môi trường.
2. Chuẩn bị của học sinh: Một số hình ảnh về suy thoái tài nguyên, phá hủy
cảnh quan thiên nhiên và ô nhiễm môi trường.
A. Tình huống xuất phát
1. Mục tiêu: Biết một số loại thiên tai ở nước ta và cách phòng chống.
2. Phương thức: Làm việc cá nhân.
3. Hoạt động:
- Bước 1: Giao nhiệm vụ: Kể tên một số loại thiên tai ở nước ta và cách phòng
chống? (2 phút)
- Bước 2: Học sinh thực hiện nhiệm vụ cá nhân. Giáo viên quan sát.
- Bước 3: Trao đổi thảo luận: Giáo viên gọi học sinh trả lời nhanh kết quả làm
việc lên bảng. Học sinh khác bổ sung. Trên cơ sở thảo luận và bổ sung của học
sinh, giáo viên dẫn dắt vào nội dung của bài mới.
- Bước 4: GV đánh giá quá trình thực hiện và đánh giá kết quả cuối cùng của
học sinh.
B. Hình thành kiến thức
1. Bảo vệ môi trường (7 phút)

2. Một số thiên tai chủ yếu và biện pháp phòng chống.
a. Bão (10 phút)
* Mục tiêu: - Hiểu rõ được hoạt động của bão, hậu quả và cách phòng chống bảo

- Phân tích tranh ảnh, bản đồ
* Phương thức: Cá nhân
* Hoạt động:

- Bước 1: Giao nhiệm vụ: Đọc SGK mục 2 hãy nhận xét đặc điểm của bão ở
nước ta [9]. . theo dàn ý:
15


Thời gian hoạt động của bão ........
Mùa bão ........................................
Số trận bão trung bình mỗi năm ........
- Cho biết vùng bờ biển nào của nước ta chịu ảnh hưởng mạnh nhất của bão. Vì
sao?
- Hậu quả của Bão…….
- Đề xuất các biện pháp phòng chống bão ?
- Bước 2: Học sinh thực hiện nhiệm vụ cá nhân. Giáo viên quan sát.
- Bước 3: Trao đổi thảo luận: Giáo viên gọi học sinh trả lời nhanh kết quả làm
việc lên bảng. Học sinh khác bổ sung. Trên cơ sở thảo luận và
bổ sung của học sinh, giáo viên chuẩn kiến thức.
Nội Dung
Đặc điểm
Mùa bão
- Từ tháng 6 đến tháng 12, tập trung nhiều nhất vào tháng
9.
- Mùa bão chậm dần từ Bắc vào Nam

Vùng chịu ảnh
- Bão mạnh nhất ở dải ven biển Trung Bộ, đặc biệt từ
hưởng của bảo nhiều Thanh Hóa đế Quảng Ngãi sau đó đến ĐB Bắc Bộ.
nhất
Hậu quả
-Trên biển: Lật úp tàu thuyền.
- Gió bảo làm mực nước biển dâng cao, gây ngập mặn cho
các vùng ven biển.
- Làm đổ nhà, lũ lụt trên diện rộng.
- Gây ảnh hưởng đế sản xuất và đời sống của người dân.
Cách phòng chống
- Nhừ vệ tinh báo về quá trình hình thành và đường đi của
bảo
- Củng cố lại đê biển, sơ tán dân.
- Chống lũ đi đôi với chống ngập úng và lũ, xói mòn.
- Trên biển: khi có bão phải trú ẩn, hoặc về đất liền.
- Bước 4: GV đánh giá quá trình thực hiện và đánh giá kết quả cuối cùng của
học sinh.
* Ngập lụt, lũ quét, hạn hán và các thiên tai khác (13 phút)
* Mục tiêu: - Hiểu rõ được sự phân bố hoạt động của một số loại thiên tai chủ
yếu: ngập lụt, lũ quét, hạn hán, động đất) thường xuyên gây tác hại đến đời sống
kinh tế? ở nước ta. Biết cách phòng chống đối với mỗi loại thiên tai.
- Phân tích tranh ảnh.
* Phương thức: Thảo luận nhóm
* Hoạt động:
- Bước 1: Giao nhiệm vụ: GV chia nhóm và giao nhiệm vụ cho từng nhóm.
Nhóm l: Tìm hiểu sự hoạt động của ngập lụt.
Nlhóm 2:Tìm hiểu sự hoạt động của lũ quét.
Nhóm 3: Tìm hiểu sự hoạt động của hạn hán.
- Bước 2: Học sinh thực hiện nhiệm vụ suy nghĩ, trao đổi thảo luận với bạn bên

cạnh, ghi kết quả vào giấy nháp. Giáo viên quan sát và hướng dẫn.

16


- Bước 3: Trao đổi thảo luận: Giáo viên gọi đại diện các nhóm trả lời nhanh kết
quả làm việc. Học sinh khác lắng nghe và nhận xét, bổ sung. Trên cơ sở thảo
luận và bổ sung của học sinh, giáo viên chuẩn kiến thức.
Các thiên
Ngập lụt
Lũ quét
Hạn hán
tai
Nơi hay sảy
ĐBSH, ĐBSCL
Miền núi
Nhiều địa phương
ra
+
Mùa
mưa + Miền Bắc tháng 6- Mùa khô tháng 11-4
Thời gian
( Tháng 5-10) 10.
hoạt động
Riêng DHMT từ + Miền Trung tháng
tháng 9-12
10-12.
Phá huỷ mùa Thiệt hại về tính Mất mùa, cháy rừng,
màng, tắc nghẽn mạng và tài sản của thiếu nước cho sản xuất
Hậu quả

GT, ô nhiễm Môi dân cư.
và sinh hoạt.
trường.
+ Địa hình thấp.
+ Địa hình thấp.
+ Mưa ít.
+ Mưa nhiều, tập + Mưa nhiều, tập + Cân bằng ẩm<0
Nguyên
trung theo mùa.
trung theo mùa.
nhân
+ Ảnh hưởng của + Rừng bị chặt phá
thuỷ triều.
nhiều.
+ Trồng rừng và + Trồng rừng.
quản lý, sử dụng + Xây dựng hệ thống
Biện pháp
hợp lý Đất đai.
thuỷ lợi.
Xây dựng đê điều,
phòng
+ Canh tác hiệu quả + Trồng các loại cây có
hệ thống thuỷ lợi.
chống
trên đất dốc
khả năng chịu hạn tốt.
+ Quy hoạch các
điểm dân cư.
-Bước 4: GV đánh giá quá trình thực hiện và đánh giá kết quả cuối cùng của học
sinh.

3. Chiến lược quốc gia về bảo vệ tài nguyên và môi trường (5 phút)
C. Luyện tập (5 phút)
1. Mục tiêu: Củng cố, khắc sâu kiến thức, kỹ năng của bài học.
2. Phương thức: Cả lớp.
3. Hoạt động:
- Bước 1: Giao nhiệm vụ: trả lời một số câu hỏi trắc nghiệm:
* Lựa chọ phườn án trả lời đúng nhất cho mỗ câu hỏi
Câu 1. Mùa bão ở nước ta
A. chậm dần từ Nam ra Bắc.
C. diễn ra đồng đều ở mọi nơi.
B. chậm dần từ Bắc vào Nam.
D. có sự khác nhau ở các vùng.
Câu 2. Thời gian khô hạn kéo dài nhất tập trung ở các tỉnh
A. Ninh Thuận và Bình Thuận.
B. Mường Xén của tỉnh Nghệ An.
C. Quảng Bình và Quảng Trị.
D. Sơn La và Lai Châu.
Câu 3. Vùng chịu ảnh hưởng mạnh nhất của bảo là
A. ven biển đồng bằng sông Hồng.
B. ven biển Trung Bộ.
C.ven biển Nam Trung Bộ.
D. ven biển Nam Bộ.
17


Câu 4. Dựa vào Atlat Địa lí VN trang 9,ch biết từ Móng Cái Quảng Ninh đến
Thanh Hóa bão hoạt động vào thời gian
A. tháng VII- X
B. tháng VIII-X
C. tháng VI-X

D. tháng
VIII- XI
Câu 5. Biện pháp phòng chống bão nào dưới đây không đúng?
A. Vùng ven biển cần củng cố công trình đê điều
B. Nếu có bão mạnh, cần khẩn trương sơ tán dân
C. Các tàu thuyền trên biển tìm cách ra xa bờ
D. ở đồng bằng phải kết hợp chống úng, lụt; ở vùng núi chống lũ, xói mòn
- Bước 2: Học sinh thực hiện nhiệm vụ cá nhân. Giáo viên quan sát.
- Bước 3: Trao đổi thảo luận: Giáo viên gọi học sinh trả lời nhanh kết quả làm
việc. Học sinh khác bổ sung. Trên cơ sở thảo luận và bổ sung của học sinh, giáo
viên chuẩn kiến thức
- Bước 4: GV đánh giá quá trình thực hiện và đánh giá kết quả cuối cùng của
học sinh.
D. Vận dụng (3 phút)
1. Mục tiêu:
- Vận dụng kiến thức đã học để nêu các thiên tai chủ yếu ở địa phương?
2. Phương thức: Cá nhân.
3. Hoạt động:
-Bước 1: Giao nhiệm vụ: Nêu các thiên tai chủ yếu ở địa phương và biện pháp
phòng chống?
- Bước 2: Học sinh thực hiện nhiệm vụ cá nhân ở nhà.
-Bước 3: Giáo viên kiểm tra bài tập vận dụng cảu học sinh vào tiết sau.
- Bước4 : Giáo viên chuẩn kiến thức
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục
Với việc sử dụng một số biện pháp nhằm phát triển các hoạt động nhận
thức độc lập, tư duy, tự học, tự tìm hiểu tại trường trường trung học phổ thông
Vĩnh Lộc, đã đạt được một số kết quả như sau:
Đối với chất lượng giảng dạy và giáo dục học sinh:
+ Học sinh hứng thú hơn trong mỗi giờ học, không khí của lớp học sôi
nổi, thoải mái. Các em không còn mơ hồ và khó hiểu, khó hình dung về những

trang bản đồ thể hiện qua nhiều thế kỷ về ranh giới trên biển Việt Nam, các em
ham học hỏi và có phần rất thích thú với những tiết dạy Địa lí.
+ Học sinh chủ động, tích cực, tự giác trong quá trình lĩnh hội kiến thức, các em
đã biết chủ động khai thác kiến thức trong sách giáo khoa, vận dụng những kiến thức đã
học vào thực tế để giải quyết những câu hỏi, bài tập mà giáo viên đưa ra.
+ Làm thay đổi cơ bản quan niệm và cách học của học sinh trước đây là
chỉ lệ thuộc vào sự truyền giảng kiến thức của giáo viên sang phương pháp học
mới lấy người học làm trung tâm. Qua đó, phát huy được tư duy độc lập, khả
năng quan sát, óc sáng tạo cũng như hình thành cho học sinh những kĩ năng, kĩ
xảo đặc thù cần thiết khi học bộ môn học .
Đối với bản thân và đồng nghiệp
+ Bản thân thông qua việc tìm hiểu đã nắm vững lí luận dạy học, từ đó
triển khai các biện pháp phát triển các hoạt động nhận thức độc lập, sáng tạo
18


nhất là tư duy học sinh vận dụng có hiệu quả vào thực tiễn giảng dạy ở trường
trung học phổ thông Vĩnh Lộc.
+ Trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm thông qua thực tiễn giảng dạy ở đơn vị
cho đồng nghiệp, đúc rút nhiều kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả và vị thế
môn Địa lí ở trường phổ thông.
Đối với Nhà trường
Thông qua việc vận dụng các biện pháp sư phạm nhằm phát triển hoạt
động nhận thức độc lập sáng tạo nhất là tư duy góp phần thực hiện đổi mới
phương pháp dạy học, chuyển từ dạy học lấy giáo viên làm làm trung tâm sang
dạy học theo quan điểm “lấy học sinh làm trung tâm”.
Kết quả môn học Địa lí của hai lớp học sinh khối 12 trong học kì I khi tôi
thực hiện đã đạt được kết quả khả quan sau:
Qua việc áp dụng kinh nghiệm của tôi vào thực tế tôi đã thu được kết quả
như sau

Giỏi
Khối

Lớp

12

Sĩ số

Khá

Trung Bình

Yếu

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%


12C4 43

10

23,2

30

69,8

3

7,0

0

0

12C7 42

12

28,6

26

61,9

4


9,5

0

0

Khả năng ứng dụng và triển khai của sáng kiến
Tôi nhận thấy rằng khi áp dụng việc “ Sử dụng công nghệ 4.0 trong giáo
dục kỹ năng: Bảo vệ môi trường và phòng chốn thiên tai vào trong giảng
dạy, đã góp phần đồi mới được phương pháp dạy học một cách sinh động và
truyền tải được cho học sinh tiết dạy mang lại hiệu quả thiết thực, tạo hứng thú
cho học sinh, học sinh nắm bắt thông tin bài dạy một cách dễ dàng hơn, không
còn có học sinh ngồi trong lớp gục mặt xuống bàn, hay học sinh lôi các môn học
khác ra học … là con đường ngắn nhất để học sinh có thể tiếp thu và lĩnh hội
kiến thức từ đơn giản đến phức tạp.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Bộ môn Địa lí ở trường phổ thông có vị trí, chức năng và nhiệm vụ quan
trọng trong việc đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ. Nhưng hiện nay học sinh lại chưa
chú trọng học môn này. Thực trạng đó do còn có nhiều nguyên nhân gây nên.
Ví dụ: trong quá trình giảng dạy nhiều giáo viên môn địa lí không chú
trọng đến đổi mới phương pháp giảng dạy, không đầu tư nhiều cho tiết dạy của
mình, thầy lên lớp chỉ chú trọng làm sao chỉ đề truyền tải hết kiến thức trong
sách là được đôi khi thầy còn độc thoại một mình “ Thầy đọc, trò chép” không
có tính đổi mới và sáng tạo bên cạnh đó tâm lí học sinh ngại học thuộc lòng,
ngại chép bài... Từ đó có thể thấy việc xây dựng và phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo cho học sinh qua những giờ học Địa lí rõ ràng là một nhiệm vụ
hết sức quan trọng của người giáo viên dạy môn Địa lí. Như vậy ta có thể thấy
được tầm quan trọng của hoạt động nhận thức tích cực, độc lập đặc biệt là trong

tư duy có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả giảng dạy, giáo dục
19


và phát triển toàn diện học sinh.
Để giúp học sinh phát huy hoạt động nhận thức độc lập, sáng tạo trong
quá trình học tập môn Đại lí ở trường trung học phổ thông đòi hỏi giáo viên phải
sử dụng nhiều biện pháp sư phạm. Tuy nhiên trong dạy học Địa lí không có biện
pháp nào là vạn năng để phát huy tối đa tính tích cực, chủ động trong quá trình
học tập của các em. Việc sử dụng các biện pháp sư phạm nói trên chỉ thực sự
đem lại hiệu quả giáo dục khi được giáo viên sử dụng một cách linh hoạt, mềm
dẻo, tuỳ mục đích của bài và khả năng nhận thức của các em.
Sau một thời gian vận dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào giảng dạy, bản
thân tôi đã nhận thấy rằng những kinh nghiệm này rất phù hợp với chương trình
sách giáo khoa và với những tiết dạy học theo hướng đổi mới. Học sinh có hứng
thú học tập hơn, tích cực chủ động sáng tạo để mở rộng vốn hiểu biết, đồng thời
cũng rất linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến thức và phát triển
kĩ năng. Không khí học tập sôi nổi, nhẹ nhàng và học sinh yêu thích môn học.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi trong quá trình giảng dạy môn
Địa lí ở trường trung học phổ thông. Trong quá trình làm đề tài chắc chắn không
tránh những sai sót, rất mong được sự góp ý chân thành của các đồng nghiệp.
3.2. Kiến nghị.
* Đối với Nhà trường
Nên có sự đầu tư khuyến khích giáo viên đổi mới phương pháp dạy học
dưới nhiều hình thức khác nhau.
* Đối với giáo viên
Phải thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ sư phạm, đổi mới phương pháp dạy học. Hạn chế tối đa phương pháp dạy
học truyền thống lấy giáo viên làm trung tâm.
Phải luôn tìm tòi, sáng tạo để từng bước cải tiến phương pháp dạy học cho

phù hợp với từng tiết học, bài học với những đối tượng học sinh khác nhau.
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 01 tháng 07 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Nguyễn Thị Tuyên

20


Bảo vệ Môi trường là một việc làm cần thiết của mọi người dân
Nguyễn Đằng Bính _ UBMTTQVN[10].

21



×