Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Thực nghiệm giờ đọc hiểu văn bản vợ chồng a phủ bằng câu hỏi nêu vấn đề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.4 KB, 18 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Môn Ngữ Văn ở trường THPT nói chung, ở chương trình Ngữ Văn 12 nói
riêng là sự tích hợp ba phân môn: Đọc Văn, Tiếng Việt và Làm Văn. Mỗi phân
môn có vai trò, nhiệm vụ và vị trí khác nhau trong việc trang bị tri thức khoa
học, rèn luyện kỹ năng và bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, thái độ cho học sinh.
Trong đó, phân môn Đọc Văn, nhất là các giờ đọc- hiểu Văn bản văn học
(VBVH) có tầm quan trọng đặc biệt đối với việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm và
năng lực thẩm mỹ cho học sinh.
Tuy thế, trong một số năm gần đây, không khí và hiệu quả dạy- học Ngữ
Văn, bao gồm cả dạy- học phân môn Đọc Văn và các giờ đọc- hiểu văn bản văn
học ở nhiều nhà trường thực sự không được như mong muốn của cả người dạy
lẫn người học. Không khí nhiều giờ đọc- hiểu trở nên tẻ nhạt, nặng nề, “thiếu
lửa”. Nhiều giáo viên dạy cho hoàn thành nhiệm vụ còn học sinh thì thụ động,
lười đọc, lười suy nghĩ, ngại phát biểu xây dựng bài hoặc nếu bị buộc phát biểu
thì trả lời cho qua chuyện. Khi làm văn, học sinh viết những câu văn, bài văn
nghèo nàn, ngô nghê về ý tứ, lủng củng trong diễn đạt. Hiệu quả dạy học Ngữ
Văn, vì thế, bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này có
nhiều: nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan; nguyên nhân từ phía
giáo viên, nguyên nhân từ phía học sinh.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề trong tác phẩm Vợ chồng A – Phủ của Tô
Hoài ở chương trình Ngữ văn lớp 12, THPT.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Ở trường THPT Vĩnh Lộc, một số lớp chất lượng đầu vào của học sinh thấp
nên dù chương trình sách giáo khoa (SGK) Ngữ Văn mới, trong đó có SGK Ngữ
Văn lớp 12 chứa đựng tiềm năng to lớn cho việc sử dụng câu hỏi nêu vấn đề.
Việc sử dụng những câu hỏi yêu cầu học sinh phải dùng tri thức đã biết để tìm
tòi phát hiện tri thức mới hoặc phải tổng hợp, bao quát tri thức trên nhiều lĩnh
vực, phải trăn trở suy ngẫm để mở rộng, xoáy sâu vấn đề hoặc vận dụng, liên hệ
văn bản văn học vào thực tế xã hội, thực tiễn đời sống lại càng khiêm tốn. Nhiều


đồng nghiệp của tôi vẫn không đủ kiên nhẫn để sử dụng một cách tối đa câu hỏi
đó trong các giờ đọc- hiểu. Họ thường ưu tiên sử dụng những câu hỏi có tính
chất tái hiện kiến thức như: Dựa vào sách giáo khoa tóm tắt những nét cơ bản
về tác giả, tác phẩm; tìm dẫn chứng làm rõ những luận điểm do giáo viên nêu
sẵn về nội dung, nghệ thuật của văn bản văn học,... Nếu có dùng câu hỏi nêu
vấn đề thì thường là những câu hỏi đơn giản, các dạng câu hỏi nêu vấn đề cũng
không phong phú, đa dạng. Thậm chí, có giáo viên chưa biết khai thác, tận dụng
triệt để và linh hoạt các câu hỏi nêu vấn đề có sẵn trong SGK.
Việc sử dụng những câu hỏi này yêu cầu học sinh phải dùng tri thức đã biết
để tìm tòi phát hiện tri thức mới hoặc phải tổng hợp, bao quát tri thức trên nhiều
lĩnh vực, phải trăn trở suy ngẫm để mở rộng, xoáy sâu vấn đề hoặc vận dụng,
liên hệ văn bản văn học vào thực tế xã hội, thực tiễn đời sống lại càng khiêm
tốn. Trong dạy học Ngữ Văn, đọc-hiểu văn bản văn học thực chất là tiếp nhận,


giải mã văn học nhìn từ phương diện con đường- hiệu quả (đọc- hiểu). Trong giờ
Đọc- hiểu văn bản văn học ở trường THPT, đối tượng tiếp nhận chính là học
sinh.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1.4.1 Phương pháp điều tra
- Thu thập những thông tin về việc sử dụng câu hỏi nêu vấn đề.
- Thu thập những thông tin ngược của học sinh về việc học tác phẩm
ở chương trình
1.4.2 Thực nghiệm sư phạm
Vận dụng câu hỏi nêu vấn đề để dạy tác phẩm
1.4.3 Phương pháp thống kê
Sử dụng một số phương pháp như lập bảng, vẽ đồ thị, kiểm định để đánh giá kết
quả thực nghiệm.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của đề tài

Quan niệm về đọc- hiểu VBVH Đọc- hiểu VBVH là khái niệm được nhiều
nhà nghiên cứu về phương pháp dạy- học Văn quan tâm như GS Phan Trọng
Luận, TS Đỗ Ngọc Thống, GS-TS Đỗ Thanh Hùng,GS-TS Trần Đình Sử... Theo
TS Đỗ Ngọc Thống, “ Đọc-hiểu văn bản bao gồm cả việc thông hiểu nghĩa đen,
nghĩa bóng, nghĩa hàm ẩn cũng như thấy được vai trò, tác dụng của các hính
thức, biện pháp nghệ thuật ngôn từ, cái thông điệp tư tưởng, tình cảm, thái độ
của người viết và cả những giá trị tự thân của hình tượng nghệ thuật. Đọc văn
theo tinh thần đó là toàn bộ quá trình tiếp nhận, giải mã văn bản(kể cả việc hiểu
và cảm thụ ” (Đỗ Ngọc Thống, 2003, “Chương trình Ngữ văn THPT và việc
hình thành năng lực văn học cho học sinh”, Tạp chí Gd số 66, trang 26-28).
Câu hỏi nêu vấn đề có tác dụng to lớn, nó phát huy tính tích cực, độc lập suy
nghĩ, tính chủ động tìm tòi, sáng tạo, kích thích hứng thú, say mê, lôi cuốn các
em vào quá trình tìm hiểu sâu, khám phá các tầng nghĩa bên trong, các điểm
sáng thẩm mỹ, thưởng thức cái hay, cái đẹp và trực tiếp tham gia vào quá trình
biến văn bản văn học thành tác phẩm văn học với sự sáng tạo của riêng mình.
Quan trọng hơn, các em được hình thành và rèn luyện khả năng tự tiếp nhận, tự
đánh giá, phân tích văn bản văn học theo quan điểm của riêng mình. Ngoài ra,
nó còn có tác dụng thôi thúc các em tìm hiểu thêm nhiều tư liệu lên quan đến
văn bản được học.
2.2. Thực trạng vấn đề.
Qua hoạt động dự giờ các đồng nghiệp khá thường xuyên, tôi nhận thấy một
trong rất nhiều lý do khiến học sinh không mấy hứng thú và mặn mà với các giờ
đọc- hiểu văn bản văn học là khá nhiều giáo viên văn chưa sử dụng được hệ
thống câu hỏi hướng dẫn học bài đủ sức lôi cuốn học sinh tham gia giờ học với
tinh thần chủ động, tích cực và say mê. Cá biệt, có giáo viên thường xuyên nêu
những câu hỏi không đạt yêu cầu về tính khoa học, tính sư phạm khiến học sinh
và đôi khi cả giáo viên dự giờ cũng không biết phải trả lời như thế nào.
Xuất phát từ thực tế đó, với mong muốn làm cho học sinh chủ động, tích cực
hơn; làm cho giờ dạy –học đọc hiểu sôi nổi, hào hứng và phát huy tốt hơn ưu thế
của loại giờ học này nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ



Văn, tôi đã thực nghiệm giờ đọc- hiểu văn bản" Vợ chồng A.Phủ " bằng câu
hỏi nêu vấn đề và nhận thấy đây là hướng đi rất khả quan.
2.3. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài.
2.3.1. Các nguồn CHNVĐ giáo viên có thể khai thác, sử dụng.
2.3.1.1. CHNVĐ. Sách giáo khoa (SGK)và các tư liệu tham khảo liên quan là
những nguồn khá gần gũi với giáo viên. Với nguồn là SGK, giáo viên có thể sử
dụng nguyên si những câu hỏi sẵn có trong phần hướng dẫn học bài hoặc xử lý
những câu hỏi nêu vấn đề của phần hướng dẫn học bài bằng cách cụ thể hóa và
điều chỉnh yêu cầu của các câu hỏi theo hướng vừa bán sát mục tiêu dạy học
vừa phù hợp với đối tượng học sinh của mình để đưa vào sử dụng.
Với nhiều văn bản văn học khác (Văn học Việt Nam), câu hỏi nêu vấn đề của
phần hướng dẫn học bài trong SGK thường đặt ra những vấn đề quá lớn, có tính
khái quát, tổng hợp cao mà hầu hết các học sinh không dễ tìm ra câu trả lời.
Trong trường hợp này, giáo viên phải sử dụng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề có
tính dẫn dắt, gợi mở để các em tìm hiểu từng khía cạnh cụ thể của vấn đề được
nêu, sau đó tổng hợp lại dưới dạng câu trả lời khái quát.
Ví dụ - để học sinh trả lời được câu hỏi “Số phận và tính cách nhân vật Mỵ
qua cảnh ngộ bị bắt về làm dâu gạt nợ, cuộc sống bị đọa đày tủi cực ở nhà
thống lý Pá Tra; diễn biến tâm trạng và hành động” (Hướng dẫn học bài- văn
bản "Vợ chồng A Phủ", tác giả Tô Hoài), giáo viên nên thiết kế các CHNVĐ nhỏ
hơn, cụ thể hơn, hướng các em đến việc phân tích nhân vật trên những phương
diện khác nhau (Trước khi bị bắt về làm dâu nhà Thống lý Pá Tra, Mị là cô gái
như thế nào? Vì sao Mị phải làm con dâu gạt nợ? Khi trở thành con dâu gạt nợ,
Mị bị đày đọa như thế nào về thể xác và tinh thần? Phản ứng của Mỵ trước
cuộc sống tủi nhục đó? Trong đêm tình mùa xuân, tâm trạng Mị có sự thay đổi
như thế nào? Những yếu tố nào đã tác động và làm nên sự thay đổi đó? Qua đó,
em cảm nhận thêm được điều gì về nhân vật Mỵ? Trong đêm cởi trói cho A Phủ,
tâm lý Mị diễn biến như thế nào? Vì sao Mỵ cởi trói và chạy theo A Phủ? Qua

đó hãy đưa ra nhận xét của riêng em về cuộc đời, số phận và những đặc điểm
nổi bật về con người Mỵ?) ,…
2.3.1.2. Ngoài những câu hỏi nêu vấn đề có sẵn trong SGK Ngữ Văn, giáo
viên có thể sử dụng những câu hỏi nêu vấn đề do bản thân thiết kế, tự xây
dựng bằng kinh nghiệm giảng dạy, vốn kiến thức văn học, đời sống, xã hội
hoặc dựa vào tư liệu tham khảo các loại.
Ví dụ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, nhân vật Mị khi bị
bắt về làm dâu nhà thống lí Pá Tra đã có ý định tự tử vì quá uất ức. Vì thương
cha nên Mị không nỡ chết. Nhưng sau một thời gian, khi cha Mị chết rồi, Mị
không còn nghĩ đến cái chết nữa mà chấp nhận thân phận làm dâu gạt nợ.
Giáo viên có thể đặt câu hỏi: Tại sao lúc này Mị không nghĩ đến cái chết nữa?
Khi đứng trước câu hỏi như vậy, học sinh sẽ có sự ngạc nhiên: Vì sao cùng
một nhân vật lại nẩy sinh mâu thuẫn như vậy? Chính sự ngạc nhiên đó sẽ thúc
đẩy học sinh suy nghĩ, tìm tòi và lí giải. Đó là khi Mị muốn chết, Mị vẫn còn
là một cô gái trẻ trung, xinh đẹp, có khát vọng sống, khát khao hạnh phúc. Mị
muốn chết càng chứng tỏ cô có khát vọng hạnh phúc mãnh liệt, không chấp
nhận kiếp sống nô lệ, không có hạnh phúc. Nhưng khi cha chết rồi, Mị lại


không nghĩ đến cái chết. Bởi lúc đó, ở lâu trong cái khổ, Mị quen rồi. Sự chà
đạp, áp chế của cha con thống lí đã khiến cho Mị tê liệt về ý thức, trở nên vô
cảm, câm lặng và chấp nhận kiếp sống nô lệ.
2.3.2. Các dạng câu hỏi nêu vấn đề tiêu biểu.
Tôi thường dùng 2 dạng tiêu biểu là: Câu hỏi “vì sao” và câu hỏi “như thế
nào?”.
2.3.2.1. Dạng câu hỏi “Vì sao?” Dạng câu hỏi này yêu cầu học sinh giải thích,
tìm hiểu nguyên nhân, từ đó tìm ra bản chất của vấn đề. Đây là dạng câu hỏi khá
khó vì để trả lời, học sinh phải nắm thật chắc vấn đề đang tìm hiểu. Ngoài ra,
các em phải có vốn kiến thức sâu, rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau; có tư duy
lôgic và đôi khi phải có cả sự nhạy cảm văn học nhất định. Với dạng câu hỏi này

học sinh có thể bám sát VBVH đang được tìm hiểu hoặc có thể vận dụng những
kiến thức bên ngoài văn bản để tìm câu trả lời.
Ví dụ, với giờ đọc-hiểu VBVH "Vợ chồng A Phủ", tác giả Tô Hoài (SGK
Ngữ Văn 12, tập II), để làm rõ sự cam chịu, gần như tê liệt sức sống, sức phản
kháng của Mỵ khi làm con dâu gạt nợ trong nhà Thống lý hoặc để làm rõ sức
sống tiềm tàng, sức phản kháng mãnh liệt của Mỵ trong đêm mùa xuân và đêm
cởi trói cho A Phủ, ta nên sử dụng dạng câu hỏi này. Vì sao khi mới bị bắt về
làm dâu nhà thống lý Pá Tra, Mỵ muốn ăn lá ngón để tự tử nhưng khi cha chết,
dù vẫn phải sống tủi nhục trong nhà thống lý, Mỵ lại không còn ý nghĩ đó? Vì
sao trong đêm mùa xuân, khi ký ức tuổi trẻ trở lại Mỵ nghĩ “Nếu có nắm lá ngón
trong tay lúc này, Mỵ sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa....Tuy
khi sử dụng, chúng ta nên cân nhắc về mật độ dùng, độ khó của câu hỏi và khả
năng của từng đối tượng học sinh, nên ưu tiên cho học sinh khá giỏi trả lời
những câu hỏi dạng này.
2.3.2.2. Dạng câu hỏi “như thế nào?” Đây là dạng câu hỏi yêu cầu học sinh
nêu cảm nhận, quan niệm, suy nghĩ, nhận thức, hiểu biết, ý kiến cá nhân về văn
bản văn học được đọc- hiểu. Đối với các giờ đọc hiểu văn bản văn học, do đặc
thù của môn Ngữ Văn, do đặc điểm riêng có của các văn bản nghệ thuật nên
giáo viên cần sử dụng triệt để dạng câu hỏi này để tạo điều kiện cho học sinh thể
hiện cảm nhận, suy nghĩ của riêng mình. Cùng với câu hỏi Vì sao, câu hỏi yêu
cầu học sinh nêu ý kiến cá nhân về văn bản văn học được đọc- hiểu cũng là dạng
câu hỏi mở có tác dụng thiết thực đối với giờ học. Trong thực tiễn tổ chức các
giờ đọc- hiểu văn bản văn học, tôi thường xuyên sử dụng dạng câu hỏi này theo
hai hướng sau:
- Giáo viên yêu cầu học sinh nêu quan niệm cá nhân xuất phát từ bản thân văn
bản được đọc- hiểu. Cụ thể là giáo viên sẽ thiết kế và sử dụng những câu hỏi để
học sinh được bày tỏ ý kiến của mình về tất cả các yếu tố thuộc nội dung và hình
thức nghệ thuật của văn bản văn học được đọc- hiểu. Dạng câu hỏi này có thể
được sử dụng thường xuyên.
Ví dụ: - Ấn tượng sâu sắc nhất của em nhân vật A.Phủ trong “Vợ chồng

A.Phủ” của Tô Hoài? ...
- Giáo viên yêu cầu học sinh nêu quan điểm cá nhân xuất phát từ những ý kiến
thuận chiều hoặc ngược chiều về văn bản văn học được đọc- hiểu.


Văn bản văn học có tính đa nghĩa. Việc tiếp nhận phụ thuộc vào rất nhiều yếu
tố như tuổi tác, giới tính, vốn văn hóa, kinh nghiệm sống, trình độ học vấn, tầm
đón nhận của người đọc. Điều đó giải thích vì sao cùng một câu thơ, cùng một
văn bản nhưng có nhiều cách hiểu, nhiều quan niệm khác nhau, thậm chí trái
ngược nhau. Chính vì thế, khi tổ chức giờ đọc- hiểu cho học sinh, người giáo
viên không thể không yêu cầu học sinh nêu quan điểm cá nhân xuất phát từ
những ý kiến thuận chiều hoặc ngược chiều về văn bản văn học được đọc- hiểu.
Việc làm này có tác dụng mở rộng, khắc sâu kiến thức cho học sinh hoặc định
hướng để học sinh hiểu và tiếp nhận một cách phù hợp. Để thiết kế và đưa vào
sử dụng những câu hỏi này, giáo viên Văn phải tích cực nghiên cứu về văn bản
văn học được đọc- hiểu; tìm hiểu các nguồn tài liệu liên quan; sàng lọc, chọn
lựa những tư liệu tin cậy để sử dụng.
2.3.3. Cách sử dụng câu hỏi nêu vấn đề trong giờ đọc- hiểu một VBVH
Ở mỗi giai đoạn khác nhau của tiến trình đọc- hiểu, giáo viên đều có thể sử
dụng các dạng CHNVĐ cho từng bài cụ thể.
2.3.3.1. CHNVĐ cho phần tìm hiểu về xuất xứ, hoàn cảnh ra đời của văn bản
văn học hoặc đoạn trích
Với phần xuất xứ và hoàn cảnh ra đời của văn bản văn học hoặc đoạn trích,
giáo viên thường có xu hướng sử dụng câu hỏi tái hiện và học sinh chủ yếu dựa
vào sách giáo khoa để giới thiệu. Tuy nhiên có những trích đoạn, những văn bản
mà tự thân hoàn cảnh ra đời và xuất xứ của nó đã chứa đựng rất nhiều ý nghĩa,
hoặc có giá trị gợi mở đối với việc tìm hiểu, khám phá về nội dung, tư tưởng của
toàn văn bản. Đối với những trường hợp này, việc sử dụng câu hỏi nêu vấn đề
không chỉ cần thiết mà còn rất hữu ích.
2.3.3.2. CHNVĐ cho phần tìm hiểu về bố cục VBVH

Việc phân chia bố cục văn bản văn học trong giờ đọc- hiểu là cần thiết vì nó
tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình tìm hiểu nội dung, nghệ thuật của văn bản.
Do đó, chúng ta không nên bỏ qua bước này. Câu hỏi sử dụng cho phần tìm hiểu
về bố cục văn bản văn học được đọc- hiểu cũng rất đa dạng, phong phú, bao
gồm cả hai dạng mà tôi đã trình bày ở trên.
Ví dụ:
- Vì sao có thể chia văn bản “Vợ chồng A Phủ” thành các đoạn: Đoạn 1 :
Từ đầu đến “Mị đành trở lại nhà Thống lý” (tr. 06); Đoạn 2: Tiếp theo đến “Vì
thế mà sinh sự đánh nhau ở Hồng Ngài” (tr. 13); Đoạn 3: Còn lại.
Dự kiến trả lời: Việc chia thành 3 đoạn như trên là căn cứ vào diễn biến trong
cuộc đời, số phận và tâm lý của nhân vật Mỵ. Đoạn 1: Mỵ trước khi về làm dâu
nhà Pá Tra. Đoạn 2: Cuộc đời làm dâu tủi nhục và sự hồi sinh của Mỵ trong đêm
mùa xuân. Đoạn 3: Sức sống và sự phản kháng quyết liệt để tự giải thoát của Mỵ
trong đêm cởi trói cho A Phủ).
2.3.3.3. CHNVĐ cho phần tìm hiểu về nhan đề và tình huống truyện.
Đối với những văn bản mà ngay nhan đề hoặc tình huống truyện đã chứa
đựng hoặc bao quát tư tưởng, quan niệm nghệ thuật của người sáng tác thì khi tổ
chức giờ đọc- hiểu văn bản văn học, giáo viên nên dành thời gian thỏa đáng để
hướng dẫn học sinh tìm hiểu chúng bằng những câu hỏi nêu vấn đề. Việc sử
dụng câu hỏi nêu vấn đề để tìm hiểu ý nghĩa nhan đề hoặc tình huống truyện


trong giờ đọc- hiểu nên bám sát các bước: Tìm hiểu nghĩa gốc của những từ,
cụm từ được sử dụng làm nhan đề hoặc gọi tên tình huống truyện được xây
dựng trong văn bản. Đặt nhan đề đó vào bối cảnh, tình huống truyện để tìm hiểu
ý nghĩa ẩn dụ, tượng trưng. Khai thác giá trị của nhan đề hoặc tình huống đó
đối với việc thể hiện nội dung, tư tưởng của văn bản văn học.
2.3.3.4. CHNVĐ cho phần tìm hiểu về nội dung, nghệ thuật.
Trong văn bản văn học, nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật gắn bó
mật thiết, hữu cơ với nhau. Nội dung biểu hiện qua hình thức và hình thức lại

chứa đựng nội dung - “Hình thức mang tính quan niệm”. Vì thế khi tìm hiểu,
phân tích một văn bản văn học, chúng ta thường đi từ nghệ thuật đến nội dung,
khám phá nội dung qua nghệ thuật. Việc sử dụng câu hỏi nêu vấn đề trong bước
này của tiến trình đọc-hiểu cũng hướng vào các yếu tố nghệ thuật để khám phá
nội dung, tư tưởng của văn bản văn học. Câu hỏi nêu vấn đề cần nhắm đến các
cấp độ ngữ- nghĩa của văn bản văn học như ngữ âm, từ ngữ, hình ảnh, chi tiết,
các “điểm sáng thẩm mỹ”, các “mâu thuẫn nghệ thuật”, cú pháp, kết cấu
. - Cấp độ ngữ âm: Trong nhiều VBVH, yếu tố ngữ âm của ngôn ngữ được người
nghệ sĩ dụng công khai thác nhằm đem lại hiệu quả biểu đạt về nội dung cũng
như tạo âm hưởng và nhạc điệu cho câu thơ, câu văn. Do vậy, khi hướng dẫn
học sinh tìm hiểu VBVH, giáo viên cần chú ý đến vấn đề này.
Ví dụ: Các chi tiết “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào
đĩa đèn cho sáng,... Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong
vách” đem lại cho em cảm nhận gì về nhân vật Mỵ trong đêm mùa xuân ở Hồng
Ngài? (Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài)
Dự kiến trả lời: Các chi tiết cho thấy Mị đang được hồi sinh bởi không khí của
những đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài. Hình ảnh cô Mị mất hết ý niệm về thời
gian, về cuộc sống, về bản thân mình đã được thay thế bởi một cô Mị yêu đời,
tâm hồn trẻ trung, đầy sức sống và có ý thức về chính bản thân mình
- Cấp độ cú pháp: Ngôn ngữ nghệ thuật thường cô đọng, hàm súc, lời ít ý nhiều,
“ý tại ngôn ngoại”, ngôn tận ý bất tận. Vì vậy, trong khi khám phá các giá trị
của văn bản văn học, ngoài việc dùng câu hỏi nêu vấn đề để tìm hiểu các cấp độ
ngữ- nghĩa nêu trên, có lúc chúng ta phải dùng câu hỏi nêu vấn đề để cắt nghĩa,
lý giải ý tứ của những câu thơ cụ thể.
Văn bản văn học là kết quả sáng tạo của người nghệ sĩ. Nó thể hiện quan
niệm, sự lý giải cuộc sống theo cách riêng của nhà văn. Các điểm sáng thẩm
mỹ, các tình huống có vấn đề, các mâu thuẫn nghệ thuật do tác giả dày công tạo
tác trong văn bản văn học không nằm ngoài mục đích đó. Điểm sáng thẩm mỹ
có thể là một hình ảnh, một từ “nhãn tự”, một thủ pháp nghệ thuật, một cấu
trúc độc đáo, ... trong văn bản văn học.

Ví dụ: Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng trong đoạn kết của Vợ nhặt, hình ảnh ô cửa
số bằng bàn tay trong Vợ chồng A Phủ, hình ảnh bàn tay Tnú trong Rừng Xà
nu,.... đều là những điểm sáng thẩm mỹ mà giáo viên có thể hướng dẫn học sinh
khám phá bằng các câu hỏi nêu vấn đề. Chẳng hạn: Hình ảnh ô cửa sổ bằng bàn
tay trong căn buồng của Mị ở nhà Thống lý Pá Tra đem lại cho em cảm nhận
gì? (Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài)


Dự kiến trả lời: Ô cửa sổ bằng bàn tay trong căn buồng của Mị là kênh duy
nhất nối Mị với thế giời bên ngoài khi cô đã hoàn thành công việc như một cỗ
máy lao động. Nhưng khi nhìn qua ô cửa đó Mị “chỉ thấy trăng trắng, không biết
là sương hay là nắng”. Ô cửa gợi người ta liên tưởng căn buồng Mị ở như một
thứ ngục thất tinh thần giam hãm cuộc đời, tuổi xuân của Mị. Nó làm tăng thêm
nỗi đau và số phận bi thảm của cô khi ở Hồng Ngài.
Tình huống có vấn đề trong văn bản văn học được hiểu là những tình huống
đem lại nhiều cách cảm, cách nghĩ, cách tiếp nhận khác nhau, có thể trái ngược
nhau hoặc những tình huống chứa đựng vấn đề nghịch lý, mâu thuẫn,... Việc tìm
hiểu các tình huống này sẽ giúp người đọc, người học tìm thêm con đường đến
với những thông điệp tác giả gửi vào văn bản văn học.
2.3.3.5. CHNVĐ cho phần rút ra chủ đề và kết luận chung về văn bản văn
học hoặc ứng dụng, liên hệ VBVH với thực tiễn đời sống.
Hầu hết chủ đề của các văn bản văn học hoặc những kết luận có tính chất
tổng kết đều được rút ra từ quá trình tìm hiểu, khám phá văn bản một cách khá
đầy đủ và toàn diện. Vì thế, để xác định chủ đề và đưa ra kết luận chung về một
văn bản, chúng ta không thể sử dụng câu hỏi tái hiện kiến thức. Giáo viên cần
tung ra những câu hỏi nêu vấn đề đòi hỏi khả năng tổng hợp, khái quát cao của
học sinh.
Dưới đây là mô hình câu hỏi cho bài: Vợ chồng A.Phủ
MÔ HÌNH CÂU HỎI TRONG TÁC PHẨM “VỢ CHỒNG A PHỦ
-Tô Hoài A. MỤC TIÊU BÀI HỌC:

1. Kiến thức:
- Hiểu được cuộc sống cực nhục, tối tăm và quá trình đồng bào vùng cao Tây
Bắc vùng lên tự giải phóng khỏi ách áp bức, kìm kẹp của bọn thực dân và chúa
đất thống trị.
- Thấy được nghệ thuật trần thuật linh hoạt, lời văn tinh tế, giàu chất thơ và đậm
màu sắc dân tộc của tác phẩm; những đóng góp của nhà văn trong việc khắc họa
tính cách nhân vật, sự tinh tế trong diễn tả cuộc sống nội tâm, sở trường quan sát
những nét riêng về phong tục, tập quán và lối sống của người Mông.
2. Kĩ năng:
Đọc hiểu và phân tích một truyện ngắn.
3. Thái độ:
Trong mỗi con người đều tiềm tàng một sức sống mãnh liệt,phải tự cứu lấy mình
khi gặp bước đường cùng.Hãy yêu thương đùm bọc lẫn nhau trong khó khăn
hoạn nạn.
4. Định hướng hình thành năng lực:
- Phân tích
- Tư duy, khái quát
- Hiểu biêt.....


B. TIẾN TRÌNH BÀI DẠY:
1. Đặt vấn đề:
Tổ chức học sinh tìm hiểu tiểu dẫn.
-Xem ảnh Tô Hoài.
Câu hỏi: Dựa vào sách giáo khoa và tư liệu tham khảo, học sinh nêu ngắn gọn
những điều em biết về cuộc đời, đặc điểm nhà văn Tô Hoài?
Câu hỏi: Hoàn cảnh ra đời và xuất xứ của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”?
Tác giả:Tô Hoài sinh năm 1920, trong một gia đìnhthợ thủ công ngoại thành Hà
Nội. Bước vào tuổi thanh niên, ông đã phải làm nhiềucông việc để kiếm sống
như dạy trẻ, bán hàng, kế toán hiệu buôn,… nhưng có những lúc thất nghiệp.

Khi đến với văn chương, ông nhanh chóng được người đọc chú ý, nhất là qua
truyện Dế Mèn phiêu lưu ký. Năm 1943, Tô Hoài gia nhập Hội Văn hóa cứu
quốc. Trong chiến tranh Đông Dương.
Từ năm1954 trở đi, ông có điều kiện tập trung vào sáng tác. Tính đến nay, sau
hơn sáu mươi năm lao động nghệ thuật, ông đã có hơn 100 tác phẩm thuộc
nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, truyện dài kỳ, hồi ký, kịch bản phim, tiểu
luận và kinh nghiệm sáng tác.
Sáng tác của Tô Hoài thiên về những sự thật của đời thường. ông có vốn hiểu
biết phong phú sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng đất khác nhau và
có lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động hấp dẫn người đọc.
Tác phẩm:
Hoàn cảnh ra đời:
Năm 1952, Tô Hoài theo bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Trong chuyến đi
dài tám tháng này, ông đã sống gắn bó nghĩa tình với đồng bào dân tộc vùng cao
Tây Bắc. Năm 1953, ông viết thành công tập truyện Tây Bắc gồm 3 truyện: Cứu
đất cứu mường, Mường Giơn và Vợ chồng A Phủ. Tập truyện được giải nhất của
Hà Nội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955.
Nội dung cốt truyện của tác phẩm:
Tác phẩm kể về cuộc đời tăm tối,khổ nhục của 2 nhân vật Mị và APhủ dưới sự
đàn áp bóc lột của bọn chúa đất và thực dân.
Bằng sức sống tiềm tàng và khát vọng tự do mãnh liệt, họ đã tự giải thóat, đến
với cách mạng, tham gia du kích góp phần giải phóng quê hương.
Câu hỏi: Từ nội dung cốt truyện của Vợ chồng Aphủ, em hãy cho biết chủ
đề của tác phẩm?
Chủ đề: Qua việc phản ánh cuộc sống khổ cực, tối tăm của người dân lao động
miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn thực dân và chúa đất phong kiến.
Tô Hoài thể hiện lòng thông cảm và sự trân trọng những khát khao tự do và ý
thức tự giải phóng của họ.
Đề tài: đề tài miền núi.
Câu hỏi: Các sáng tác của Tô Hoài thiên về diễn tả điều gì?

Các sáng tác của Tô Hoài thiên về diễn tả những sự thật của đời thường. Ông có
vốn hiểu biết phong phú và sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác
nhau trên đất nước ta.
Câu hỏi: Vì sao tác phẩm của ông thu hút người đọc?


Tác phẩm của ông thu hút người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của
người từng trải, vốn từ vựng giàu có.
C. TRIỂN KHAI BÀI DẠY:
*HĐ 1: Học sinh đọc thầm truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”.
*HĐ 2: Nhân vật Mị.
– Nhân vật tiêu biểu cho số phận những người phụ nữ nghèo khổ.
– Chịu ách nặng của đồng tiền nghèo đói.
– Chịu ách nặng của cường quyền bạo lực.
– Chịu ách nặng của thần quyền
Câu hỏi: Trước khi về nhà thống lí Pá – Tra , Mị là con người như thế nào?
– Mị là người con gái trẻ đẹp, khát khao tự do, tình yêu, hạnh phúc.
– Tài hoa “thổi lá hay như thổi sáo”
– Chăm chỉ lao động, không tham giàu “con nay đã đã biết cuốc nương làm ngô,
con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu.”
– Hiếu thảo: không nỡ chết khi chưa trả hết nợ thay cho bố.
Mị tiêu biều cho vẻ đẹp của người con gái miền núi, xứng đáng hưởng hạnh
phúc. Nhưng “bông hoa ban tinh khiết” của núi rừng Tây Bắc ấy lại bị nhấn
chìm trong kiếp sống tôi đòi-khổ nhục
Câu hỏi: Vì sao Mị phải làm con dâu nhà thống lí Pá – Tra?
Vì bố mẹ Mị không trả nổi món tiền vay nhà thống lí. Để cứu nạn cho cha,
Mị phải chịu bán mình, chịu cảnh làm con dâu gạt nợ, bị cha con thống lí chiếm
đoạt sức lao động, nhan sắc và cả cuộc đời ngưười con gái. Danh nghĩa là con
dâu nhưng thực chất cô làm nô lệ. Sống trong nhà thống lí, Mị phải cam nhận tôi
đòi, làm lụng vất vả suốt ngày đêm không bằng con trâu, con ngựa.

Câu hỏi: Cuộc sống và tinh thần của Mị như thế nào khi trở thành con dâu
gạt nợ trong nhà thống lí Pá – Tra?
Danh nghĩa là con dâu nhưng thật sự là nô lệ, danh nghĩa là vợ chồng vớ A
Sử nhưng không hạnh phúc. Mị bị bốc lột sức lao động một cách tàn nhẫn, làm
việc cả ngày lẫn đêm.
Về tinh thần: Cô không có một niềm vui nào trên mặt, lúc nào cũng buồn rười
rượi, lặng câm “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Căn buồng của Mị nằm
diễn tả tuyệt hay về một thứ ngục thất tinh thần, nó không giam hãm thân xác
Mị nhưng nó tách li Mị với cuộc đời, nó cầm cố tuổi xuân và ước mơ của Mị.
Câu hỏi: Mị đã từng muốn chết nhưng cô không thể chết, vì sao lại như
vậy? Đến lúc cô có thể chết nhưng cô lại không chết, hãy làm rõ điều đó?
Mị đã từng muốn chết nhưng cô không thể chết vì món nợ của cha vẫn còn.
Nhưng đến lúc cô có thể chết, vì cha cô không còn nữa thì Mị lại buông xuôi,
kéo dài mãi một sự tồn tại vật vờ. Chính lúc này Mị mới đáng thương hơn vì đã
không thiết chết thì có nghĩa là sự tha thiết với cuộc sống cũng không còn, lúc
đó Mị chỉ là cái xác không hồn.
Câu hỏi: Sức sống của Mị trỗi dậy khi nào?
Phải chăng cuộc sống của Mị đã vĩnh viễn mất đi ? Bên trong “con rùa lùi
lũi” kia đang có một con người, người con gái bất hạnh này vẫn tiềm tàng một
sức sống bền bỉ, mãnh liệt, khát vọng hạnh phúc lớn lao, khi gặp cơ hội thuận


lợi, sức sống đó lại trỗi dậy mạnh mẽ.
Mùa xuân đến với sự thay đổi và sức sống mãnh liệt của thiên nhiên, đất trời
thay đổi, không khí đón tết náo nức, đối lập với không gian sống và tâm trạng
của Mị khiến sức sống của Mị trỗi dậy.
Câu hỏi: Để quên đi cuộc sống thực tại Mị đã làm gì?
Để quên đi cuộc sống hiện tại, cô đã lén lút uống rượu “uống ừng ực từng
bát”, rồi say đến lịm người. Cái say cùng lúc vừa gây sự lãng quên vừa đem về
cõi nhớ: lãng quên thực tại; nhớ về ngày trước và quan trọng là nhớ rằng mình

vẫn là một con người, vẫn có quyền sống của một con người.
Câu hỏi: Sức ám ảnh của tuổi xuân cứ lớn dần. Mị đã làm gì để chuẩn bị đi
chơi?
Sức ám ảnh của tuổi xuân cứ lớn dần. Mị quấn lại tóc, với chiếc váy hoa, rồi
rút thêm cái áo để chuẩn bị đi chơi hội. Nhưng A Sử đã trói đứng cô vào cột nhà.
– Mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tha thiết, bồi hồi… , tiếng sáo ấy, sức sống trỗi
dậy của mùa xuân ấy mạnh đến nỗi cô bị trói mà vẫn không biết mình đang bị
trói.
– Khi rượu tan, trở lại thực tại, Mị lại là con rùa lặng câm, còn lặng câm hơn cả
trước.
Câu hỏi: Diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình xuân?
- Mùa xuân ở vùng núi cao, cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp cùng âm thanh tiếng
sáo gọi bạn tình đã đánh thức tâm hồn ham yêu, ham sống của Mị.
- Qúa khứ êm đẹp, hiện tại phũ phàng => Mỵ thấy cô đơn, cay đắng => cô muốn
chết.
- Nhưng tiếng sáo gọi bạn cứ réo rắt, mời goị … => Mị muốn đi chơi.
- Bị Asử trói đứng, đau đớn
- Tủi nhục, nhưng tâm hồn Mị vẫn vượt qua khỏi vòng dây trói để đi theo tiếng
sáo
=>Bạo lực và dây trói chỉ có thể trói buộc thể xác MỊ chứ không trói buộc được
tình yêu và sự sống của Mị.
Câu hỏi tích hợp: Qua hành động Mị cởi trói cho A Phủ đã gợi cho em nhận
ra điều gì nơi con người của Mị?
+ Niềm khát khao sống và khát khao tự do của nhân vật Mị.
+ Thể hiện sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị: Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa
với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình.
+ Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói
riêng và những người phụ nữ Việt Nam nói chung
*HĐ 3: Nhân vật A Phủ.
– Nhân vật A Phủ góp phần làm nổi bật số phận đau khổ của người dân nghèo

miền núi dưới ách áp bức của thực dân – phong kiến
Câu hỏi: A Phủ có một quá khứ như thế nào?
– Là một chàng trai khoẻ mạnh, lao động giỏi, thạo công việc, cần cù, chịu khó,
gan dạ, có bản lĩnh.
– Con gái trong làng nhiều người mê, nhưng “không có ruộng không có bạc
không lấy được vợ”.
Câu hỏi: Vì sao A Phủ lại trở thành người ở nợ cho nhà thống lí Pá Tra?


- Chính vì gan dạ mà A Phủ dám đánh A Sử- con nhà quan, anh bị bắt và bị phạt
vạ.
- A Phủ đã trở thành người ở nợ, làm nô lệ, quanh năm A Phủ một mình rong
ruổi ngoài rừng làm nương, rẫy, chăn bò, ngựa, bẫy nhím, hổ…
Câu hỏi: Tai hoạ đến với A Phủ do sự kiện gì?
Tai hoạ đến với A Phủ: do mải mê bẫy nhím, do vẫn chưa hết lòng ham sống
phóng khoáng, hồn nhiên – A Phủ lỡ để hổ đói vồ mất một con bò. Vì thế anh bị
Pá Tra trói đứng vào chân cột.
Câu hỏi: A Phủ bị trói đứng nhiều đêm ở ngoài trời, Mị có để ý gì đến A
Phủ không? Vì sao vậy?
Cuộc đời Mị như tắt dần trong đêm tối. Mị không còn niềm vui nào ngoài
việc đêm đêm ra sưởi lửa ngoài bếp. Ngọn lửa như người bạn duy nhất đem lại
cho Mị chút niềm vui.
A Phủ bị trói đứng nhiều đêm ở ngoài trời, những đêm trước Mị vẫn thản
nhiên như không có sự tồn tại của A Phủ. Vì nỗi đau khổ của Mị quá lớn làm
mất đi sự quan tâm của cô đối với người khác, Mị như bị tê liệt về tinh thần.
Câu hỏi: Cũng như những đêm trước, đêm nay Mị cũng ra sưởi lửa, nhưng
Mị đã đổi thay, Mị đổi thay nhờ gì?
Cũng như những đêm trước, đêm nay Mị cũng ra sưởi lửa; nhưng Mị đã đổi
thay. Mị nhìn thấy A Phủ khóc “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm
má xám đen lại”, dòng nước mắt đau đớn, dòng nước mắt của sự tuyệt vọng.

Dòng nước mắt đã đưa Mị ra khỏi cõi vô cảm, khiến Mị ra khỏi cõi quên để trở
về cõi nhớ… Mị nhớ ra mình, xót cho mình. Từ xót thương cho mình, Mị mới
xót thương cho A Phủ- người cùng cảnh ngộ.
Câu hỏi: Diễn biến tâm lí của Mị ra sao? Vì sao Mị quyết định cầm dao cắt
dây cởi trói cho A Phủ?
Chuyển ý nghĩ từ mình sang A Phủ. Mị không nghĩ đến sự giải thoát cho
bản thân mà nghĩ đến cho A Phủ. A Phủ ở vào cảnh ngộ khác, không bị ràng
buộc và có lẽ nào lại phải chết ở nhà này.
– Mị nhớ lại “Đêm năm trước A Sử trói Mị. Mị cũng phải trói đứng thế kia.
Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ. Không biết lau đi
được.”
– Nhớ tới cảnh: Người đàn bà ngày trước bị trói đến chết.
– Mị càng hiểu hơn sự độc ác của cha con nhà thống lí Pá – Tra.
– Thấy rõ sự nguy khốn vô lí đang ập xuống với A Phủ.
– Mị nghĩ đến việc A Phủ chạy trốn và hậu quả của việc này là Mị sẽ là người
trói thay vào cái cột đấy.
=> Tình thương cứ lớn dần, không thể ngồi nhìn A Phủ chết, những cơ sở tâm lí
ấy đã thúc đẩy Mị hành động: cô đã mạnh dạn cầm dao cắt dây cởi trói cho A
Phủ.
Câu hỏi sáng tạo: Tại sao câu văn “Mị đứng lặng trong bóng tối”, được tách
thành dòng riêng?
Câu văn được tách thành một dòng riêng, nó như cái bản lề khép lại một
quãng đời tủi nhục của Mị, đồng thời mở ra một tương lai hạnh phúc.
Câu hỏi: Sự giải thoát của Mị và A Phủ nói lên điều gì?


Việc Mị giải thoát cho A Phủ và chạy theo A Phủ ở đây có sự thúc bách của
tình cảm, nhưng cũng có sự thúc bách của hoàn cảnh. Mị biết ở đây thì chết,
muốn sống chỉ có con đường duy nhất là chạy cùng A Phủ. Như vậy tình thương
đã giúp Mị cứu được A Phủ, lòng thương mình đã giúp cô giải thoát được chính

bản thân mình, điều mà trước đây Mị chưa bao giờ nghĩ đến. Sự giải thoát của
Mị và A Phủ nói lên sức sống mạnh mẽ, quết liệt không có gì có thể làm mai
một của người dân để dành lại cuộc sống tự do.
Câu hỏi: Sức sống và khát vọng tự do của A Phủ được thể hiện qua những
chi tiết nào trong tác phẩm?
- A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh, lao động giỏi như“con trâu tốt” của núi
rừng Tây Bắc.
- A Phủ có khát vọng tự do, sẵn sàng phản kháng đánh lại con nhà giàu .
- Bị phạt vạ một cách tàn nhẫn, A Phủ vẫn gan lì chịu đựng. Bị trói đứng, A Phủ
dùng hàm răng to khỏe cắn đứt dây trói…
=>A Phủ là một chàng trai mạnh mẽ, táo bạo ,có ý thức phản kháng mãnh lịêt và
tự phát.
Câu hỏi khám phá: Sự gặp gỡ giữa Mị và A Phủ nói lên điều gì?
Có thể nói A Phủ gặp Mị chính là cuộc gặp lịch sử giữa những người lao động,
mặc dù khác nhau về hoàn cảnh cũng như sự xuất thân nhưng đều có chung một
kẻ thù, đó chính là giai cấp thống trị.
*HĐ 4: Nghệ thuật.
Câu hỏi: Em có nhận xét về nghệ thuật xây dựng tác phẩm của nhà văn?
– Nghệ thuật xây dựng nhân vật có nhiều điểm đặc sắc ( A Phủ được miêu tả qua
hành động, Mị chủ yếu khắc họa tâm trạng).
– Miêu tả tâm lí nhân vật sinh động có cá tính đậm nét.
– Trần thuật uyển chuyển linh hoạt; cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự
nhiên mà ấn tượng; kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khóe léo.
– Biệt tài miêu tả thiên nhiên và phong tục tập quán của người dân miền núi
( cảnh xử kiện, không khí lễ hội mùa xuân, những trò chơi dân gian, tục cướp
vợ,…).
– Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên sinh động hấp dẫn.
– Ngôn ngữ tinh tế mang đậm màu sắc miền núi.
Câu hỏi: Em hãy nhận xét gì về nghệ thuật của nhà văn Tô Hoài khi miêu
tả nhân vật Mị?

- Cách tạo ra những nghịch lý trong cuộc đời, số phận, tính cách của nhân vật
Mị.
- Nghệ thuật so sánh( vừa tương đồng-vừa đòn bẩy); thủ pháp vật hóa để cực tả
nỗi đau : kiếp người là kiếp vật của Mị
-Cách dùng hình ảnh ẩn dụ độc đáo(căn buồng của Mị) gây cảm giác ngột
ngạt,bức bối về một nhà tù rùng rợn à đó là hình tượng hóa giàu sức khái quát về
địa ngục cuộc sống của Mị –tê buốt một kiếp người.
*HĐ 5: Củng cố.
Câu hỏi: qua số phận hai nhân vật Mị và A Phủ hãy phát biểu ý kiến về giá
trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm?
Câu hỏi gợi mở: Nêu khái niệm “nhân đạo”?


+ Niềm cảm thông thương xót những con người bất hạnh, bị chà đạp, bị lăng
nhục bởi xã hội hoặc một tầng lớp thống trị nào đó.
+ Thái độ thấu hiểu trân trọng những đức tín cao quí của con người trong nghịch
cảnh.
– Giá trị hiện thực: phản ánh cuộc sống cơ cực tăm tối của nhân dân miền núi
dưới ách áp bức của bọn thực dân và chúa đất.
– Giá trị nhân đạo:
+ Niềm cảm thông, thương xót của tác giả đối với số phận bất hạnh của người
dân miền núi dưới ách áp bức của bọn thực dân phong kiến qua:
++ Nhân vật Mị: cuộc sống tủi cực của Mị khi bị bắt về làm con dâu gạt nợ của
nhà thống lí Pá – Tra: bị bốc lột sức lao động, bị hủy hoại về đời sống tinh thần.
++ Nhân vật A Phủ: tuổi thơ bất hạnh; tủi cực khi ở đợ cho nhà thống lí; nạn
nhân của chế độ xử kiện bất công.
+ Thấu hiểu trân trọng và ca ngợi tinh thần phảng kháng, sức sống tiềm tàng của
nhân vật Mị qua: đêm tình mủa xuân; chứng kiến cảnh A Phủ bị trói và cắt dây
trói cứu A Phủ.
Câu hỏi: Giữa Mị và A Phủ có điểm gì chung?

Mị và A Phủ đều là nạn nhân của gia đình thống lí Pá Tra (Mị là con dâu gạt
nợ, A Phủ là người ở nợ).
Câu hỏi ghi nhớ: Cảnh ngộ của hai nhân vật Mị và A Phủ gợi cho em nhớ
đến những nhân vật nào mà em đã được học của các nhà văn khác?
Cảnh ngộ của hai nhân vật Mị và A phủ ít nhiều gợi cho ta nhớ đến Chí phèo
của Nam Cao, chị Dậu của Ngô Tất Tố, hay anh Pha trong “ Bước đường cùng”.
Câu hỏi tư duy: Ở cuối tác phẩm, Tô Hoài có miêu tả không gian tối mịt,
vậy cảnh tối ở tác phẩm này có gì khác so với “đêm tối như mực” trong tác
phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố?
Với tác phẩm Tắt đèn thì đó là màn đêm thăm thẳm vô biên của sự bế tắc, thì
khi đến với Vợ chồng A Phủ màn đêm đã có chút ánh sáng tuy còn lu mờ, nhưng
về sau Mị đã tìm ra nguồn sáng từ đó giác ngộ và đi theo con đường Cách mạng
để chống lại sự bóc lột của giai cấp phong kiến.
D,TỔNG KẾT
Bằng ngòi bút tài tình của mình, Tô Hoài đã dựng lên “Vợ chồng A
Phủ”- một truyện ngắn xuất sắc viết về đề tài miền núi. Với giá trị hiện thực và
giá trị nhân đạo hoà quện trong một chất thơ trong sáng, chắc chắn đây sẽ mãi là
một tác phẩm có giá trị trong nền văn học dân tộc.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến.
Sau một thời gian kiên trì thử nghiệm câu hỏi nêu vấn đề trong các giờ đọchiểu văn bản văn học, tôi nhận thấy không khí các giờ học được cải thiện đáng
kể. Số lượng học sinh xung phong phát biểu xây dựng bài cũng như số học sinh
trả lời được câu hỏi do giáo viên nêu ra ngày càng nhiều hơn. Một số em thì
thực sự thích học môn Ngữ Văn. Qua hoạt động trả lời câu hỏi nêu vấn đề do
giáo viên đặt ra trong các giờ đọc- hiểu vaưn bản văn học, kiến thức về tác phẩm
của nhiều học sinh được mở rộng, khắc sâu. Nhờ thế, các em có vốn liếng văn
học nhất định để làm tốt các bài nghị luận văn học. Điểm số của các bài Làm
văn cũng như điểm số môn Ngữ Văn của các em được cải thiện đáng kể. Ở các


lớp tôi phụ trách, tỷ lệ học sinh có điểm kiểm tra học kỳ cũng như điểm tổng kết

môn Văn trên trung bình đạt từ 85% trở lên. Trong đó, điểm khá giỏi của bài
kiểm tra học kỳ tăng từ 6,3% lên 12.7%, tỷ lệ khá giỏi trong điểm TB cả năm
môn Văn tăng từ 15.6% lên 24.5%. Kết quả cụ thể như sau:
- Năm học 2018 - 2019 (Lớp: 12C10) Số lượng và tỷ lệ
Tỷ lệ điểm trên trung bình Bài KT học kỳ I 20/35hs(57,14%). Khá giỏi
10/35hs(28,57%) Bài KT học kỳ II 30/35(85,7%). Khá giỏi 20/35hs (57,14%)
Tổng số học sinh Điểm TBm HKI trên trung bình; 30/35hs( 85,14%) Khá giỏi
8/35hs(22,85%) Điểm TBm HKII trên trung bình 32/35(91,42%) .Khá giỏi
13/35(37,14%) sinh: Điểm TBm CN trên trung bình 34/35hs(97%). Khá giỏi
15/35hs (42,85%)
- Năm học 2019 - 2020 (Lớp 12B8 và 12B12) Số lượng và tỷ lệ Trong đó, tỷ lệ
điểm trên trung bình Bài KT học kỳ I 50/74 67.5% . Khá giỏi20/50hs = (40%)
Bài KT học kỳ II 60/74 81.08% 30/60 = (50%) Điểm TBmtrên trung bình HKI
65/74 87.83% .Khá gioi, 22/65 = 33,84%. Điểm TBm HKII trên trung bình
70/74 94.59% Khá giỏi25/70 = (35,71%). Điểm TBm CN trên trung bình 72/74
97,29%. Khá giỏi 30/72 = (41,66%)
3. Kêt luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận.
Dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh, làm cho
học sinh chủ động và sáng tạo trong việc chiếm lĩnh tri thức khoa học đang là
một trong những mục tiêu quan trọng của đổi mới phương pháp dạy - học hiện
nay. Việc sử dụng câu hỏi nêu vấn đề để tích cực hóa hoạt động nhận thức của
học sinh trong giờ đọc- hiểu VBVH, chương trình Ngữ Văn THPT nói chung,
chương trình Ngữ Văn 12 nói riêng không nằm ngoài mục tiêu chung đó. Phát
vấn là thao tác được sử dụng trong mọi phương pháp dạy học, từ những phương
pháp dạy học truyền thống đến các phương pháp dạy học hiện đại. Hiệu quả của
một giờ học phụ thuộc không nhỏ vào chất lượng hệ thống câu hỏi hướng dẫn
học bài của giáo viên. Vì thế, đề tài này tuy không đặt ra vấn đề có tầm vĩ mô
trong việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ Văn nhưng hiệu quả, tính thiết
thực, tính khả thi và phạm vi ứng dụng rộng lớn của đề tài là điều không thể phủ

nhận. Chính vì thế, đề tài có ý nghĩa tích cực đối với việc nâng cao chất lượng,
hiệu quả dạy - học phân môn Đọc Văn nói riêng, môn Ngữ Văn nói chung.
3.2. Kiến nghị.
Để vận dụng câu hỏi nêu vấn đề trong giờ đọc- hiểu văn bản một cách hiệu
quả, giáo viên cần phải chú ý một số điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, phải đảm bảo mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa việc tổ chức
cho học sinh nắm vững nội dung, nghệ thuật của văn bản văn học và hoạt động
trả lời câu hỏi trên lớp nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức của các em.
Thứ hai, phải lựa chọn những câu hỏi phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung
bài học, tiết học, đối tượng học sinh và thời gian, điều kiện thực tế cụ thể.
Thứ ba, sử dụng gắn liền với việc đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức
giờ đọc hiểu văn bản văn học, cũng như gắn với đổi mới phương pháp kiểm tra,
đánh giá mức độ tiếp nhận văn bản của học sinh.


Tri thức khoa học và đời sống là vô tận, hiểu biết của học trò cũng như của
chính bản thân các giáo viên là hữu hạn. Không phải mọi điều chúng ta đặt ra,
học sinh đều trả lời trôi chảy và trùng khớp với những gì ta đã dự kiến khi thiết
kế câu hỏi nêu vấn đề. Nhưng cũng đừng vì thế mà các đồng nghiệp nản chí và
ngại sử dụng câu hỏi nêu vấn đề trong các giờ đọc- hiểu văn bản văn học. Kiến
thức các em có được qua những câu trả lời là đáng quý nhưng quý hơn nữa là
việc kiên trì sử dụng câu hỏi nêu vấn đề của giáo viên sẽ giúp các em được rèn
luyện thói quen chịu khó suy nghĩ, tìm tòi và tinh thần tích cực, chủ động chiếm
lĩnh tri thức trong quá trình học tập. Vì thế, tôi tha thiết mong quý đồng nghiệp
sẽ kiên trì, linh hoạt và sáng tạo trong việc sử dụng câu hỏi nêu vấn đề để nâng
cao hiệu quả giờ đọc- hiểu văn bản văn học cũng như nâng cao chất lượng dạy
học Ngữ Văn ở trường THPT.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG
Thanh Hóa, ngày 30 / 6 / 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của

mình viết, không sao chép nội dung
sáng kiến của người khác.
Giáo viên

Mai Đình Hà

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạp chí giáo dục số 102, trang 16-18 2. Đỗ Ngọc Thống, 2003.


2.“Chương trình Ngữ văn THPT và việc hình thành năng lực văn học cho học
sinh”, Tạp chí giáo dục số 66, trang 26-28 3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2010.
3. Tài liệu tập huấn giáo viên dạy học, kiểm tra đánh giá theo chuẩn kiến thức,
kỹ năng trong chương trình giáo dục phổ thông, môn Ngữ Văn cấp THPT
4. Sách giáo khoa Ngữ Văn 12, tập 1 và tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội
5. Các nguồn tài liệu tham khảo trên mạng.

DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SKKN ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI
CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN


XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Mai Đình Hà
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên-Trường THPT Vĩnh Lộc
TT

Tên đề tài skkn

Cấp đánh

giá xếp
loại
( phòng,
Sở, Tỉnh..)

1

Mấy vấn đề về phương pháp
rèn luyện kỹ năng làm văn cho
học sinh lớp 10
Giáo dục đạo đức học sinh
THPT qua việc ra đề văn nghị
luận xã hội

Sở
GD&ĐT

2

Sở
GD&ĐT

Kết
quả
đánh
giá,
xếp
loại( A,
B, C..)
C


Năm học đánh
giá, xếp loại

C

2009 - 2010

2005 - 2006

MỤC LỤC
1. Mở đầu
Trang
1.1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................1


1.2. Mục đích nghiên cứu.................................................................................1
1.3. Đối tượng nghiên cứu................................................................................1
1.4. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................2
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của đề tài..................................................................................2
2.2. Thực trạng vấn đề..........................................................................................2
2.3. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài.................................3
2.3.1. Cấc nguồn câu hỏi giáo viên có thể khai thác sử
dụng................................3 2.3.2. Các dạng câu hỏi nêu vấn đề tiêu
biểu....................................................4 2.3.3. Cách sử dụng câu hỏi nêu vấn đề
trong giờ đọc-hiểu............................. 5 2.4. Hiệu quả của sáng
kiến ................................................................................13
3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận.......................................................................................................14

3.2. Kiến nghị............................................................................................... ......14
Tài liệu tham khảo
Danh mục các đề tài SKKN đã được xếp loại



×