Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

ĐỌC HIỂU TRUYỆN NGẮN VỢ CHỒNG A PHỦ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.48 KB, 54 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA NGỮ VĂN
------

BÀI TẬP CHUYÊN ĐỀ
ĐỌC HIỂU TRUYỆN NGẮN VỢ CHỒNG A PHỦ

Sinh viên thực hiện

: Phạm Quỳnh Dương

Lớp

: Văn D K50

Giáo viên hướng dẫn

: PGS.TS Nguyễn Thị Thanh Hương

Bộ môn

: Phương pháp dạy học Văn

khoá học : 2003-2004
Hà Nội, 12-2003


Đọc hiểu truyện ngắn Vợ chồng A Phủ - Tô Hoµi

PHẦN I : MỞ ĐẦU
LỊCH SỬ VẤN ĐỀ


Văn học ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của lịch sử loài
người. Đã từ lâu, chúng ta xem văn học là món ăn tinh thần khơng thể
thiếu ở bất cứ thời đại nào, ở bất cứ nơi đâu. Văn học là gì? Chất văn là
gì? Văn học để làm gì? Sẽ cịn làm đau đầu chúng ta một cách dịu ngọt
mỗi khi ta đọc và đọc những hiện tượng văn học nối tiếp nhau xuất hiện
trên phạm vi toàn nhân loại và mỗi khi cái phản ứng tự nhiên của độc giả
hiện đại cứ ngày càng đa dạng và tỏ ra khó tính trong tiếp nhận văn học.
PGS.TS Nguyễn Thị Thanh Hương trong cuốn “Dạy học văn ở trường phổ
thông” (GT 159), đã cho rằng việc đọc văn là “một lao động tinh thần cực
kỳ căng thẳng”. Đọc là biến chữ viết thành âm thanh, biến dịng chữ khơ
cứng thành lời nói sinh động, có hồn. Đọc tác phẩm giúp người đọc đi sâu
vào thế giới hình tượng, thế giới cảm xúc của nhà văn. Đọc cịn là hình
thức bồi dưỡng năng lực văn cho học sinh, năng lực tiếp nhận và khám
phá, cắt nghĩa ngơn ngữ, hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm”. Ý kiến
trên đây đã giúp mỗi chúng ta có được những hình dung ban đầu về việc
đọc hiểu văn chương. Như vậy, việc đọc hiểu văn chương đã trở thành yêu
cầu cấp thiết đối với học sinh ở nhà trường phổ thơng. Có lẽ hiểu được
yêu cầu bức bách đó mà SGK Ngữ văn 6, 7 hiện hành đã thay thuật ngữ
Giảng văn bằng Đọc hiểu.
Có thể thấy, đọc hiểu văn là một hoạt động được xác định thông qua
đối tượng và hướng vào đối tượng tác phẩm. Đọc hiểu văn gắn liền hữu cơ
với tiếp nhận, vì muốn lĩnh hội trọn vẹn tác phẩm văn học khơng có con
đường nào khác là đọc và sử dụng các hình thức khác nhau, dưới những
bình diện khác nhau, mục đích khác nhau để đạt tới sự hiểu biết và xúc
cảm thật sự nhằm từ khám phá bản thân và hướng thiện.
Đề cập tới vấn đề đọc hiểu, các nhà khoa học đã tiếp nhận ở nhiều
góc độ khác nhau và đưa ra những kiến giải riêng của mình. Lịch sử văn
2



Đọc hiểu truyện ngắn Vợ chồng A Phủ - Tô Hoµi

học đã ghi nhận rất nhiều cây bút với những cơng trình nghiên cứu sáng
tạo nhắc tới vấn đề đọc hiểu ở các mức độ nông sâu khác nhau. Năm
1969, xuất hiện cơng trình nghiên cứu quan trọng của Hanđơke nhan đề :
Văn xuôi, huyền thoại, khoa học - những vấn đề thi pháp của nó đề cập
đến bản chất của người đọc và vị trí tương lai của nó đối với thế giới hiện
tại. Hanđơke đã góp phần phân biệt chính xác hơn các loại người tiếp
nhận đồng thời nêu lên những nhận định ban đầu về việc đọc văn.
Năm 1971, Slavinxki với bài báo được dư luận chú ý “Mối quan hệ
bên trong cá nhân của giao tiếp văn học” đã trình bày tương quan xảy ra
trong nội tại văn bản bao gồm những vấn đề bạn đọc có năng lực đọc và
hiểu văn, hình tượng tiếp nhận thế giới được mô tả…
Cuối cùng phải nhắc tới một vấn đề cịn tồn tại cực kỳ quan trọng có
ý nghĩa thời sự trong “Phương thức tư duy văn học mới” được các nhà
triết học trẻ Vácsava khởi luận. Đó là Thi pháp ứng dụng. Thi pháp ứng
dụng chỉ ra phạm vi nghiên cứu trạng thái giao tiếp giữa người truyền tin,
người nhận tin trong một tổng thể và trong nội tại của nó, mặt khác nó
cịn có nghĩa là sự nhận thức văn học, tiếp nhận văn học, và đọc hiểu văn
học.
Ở Việt Nam cũng đã có một số học giả đã nghiên cứu đi sâu vào vấn
đề đọc hiểu văn chương. Tác giả đầu tiên mà chúng tôi muốn nói đến là
GS.TS Nguyễn Thanh Hùng với các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu như :
Hiểu văn dạy văn, đọc và tiếp nhận văn chương, văn học và nhân cách,
văn học tầm nhìn biến đổi… Hầu hết các cơng trình trên của tác giả đã đề
cập sâu sắc tới việc đọc hiểu văn chương và coi đó là một khâu khơng thể
thiếu trong việc dạy học văn. Tiếp đó, có thể nhận thấy cơng trình của
GS.TS Phan Trọng Luận : Văn học nhà trường, thiết kế bài dạy tác phẩm
văn chương… ở đó ta cũng bắt gặp những ý kiến đóng góp của tác giả vào
cơng việc đọc hiểu văn chương và những hướng giải khi đi vào các tác

phẩm cụ thể.
3


Đọc hiểu truyện ngắn Vợ chồng A Phủ - Tô Hoµi

Giới nghiên cứu khơng chỉ dừng lại ở đây, cuốn sách Dạy học văn ở
nhà trường phổ thông của PGS-TS Nguyễn Thị Thanh Hương đã đem lại
cho ta những ý kiến sáng tạo và mới mẻ về lý luân dạy văn, vai trò chủ
thể tiếp nhận của học sinh, tầm quan trọng của việc đọc trong giờ phân
tích tác phẩm văn chương…
Những kiến giải của một số tác giả trên đem lại cách nhìn tồn diện
về việc đọc văn hiểu văn. Với mỗi một loại hình văn học ta cần có những
phương pháp đọc hiểu khác nhau. Ở đây, chúng tôi chỉ muốn đề cập tới
việc đọc hiểu truyện ngắn, cụ thể hơn nữa là truyện ngắn “Vợ chồng A
Phủ” của nhà văn Tơ Hồi.
Gới nghiên cứu và phê bình văn học khi viết về Tơ Hồi đã nhận
định : Truyện Tây Bắc, trong đó Vợ chồng A Phủ cùng là một kệt tác của
Tơ Hồi - Vì vậy đã có rất nhiều cây bút hướng vào tác phẩm như một
điểm sáng thẩm mỹ, một nguồn sống không hề vơi cạn. Tác giả Nguyễn
Văn Long với bài viết “Vợ chồng A Phủ” của Tơ Hồi. Sách Giảng văn
T.III, Đỗ Kim Hồi với ”Vợ Chồng A Phủ” sách Giảng văn văn học Việt
Nam, Huỳnh Lý với “Truyện Tây Bắc” của Tổ Hoài - Sách Lịch sử Văn
học Việt Nam tập IV, Vũ Quần Phương với “Tơ Hồi, văn và đời” - Tạp
chí Văn học 8.1994. Hồng Trung Thơng với Tơ Hồi và “Truyện Tây
Bắc” - Sách chặng đường mới của Văn học chúng ta… Tất cả những bài
viết, cuốn sách đều hướng tới tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” như một niềm
mong muốn là đi sâu vào khám phá vẻ đẹp của văn chương, giúp cho việc
hình thành những đặc điểm phong cách truyện ngắn Tơ Hồi, đồng thời
phục vụ cho quá trình đọc hiểu truyện ngắn diễn ra thuận lợi và đạt được

kết quả tốt.
Công việc đọc hiểu truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” sẽ giúp ích rất
nhiều cho học sinh để các em có thể nắm bắt tác phẩm sâu sắc hơn đồng
thời phát huy tính chủ động sáng tạo trong tư duy. Quá trình đọc hiểu là
một khâu khơng phải có thể tiến hành trong chốc lát mà điều đó cịn phụ
4


Đọc hiểu truyện ngắn Vợ chồng A Phủ - Tô Hoµi

thuộc vào khả năng hướng giải của giáo viên và năng lực tiếp thu, sáng
tạo của học sinh.
Bài viết không có tham vọng đi hết triệt để tìm hiểu về truyện “Vợ
chồng A Phủ” mà chỉ muốn đánh giá, đóng góp một cách nhìn về q
trình đọc hiểu văn và cụ thể hơn đó là Đọc hiểu truyện ngắn “Vợ chồng A
Phủ” của nhà văn Tơ Hồi.
Bài viết gồm 3 phần .
Phần I :

Mở đầu - Lịch sử vấn đề.

Phần II :

Nội dung

Chương I : Những vấn đề lý luận chung về truyện ngắn
1.

Truyện ngắn và đặc điểm của truyện ngắn.


2.

Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”

Chương II: Đọc hiểu truyện ngắn.
1.

Lý luận đọc - hiểu.

2.

Đọc hiểu truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”

Chương III: Thiết kế bài soạn - Hướng dẫn học sinh đọc hiểu.
Phần III:

Kết luận.

1.

Tầm quan trọng của việc đọc hiểu.

2.

Ý nghĩa của việc đọc hiểu.

5


Đọc hiểu truyện ngắn Vợ chồng A Phủ - Tô Hoµi


PHẦN II : NỘI DUNG
CHƯƠNG I : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ TRUYỆN NGẮN.
1. Truyện ngắn và đặc điểm của Truyện ngắn.
1.1. Lịch sử hình hành và phát triển Truyện ngắn.
1.1.1. Quan niệm :
Truyện ngắn là thể loại văn xi hư cấu, hàm súc và có độ căng hơn
tiểu thuyết và truyện vừa. Từ thế kỷ XIX trở về trước, truyện ngắn không
được xem là thể loại văn học rõ rệt mặc dù trong quá trình phát triển lịch
sử có rất nhiều loại truyện ngắn như : Cổ tích, ngụ ngơn, thần thoại…
Thế kỷ XIX mới hình thành khái niệm “truyện kể”. Đây là một khái
niệm thể hiện những loại câu chuyện nói về khát vọng vĩnh hằng một nền
văn hố trước việc định danh và khái niệm hồ chỗ đứng của nó trong vũ
trụ. Ở loại hình này, các nhân vật, mơtíp, hình ảnh tượng trưng bắt đầu
được chú ý. Những truyện kể này thường kể lại tỉ mỉ câu chuyện gần như
là sự sáng tạo quá khứ. Cuối thế kỷ XIX với sự xuất hiện của các nhà văn
N.Gơgol, Hoppman, H.V. Klaixơ… thì truyện ngắn hiện đại xuất hiện. Nó
được coi là thể loại độc lập, có những đặc điểm riêng.
1.1.2. Thế nào là truyện ngắn ?
A.Haxen (A Hasen) khẳn định : “Cho dù có ai đó hiểu truyện ngắn
hiện đại như là hỗn hợp của phác thảo và truyện kể hay khơng thì khó có
thể phủ nhận rằng truyện ngắn là thể loại riêng biệt và tự trị. Mặc dù vẫn
đang phát triển”.
Các nhà lý luận quan niệm : Truyện ngắn là hình thức ngắn của tự
sự, khuôn khổ ngắn đôi khi làm cho truyện ngắn có vẻ gần với các truyện
dân gian mà nó gần với tiểu thuyết hơn ở hình thức tự sự, nó cũng tái hiện
cuộc

6



Đọc hiểu truyện ngắn Vợ chồng A Phủ - Tô Hoµi

sống đương thời. Tuy nhiên, truyện ngắn thường hướng tới khắc hoạ
một hiện tượng, phát hiện ra một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay
đời sống tâm hồn con người.
Tổng hợp quan niệm của “150 thuật ngữ văn học” và “Từ điển thuật
ngữ văn học” ta có thể thấy :
Truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung thể loại truyện
ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đời sống : đời tư, thế sự hay
sử thi, nhưng cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắn được viết ra để tiếp
thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ.
Tuy nhiên, mức độ dài ngắn chưa phải là đặc điểm chủ yếu phân
biệt truyện ngắn với các tác phẩm tự sự loại khá. Trong văn học hiện đại
có nhiều tác phẩm rất ngắn, nhưng thực chất lại là những truyện dài viết
ngắn lại. Truyện ngắn thời trung đại cũng ngắn nhưng rất gần với truyện
vừa. Các hình thức truyện kể dân gian rất ngắn gọn như cổ tích, truyện
cười, giai thoại… lại càng khơng phải là truyện ngắn.
Truyện ngắn hiện đại là một kiểu tư duy mới, một cách nhìn cuộc
đời, một cách nắm bắt đời sống rất riêng, mang tính chất thể loại. Cho nên
truyện ngắn đích thực xuất hiện tương đối muộn trong lịch sử văn học.
Truyện ngắn là thể loại gần gũi với đời sống hàng ngày, súc tích, dễ đọc,
lại thường gắn liền với hoạt động báo chí, do đó có tác dụng, ảnh hưởng
kịp thời trong đời sống. Nhiều nhà văn lớn trên thế giới và nước ta đã đạt
tới đỉnh cao của sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật chủ yếu bằng những truyện
ngắn xuất sắc của mình.
1.2. Một số đặc điểm của truyện ngắn.
1.2.1. Truyện ngắn trước hết phải là ngắn, yêu cầu :
1.2.1.1- Truyện phải hướng tới một ấn tượng nhất định :

Theo X.Antônốp : “Truyện ngắn trước hết phải là ngắn”, khuôn khổ
tác phẩm trước tiên do nội dung của nó địi hỏi. Nhưng thực tiễn sáng tác
7


Đọc hiểu truyện ngắn Vợ chồng A Phủ - Tô Hoµi

chỉ rõ, cảm hứng của tác giả nhiều khi phụ thuộc vào những chuyện rất
“tầm thường”… Chính việc Truyện ngắn phải ngắn khiến cho nó tự phân
biệt một cách dứt khoát và rành rọt bên cạnh truyện vừa và tiểu thuyết (trích “Sổ tay Truyện ngắn” Nxb Hội Nhà Văn - 1998. tr168).
1.2.1.2- Truyện ngắn cần phải loại trừ những gì khơng có liên quan
đến hiệu quả đã định trước đó. Truyện cần phải có một sự thống nhất triệt
để.
1.2.1.3- Truyện ngắn không thể ngắn hơn cái mức người ta có thể
hiểu ý đồ của tác giả. Do đó, mức độ dài ngắn chưa phải là đặc điểm chủ
yếu phân biệt truyện ngắn với các tác phẩm tự sự loại khác.
1.2.2. Cốt truyện là hạt nhân nghệ thuật cơ bản của truyện ngắn.
1.2.2.1- Định nghĩa cốt truyện :
Cố truyện là hệ thống sự kiện chia thành nhiều lớp sự kiện kế tiếp
nhau từ khi bắt đầu đến khi kết thúc. Sự phân chia thành lớp này căn cứ
vào mối quan hệ thời gian, vào tính tổng hợp về giá trị của một nhóm sự
kiện trong việc tự lập, phát triển và giải quyết mâu thuẫn xung đột truyện.
Sự chuyển đổi từ lớp sự kiện a tới lớp sự kiện b có tác dụng đánh
dấu sự biến chuyển của câu chuyện từ giai đoạn này tới giai đoạn khác.
Điều này tạo cho cốt truyện có một q trình diễn biến trọn vẹn.
Bản chất sự kiện là sự tương tác giữa các nhân vật với nhau, giữa
nhân vật với hồn cảnh thơng qua hoạt động của nhân vật, chẳng hạn như
hoạt động tâm lý, nói năng, đi lại… do đó sự kiện một mặt phản ánh các
mối xung đột xã hội, gia đình của các nhân vật, mặt khác nó góp phần bộc
lộ tính cách nhân vật.

Soi chiếu vào truyện ngắn “Chiếc thuyền ngồi xa” ta có thể thấy
nhân vật tơi hiện lên là sự thức tỉnh nhận thức lại của người nghệ sĩ trước
cuộc sống. Cuộc sống không phải là sự sao chép mà phải nhìn vào bề sâu,
nhìn thấy bản chất của nó.

8


Đọc hiểu truyện ngắn Vợ chồng A Phủ - Tô Hoµi

Có thể nói, cốt truyện của truyện gnắn thường diễn ra trong một
thời gian, một không gian hạn chế, chức năng của nó nói chung là nhận ra
một điều gì đó sâu sắc về cuộc đời và tình người. Truyện ngắn không thể
thiếu cốt truyện, bởi nếu thiếu cốt truyện thì khơng thể thành truyện ngắn.
Tuy nhiên cũng có loại truyện ngắn khơng có cốt truyện và đây là đặc
điểm riêng của loại truyện ngắn này. Truyện ngắn có thể kể về cả một
cuộc đời, đoạn đời, sự kiện hoặc một “chốc lát” trong cuộc sống nhân vật
nhưng cái chính của truyện ngắn không phải ở hệ thống sự kiện mà ở cái
nhìn tự sự đối với cuộc đời.
Tiếp tục đi vào cốt truyện của truyện gnắn “Chiếc thuyền ngoài xa”
ta thấy ở đây các nhân vật, sự kiện hiện lên : Ông chồng là sản phẩm của
cuộc sống quá cực khổ; đại diện cho sự xuống cấp về nhân cách, dẫn tới
tha hoá. Người vợ hiện lên là đại diện cho một mơ hình phụ nữ rất cũ :
u chồng, yêu con, người phụ nữ mẫu mực của sự nhẫn nhục, sự chịu
đựng. Hình ảnh người con gái là hiện thân cho vẻ đẹp thánh thiện. Chi tiết
cô gái đuổi bắt người em trai (Phác) và rút con dao của thằng em đem lại
cho người đọc những trăn trở, day dứt, đó là sự đấu tranh giữa cái thiện
và cái ác, một điều phù hợp với đạo lí con người Việt Nam : đề cao chữ
hiếu, cô gái đại diện cho một thế hệ khác, không phải chịu bi kịch như bố
mẹ; dường như qua nhân vật này, Nguyễn Minh Châu muốn gửi niềm tin

vào thế hệ trẻ : họ không chấp nhận cái ác họ dám chiến đấu với cái ác,
giữ trọn đạo hiếu và cuộc sống của họ sẽ thay đổi.
Trong tác phẩm, có một chi tiết mang ý nghĩa luận đề sâu sắc, câu
nói của người vợ “Các chú không hiểu”. Đây vừa là lời trách, vừa là lời
ốn giận (các ơng tưởng rằng cuộc sống đẹp nhưng cuộc sống thực chất
vô cùng phức tạp, bỏ chồng là điều quái dị đối với đàn bà vì “Những
người đàn bà miền biển đều coi chống như cột trụ lớn nhất” của cuộc đời.
Câu nói trên đồng thời cũng là lời phê phán : Nghệ thuật phải là cái gì đó

9


Đọc hiểu truyện ngắn Vợ chồng A Phủ - Tô Hoµi

thật nhất, gần gũi với con người chứ khơng chỉ đi tìm cái đẹp, nghệ thuật
phải đi đến tận cùng cuộc sống để phản ánh chân thực cuộc sống.
Từ sự kết hợp của cái chi tiết, từ việc soi vào cốt truyện có thể nâng
lên chủ đề câu chuyện : nghệ thuật phải đi đến tận cùng cuộc sống, phản
ánh chân thực cuộc sống và cuộc sống dù nghiệt ngã đến đâu con người
vẫn tìm cho mình một niềm tin mãnh liệt, niềm tin đó gửi gắm vào thế hệ
tương lai.
1.2.2.2- Chức năng của cốt truyện.
Cốt truyện bộc lộ tính cách và số phận nhân vật, cốt truyện tạo cho
câu chuyện có kịch tính để hấp dẫn người đọc. Cốt truyện là phạm trù nội
dung của tác phẩm. Ở bình diện nghĩa cụ thể, cốt truyện góp phần tạo nên
thế giới diễn ngôn của truyện, tạo nên chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Cốt truyện còn là một đặc trưng thi pháp của truyện ngắn vì nó là
kết quả của sự sáng tạo của nhà văn, cốt truyện là một phương thức khắc
hoạ tính cách nhân vật cũng như số phận nhân vật trong truyện. Qua đó
cốt truyện phản ánh hiện thực đời sống một cách chân thực.

Có nhiều tác phẩm truyện khơng có cốt truyện, đây là một đặc điểm
rất khác biệt của truyện ngắn so với truyện vừa hay tiểu thuyết. Truyện
khơng có cốt truyện có đặc điểm : Truyện chỉ diễn đạt một trạng thái tâm
hồn, dù khơng có cốt truyện nhưng vẫn duy trì mạch truyện và người đọc
có thể xác định được đề tài, chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Truyện khơng
có cốt truyện có thể coi là sự nới lỏng cao độ của cốt truyện, tác phẩm hầu
như khơng có đầu có đi, khơng có cơng việc, khơng có thời gian cụ thể.
Tác phẩm chỉ có ý tưởng của nhà văn, nhân vật thường bị ý tưởng hoá
theo ý đồ của nhà văn. Nhà văn chỉ chú trọng vào xây dựng tâm trạng và
nội dung nhân vật trong mối quan hệ với hoàn cảnh. Những tác phẩm tiêu
biểu cho loại truyện khơng có cốt truyện như : Hai đứa trẻ, Toả Nhị Kiều,
Bến Quê”.
1.2.3 : Đề tài của truyên ngắn :
10


Đọc hiểu truyện ngắn Vợ chồng A Phủ - Tô Hoµi

Đề tài là mang hiện thực đời sống, là khái niệm chỉ loại các hiện
tượng đời sống được miêu tả, phản ánh trực tiếp trong sáng tác văn học.
Đề tài là phương diện khách quan của nội dung tác phẩm. Có bao nhiêu
phạm vi cuộc sống có bấy nhiêu đề tài.
Các hiện tượng đời sống có thể liên kết với nhau thành loại theo
mối liên hệ bề ngoài giữa chúng. Cho nên, có thể xác định đề tài văn học
theo giới hạn bề ngoài của phạm vi hiện thực được phản ánh trong tác
phẩm : đề tài thiên nhiên, đề tài loài vật, đề tài cải cách ruộng đất, đề tài
sản xuất, đề tài chiến đấu, đề tài kháng chiến chống Mỹ, đề tài bộ đội
Trường Sơn…
Cần phân biệt đề tài với tư cách là phương diện khách quan của nội
dung tác phẩm với đối tượng nhận thức, chất liệu đời sống hay nguyên

mẫu thực tế của sáng tác văn học. Lẫn lộn hai mặt này sẽ dẫn tới tình
trạng biến việc phân tích tác phẩm thành phân tích đối tượng được miêu
tả. Đối tượng nhận thức, miêu tả của sáng tác văn học là cái cịn nằm
ngồi tác phẩm, đối diện với tác phẩm. Đề tài của tác phẩm là một phương
diện trong nội dung của nó, là đối tượng đã được nhận thức, lựa chọn gắn
liền với dụng ý, thế giới quan, lập trường tư tưởng, quan điểm, thẩm mĩ
của nhà văn.
Đề tài hết sức phong phú và đa dạng, có thể trong cùng một đề tài,
nhưng mỗi nhà văn khai thác ở một khía cạnh khác nhau. Cùng miêu tả về
người nông dân, Nguyễn Công Hoan đi sâu vào miêu tả cảnh tranh ruộng,
cướp đất, kiện tụng của người nông dân ở nông thôn, Nam Cao đi vào
từng ngõ ngách cuộc sống, ghi lấy từng chi tiết, bắt lấy từng hơi thở và
hiện thực trong tác phẩm của ông giống như cuộc sống đa dạng phức tạp
bên ngoài.
1.2.4. Kết cấu truyện ngắn :
1.2.4.1- Khái niệm :

11


Đọc hiểu truyện ngắn Vợ chồng A Phủ - Tô Hoµi

Kết cấu là sự tổ chức tác phẩm từ những đoạn, những phần khác
nhau nối kết thành một văn bản chặt chẽ lơgic hợp lý có giá trị nghệ thuật.
Thuật ngữ kết cấu thể hiện một nội dung rộng rãi, phức tạp. Tổ chức
tác phẩm không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương quan
bên ngoài giữa các bộ phận, chường đoạn mà còn bao hàm sự liên kết bên
trong, nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của tác phẩm. Bố ục là một
phương diện của kết cấu. Ngồi bố cục, kết cấu cịn bao gồm : tổ chức hệ
thống tính cách; tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật của tác

phẩm ; nghệ thuật tổ chức những liên kết cụ thể của các thành phần của
cốt truyện; nghệ thuật trình bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt truyện… sao
cho toàn bộ tác phẩm thực sự trở thành một chính thể nghệ thuật.
Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng có một kết cấu nhất định. Kết cấu
là phương tiện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật. Kết cấu đảm
nhiệm các chức năng rất đa dạng : bộc lộ tốt chủ đề và tư tưởng các tác
phẩm; triển khai, trình bày hấp dẫn cốt truyện ; cấu trúc hợp lí hệ thống
tính cách ; tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả, tạo ra tính tồn vẹn
của tác phẩm như là một hiện tượng thẩm mĩ.
Nếu những yếu tố kĩ thuật, thủ pháp là có giới hạn thì kết cấu là vơ
hạn, vì mỗi tác phẩm là một “sinh mệnh”, một “cơ thể sống” nên hết cấu
tác phẩm là một kiến trúc, một tổ chức cụ thể, phù hợp với nội dung cụ
thể của tác phẩm. Kết cấu bộc lộ nhận thức, tài năng và phong cách của
nhà văn.
1.2.4.2- Chức năng :
Từ những nhân vật khác nhau thông qua kết cấu; nhà văn tạo ra
những mối quan hệ cùng tồn tại, tác động vào nhau để phát hiện ra phẩm
chất cá tính của nhau, từ những chi tiết, sự kiện đặt bên cạnh nhau đan kết
lại thành một câu chuyện hấp dẫn.
Từ những biến cố rời rạc qua kết cấu có thể kết hợp tạo thành cốt
truyện kể cho nhau nghe.
12


Đọc hiểu truyện ngắn Vợ chồng A Phủ - Tô Hoµi

Từ những khoảng khơng gian, thời gian khác nhau được lựa chọn,
tác động với nhau để tạo thành một thế giới riêng mang rõ ý nghĩa nhiều
tầng bậc thể hiện khả năng tổ chức kết cấu của tác giả. Kết cấu là con
đường để khám phá, phân tích tác phẩm.

1.2.4.3- Các kết cấu :
Kết cấu chương hồi : Tác dụng : mỗi chương hồi là một câu chuyện.
Kết cấu vòng tròn : hay còn gọi là đầu cuối tương ứng : đây là kiểu
kết cấu gây ấn tượng cho người đọc - Mở đầu là một chi tiết nghệ thuật,
kết thúc cũng bằng chi tiết ấy để tạo ra độ khép - mở cho tác phẩm và
thường gợi một số phận khơng bình thường để tạo thành một vịng xốy
khép kín làm nổi bật bi kịch hoặc số phận nhân vật hoặc gợi cho người
đọc nghĩ tới một sự luẩn quẩn, khơng lối thốt.
Kết cấu đồng hiện : Là kiểu kết cấu trong đó nhà văn miêu tả những
sự kiện, những tình huống, những nhân vật, những thời điểm khác nhau
trong cùng một thời điểm.
Kết cấu trùng phức: hay còn gọi là truyện lồng trong truyện : ở đây
tác giả đứng ngồi câu chuyện đóng vai trị là người chỉ huy đạo diễn cho
câu chuyện diễn biến với nhiều lời kể đan xen để hoàn thiện chân dung
nhân vật. Kiểu kết cấu này có tác dụng tạo hứng thú cho người đọc và
nuôi hứng thú ấy từ đầu tới cuối tác phẩm. Có thể thấy trong truyện ngắn
“Mảnh trăng cuối rừng” của nhà văn Nguyễn Minh Châu có ba mạch
truyện diễn ra trong mười năm được chọn kể vào một ngày. Ba mạch
truyện lồng vào nhau và một mối tình Nguyệt và Lãm được kể thành hai
cuộc tình, câu chuyện trở nên rắc rối phức tạp và gây nên sự lầm tưởng
của các nhân vật khiến cho tác phẩm có sức hấp dẫn lớn và gây được ấn
tượng mạnh.
Kết cấu mở : là loại kết cấu mà ở cuối tác phẩm vẫn cịn hé mở
những suy đốn, ý tưởng tác giả dành cho người đọc tự đánh giá.

13


Đọc hiểu truyện ngắn Vợ chồng A Phủ - Tô Hoµi


Kết cấu theo dịng tâm lý : Nhà văn thiên về phân tích những biểu
hiện nội tâm của tính cách nhân vật, hoặc kết hợp phản ánh những thực tế
khách quan. Loại kết cấu này thường không đi theo trật tự thời gian, có
khi nhà văn đưa kết thúc lên trước rồi mới tiếp tục nội dung. Kiểu kết cấu
này khơng gị bó cơng thức mà người đọc vẫn theo dõi nắm bắt được tính
cách nhân vật kết hợp việc miêu tả hành động tâm lý giúp việc soi rọi
miêu tả tính cách nhân vật. Nhà văn vừa tháo dỡ câu chuyện vừa khn nó
vào trật tự đầu đi. Thể loại thích hợp với kiểu kết cấu này thường là
điếu văn, viết thư, hồi ký…
1.2.5. Nhân vật truyện ngắn .
Nhân vật là xương sống của tác phẩm tự sự, là linh hồn của tác
phẩm, nhân vật cũng là phát ngôn cho tư tưởng nghệ thuật của nhà văn.
Nói đến nhân vật văn học là nói đến con người miêu tả. Truyện ngắn
thường khơng nhắm tới khắc hoạ những tính cách điển hình đầy đặn,
nhiều mặt trong tương quan với hồn cảnh. Nhân vật của truyện gnắn
thường là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc
trạng thái tồn tại của con người. Khi xây dựng nhân vật cần chú ý tới hai
phương thức, đó là điển hình hố và xây dựng nhân vật tư tưởng. Ở tác
phẩm hiện thực, người ta chú trọng tới việc tái hiện chân thực tính cách
điển hình trong hồn cảnh điển hình, ở tác phẩm lãng mạn, nhân vật
thường được lý tướng hoà và trở nên đẹp hoàn thiện vượt lên mọi hoàn
cảnh. Nếu như nhân vật trong tiểu thuyết là một thế giới thì nhân vật của
truyện ngắn là một mảnh nhỏ của thế giới ấy. Nhân vật là khái qt của
hồn cảnh và mơi trường cụ thể.
1.2.6. Cách tạo tình huống truyện ngắn.
Tình huống truyện là một khoảnh khắc nhất định trong tác phẩm,
nơi tập trung điểm nút cảm xúc chủ đạo của nhà văn, là khoảnh khắc sáng
tạo của người nghệ sĩ trên nhiều phương diện tạo nên sự vận động của
tính cách nhân vật và kết cấu tác phẩm. Tình huống cũng là đỉnh điểm
14



Đọc hiểu truyện ngắn Vợ chồng A Phủ - Tô Hoµi

trong sáng tạo của nhà văn, nó cũng hiện diện và bộc lộ sâu sắc mọi giá
trị của truyện ngắn.
Cách tạo tình huống trong truyện ngắn là một đặc điểm quan trọng,
có nhiều cách tạo tình huống, có nhà văn tạo ra tình huống nhận thức lựa
chọn, nhưng tình huống này thường gắn chặt với tình huống tâm lý và trên
cơ sở miêu tả lý giải mọi khía cạnh phong phú, phứ tạp của quá trình này
mà nhà văn đi sâu vào tâm lý con người.
Có thể thấy, trong tác phẩm của Nam Cao, việc xây dựng tình huống
lựa chọn có ý nghĩa quan trọng bởi nhân vật bắt buộc ý thức lựa chọn
cách xử lý tình huống, phủ nhận nó rồi tiếp tục lựa chọn. q trình này
diễn ra dai dẳng và quyết liệt. Sự lựa chọn của nhân vật Hộ trong truyện
ngắn “Đời Thừa” diễn ra dai dẳng quyết liệt để nhân vật chiến thắng bản
thân, tạo tiền đề cho những đối thoại tư tưởng. Một khía cạnh quan trọng
của chất triết lý trong truyện ngắn Nam Cao là tạo ra loại tình huống này.
1.2.7. Ngơn ngữ truyện ngắn :
Ngôn ngữ trước hết là ngôn ngữ đời sống được nhà văn chắt lọc
thơng qua tài năng để có những cách diễn đạt khác nhau. Ngơn ngữ có
những đặc điểm sau :
1.2.7.1- Tính chất “đa thanh”
Cùng một từ ngữ nhưng có thể có nhiều tiếng nói khác nhau trong
ngơn ngữ ấy.
1.2.7.2- Tính đối thoại :
Trong lời nói của nhân vật có sự đối thoại giữa người đọc và nhân
vật hay nhân vật với nhận xét. Có thể lấy ví dụ ở câu nói của Chí Phèo
trong tác phẩm cùng tên : “Ai cho tao làm người lương thiện?”. Chí Phèo
đối thoại với mình, với Bá Kiến và với mọi người, đây là tiếng nói khẩn

thiết tìm lại tương lai con người.
1.2.7.3- Tính hình tượng - gián tiếp :

15


Đọc hiểu truyện ngắn Vợ chồng A Phủ - Tô Hoµi

Văn học bao giờ cũng là một cuộc tranh luận đối thoại công khai
hoặc ngấm ngầm về tư tưởng do đó văn học giàu tính khuynh hướng tư
tưởng hơn các loại hình nghệ thuật khác. Văn học có thể bộc lộ trực tiếp
tư tưởng, tình cảm của nhà văn hoặc của nhân vật thông qua ngôn ngữ là
chất liệu. Đọc văn ta có thể thấy vơ vàn con người đang suy nghĩ trước
cuộc đời.
1.2.7.5- Tính vơ cực hai chiều về khơng gian và thời gian :
Ngơn từ có thể cơ kết lại trong văn bản cực kỳ gọn nhẹ. Ngôn từ có
thể hình dung bất cứ sự vật nào trong thế giới vĩ mơ vi mơ hữu hình cũng
như vơ hình từ trạng thái triền miên đến chớp nhống.
Lấy ngơn từ làm chất liệu, văn học mang tính cực đại, cực tiểu về
không gian và cực lâu, cực nhanh về thời gian.
1.2.8. Phong cách :
1.2.8.1- Định nghĩa :
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về phong cách. Sách “Từ điển
thuật ngữ văn học” cho rằng : “Phong cách nghệ thuật là một phạm trù
thẩm mĩ, chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình thượng,
của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong
sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học
hay văn hoá dân tộc”, “Một trăm năm mươi thuật ngữ văn học” lại quan
niệm “Phong cách là những nét chung, tương đối bền vững của hệ thống
hình tượng, của các phương thức biểu hiện nghệ thuật, tiêu biểu cho bản

sắc sáng tạo của một nhà văn, một tác phẩm, một khuynh hướng văn học,
một nền văn học dân tộc độc đáo”. Ta có thể đúc kết lại khái niệm phong
cách được tổng kết ở Giáo trình “Lí luận văn học” tập 3 như sau : “Phong
cách là chỗ độc đáo về tư tưởng cũng như nghệ thuật có phẩm chất thẩm
mỹ thể hiện trong sáng tác của những nhà văn ưu tú.
1.2.8.2- Đặc điểm phong cách :

16


Đọc hiểu truyện ngắn Vợ chồng A Phủ - Tô Hoµi

Phong cách địi hỏi trước hết nhà văn phải đem lại một tiếng nói
mới cho văn học. Nếu khơng có tiếng nói ấy, thì dù vấn đề lập trường,
vốn sống, tự cho là đã giải quyết đến đâu chăng nữa, thì tác phẩm của nhà
văn vẫn cứ bị rơi vào quên lãng.
Nghệ thuật tối kỵ sự chung chung lập lại. Đương nhiên cái gọi là
độc đáo; vẻ riêng, là phải ít thấy ở người khác, nhưng ở riêng nhà văn đó
thì phải xuất hiện thường xun có tính chất bền vững, nhất quán. Nhưng
bền vững nhất quán là từ cốt lõi, chứ sự triển khai lại phải đa dạng và đổi
mới. L.Tơnxtơi nói : “Nếu như đó là một nhà văn cũ đã quen thuộc, thì
câu hỏi khơng phải anh ấy là người như thế nào? mà là : Nào, anh có thể
nói cho tơi thêm một điều gì mới”.
Phong cách cần sự độc đáo, nhưng đồng thời phải hay nữa. Phong
cách, do đó phải có phẩm chất thẩm mĩ, nghĩa là nó phải đem lại cho
người đọc một sự hưởng thụ mĩ cảm dồi dào. Phong cách không những là
dấu hiệu trưởng thành của nhà văn mà hơn thế nữa, khi nó đã được nở rộ,
thì đó là bằng chứng của một nền văn học đã trưởng thành.
Phong cách tuy là chỗ độc đáo của từng nhà văn, nhưng nó vẫn
mang dấu ấn của dân tộc và thời đại. Tính dân tộc là thuộc tính tất yếu

của văn học, trên ý nghĩa đó, phong cách của nhà văn khơng thể thốt li
thuộc tính này của văn học. Nhưng tính dân tộc còn là phẩm chất của văn
học, phẩm chất này không phải là tất yếu cho mọi nhà văn, mà chỉ có ở
những nhà văn nào biểu hiện được tư tưởng, tình cảm của những lực
lượng xã hội tiêu biểu cho dân tộc, phản ánh được bản chất hoặc một vài
khía cạnh bản chất cuộc sống và chiến đấu của dân tộc, sử dụng một cách
nghệ thuật những phương tiện hình thức, ngơn ngữ và có thể loại của văn
học dân tộc. Phong cách dĩ nhiên cũng có tính thời đại, bởi vì khơng nhà
văn nào thốt li được thời đại của mình. Tính dân tộc và tính thời đại là
đặc điểm không thể thiếu của phong cách.

17


Đọc hiểu truyện ngắn Vợ chồng A Phủ - Tô Hoµi

2. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tơ Hồi.
2.1. Khái qt về chủ đề tác phẩm :
Con đường đi và số phận của hai người thanh niên HMông - Mỵ và
A Phủ khá tiêu biểu cho vận mệnh lịch sử của nhân dân các dân tộc thiểu
số miền núi trỏng cách mạng. Đấy là con đường từ tự phát đến tự giác đấu
tranh chống đế quốc và phong kiến, từ trong đau khổ tăm tối vươn ra ánh
sáng, dưới sự dìu dắt của cán bộ Đảng. Trong q trình ấy, những người
nơng dân lao động nghèo khổ ở miền núi đã bộc lộ những phẩm chất tốt
đẹp và trở thành những quần chúng cách mạng , những con người mới.
Có thể xem nhận định trên đây là chủ đề truyện gnắn “Vợ chồng A
Phủ”. Cùng với hai truyện nữa trong tập “Truyện Tây Bắc” - Vợ chồng A
Phủ là tác phẩm thành công xuất sắc đầu tiên về đề tài miền núi trong nền
văn xuôi cách mạng hiện đại. Có thể nói Tơ Hồi đã góp phần đổi mới đề
tài miền núi trong văn học ta từ trước cho đến lúc đó. Với Truyện Tây

Bắc, hình ảnh chân thực của các dân tộc miền núi trong quá trình phát
triển cách mạng đã được phản ánh vào văn học, với hai vấn đề cơ bản là
đấu tranh chống đế quốc và phong kiến.
Ở truyện “Vợ chồng A Phủ”, trong khi tập trung diễn tả quá trình
đến với cách mạng của nhân vật, tác giả cũng đồng thời đề cập đến những
vấn đề có ý nghĩa trong cuộc sống của nhân dân miền núi: Vấn đề giải
phóng phụ nữ - vấn đề tình yêu và hạnh phúc của thanh niên… Những vấn
đề ấy làm sâu sắc và phong phú thêm ý trung tâm của tác phẩm.
2.2. Cốt truyện :
Dựa vào câu chuyện có thật, Tơ Hồi viết truyện “Vợ chồng A
Phủ”. Truyện ngắn này kể lại cuộc đời của đôi vợ chồng người H.Mông Mỵ và A Phủ - từ chỗ là kẻ nô lệ đau khổ trong nhà tên thống lý Pá Tra,
rồi giúp nhau thoát được, đến khi gặp cán bộ cách mạng trở thành những
quần chúng trung kiên, những đội viên du kích đích thực.

18


Đọc hiểu truyện ngắn Vợ chồng A Phủ - Tô Hoµi

Cốt truyện khá đơn giản, bám sát theo diễn biến cuộc đời của hai
nhân vật chính và được trình bày theo trình tự thời gian. Có hể thấy hai
chặng của câu chuyện diễn ra ở hai địa điểm : ở Hồng Ngài và ở Phiềng
Sa. Đoạn một là thời gian Mỵ và A Phủ ở Hồng Ngài. Đoạn này có thể
xem là một tình tiết khá trọn vẹn, có giới thiệu, mở mối, phát triển, thắt
nút và giải quyết. Hai nhân vật chính được giới thiệu lai lịch, dung mạo,
rồi cùng sống trong một hoàn cảnh và dẫn tới sự thông cảm gặp gỡ giữa
họ. Mâu thuẫn giữa A Phủ và Mỵ với bố con Pá Tra - đại diện cho thế lực
phong kiến ở miền núi - đã phát triển đến gay gắt, đưa tới hành động đấu
tranh tự phát để giải phóng của Mỵ và A Phủ : cắt dây trói, trốn đi. Đoạn
đầu là quãng đường đấu tranh tự phát của họ.

Đoạn thứ hai là quãng thời gian Mỵ và A Phủ ở Phiềng Sa. Đến
Phiềng Sa, Mỵ và A Phủ đã thành vợ chồng. Họ mong muốn và bắt tay
vào xây dựng một cuộc sống hạnh phúc đơn sơ, nhưng lại bị bọn Tây ở
đồn Bản Pe cướp phá. Từ đây bắt đầu một quá trình giác ngộ của vợ
chồng A Phủ, qua hai bước : gặp Tây đồn và gặp cán bộ A Châu. Những
ngộ nhận được giải quyết và hình thành ở họ nhận thức đúng đắn về bạn
và thù. Họ còn được thử thách và trưởng thành trong cuộc chiến đấu
chống giặc lên càn quét khu du kích Phiềng Sa. Đoạn thứ hai là quá trình
giác ngộ và trưởng thành của Mỵ và A Phủ dưới ánh sáng của Đảng, trong
hoàn cảnh khu du kích Phiềng Sa.
Tác giả đã dùng một lối kể chuyện mạch lạc, khá đơn giản, nhân vật
cũng đã phân ra hai tuyến đối lập rõ rệt, do đó mà truyện ít nhiều gần gũi
với những truyện dân gian. Chính cách kể chuyện này đã phù hợp với nội
dung và nhân vật trong truyện, góp phần tạo nên sự thống nhất thẩm mỹ
của hình thức với nội dung tác phẩm.
Cốt truyện có hai phần như vậy được diễn biến khá tự nhiên. Nhưng
nó cũng bộc lộ nhược điểm : chưa làm rõ sự cấu kết giữa hai thế lực đế
quốc và phong kiến, nêu hai vấn đề chống đế quốc và phong kiến chưa
19


Đọc hiểu truyện ngắn Vợ chồng A Phủ - Tô Hoµi

thật gắn bó nhuần nhuyễn, hai chặng đường của các nhân vật chính cũng
cịn tách rời. Chưa kể một nhược điểm nữa ở đoạn hai, là đời sống tâm
hồn của nhân vật, nhất là Mỵ, ít được soi sáng, diễn tả, nên nhân vật cũng
giảm sức thu hút với người đọc.
2.3. Đề tài :
“Vợ chồng A Phủ” là sáng văn xuôi viết về dân tộc Mèo (nay gọi là
dân tộc H.Mông), những con người chuyên sống cheo leo mãi trên đỉnh

núi cao. Nghĩa là thành công lớn nhất của một tác phẩm viết về một miền
đất xa xôi lại thuộc về cái phần nói đến nơi xa xơi nhất . Thêm một điều
thú vị nữa khi nghĩa về Truyện Tây Bắc và nói rộng ra về sự nghiệp khai
phá đề tài miền núi của văn xuôi cách mạng nước ta.
2.4. Kết cấu :
Có người nhận xét rằng truyện Tơ Hồi là loại truyện số phận nhằm
chỉ ra sở trường của ông không phải là tạo tác nhưng tính cách độc đáo
mà là tạo tác những số phận giàu ấn tượng. Nhân vật của “Vợ chồng A
Phủ” mang rất rõ đặc điểm ấy.
Có cảm tưởng rằng tác giả “Vợ chồng A Phủ” không bỏ thật nhiều
công phu vào khâu bố cục, kết cấu. Câu chuyện diễn ra theo một sơ đồ
phát triển quen thuộc, giản đơn, gồm hai nửa được ghép nối với nhau
chưa mấy khéo. Nửa đầu là chuyện ở Hồng Ngài, nơi thế lực miền núi những thống lý, thống quán… - Ngự trị độc tôn. Tới nửa sau địa điểm
được chuyển tới Phiềng Sa; ở đó, thực dân là kẻ thống trị cao nhất và hầu
như duy nhất. Sự cấu kết giữa thực dân và phong kiến chỉ được vớt vát
trong một chi tiết đặt mãi nơi cuối truyện, qua lời Mỵ kể về bố con Pá Tra
được Tây đánh tháo về đồn ở Bản Pe. Một sự tách bạch giữa hai nửa
truyện cũng rất dễ nhận ra. ở Hồng Ngài những người dân cực khổ có đấu
tranh, nhưng là đấu tranh tự giác để tự giải phóng đời mình, dưới sự giác
ngộ và lãnh đạo của Đảng, mà tiêu biểu là cán bộ A Châu.

20


Đọc hiểu truyện ngắn Vợ chồng A Phủ - Tô Hoµi

2.5. Nhân vật :
Thành cơng của truyện trước hết là ở nghệ thuật xây dựng nhân vật.
Hai nhân vật Mỵ và A Phủ đã phần nào là những tính cách điển hình.
Nhân vật vừa mang tính tiêu biểu cho dân tộc, cho giai cấp của họ, đồng

thời cũng có nét cá tính rõ rệt. A Phủ thì gan góc mà bộc trực cả tin, chất
phác. Ở Mỵ, sức sống mãnh liệt nhưng thể hiện trầm lắng hơn nên cơ Mỵ
có đời sống nội tâm sơi nổi dưới bề ngồi lặng lẽ.
Nét đặc sắc trong xây dựng nhân vật của Tô Hoài trong truyện ngắn
này là miêu tả diễn biến bên trong tâm hồn nhân vật, nhất là Mỵ. Những
đoạn tả sự thức tỉnh của niềm khát vọng cuộc sống ở Mỵ trong một đêm
xuân, cảnh Mỵ suy nghĩ đi tới hành động cắt dây trói cho A Phủ là những
thành công nổi rõ của tác giả trong cách miêu tả “từ bên trong” nhân vật.
Tác giả diễn tả được những biến chuyển tinh tế trong nội tâm nhân vật,
nhưng vẫn giữ được tính chất tự nhiên, phác thực của con người miền núi
trong các nhân vật của mình, tránh được cái nhìn giản đơn cũng như các
tơ vẽ giả tạo khi viết về những con người miền núi.
Tính cách của hai nhân vật chính cũng đã được miêu tả trong sự
biến đổi, phát triển theo quá trình đi tới cách mạng của họ (chú ý sự thay
đổi từ ngoại hình đến nội tâm và hành động của Mỵ và A Phủ khi ở
Phiềng Sa, so với thời kỳ ở Hồng Ngài ; cũng cần chú ý sự biến đổi của A
Phủ trong cái nhìn đồn Tây ở Bản Pe lúc chưa giác ngộ đến khi đã thành
tiểu đội trưởng du kích).
2.6. Cách tạo tình huống .
Tình huống duy nhất của tác phẩm chính là Mỵ cởi trói cho A Phủ.
Tơ Hồi đã rất thành cơng khi tạo ra tình huống này, nó chứng minh cho
“phép biện chứng tâm hồn của tác giả” trong phân tích tâm lý nhân vật.
Theo cách sắp đặt của nhà văn thì Mỵ đã thấy A Phủ bị trói từ mấy
hơm trước. Cặp mắt A Phủ cứ mở trừng trừng mỗi khi ngọn lửa sưởi cháy
bùng lên. Nhưng Mỵ vẫn thản niên hơ tay, sưởi lửa. Với một người “chỉ
21


Đọc hiểu truyện ngắn Vợ chồng A Phủ - Tô Hoµi


cịn biết cịn ở với ngọn lửa”, A Phủ cũng xa lạ như mọi thứ ở trên đời.
“Nếu A Phủ là cái xác chết đứng dậy cũng thế thối”. Câu văn thật hay, bởi
phải nói thế mới thấu hết sự lạnh lẽo, tê dại của tâm hồn Mỵ. Nhưng với
một nhà văn, một câu văn viết thế cũng cực kỳ táo bạo, vì tác giả đã dám
đặt nó kề ngay trước đoạn tả Mỵ thương xót A Phủ và hành động cứu anh.
Vậy đêm mùa đơng ấy có gì khiến Mỵ đổi thay, khác hồn tồn với
cơ Mỵ của đêm qua như thế nào ? Khơng có gì, ngồi một tiểu tiết tưởng
như không đáng kể. Đêm ấy, A Phủ khóc “một dịng nước mắt lấp lánh bị
xuống hai hõm má đá xạm đen”. Nhưng chỗ đáng kể của Tô Hồi lại
chính là ở đây. Nhà văn ln biết tìm ra cái quyết định tất cả từ cái dường
như không là gì hết cả. Dịng nước mắt lấp lánh kia chính là giọt nước
cuối cùng làm tràn đầy cốc nước. Nó đưa Mỵ ra khỏi cõi quên để về với
cõi nhớ.
Và phải biết nhớ lại mình, biết nhận ra mình cũng từng, cũng đang
khổ nỗi khổ của con người, mới có thể thấy có con người nào đó cũng khổ
giống mình. Sự thương người khơng thể sinh ra khi sự thương mình cịn
chưa có. Đúng là từ lúc biết thường mình, Mỵ mới dần có với A Phủ tình
thương đối với một người cùng cảnh ngộ.
Nhưng sự thương người, một khi đã xuất hiện thì cũng sẽ lớn mãi
lên, và sẽ đi đến chỗ lớn hơn cả sự thương mình. Đấy cũng là quy luật tất
yếu của những tình cảm chân chính, nó sẽ sinh ra cái hạnh phúc được hy
sinh ở đây cũng thế. Chuyển ý nghĩ từ mình sang A Phủ. Mỵ dần dần
phảng phất nghĩ : “ta là thân đàn bà… chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở
đây thơi” nhưng cịn “người kia việc gì phải chết thế”. Và hai tiếng “A
Phủ” lần đầu tiên rung động trong lòng Mỵ, nhè nhẹ, nghe như hơi thở
của tình thương. Song phải đến khi cho Mỵ nghĩ : giá như có phải trói vào
cục thay cho A Phủ - giả như A Phủ đã trốn đi - thì “làm sao Mỵ cũng
không thấy sợ” . Phải đến lúc đó, Tơ Hồi mới thực có cơ sở để Mỵ cầm
dao cắt đứt nút dây mây.
22



Đọc hiểu truyện ngắn Vợ chồng A Phủ - Tô Hoµi

Thế mà chỉ một thống sau, khi gỡ hết dây trói ở người A Phủ rồi
thì cơn hốt hoảng tưởng đã biến tan đi từ nãy, đột nhiên ập trở lại trong
người Mỵ. Mỵ mâu thuẫn, Mỵ không nhất quán với mình ? Đúng thế,
nhưng phải đúng thế mới là quy luật. Bởi khi sự thương người đã được
giải quyết rồi, người ta đã thốt khổ rồi, thì sự sợ cho tai hoạ của mình, sự
thương mình - vốn chưa hề mất đi - tất yếu sẽ quay trở lại. Tuy nhiên, sự
lo lắng cho mình ấy khơng phải là hèn yếu. Trái lại, nó tiếp cho Mỵ một
sức mạnh để vùng thốt, để tự thay đổi số phận mình.
2.7. Đặc điểm ngơn ngữ :
Có thể nói, ở “Vợ chồng A Phủ”, Tơ Hồi rất ít sử dụng ngơn ngữ
dân tộc nhưng bù lại, thứ ngôn ngữ tinh chất của ông khi miêu tả tâm lý
nhân vật và ngôn ngữ đa dạng, mượt mà khi miêu tả khung cảnh thiên
nhiên, phong tục Tây Bắc lại là thành công đặc sắc. Tơ Hồi quả là sành
tả thiên nhiên. Nhà văn chỉ chấm phá vài nét mà làm hiện lên một đoạn
văn đầy màu sắc hội hoạ, như một mảnh hồn không thể thiếu của núi rừng
Tây Bắc. Giữa khơng khí oi ngột của đau khổ, người đọc như được thư
giãn trước những trang văn thoáng đãng, bảng lảng một màn sương thơ
mộng như thế. Nó như dấu lặng êm lắng trong một bản nhạc đầy những
âm thanh sôi réo tuôn trào. Cạnh hình ảnh con người, đây là phần “đất
nước” của miền Tây từng đọng bao thương nhớ trong tâm hồn tác giả.
2.8. Phong cách :

Tơ Hồi được mệnh danh là nhà văn của miền núi, nhà văn của câu
chuyện đời thường - không phải ngẫu nhiên khi “Vợ chồng A Phủ” được
coi là kiệt tác của ông. Thành công đặc sắc của Tơ Hồi đó là việc nhà
văn xây dựng tính cách nhân vật và phân tích tâm lý, bên cạnh đó, Tơ

Hồi cũng rất thành cơng khi miêu tả khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc Bức tranh phong cảnh Tây Bắc với chỉ vài nét chấm phá mà làm hiện lên
mảnh hồn không thể thiếu của núi rừng Tây Bắc.

23


Đọc hiểu truyện ngắn Vợ chồng A Phủ - Tô Hoµi

CHƯƠNG II
ĐỌC HIỂU TRUYỆN NGẮN

1. Lý luận về đọc hiểu .
1.1. Đọc văn :

Đọc văn là một quá trình và là một hoạt động phân tích tổng hợp
phức tạp. Thơng qua việc đọc văn, nội dung ý nghĩa chứa đựng trong từ
và câu được thể hiện trong hiện tượng ngôn ngữ được tiếp nhận. Đọc văn
là một hoạt động được xác định thông qua đối tượng và hướng vào đối
tượng tác phẩm. Đọc văn gắn liền hữu cơ với tiếp nhận, vì muốn lĩnh hội
trọn vẹn tác phẩm văn học khơng có con đường nào khác là đọc và sử
dụng các hình thức khác nhau, dưới những bình diện khác nhau, mục đích
khác nhau để đạt tới sự hiểu biết và xúc cảm thật sự nhằm tự khám phá
bản thân và hướng thiện.
Hoạt động đọc diễn ra thông ra sự tiếp thu và nắm vững ý nghĩa đã
được sắp xếp tổ chức trong ký hiệu ngôn ngữ và những mối quan hệ khác
nhau. Đọc văn là thực hiện năng lực tái tạo âmthanh, năng lực nhận thức
những đơn vị thống nhất về cú pháp và năng lực tạo nên âm điệu thích
hợp với tác phẩm. Ý nghĩa quan trọng trong việc nắm vững tri thức và kỹ
thuật đọc thể hiện một trình độ văn hố nhất định.
Đọc văn là sự giao tiếp thẩm mỹ giữa người đọc với tác giả thơng

qua âm thanh giọng đọc. Sự giao tiếp này có thể được xem là “Kênh”
thẩm mỹ : khi đọc, âm thanh của giọng đọc làm nổi bật cái đẹp, cái thẩm
mỹ mà nhà văn gửi gắm trong tác phẩm đến với từng người học, tạo ra
được sự hoà đồng thẩm mỹ giữa tácgiả với người đọc, làm cho khoảng
cách giữa tác phẩm với bạn đọc, tác giả với người học được rút ngắn lại.
Đọc là một lao động hoàn toàn sáng tạo, nó phụ thuộc và tâm lý, thể chất,
thị hiếu, tâm thế của người đọc, đòi hỏi người đọc phải huy động tất cả
năng lực, hứng thú, cảm xúc, nhu cầu, khát vọng, niềm tin để phân tích,
24


Đọc hiểu truyện ngắn Vợ chồng A Phủ - Tô Hoµi

đánh giá, cảm nhận một cách tinh tế, sâu sắc nội dung, nghệ thuật còn
tiềm ẩn trong những con chữ của nhà văn.
Đọc văn là một lao động tổng hợp của q trình tâm lý, tiếp nhận
giao tiếp ngơn ngữ… Khi đọc, người đọc phải huyđộng toàn bộ hệ hiểu
biết để phát hiện các quy tắc ngữ âm, chính tả, cú pháp , để phát hiện chỗ
dừng, chỗ nghỉ, xuống dòng : thể hiện cao độ, trường độ của giọng đọc.
1.2. Đọc - hiểu văn :

Dạy văn thực chất là bồi dưỡng năng lực, là phát triển năng lực trí
tuệ của chủ thể học sinh, thể hiện ở việc nắm bắt, tiếp nhận và xử lý thông
tin thẩm mỹ ở mỗi văn bản văn chương khác nhau. Xuất phát từ đặc trưng
của văn chương lầphnr ánh đời sống qua hình tượng, ngơn ngữ nghệ thuật,
ngơn ngữ văn chương có tính đa thanh và phức điệu nên đọc văn là tự đọc
lấy ngơn ngữ, hình tượng, tự dấy lên cảm xúc, đọc văn phải nắm đúng ý
nghĩa của câu văn, đoạn văn và bài văn. Đọc hiểu là khâu cơ bản nhất của
con người để chiếm lĩnh văn hoá. Đọc để tìm ra ý nghĩa trong một thơng
điệp được tổ chức bằng ký hiệu phải bắt đầu từ hiểu từ, hiểu câu, hiểu

đoạn, hiểu liên kết để dẫn tới hiểu toàn bài. Trên cơ sở đó hiểu đúng mới
có thể hiểu sáng tạo. Muốn hiểu đúng, đầu tiên phải tôn trọng tính chỉnh
thể, tồn vẹn, tính liên kết và mục đích của văn bản. Mọi sự cắt xén, suy
diễn, áp đặt đều không thể chấp nhận được. Đối với việc đọc hiểu, yêu
cầu phá vỡ lớp vỏ ngôn ngữ, yêu cầu hạn chế được tính đa thanh, đa nghĩa
của ngơn ngữ nghệ thuật để tìm ra giá trị đích thực, nắm bắt chiều sâu của
tác phẩm.
1.3. Bản chất của việc đọc hiểu.

Đọc hiểu là quá trình tiếp nhận văn bản văn chương. Để nắm vững
nội dung cũng như phương thức trình bày nghệ thuật trong mỗi văn bản,
việc đọc văn có ba giai đoạn : Giai đoạn tiếp thu trực tiếp văn bản, đây là
giai đoạn phá vỡ lớp vỏ ngôn từ tác phẩm, giai đoạn khám phá, phát hiện

25


×