Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số giải pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi trường mầm non đông vệ, thành phố thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.67 KB, 19 trang )

1. MỞ ĐẦU:
1.1. Lý do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết chỉ thị 40/2008/CT-DT ngày 22/07/2008 của Bộ
GD&ĐT phát động phong trào" Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực" giáo viên dạy lồng ghép kỹ năng sống cho trẻ và các hoạt động, kỹ năng
sống gắn với 4 trụ cột giáo dục đó là: “Học để biết, học để làm người, học để
sống với người khác, học để làm” Để thực hiện mục tiêu trên, nội dung quan
trọng giáo viên cần đưa vào giáo dục cho trẻ là dạy một số kỹ năng sống cho trẻ
ngay từ lứa tuổi mầm non.
Hiện nay kỹ năng sống của trẻ dường như bị tụt lùi. Điều này càng thể
hiện rõ đối với trẻ ở thành thị, những vùng kinh tế phát triển. Chúng ta dễ dàng
bắt gặp trẻ 5 - 6 tuổi vẫn còn được mẹ chăm bẩm từng ly từng tí: Từ việc vệ sinh
cá nhân, mặc quần áo đến việc đút ăn. Những việc làm này vô tình sẽ làm mất
dần kỹ năng sống ở trẻ. Chúng ta đã được chứng kiến rất nhiều học sinh thông
minh, sinh viên tốt nghiệp loại giỏi nhưng vì thiếu, yếu các kỹ năng sống, kỹ
năng làm việc nên gặp rất nhiều khó khăn trong học tập và quá trình xin việc, đi
làm.Từ những thực trạng đó gánh nặng giáo dục ở nhà trường tăng lên gấp bội.
Đối với trẻ mầm non đây là giai đoạn trẻ học, tiếp thu, lĩnh hội những giá
trị sống để phát triển nhân cách, đồng thời trẻ rất dễ bộc lộ cảm xúc, chưa có
nhiều kỹ năng ứng phó với căng thẳng và cảm xúc, vốn hiểu biết về thế giới
xung quanh còn nhiều hạn chế do đó nhiều trẻ còn thụ động, không biết ứng phó
với các tình huống nguy cấp, không biết tự bảo vệ mình trước nguy hiểm hoặc
tìm kiếm sự giúp đỡ từ người khác. Rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ là nhiệm vụ
vô cùng quan trọng, ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách
sau này của các bé. Chính vì vậy, ngay từ giai đoạn mầm non, trẻ cần được trang
bị kỹ năng sống để định hướng phát triển cá nhân một cách tốt nhất. Rèn luyện
kỹ năng sống sẽ giúp trẻ nhanh chóng hoà nhập và khẳng định vị trí của mình
trong lớp, mà xa hơn là một cộng đồng, xã hội, nếu thiếu kỹ năng sống, trẻ cũng
không thể tiếp cận với môi trường xung quanh, hòa nhập cũng như khẳng định
mình.
Chính vì vậy, việc rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ là điều rất cần thiết.


Việc hình thành các kỹ năng cơ bản trong học tập và sinh hoạt là yếu tố quyết
định đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách sau này của trẻ. Khi xảy ra
vấn đề nào đó, nếu không được trang bị kỹ năng sống, trẻ sẽ không đủ kiến thức
để xử lý các tình huống bất ngờ. Vì thế, rèn luyện kỹ năng sống sẽ giúp trẻ sớm
có ý thức làm chủ bản thân, sống tích cực và hướng đến những điều lành mạnh
cho chính mình cũng như xã hội.
Đây là giai đoạn mà trẻ cần được rèn luyện các kỹ năng cơ bản để đối phó
với thực tế và môi trường xung quanh. Trẻ cần được trang bị các kỹ năng cần
thiết khác như rèn luyện và phát triển thể chất, tự nhận thức bản thân, xác định
điểm mạnh, điểm yếu của bản thân để hoàn thiện nhân cách,… hay các kỹ năng
xã hội khác như: giao tiếp, hợp tác, làm việc nhóm,… Do đó, nếu không có sự
1


trang bị tốt về kỹ năng sống cho trẻ hay có sự định hướng không đúng đắn sẽ
ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của trẻ..
Năm học 2019- 2020, tôi được nhà trường phân công đứng lớp mẫu giáo
5 - 6 tuổi với số cháu là 40, tôi đã trăn trở rất nhiều về việc làm sao phải giáo
dục cho trẻ biết ứng xử tốt với mọi tình huống mọi hoàn cảnh trong cuộc sống
đời thường một cách văn minh và hồn nhiên đúng với độ tuổi của trẻ. Một tập
thể trẻ có kinh nghiệm sống tốt sẽ tạo nên môi trường sống ấm áp, hoà thuận,
nhường nhịn, vui vẻ và chuẩn bị tâm thế cho trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trước khi
bước vào trường Tiểu học. Qua một thời gian tìm tòi nghiên cứu, nhận thức
được sâu sắc, ý nghĩa vai trò quan trọng của các kỹ năng sống đối với sự phát
triển của trẻ. Tuy nhiên việc giáo dục kỹ năng sống chưa trở thành một môn học
với một giáo trình chuẩn, được áp dụng trong nhà trường. Với trái tim người mẹ
thứ hai trong năm học 2019- 2020 đã thôi thúc tôi lựa chọn thực hiện đề tài :
“Một số giải pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở trường
mầm non Đông Vệ Thành phố Thanh Hóa” để nghiên cứu.
1.2. Mục đích nghiên cứu:

Đánh giá thực trạng kỹ năng sống của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở trường
mầm non Đông Vệ, trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả
giáo dục kinh nghiệm sống cho trẻ mầm non, giúp trẻ chuyển tải những gì mình
biết, những gì mình cảm nhận, và những gì mình quan tâm, thành những khả
năng thực thụ giúp trẻ biết phải làm gì và làm như thế nào trong những tình
huống khác nhau của cuộc sống hàng ngày.
Từ đó phát triển một cách toàn diện nhân cách trẻ. Giúp trẻ sống tự tin,
kích thích tính tò mò, ham học hỏi, có kỹ năng giao tiếp tốt và biết cách tự bảo
vệ bản thân để giúp trẻ phát triển toàn diện về mọi mặt, bên cạnh đó còn giúp
giáo viên nhận thức sâu sắc, giúp phụ huynh hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của
việc dạy kỹ năng sống cho trẻ.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Một số kỹ năng sống phù hợp với trẻ mẫu giá
- Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở
trường Mầm non Đông Vệ”
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
a. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận.
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin lý luận để xây dựng
cơ sở lý luận của đề tài.
b. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
* Phương pháp điều tra:
- Điều tra về mức độ trẻ đạt được các nhóm kinh nghiệm sống
-Tìm hiểu các biện pháp dạy kinh nghiệm sống cho trẻ đạt kết quả cao
nhất.
2


* Phương pháp quan sát:
Quan sát các biểu hiện, hành vi, các kỹ năng của trẻ thông qua ngôn ngữ
và hoạt động hàng ngày.

* Phương pháp đàm thoại:
Đàm thoại với các đồng nghiệp để trao đổi các kinh nghiệm hay trong dạy
kinh nghiệm sống cho trẻ. Đàm thoại với phụ huynh để tìm hiểu đặc điểm của
trẻ khi ở gia đình. Đàm thoại trực tiếp với trẻ trong quá trình thực hiện các biện
pháp giáo dục.
* Phương pháp trực quan:
Bao gồm phương pháp làm mẫu, làm gương… giúp trẻ quan sát và bắt
chước thực hành thường xuyên những kỹ năng sống cần hình thành.
* Phương pháp thực hành:
Bao gồm các phương pháp trò chơi, giao việc, trải nghiệm. Những
phương pháp này giúp trẻ bắt chước/tập thử và tích cực thực hành thường xuyên
các kỹ năng sống giáo viên cần dạy trẻ.
c. Phương pháp thống kê toán học.
Xử lý những số liệu khảo sát, đã đạt được kết quả, mức độ đạt được, để
rút ra kinh nghiệm hay cho vấn đề nghiên cứu.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận về vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
Trẻ ở lứa tuổi mầm non (Từ 0 – 6 tuổi) thế giới quan rất rộng mở. Trẻ rất
tò mò về thế giới xung quanh hay thích khám phá, giai đoạn này trẻ cũng tiếp
thu và học hỏi mọi thứ xung quanh rất nhanh. Chính vì vậy giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ ở giai đoạn này sẽ đem lại rất nhiều lợi ích tích cực. Trẻ có thể hòa
nhập cuộc sống nhanh chóng, xây dựng mối quan hệ với mọi người xung quanh.
Có kỹ năng chăm sóc và tự bảo vệ bản thân khỏi nhũng nguy hiểm bất ngờ trong
cuộc sống. Ham học hỏi, lĩnh hội và tự làm giàu vốn kiến thức của chính mình.
Giúp trẻ phát triển toàn diện về nhân cách và đi đúng hướng.
Lứa tuổi mầm non là giai đoạn học - tiếp thu - lĩnh hội giá trị sống để phát
triển nhân cách. Kỹ năng sống là những kỹ năng nền tảng để hình thành nhân
cách trẻ. Phát triển về các mặt thể chất, tình cảm-xã hội, ngôn ngữ, nhận thức,
giúp trẻ sẵn sàng đi học lớp một ở trường phổ thông sau này. Cụ thể là:
Thứ nhất: Giúp trẻ được an toàn, khỏe mạnh, khéo léo bền bỉ, tự phục vụ

được bản thân.
Thứ hai: Giúp trẻ biết kiểm soát cảm xúc, thể hiện tình yêu thương, đồng
cảm với mọi người xung quanh.
Thứ ba: Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ mạnh dạn, tự tin, tôn trọng người
khác, có khả năng giao tiếp tốt với mọi người.
3


Thứ tư: Giúp trẻ ham hiểu biết, sáng tạo, có những kỹ năng thích ứng với
hoạt động học tập ở lớp một như: sẵn sàng hòa nhập, vượt qua khó khăn để hoàn
thành nhiệm vụ…
Các kỹ năng có thể dạy cho trẻ mầm non như: Kỹ năng nhận thức về bản
thân, kỹ năng quản lý cảm xúc, kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội, kỹ năng học
tập, kỹ năng tương tác…Từ đó, chương trình giáo dục mầm non đã đưa ra các
nội dung đơn giản và hết sức gần gũi với trẻ như: dạy trẻ có kỹ năng hợp tác với
mọi người, kỹ năng nhận và hoàn thành nhiệm vụ, kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng
kiểm soát cảm xúc…các kỹ năng này không tách rời nhau mà có liên quan chặt
chẽ với nhau, được thể hiện đan xen vào nhau, có thể thực hành trong bất cứ tình
huống nào xảy ra hàng ngày. Cho nên việc giáo dục và vận dụng tốt sẽ giúp trẻ
có nhân cách tốt. Khi giáo dục kỹ năng sống còn góp phần mở rộng nhận thức,
phát triển trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ, phát triển ngôn ngữ cho
trẻ.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
* Thuận lợi:
Trong năm học 2019 - 2020 được sự phân công của nhà trường, lớp mẫu
giáo 5 - 6 tuổi Lá 2 của tôi có 2 cô/ lớp. Nhìn chung giáo viên đều nhiệt tình, có
tinh thần trách nhiệm, yêu nghề, mến trẻ quan tâm chăm sóc và giáo dục trẻ.
Đối với bản thân tôi là một giáo viên mầm non luôn tìm các hình thức,
biện pháp linh hoạt, hợp lý dựa trên quan điểm then chốt của giáo dục mầm non
là “Lấy trẻ làm trung tâm” và tận dụng các điều kiện để tạo ra nhiều cơ hội cho

đứa trẻ được tự trải nghiệm. Với kĩ năng phong phú của bản thân tôi biết cách
khai thác kiến thức từ cuộc sống xung quanh, tạo lập các mối quan hệ với tự
nhiên và con người để giáo dục trẻ sống an toàn, hòa bình và phát triển.
* Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi trên chúng tôi cũng còn gặp không ít khó khăn
đó là:
Lớp học còn chật chội gây khó khăn cho việc tổ chức các hoạt động
Khả năng nhận thức của học sinh không đồng đều
Phụ huynh luôn bao bọc , nuông chiều, làm hộ trẻ khiến trẻ ỷ lại, ích kỷ,
không quan tâm đến người khác và các kỹ năng trong cuộc sống rất hạn chế.
Khó khăn cho trẻ trong việc có tình huống bất ngờ xảy ra
Một số bậc phụ huynh chưa thực sự hiểu về trách nhiệm của gia đình
trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ cũng như chương trình chăm sóc trẻ ở lứa tuổi
mầm non do vậy chưa có có biện pháp phối, kết hợp giữa cha mẹ và cô giáo để
đạt hiệu quả giáo dục tốt nhất.
* Kết quả thực trạng:
Khảo sát đầu năm của lớp tôi với tổng số trẻ là 40 cháu (Trong đó có
15 nữ, 25 nam) và cho kết quả như sau.
4


STT

Nội dung khảo sát

1

K ỹ năng nhận thức bản thân

2


Kỹ năng tự tin

3

Kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội

4

Kỹ năng học tập

Tổng
số trẻ

40

Đạt
Số
trẻ

%

Chưa đạt
Số
trẻ

%

22


55%

18

45%

18

45%

22

55%

18

45%

22

55%

24

60%

16

40%


Qua bảng khảo sát đầu năm tôi thấy tỉ lệ % đạt còn thấp và chưa đạt còn
nhiều, cụ thể:
Kỹ năng nhận thức bản thân: Nhiều trẻ chưa tự phục vụ được bản thân
với những việc vừa sức với mình như rửa tay, lau mặt, mặc quần áo…
Kỹ năng tự tin: Nhiều trẻ không mạnh dạn, tự tin khi cô gọi lên thực hiện
yêu cầu của cô giáo đề ra.
Kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội: Ở nhóm này tỉ lệ chưa đạt chiếm
hơn ½ tổng số lớp chưa đạt, kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội rất kém.
Kỹ năng học tập: Đối với nhóm này nhiều trẻ còn chưa biết cách cầm bút,
kê vở và không hứng thú tham gia học cùng cô và các bạn.
Từ thực tế qua bảng khảo sát trên tôi thấy kỹ năng sống của học sinh lớp
do tôi phụ trách còn nhiều bạn chưa đạt. Vì vậy tôi đã học hỏi, tìm hiểu từ đồng
nghiệp, các tài liệu báo chí…để tìm ra các biện pháp phù hợp và tôi đã mạnh
dạn đưa vào thực hiện áp dụng cho học sinh lớp tôi như sau:
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Cụ thể hóa những biện pháp để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Trên cơ sở khảo sát trẻ đầu năm học tôi xác định được các kỹ năng cơ bản
phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm
để dạy trẻ ở lớp mình phụ trách như sau:
Kỹ năng tự tin: Nhận biết, thể hiện cảm xúc, suy nghĩ cá nhân với mọi
người.
Kỹ năng hợp tác: Kỹ năng tổ chức hoạt động, làm việc theo nhóm, kỹ
năng ra quyết định, giải quyết vấn đề.
Kỹ năng nhận thức về bản thân: Như tự phục vụ bản thân, kỹ năng tự bảo
vệ mình trước những tình huống nguy hiểm, nhận biết về giá trị bản thân.
Kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội: Kỹ năng ứng xử phù hợp với người
xung quanh, kỹ năng hợp tác, kỹ năng nhận và hoàn thành nhiệm vụ, kỹ năng
tuân thủ các quy tắc xã hội, giao tiếp lịch sự và lễ phép, kỹ năng tự phục vụ.
Kỹ năng học tập: Ý thức trách nhiệm, kỹ năng thiết lập và thực hiện mục
tiêu.

5


Để xác định được những kỹ năng này tôi cần đọc, nghiên cứu tài liệu bồi
dưỡng thường xuyên cho giáo viên mầm non và các tài liệu khác về giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ do các nhà xuất bản có uy tín phát hành cụ thể:
* Hình thành kỹ năng tự tin:
Bản thân tự nhận thấy một trong những kỹ năng đầu tiên mà tôi cần chú
tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được
mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác, trẻ
tự tin làm theo ý tưởng, tự tin bày tỏ cảm xúc của mình với người khác mà
không e ngại. Kỹ năng sống này giúp trẻ nhanh chóng thực hiện được mong
muốn của mình đồng thời có khả năng hòa nhập với cộng đồng.
Những biện pháp tôi sử dụng để phát triển sự tự tin ở trẻ là:
+ Luôn tôn trọng, giúp trẻ xây dựng hình tượng tốt của chính mình: Từ
đặc điểm sự tự tin của trẻ bắt nguồn từ lòng tự tôn, một trẻ không có sự tự tôn
thì không thể có sự tự tin. Do đó, tôi luôn tôn trọng trẻ, cổ vũ và khích lệ những
khả năng của trẻ mọi lúc mọi nơi một cách kịp thời.
Ví dụ: Khi trẻ xung phong lên đọc thơ trước cả lớp, tôi sẽ khen ngợi là trẻ
rất giỏi, rất mạnh dạn…để lần sau trẻ muốn và không e ngại khi biểu diễn trước
đám đông…..
+ Nói cho trẻ biết “con có thể làm được”: Tôi dùng lời động viên trẻ một
cách chân thành, không quá lời khen, nghĩ một đường nói một nẻo. Và trong
mọi việc tôi luôn nói “con có thể làm được” để dần củng cố niềm tin vào bản
thân cho trẻ.
Ví dụ: Trong giờ thể dục, một số trẻ sợ độ cao nên không dám trèo lên
xuống thang, tôi không ép buộc trẻ phải thực hiện hoạt động đó ngay lập tức mà
sẽ khuyến khích trẻ với lời động viên “con có thể trèo được, hãy cố gắng lên…”
để trẻ tự tin thể hiện bản thân mình trước các bạn.
+ Bồi dưỡng tài năng đặc biệt cho trẻ: Tài năng đặc biệt cũng có thể làm

tăng thêm sự tự tin cho trẻ. Tôi căn cứ vào sở thích, niềm đam mê của trẻ để bồi
đắp sở trường đặc biệt của trẻ.
Ví dụ: Trẻ có khả năng vẽ đẹp tôi sẽ tạo nhiều cơ hội ở lớp để trẻ được thể
hiện sở trường của mình như vẽ trong các góc, trang trí lớp cùng cô... Đồng thời
trao đổi với phụ huynh cho trẻ tham gia các lớp vẽ ngoại khóa để nâng cao tài
năng cho trẻ….
+ Cho phép trẻ mắc sai lầm: Một đứa trẻ nếu không phạm sai lầm sẽ
không thể trưởng thành. Cho nên, khi trẻ mắc sai lầm tôi luôn lưu tâm đến sai
lầm đó để trao đổi thân thiện, cởi mở với trẻ giúp trẻ hiểu rằng ai cũng có thể
mắc sai lầm nhưng điều quan trọng nhất là biết sửa chữa và không bao giờ mắc
phải sai lầm đó nữa. Đồng thời không phê bình hay chê bai trẻ quá thẳng thắn sẽ
làm trẻ mất hứng thú và tự ti về bản thân mình.
Ví dụ: Khi trẻ tranh giành đồ chơi với bạn, tôi sẽ hỏi trẻ xem vì sao lại
như vậy, tôi bày ra các trò chơi với món đồ chơi đó để 2 trẻ cùng được chơi với
6


nhau. Sau đó hỏi 2 trẻ xem chơi cùng nhau như vậy có vui hơn là tranh giành
nhau không và giáo dục trẻ lần sau nên chơi đoàn kết với bạn bè...
+ Quy định hành vi: Đầu năm học tôi đề ra 1số quy định phù hợp với lớp
học nhằm đạt được mục tiêu chăm sóc giáo dục trẻ, tạo thói quen nề nếp tốt cho
trẻ. Yêu cầu trẻ trong lớp thực hiện theo các nội quy đó để tạo tính chủ động và
làm việc có kế hoạch cho trẻ trong lớp
Ví dụ: Đến giờ thể dục sáng, tôi hỏi trẻ các con nhìn lên lịch xem hoạt
động đầu tiên trong ngày hôm nay là gì? Và cho trẻ cùng chuẩn bị hoạt động đó
với cô...
+ Tổ chức một số hoạt động khác để phát triển sự tự tin của trẻ:
Tôi có thể trò chuyện với trẻ với những câu hỏi như tự tin là gì? Khi con
tự tin con cảm thấy như thế nào? Khi không tự tin con cảm thấy ra sao? Hoặc sử
dụng những câu hỏi gắn với thực tế của trẻ như “con hãy kể những việc con

muốn tự làm, con học cách làm này như thế nào? Hãy kể những việc con tự làm,
Khi tự làm con cảm thấy như thế nào?”. Qua hoạt động trò chuyện đó giúp trẻ
hiểu rằng khi trẻ tự tin là khi trẻ mạnh dạn nói, làm, thể hiện cảm xúc và suy
nghĩ của mình với mọi người. Nếu trẻ tự tin ở mình thì kết quả hoạt động của trẻ
sẽ đạt tốt hơn.
Tạo cơ hội cho trẻ được trải nghiệm: Để trẻ tự làm mọi việc cho bản thân
mình càng nhiều càng tốt như: Tự lấy đồ dùng học tập, hoặc dạy trẻ cách nhờ
một người bạn khác giúp đỡ mình việc gì đó...
* Hình thành kỹ năng hợp tác:
Việc giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ mầm non là rất cần thiết. Bởi trẻ
mầm non còn nhỏ, có nhiều việc không thể tự làm được nếu không có người
khác giúp đỡ. Khi trẻ được bạn giúp đỡ và khi trẻ giúp đỡ được bạn trẻ sẽ nhanh
chóng hoàn thành nhiệm vụ của mình. Qua đó trẻ có niềm vui, có bạn bên cạnh
để chia sẻ công việc, giúp phát triển kỹ năng và tình cảm xã hội của trẻ.
Để giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ tôi luôn tạo cơ hội cho trẻ chơi và
làm việc theo nhóm với các trẻ khác trong tất cả các hoạt động.
Ví dụ: Cho trẻ thảo luận theo tổ để cùng nhau nhận xét về đặc điểm của
một đối tượng nào đó trong các hoạt động, tạo những cảm nhận giúp trẻ tôn
trọng những quyền lợi của trẻ khác qua việc chia sẻ, hướng dẫn trẻ cư xử lịch sự
với bạn khác.
Tổ chức một số hoạt động phát triển kỹ năng hợp tác như:
Thảo luận về sự hợp tác: Trò chuyện với trẻ có sử dụng câu hỏi như “con
và bạn đã cùng nhau làm những việc gì?. Trò chơi nào con thích hơn khi có bạn
cùng chơi? Tại sao con phải hợp tác với bạn, một mình con có làm được việc
này không? Điều gì con cảm thấy vui khi hợp tác ?....Qua việc trò chuyện giúp
trẻ hiểu hợp tác là có nhiều người cùng thực hiện một việc gì đó, cùng vui thích
khi làm việc.
7



Trò chơi “đôi bạn hợp tác”: Cho trẻ tìm thêm một bạn để ghép đôi với
nhau. Các đôi ngồi quay mặt vào nhau, nắm lấy tay nhau, cùng ngồi xuống hoặc
cùng đứng lên mà không buông tay nhau ra.
Trò chơi “Những chiếc tháp tập thể”: Yêu cầu trẻ ngồi xung quanh một
cái bàn và đưa cho trẻ những khối đồ chơi có hình dáng và kích thước khác
nhau. Nhiệm vụ của trẻ là xếp những khối đó thành một cái tháp càng cao càng
tốt.
Trưng bày các hình ảnh sưu tập: Có nội dung mọi người cùng chơi, làm
việc với nhau và cho trẻ thảo luận nội dung của các hình ảnh đó.
Cho trẻ tập đóng kịch: Theo nội dung các câu chuyện trong chương trình
giáo dục mầm non: Đóng kịch “Nhổ củ cải” (có các cảnh mọi người hợp tác với
nhau để nhổ được củ cải)…Đóng kịch theo bài thơ “gấu qua cầu”, bài thơ “mèo
đi câu cá”…
* Hình thành kỹ năng tự nhận thức bản thân:
Kỹ năng tự nhận thức là trẻ tự nhận diện về bản thân, phát triển quan niệm
tích cực về bản thân. Trẻ nhận thức sự khác nhau giữa các trẻ, nhận thức mỗi cá
nhân có điểm riêng biệt cần được tôn trọng, phát triển những suy nghĩ tích cực
về bản thân trẻ. Kỹ năng tự nhận thức giúp trẻ hiểu đúng mình là ai? Trẻ yêu gì?
Điểm mạnh và sở thích của mình là gì để kết nối chúng vào những lĩnh vực liên
quan và phát huy chúng một cách tối đa. Trẻ nhận ra điểm yếu của mình cũng
giúp trẻ dự đoán được những khó khăn trong quá trình hoạt động từ đó tìm ra
cách khắc phục khó khăn đó.
Để hình thành kỹ năng tự nhận thức tôi đã thực hiện một số biện pháp
sau:
+ Trò chuyện giúp trẻ tìm hiểu về bản thân thông qua một số câu hỏi như:
Con là ai? Con thấy mình có những tính tốt đẹp nào? Con thích gì và không
thích gì? Con có mong muốn gì? Con sẽ làm gì để đạt được mong muốn đó?
Con có những điểm gì khác với bạn?.....
+ Chấp nhận sự đa dạng của trẻ và giúp trẻ chấp nhận lẫn nhau: Tôi luôn
tôn trọng cá tính của từng cá nhân trẻ trong lớp, đồng thời có biện pháp giáo dục

để hạn chế điểm yếu, phát huy điểm mạnh của trẻ. Tôi nhận thấy rằng khi tôi tôn
trọng tất cả các trẻ thì trẻ trong lớp sẽ noi gương theo cô, biết tôn trọng các bạn
lớp mình.
Ví dụ: Trong lớp có một cháu bị khuyết tật, trẻ trong lớp không chơi cùng
với bạn đó, tôi sẽ trò chuyện để các cháu thấy rằng bạn đó có rất nhiều điểm tốt
như ngoan, chăm đi học, bạn hát hay…các con cần quan tâm giúp đỡ và chia sẻ
với bạn. Đồng thời, bản thân tôi cũng luôn đối xử công bằng, yêu thương, tôn
trọng trẻ đó để trẻ trong lớp noi theo.
+ Giúp trẻ đạt được thành công nhất định trong lớp học: Thành công là
một trong những yêu tố quan trọng tác động đến sự phát triển ý thức bản thân.
Trẻ ở lứa tuổi này cần trải qua thành công (theo khả năng của trẻ) để trẻ có cảm
8


giác tự tin rằng mình làm được những điều tốt. Trẻ sẽ tự hào về thành công của
mình nếu cô giáo cho trẻ thấy rằng cô tự hào về trẻ.
+ Tổ chức một số hoạt động, trò chơi phát triển kỹ năng tự nhận thức cho
trẻ:
Ví dụ: Hoạt động “soi gương”: Giúp trẻ tự quan sát, cảm nhận về hình
dáng của mình bằng cách cho trẻ tự ngắm mình trong gương với các động tác
như làm điệu, đội mũ, mặc quần áo…. . lúc đó tôi có thể hỏi trẻ: Con thấy ai
trong gương, người trong gương có dáng yêu không?
Hoạt động “Tôi có thể vẽ”: Tôi tạo ra một tờ giấy lớn và dán lên tường.
Tôi cổ vũ trẻ vẽ hay dán bất cứ thứ gì trẻ có thể làm được vào đó để trẻ cả lớp
tạo thành bức tranh tổng hợp lớn. Với hoạt động này trẻ sẽ thấy được sự phát
triển tiến bộ của bản thân qua từng giai đoạn.
Hoạt động “có điều gì trong một cái tên”: Trẻ nhỏ thường rất tự hào về
cái tên của mình, do đó tất cả hoạt động nào liên quan đến cái tên của trẻ đều
làm trẻ hứng thú. Hầu hết bố mẹ đặt tên cho con đều có một ý nghĩa, yêu cầu trẻ
hỏi bố mẹ về điều này, sau đó tôi phát cho mỗi trẻ một tờ giấy và bút màu để trẻ

có thể vẽ lại điều đó vào bức tranh và trang trí cho tranh của mình. Khi đã thực
hiện xong có thể cho trẻ diễn tả lại ý nghĩa của bức tranh mà trẻ đã vẽ.
* Hình thành kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội:
Trẻ mầm non cần phải học rất nhiều trong những năm đầu đời: Học cách
làm chủ ngôn ngữ, học cách nhận biết và đối phó với cảm xúc của mình cũng
như của người khác, học cách tin vào mình và can đảm để khám phá thế giới
rộng lớn xung quanh. Nếu trẻ không đạt được năng lực xã hội tối thiểu vào
khoảng 6 tuổi thì trẻ có thể gặp khó khăn trong suốt cuộc sống sau này
+ Dạy trẻ học cách kiểm soát xung đột và điều chỉnh hành vi của mình:
Tôi làm cầu nối giúp trẻ biểu lộ cảm xúc của mình và biết lắng nghe ý
kiến của người khác. Nếu trẻ bất hòa với bạn khác tôi thường chỉ cho trẻ thấy trẻ
chưa đúng ở điểm nào, điểm nào cần khắc phục và điểm tốt nào cần phát huy.
Cho trẻ thấy những mối bất hòa thường dẫn đến những cảm xúc tiêu cực như tức
giận, sợ hãi, còn nếu chơi đoàn kết với bạn sẽ tạo nên nhưng tình cảm tốt đẹp và
tinh thần thoải mái, vui vẻ…
Ví dụ: Có 2 trẻ đánh nhau, điều đầu tiên cần làm là hỏi hai trẻ lý do vì sao
lại như vậy để từng trẻ có cơ hội thể hiện suy nghĩ bằng lời nói về sự việc đó.
Sau đó giải thích cho trẻ hiểu bạn nào đúng, bạn nào chưa đúng. Giáo dục trẻ lần
sau chơi đoàn kết với bạn hơn.
+ Tạo cơ hội cho trẻ tham gia vào các mối quan hệ với trẻ khác: Nếu trẻ
tương tác với nhau một cách phù hợp, qua đó trẻ sẽ học được các quy tắc ứng xử
trong xã hội. Vì vậy, tôi thường xuyên tổ chức các hoạt động tập thể cho trẻ
trong lớp như tổ chức sinh nhật, biểu diễn văn nghệ tổng hợp cuối chủ đề, hoạt
động góc…để các trẻ được làm việc theo nhóm với nhau. Trong quá trình hoạt
9


động luôn khuyến khích trẻ giao tiếp thỏa thuận với bạn cùng chơi, biểu lộ mong
muốn một cách thích hợp, biết giúp đỡ bạn trong khi chơi.
+ Tổ chức một số trò chơi:

Giúp trẻ biết lắng nghe người khác nói.
Ví dụ: Hoạt động“ điện thoại bạn bè”: Cho 2 trẻ chơi gọi điện cho bạn (2
bạn ở gần nhau). Theo dõi quá trình trò chuyện của trẻ. Sau đó hỏi trẻ: Hai
người cùng nói một lúc thì có nghe rõ điều gì không? Khi nào con nghe thấy
tiếng bạn? Con cảm thấy thế nào khi nghe được, khi không nghe được?
Giúp trẻ biết quan tâm và chia sẻ với người khác. Ví dụ: Hoạt động“chúc
bạn chóng khỏe”: Nếu trong lớp có một trẻ bị ốm không đến lớp được, Tôi sẽ tổ
chức cho trẻ cả lớp làm một tấm thiệp để gửi lời thăm hỏi và chúc bạn nhanh
khỏe rồi gửi tới bạn bị ốm…
* Hình thành kỹ năng học tập:
Mặc dù những kiến thức mà trẻ học ở trường mầm non chỉ là sơ đẳng
nhưng có vai trò rất quan trọng, là nền tảng vững chắc cho việc học văn hóa ở
trường phổ thông sau này. Với trẻ ở lớp tôi, trong mỗi hoạt động tôi đều xác
định cụ thể mục tiêu, hướng dẫn cụ thể nội dung, gợi ý cách thực hiện và cho trẻ
trao đổi cách thực hiện với các bạn để trẻ tìm ra cách thực hiện của riêng mình,
đồng thời tôi cũng khuyến khích và tuyên dương kịp thời sự sáng tạo của trẻ,
giúp đỡ những trẻ thực hiện kém, động viên trẻ cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao với tâm trạng thoải mái và hứng thú nhất.
Ví dụ: Trong hoạt động tạo hình vẽ về một số con vật sống trong gia đình
(theo đề tài). Tôi cho trẻ quan sát và nhận xét một số tranh vẽ về một số con vật
sống trong gia đình đã chuẩn bị trước để gợi ý cách vẽ cho trẻ. Trong quá trình
trẻ thực hiện tôi bao quát để kịp thời tuyên dương những trẻ có sáng tạo như biết
vẽ thêm các chi tiết trang trí cho bức tranh thêm sinh động, đồng thời giúp đỡ
những trẻ chưa biết cách thực hiện hoàn thành sản phẩm của mình.
Kết quả là đa số trẻ lớp tôi đã có ý thức trách nhiệm, có kỹ năng thiết lập
và thực hiện mục tiêu trong tất cả các hoạt động, nhất là trong các hoạt động học
có chủ định.
2.3.2. Giúp trẻ phát triển các kinh nghiệm sống qua việc tổ chức các hoạt
động tập thể vui tươi, lành mạnh trong nhà trường.
Nội dung phong trào“Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”,

trong đó có nội dung: Nhà trường cần tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao
một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh.
Tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực khác
phù hợp với lứa tuổi của học sinh.
Căn cứ vào nội dung trên, tôi đã xây dựng kế hoạch và thực hiện nhiều
hoạt động một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của
trẻ. Cụ thể như sau:
10


Tham mưu với Ban giám hiệu nhà trường tổ chức cho giáo viên thi làm đồ
chơi dân gian; sáng tác bài hát, điệu múa thể loại dân ca cho trẻ ở lứa tuổi mầm
non.
Tổ chức các hội thi, các hoạt động văn nghệ, vui chơi giải trí tích cực
khác phù hợp với lứa tuổi của trẻ mầm non. Huy động và tạo điều kiện để có sự
tham gia hoạt động đa dạng và phong phú của cha mẹ trẻ em, các tổ chức, lực
lượng xã hội, cá nhân trong việc giáo dục văn hóa, truyền thống, giáo dục lòng
yêu nước cho trẻ.
Ví dụ: Tăng cường cho trẻ chơi các trò chơi dân gian trong giờ hoạt động
ngoài trời vào các ngày thứ tư, sáu; riêng chiều thứ hai hàng tuần, trẻ được xem
các kịch bản rối qua các câu chuyện cổ tích, giao lưu hỏi đáp giữa các trẻ về nội
dung các câu chuyện.
Cụ thể tôi đã tổ chức thực hiện các hoạt động nổi bật như sau:
Tổ chức cho học sinh lớp 5- 6 tuổi thi góc chơi “khám phá khoa học” theo
chủ đề bản thân, tôi lên tiết thực hành giúp trẻ trải nghiệm bằng các giác quan,
những trải nghiệm trong đời sống hàng ngày của trẻ.
Tổ chức cho trẻ đến thăm nhà bạn trong chủ đề gia đình theo từng tổ, từng
nhóm trẻ. Hoạt động trên nhằm phối hợp với các bậc cha mẹ để có thể giúp trẻ
phát triển kỹ năng cảm xúc và xã hội bằng cách tạo ra các mối liên kết bạn bè tại
gia đình.

Tổ chức cho trẻ tham quan các công trình công cộng (như trạm y tế, nhà
tưởng niệm Bác Hồ…) nhằm rèn luyện kỹ năng giao tiếp, giáo dục lòng yêu quê
hương đất nước con người.
Tổ chức ngày hội “Bánh chưng, bánh dày” lồng ghép giáo dục qua câu
chuyện lịch sử “Sự tích bánh chưng, bánh dày”. Hoạt động vui chơi giải trí này
còn dành thời gian cho học sinh khối 5-6 tuổi thực hành chuyên đề “ Bé tập làm
nội trợ ” qua hội thi gói bánh chưng ngày tết.
Ví dụ: Chuẩn bị đón tết nguyên đán nhà trường tổ chức gói bánh trưng, tôi
đã chuẩn bị các nguyên vật liệu như: Lá dong, gạo nếp, đậu xanh, thịt, lạt buộc
và giới thiệu cho trẻ biết từng nguyên vật đó, tiếp theo rửa sạch lá, đãi gạo nếp,
đậu xanh, đồ chín đậu xanh, thái thịt làm nhân bánh, sau đó cô cho trẻ thực hành
gói bánh cùng cô.
Tổ chức hội diễn văn nghệ mừng xuân cho trẻ tại các góc chơi với chủ đề
“ Bé hát dân ca” thi “Trang phục dân gian”, tổ chức các gian hàng ẩm thực mùa
xuân, trò chơi dân gian, thi giải câu đố hay….
Tổ chức cho trẻ lớp 5-6 tuổi tham quan, vui chơi các trò chơi dân gian
trong dịp đầu xuân như: Ném vòng cổ chai, đập heo, cướp cờ tại sân vận động
hoặc nhà văn hoá xã, giúp trẻ có dịp đến tham quan tìm hiểu nét văn hóa đặc
trưng ở địa phương.
Tổ chức hoạt động nghệ thuật cho trẻ qua hội thi “ Vẽ những điều mơ ước
cho mẹ”, tổ chức hoạt động phát triển tư duy qua một số hội thi có sự tham gia
11


trực tiếp của cha mẹ để cùng chơi với trẻ qua đó rèn luyện tính kiên nhẫn, kỹ
năng hợp tác với cha mẹ, ông bà để chiến thắng yêu cầu thử thách của luật chơi,
phát triển kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sống tự tin, phát triển tình cảm, nhận thức
ở trẻ.
Ví dụ: Khi nhà trường tổ chức hoạt động nghệ thuật cho trẻ qua hội thi “
Vẽ những điều mơ ước cho mẹ”, cô giáo mời phụ huynh của những trẻ tham gia

tổ chức tới dự để cổ vũ, động viên, hợp tác cùng trẻ, giúp trẻ tự tin chiến thắng.
2.3.3: Tổ chức tốt các hoạt động theo chương trình giáo dục mầm non mới,
lồng ghép các hoạt động trong giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần,
tích cực của trẻ.
Tôi giúp trẻ tham gia chơi một cách tự nguyện hứng thú thoải mái không
bị áp đặt, gò bó và thông qua trò chơi làm thoải mãn nhu cầu của trẻ đồng thời
trẻ được học mọi điều như, học mà chơi, chơi mà học''. Quan hệ giữa trẻ và cô
giáo là quan hệ tình cảm gắn bó mang đậm sắc màu của tình mẹ con, quan hệ
giữa trẻ với nhau chủ yếu là quan hệ chơi, trẻ được chơi cùng nhau, ngủ cùng
nhau trong khoảng thời gian gần gũi với những điều kiện phương tiện như một
gia đình, mọi sinh hoạt của trẻ hoàn toàn phụ thuộc vào vai trò tổ chức, hướng
dẫn giúp đỡ của người lớn.
Như đợt dịch bệnh vừa qua tôi có dạy trẻ khám phá về dịch Corona qua
video và gửi vào zalo cho bố mẹ trẻ để trẻ tương tác với bài học và hình thành ở
trẻ một số kỹ năng phòng tránh dịch bệnh.
Kỹ năng sống hợp tác bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát cô giúp trẻ
cách cùng làm việc với bạn bè đây là việc không nhỏ đối với trẻ lứa tuổi này.
Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với bạn.
Ví dụ: Trồng rau, mỗi trẻ sẽ được sự phân công theo nhóm để nhận nhiệm
vụ như: Xới đất, trồng cây, nhổ cỏ, tưới cây....Trẻ sẽ học làm việc cùng nhau, kỹ
năng thích tò mò ham học hỏi một trong những kỹ năng quan trọng nhất cần ở
trẻ vào giai đoạn này là sự khát khao được học. cô giáo cần sử dụng nhiều tư
liệu và ý tưởng khác nhau để gợi tính tò mò và tự nhiên của trẻ cô dạy trẻ biết
thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm
nhận được vị trí, kiến thức của mình trong thế giới xung quanh đây là một kỹ
năng cơ bản khá quan trọng đối với trẻ, nó có vị trí chính so với tất cả kỹ năng
khác như đọc viết, làm toán, nếu trẻ cảm thấy thoải mái khi nói về một lý tưởng
nào đó, trẻ sẽ trở nên dễ dàng học và sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới
đấy chính là yếu tố cần thiết để trẻ sẵn sàng học mọi thứ.
Ngoài ra ở trường cô giáo cần dạy trẻ văn hóa trong ăn uống qua đó dạy

trẻ kỹ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: (biết tự rửa tay trước khi
ăn,và sau khi đi vệ sinh và khi ăn ngồi ngay ngắn tại bàn để ăn biết sử dụng đồ
dùng vật dụng trong khi ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, ăn xong
biết tự lau miệng và xúc miệng khi ăn cơm xong, không đánh vãi cơm, trẻ biết
mời cô khi ăn va khi có khách, ăn xong biết cất đúng nơi qui định, biết giúp đỡ
12


cô khi dọn phòng ngồi ngay ngắn khi ăn xong ăn hết xuất, không nói chuyện khi
ăn.
Giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới, điều này
liên quan tới việc trẻ có thây thoải mái ,tự tin với mọi người xung quanh, cũng
như mọi người xung quanh tiếp nhận trẻ đó như thế nào ?
Cô cần chuẩn bị cho trẻ sự tự tin, thoải mái trong mọi trường hợp nhất là
trong việc ăn uống để chúng ta không phải xấu hổ vì những hành vi không đúng
của trẻ.
2.3.4: Khai thác phát huy năng khiếu, tiềm năng sáng tạo của trẻ
Đối với trẻ ở mọi hoạt động tôi luôn tạo cho trẻ một tâm thế thoải mái,
luôn gợi mở giúp trẻ phát huy những tiềm năng sáng tạo và năng khiếu của mỗi
trẻ.
Ví dụ: Giờ tạo hình cho trẻ vẽ về cây xanh, trước giờ học vẽ tôi cho trẻ
dạo chơi thăm quan cảnh trường, khám phá về các loại cây xung quanh sân
trường…Vào giờ vẽ tôi đưa ra các câu hỏi gợi mở giúp trẻ nhớ lại đặc điểm của
các trong trường mà trẻ đã vừa thăm quan, sau đó tôi dựa vào năng khiếu, khả
năng của từng trẻ để gợi mở khuyến khích trẻ sáng tạo.
Đối với các giờ học khác khi trò chuyện, đàm thoại tôi luôn đưa ra những
câu hỏi gợi mở như: Vì sao? Như thế nào? Để trẻ suy đoán, mô tả, nhận xét về
các nội dung có liên quan đến chủ đề, để kích thích trẻ biểu lộ suy nghĩ, cảm xúc
của trẻ.
Ví dụ: Thông qua giờ hoạt động ngoài trời, tôi cùng trẻ trò chuyện về các

hiện tượng thời tiết như: Quang cảnh bầu trời trước và sau cơn mưa thì tôi cho
trẻ quan sát bức tranh quang cảnh trời chuẩn bị mưa và quang cảnh bầu trời sau
cơm mưa và các câu hỏi của tôi đặt ra như sau:
- Các con có nhận xét gì về bức tranh?
- Khi có dấu hiệu báo trời sắp mưa thì quang cảnh bầu trời như thế nào?
- Các dấu hiệu báo trời sắp mưa sẽ có những hiện tượng gì?
- Màu sắc của những đám mây ra sao?
- Sau khi mưa thì quang cảnh bầu trời như thế nào?
- Cỏ cây, hoa lá sau cơn mưa có gì thay đổi?...
+ Các giờ tổ chức cho trẻ tham gia hoạt động có chủ định, thăm quan, dạo
chơi. Tôi lựa chọn các phương pháp khuyến khích trẻ “Học qua chơi” và thông
qua trải nghiệm.
2.3.5: Tuyên truyền, phối hợp với cha mẹ để thực hiện dạy trẻ các kỹ năng
sống.
Bên cạnh việc dạy trẻ ở trường, tôi cũng chú trọng đến việc trao đổi với
phụ huynh để cùng phối hợp dạy kỹ năng sống cho trẻ. Tuyên truyền cho phụ
huynh hiểu không nên làm hộ con, phải dậy trẻ tính tự lập từ bé. Trẻ càng được
13


hướng dẫn sớm về cách tự vệ , nhận biết những mối nguy hiểm từ xung quanh
và cách xử lý thì sẽ vững vàng vượt qua những thử thách trong mọi tình huống.
Điều đó được chứng minh rõ ràng từ thực tế. Chính vì vậy, cách bảo vệ trẻ tốt
nhất chính là dạy trẻ biết cách tự bảo vệ bản thân.
Trước hết, cha mẹ và người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng,
đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ.Ví dụ: Hướng dẫn và nhắc
nhở trẻ đội mũ bảo hiểm khi đi trên xe máy mỗi buổi đến trường, khi tham gia
giao thông.
Tạo điều kiện tốt nhất cho trẻ vui chơi, tạo các tình huống mở để trẻ khám
phá và giải quyết.

Ví dụ: Có thể giới thiệu với trẻ về một số hiện tượng tự nhiên qua tranh
ảnh, bài hát, hoạt động vui chơi hay các tình huống thực gặp trong ngày (trời
mưa, cầu vồng…Từ đó giáo dục trẻ biết cách tránh mưa…)
Trong cuộc sống hàng ngày, nên dạy trẻ cách xử lý những tình huống bất
trắc mà trẻ có thể gặp phải dưới hình thức trò chuyện, tạo tình huống, gợi mở
giúp trẻ tìm ra cách giải quyết. Không áp đặt, cấm đoán trẻ .
Thay vì “Con không được làm thế này, thế kia “thì ta nên đưa ra các tình
huống cụ thể thông qua thực tế giúp trẻ hiểu tại sao không được làm như thế,
nếu xảy ra thì sẽ phải làm như thế nào ?
Chính từ những suy nghĩ tìm cách xử lý ở các tình huống cụ thể đó giúp
trẻ dần có kỹ năng suy đoán, biết áp dụng những kiến thức kinh nghiệm mình
đã có để tìm cách giải quyết. Từ đó trẻ có thể vận dụng với những tình huống
khác trong thực tế hàng ngày mà trẻ gặp. Dần hình thành cho trẻ những kinh
nghiệm, những kỹ năng biết bảo vệ mình trong cuộc sống sau này.
Tuyên truyền để các bậc phụ huynh hiểu rằng: Giáo dục kỹ năng sống là
giúp trẻ nâng cao năng lực để tự lựa chọn giữa những giải pháp khác nhau.
Quyết định phải xuất phát từ trẻ . Nội dung giáo dục phải xuất phát từ chính nhu
cầu và kinh nghiệm của trẻ . Trẻ cần có điều kiện để cọ sát các ý kiến khác nhau,
trao đổi kinh nghiệm, tập tành, thực hành và áp dụng. Bên cạnh đó, yêu cầu phụ
huynh phối hợp cùng cô giáo trong việc thống nhất phương pháp giáo dục trẻ:
- Tin tưởng vào trẻ và năng lực của trẻ
- Tôn trọng ý kiến của trẻ, không áp đặt ý kiến của mình.
- Không nói dài và nói nhiều, không đưa lời giải đáp có sẵn mà hãy đưa
câu hỏi để trẻ tự tìm tòi.
- Không vội vàng phê phán đúng - sai mà kiên trì giúp trẻ biết tranh luận
và có thể đưa ra kết luận của mình.
Khuyến khích trẻ nói lên sở thích, quan điểm của trẻ: Nói chuyện với các
thành viên trong lớp, trong gia đình về cảm giác và về những lựa chọn của mình,
cố gắng không chỉ trích các quyết định của trẻ. Việc này sẽ hình thành kỹ năng


14


tự kiểm soát bản thân, rèn luyện tính tự tin cho trẻ khi tham gia các hoạt động xã
hội và các buổi thảo luận sau này.
Ví dụ: Như trẻ thích vẽ, ngoài việc cho trẻ học năng khiếu vẽ thì tôi, cha
mẹ có thể cho trẻ thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho trẻ cách lưu giữ các bức
tranh để tạo thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính trẻ hoặc triển lãm tranh của
trẻ ở góc nhỏ trong nhà.
Cần dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống: Dạy trẻ biết cách sử
dụng các đồ dùng ăn uống. Việc này được thực hiện trong giờ học, giờ sinh hoạt
hàng ngày của trẻ tại lớp và trong bữa cơm gia đình. Cụ thể: Trẻ được làm quen
với những đồ dùng, vật dụng khác nhau, (bộ đồ bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống). Sự
sạch sẽ, gọn gàng, một thói quen nề nếp, sự sắp đặt ngăn nắp, ngay ngắn những
bộ đồ dùng, vật dụng, thái độ, ăn uống từ tốn, không vội vã, không khí cởi mở,
thoải mái và đầm ấm, những cuộc trao đổi nhẹ nhàng, dễ chịu… tất cả những
yếu tố trên sẽ giúp trẻ có thói quen tốt để hình thành kỷ năng tự phục vụ và ý
nghĩa hơn là kỹ năng sống tự lập sau này.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Khi nghiên cứu và áp dụng vào việc giáo dục trẻ trong năm học 20192020 tôi thường lo lắng đối với những trẻ có một số vấn đề về hành vi và khả
năng tập trung trong những năm tháng đầu tiên trẻ đến trường. Đơn giản là vì
những trẻ này thường không có khả năng chờ đến lượt, không biết chú ý lắng
nghe và làm việc theo nhóm, điều này làm cho trẻ không thể tập trung lĩnh hội
những điều cô giáo dạy. Vì vậy, phải tốn rất nhiều thời gian vào đầu năm học để
giúp trẻ có được những kỹ năng cơ bản ở trường mầm non giúp trẻ ổn định nề
nếp nhóm lớp và có các thói quen tốt trong sinh hoạt hàng ngày.
Từ khi áp dụng những sáng kiến, kinh nghiệm trên cùng với sự cố gắng
nỗ lực của bản thân, sự đồng thuận hợp tác của tập thể sư phạm, sự ủng hộ tích
cực của các bậc cha mẹ đã giúp tôi đạt được một số kết quả trong việc dạy trẻ
lớp mình các kỹ năng sống cơ bản thể hiện ở các kết quả sau:

* Kết quả trên trẻ

Qua quá trình áp dụng các biện pháp trên tôi đã khảo sát lớp tôi gồm 57
trẻ, lớp tôi đạt yêu cầu qua các giai đoạn tăng đáng kể như sau:
ST
T

Nội dung khảo sát

1

Kỹ năng nhận thức bản thân

2

Kỹ năng tự tin

3

Kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội

4

Kỹ năng học tập

Tổng
số trẻ

40


Đạt

Chưa đạt

Số
trẻ

%

Số
trẻ

%

38

95%

2

5%

36

90%

4

10%


35

88%

5

12%

38

95%

2

5%

15


Qua bảng kháo sát trên tôi có những kết quả đạt được như sau:
+ Đối với trẻ:
Nhìn vào bảng kết quả so sánh trên ta có thể thấy rằng: Kết quả phần thực
nghiệm thay đổi hoàn toàn. Trẻ được rèn luyện kỹ năng tự lập; kỹ năng nhận
thức; kỹ năng vận động thô, vận động tinh thông qua các hoạt động hàng ngày
trong cuộc sống của trẻ; kỹ năng tự kiểm soát bản thân, phát triển óc sáng tạo,
tính tự tin thông qua các hoạt động năng khiếu vẽ, thể dục Aerobic, trẻ có kỹ
năng lao động tự phục vụ, đa số trẻ có các kỹ năng học tập tốt, biết cố gắng hoàn
thành công việc của mình đến cùng, biết kết hợp với nhóm bạn trong các hoạt
động hàng ngày.
Cụ thể:

Đối với nhóm kỹ năng nhận thức bản thân: Đa số trẻ đã có kỹ năng tự
nhận thức về bản thân rất tốt.
Đối với nhóm kỹ năng tự tin: Ở nhóm này thì 90% trẻ đã có kỹ năng tự tin
về bản thân mình rất nhiều ở tất cả các hoạt động học và hoạt động chơi.
Đối với nhóm kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội: Tỉ lệ ở nhóm này tuy
chưa được cao như tiếu chí đề ra, nhưng so với thực tế lớp tôi như vậy cũng đạt
được kết quả nhất định và phù hợp.
Đối với nhóm kỹ năng học tập: Đầu năm còn nhiều trẻ chưa có kỹ năng
hứng thú học tập, nhưng đến cuối năm thì đa số trẻ đã có kỹ năng học tập theo
quy định.
+ Đối với bản thân:
Ngoài những kết quả đạt được đối với trẻ, bản thân tôi cũng đúc rút được
rất nhiều kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy.
Đã có thêm nhiều trò chơi, hoạt động làm phong phú thêm phương tiện
truyền tải kiến thức đến với trẻ.
Qua quá trình tổ chức cho trẻ trải nghiệm các tình huống và sử lý các tình
huống, cô dễ dàng phân loại trẻ để có cách giáo dục phù hợp hơn.
+ Đối với Đồng nghiệp và nhà trường
Những nội dung giáo dục kỹ năng trên được gắn vào các chủ đề giáo dục
một cách phù hợp.
- Tạo tình huống cụ thể:
Cô thường xuyên giáo dục trẻ với những lời dặn dò nhắc nhở đơn giản
thông qua nội dung các bài thơ ,câu chuyện, bài hát có nội dung giáo dục dạy
trẻ.
+ Đối với phụ huynh.
Phụ huynh hiểu việc giáo dục kỹ năng sống là giúp trẻ nâng cao năng lực
để tự lựa chọn giữa những giải pháp khác nhau. Quyết định phải xuất phát từ trẻ
16



. Nội dung giáo dục phải xuất phát từ chính nhu cầu và kinh nghiệm của trẻ . Trẻ
cần có điều kiện để cọ sát các ý kiến khác nhau, trao đổi kinh nghiệm, tập tành,
thực hành và áp dụng. Bên cạnh đó, yêu cầu phụ huynh phối hợp cùng cô giáo
trong việc thống nhất phương pháp giáo dục trẻ:
- Tin tưởng vào trẻ và năng lực của trẻ.
- Tôn trọng ý kiến của trẻ, không áp đặt ý kiến của mình.
- Không nói dài và nói nhiều, không đưa lời giải đáp có sẵn mà hãy đưa
câu hỏi để trẻ tự tìm tòi.
- Không vội vàng phê phán đúng - sai mà kiên trì giúp trẻ biết tranh luận
và có thể đưa ra kết luận của mình
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Như vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ ngay từ khi còn nhỏ là việc
làm cần thiết và có ý nghĩa thiết thực. Mỗi đứa trẻ có những yếu tố cá nhân khác
nhau và sự ảnh hưởng của các quan hệ xã hội cũng như hoàn cảnh sống, môi
trường trải nghiệm khác nhau nên nhà giáo dục cần có những hình thức, biện
pháp linh hoạt, hợp lý dựa trên quan điểm then chốt của giáo dục mầm non là
“Lấy trẻ làm trung tâm” và tận dụng các điều kiện để tạo ra nhiều cơ hội cho đứa
trẻ được tự trải nghiệm. Với kĩ năng sống phong phú trẻ sẽ biết cách khai thác
kiến thức từ cuộc sống xung quanh, tạo lập các mối quan hệ với tự nhiên và con
người để sống an toàn, hòa bình và phát triển.
Qua quá trình áp dụng các giải pháp để rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ kể
trên, kết quả thực nghiêm chứng tỏ việc sử dụng các giải pháp trên đã giúp trẻ
tích lũy được nhiều kinh nghiệm sống cho bản thân.
Việc lựa chọn, sử dung các trò chơi thiết kế và sưu tầm phải phù hợp với
mục đích, nội dung giáo dục đặt ra trong mỗi bài học, trong trong mỗi hoạt động
hoặc giai đoạn thực hiện chủ đề, phù hợp với vốn hiểu biết và khả năng nhận
thức của trẻ để đảm bảo tính phát triển.
Đối với bản thân qua nghiên cứu tài liệu, qua sự học hỏi kinh nghiệm từ
các đồng nghiệp tôi đã có thêm nhiều kinh nghiệm và kiến thức trong việc giảng

dạy.
Là giáo viên tâm huyết với nghề yêu nghề mến trẻ không ngừng tham
khảo đọc tài liệu tìm kiếm thiết kế những bài dạy điện tử, tham khảo những trò
chơi, các hình thức áp dụng cho bài dạy thêm phong phú, nội dung chương trình
dạy trẻ một cách sáng tạo, linh hoạt giúp trẻ phát triển về mọi mặt.
3.2. Kiến nghị
Để đảm bảo yêu cầu công tác chăm sóc giáo dục trẻ phát triển một cách
toàn diện trong giai đoạn mới tôi xin có một số ý kiến đề xuất sau:
* Đối với nhà trường
17


Ban giám hiệu nhà trường cùng với tập thể giáo viên thường xuyên phát
động phong trào tổ chức các buổi tham quan, dạo chơi, ngoại khóa, tổ chức các
hoạt động tập thể để trẻ thường xuyên được học tập, vui chơi, trải nghiệm và
tích lũy được nhiều kinh nghiệm sống.
* Đối với các cấp
- Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất để phục vụ cho công tác chăm sóc và
giáo dục trẻ.
- Mở hội thảo chuyên đề cho giáo viên học hỏi, cung cấp tài liệu có nội
dung về các hoạt động dạy cho cán bộ giáo viên tham khảo bằng mọi hình thức.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Ngày 25 tháng 5 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác
Ký tên


Trần Thị Quý

18


19



×