Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Một số kinh nghiệm thiết kế và sử dụng trò chơi trong môn Tiếng Việt lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.25 KB, 15 trang )

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BÁO CÁO KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến cơ sở huyện Phú Ninh
Tên sáng kiến: Một số kinh nghiệm thiết kế và sử dụng trò chơi trong
môn Tiếng Việt lớp 3.
1. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Tiếng Việt lớp 3
3. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: Năm học 2019-2020
4. Mô tả bản chất của sáng kiến:
4.1. Phân tích tình trạng của giải pháp đã biết.
Hiện nay, trên truyền hình xuất hiện những sân chơi như: Những người
bạn nhỏ, Trẻ em luôn đúng, Ai thông minh hơn học sinh lớp 5, Đồ rê mí,…đã
thu hút sự chú ý và hưởng ứng nhiệt tình của đông đảo học sinh. Cho nên tôi
nghĩ trong dạy học, nhất là đối với học sinh tiểu học, việc tạo ra những sân chơi
là rất cần thiết góp phần thay đổi cách dạy cách học đem lại những giờ học vui
vẻ, lí thú, lôi cuốn sự chú ý của các em với bài học. Việc sử dụng trò chơi trong
tiết học là vấn đề không mới nhưng đôi lúc giáo viên ít chú trọng vì ngại thiết kế
và tổ chức. Chính vì thế, học sinh không có kĩ năng tham gia trò chơi, không dạn
dĩ, thiếu tự giác. Nếu có sử dụng cũng chỉ nhằm vào những tiết thao giảng, dự
giờ báo trước và cũng chỉ phục vụ cho một số học sinh khá, giỏi, dạn dĩ thường
xung phong chứ chưa có tác dụng gì đến học sinh yếu kém. Vì vậy đa số học
sinh ít ham thích khi học môn Tiếng Việt vì cảm thấy mệt mỏi, nặng nề do suy
nghĩ nhiều, ít hoạt động. Qua khảo sát chất lượng môn Tiếng Việt đầu năm của
lớp tôi chủ nhiệm với tổng số 33 em, trong đó: Hoàn thành tốt: 10 em (30.3%),
hoàn thành: 18 em (54.5 %), chưa hoàn thành: 5 em (15,2 %).
Từ một số vấn đề trên cùng với quá trình giảng dạy nhiều năm ở lớp 3, tôi
nhận thấy để làm cho môn Tiếng Việt sinh động, học sinh học tập có hứng thú,

1




rồi phù hợp với tâm lý “chơi mà học, vui mà học” thì cần kết hợp sử dụng hình
thức trò chơi trong học tập môn Tiếng Việt để mang lại hiệu quả cao.
Trò chơi học tập là nhằm phát huy tính tích cực, tính chủ động, tính sáng
tạo của học sinh trong học tập. Trò chơi nói chung và trò chơi học tập nói riêng
giúp học sinh phát triển toàn diện về: đức - trí - thể - mĩ
Bởi vậy, trong từng tiết dạy nếu chúng ta biết cách xây dựng trò chơi
mang tính hấp dẫn, sát với nội dung bài dạy, đưa đúng lúc sẽ góp phần đáng kể
vào việc khắc sâu củng cố kiến thức, kĩ năng Tiếng Việt cho các em, đồng thời
giúp các em phát huy trí tuệ, óc phân tích và tư duy cũng như lôi kéo tất cả các
đối tượng học sinh say mê học môn Tiếng Việt. Chính vì thế, tôi đã tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Một số kinh nghiệm thiết kế và sử dụng trò chơi trong môn
Tiếng Việt lớp 3”.
4.2. Nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhược điểm
của giải pháp đã biết:
Dạy học phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh là một vấn đề đã
được khẳng định và là một yêu cầu bức thiết nhằm nâng cao chất lượng dạy học
trong nhà trường hiện nay, nhất là đối với môn Tiếng Việt. Với đặc điểm tâm
sinh lí của học sinh tiểu học, tiết học từ 35 phút - 40 phút với những thao tác
nghe, làm theo là chủ yếu thì thật là nặng nề với các em. Cần phải cho các em
được “chơi mà học, học mà chơi” thông qua các trò chơi, học sinh được rèn
luyện tập làm việc cá nhân, làm việc theo đơn vị nhóm, đơn vị lớp là những cách
làm việc thuộc phương pháp học tập mới mà nhà trường tiểu học cần hình thành
cho các em. Dạy học được tổ chức bằng các trò chơi sẽ làm cho học sinh tự tin
hơn trong học tập, tạo cho các em cơ hội đánh giá lẫn nhau, đem lại cho các em
niềm tin về sự thành công trong học tập.
Qua thống kê trong các sách: Tiếng Việt 3 (SGV), tập san giáo dục, tạp
chí giáo dục, tôi nhận thấy trò chơi hướng dẫn sẵn rất ít, cụ thể như sau:


2


Phân môn

TS tiết/năm

Số trò chơi đã soạn sẵn trong

Tỉ lệ tiết dạy

Tập đọc

70

các loại sách
16

có trò chơi (%)
22.9

Chính tả

70

2

2.9

LTVC


35

3

8.6

Tập làm văn

35

-

Kể chuyện
Tiếng Việt

35
245

21

8.6

Như vậy, ta thấy trò chơi soạn sẵn rất ít chỉ tập trung trong phân môn tập
đọc mà lại lặp nhau rất nhiều. Trong thực tế giảng dạy, số giáo viên bám sát sách
chiếm tỉ lệ cao. Hơn nữa, chưa chắc giáo viên đã sử dụng các trò chơi đó trên
lớp. Do vậy tỉ lệ tiết dạy có sử dụng trò chơi chiếm tỉ lệ rất nhỏ.
Môn Tiếng Việt là môn học có tầm quan trọng bậc nhất trong các môn học ở
tiểu học (được xem là môn học công cụ). Bởi lẽ Tiếng Việt không những dạy
cho các em biết kiến thức về ngôn ngữ trong giao tiếp mà còn giúp các em gìn

giữ tiếng mẹ đẻ, Tiếng Việt có nhiệm vụ làm giàu vốn từ cho học sinh và trang
bị cho các em một số kiến thức về từ, câu, cách sử dụng ngôn ngữ trong giao
tiếp. Tiếng Việt là một thứ tiếng giàu đẹp và trong sáng mà lịch sử đã chứng
minh rằng “Tiếng Việt trở thành vũ khí của dân tộc Việt Nam”.
Đối với học sinh tiểu học, vui chơi vẫn là nhân tố quan trọng trong hoạt
động của học sinh. Với nhiều cách chơi khác nhau sẽ giúp học sinh thêm hứng
thú và tiếp thu bài tốt hơn. Vì thế cùng với phương pháp khác, thiết kế và sử
dụng trò chơi học tập là phương pháp nhằm tích cực hóa đối tượng học sinh.
Vậy giải pháp thiết kế và sử dụng trò chơi trong môn Tiếng Việt lớp 3 là tổ chức
hoạt động dạy - học ở đó có sự tác động qua lại, hỗ trợ về kiến thức giữa thầytrò, trò - trò, trò - thầy.
Để khắc phục tình trạng đó, đồng thời đáp ứng yêu cầu cần thiết trong hoạt
động giảng dạy ở tiểu học hiện nay. Bản thân tôi thường tổ chức vận dụng một
số trò chơi học tập như sau: Dựng cảnh phân vai, thi đối thoại theo lời nhân vật,
tìm từ trong thơ văn, xếp từ theo nhóm, ghép chữ, ai nhanh - ai đúng, thi tìm và
3


kể chuyện hay, chọn ô số, dựng hoạt cảnh…trong tất cả các phân môn của môn
Tiếng Việt lớp 3.
a. Tập đọc:
*Trò chơi: “Hái hoa”
- Mục đích: Giúp HS ôn lại các bài tập đọc và học thuộc lòng đã học trong
chương trình. Trả lời được các câu hỏi có liên quan đến bài đọc .
- Chuẩn bị: Chuẩn bị các bông hoa giấy để làm phiếu. Trên mỗi bông
hoa ghi tên 1 bài hoặc 1 đoạn của bài tập đọc đã học trong chương trình.
- Cách tổ chức: Số lượng học sinh: từng nhóm tham gia chơi (khoảng từ
10- 12 em chơi). Thời gian chơi: 20- 25 phút.
- Cách chơi: Giáo viên treo phiếu hoa lên cây để hái. Từng em lên bốc
hoa nhận yêu cầu của mình, thực hiện các yêu cầu ghi trên phiếu. Học sinh khác
nghe và nhận xét về giọng đọc của bạn và câu trả lời của bạn. Giáo viên nhận

xét đánh giá, bình chọn bạn đọc hay và trả lời đúng, tuyên dương trước lớp.
* Trò chơi “ Tìm từ trong thơ văn”
Trò chơi này lồng ghép vào bước tìm hiểu bài.
Tìm các từ chỉ tính nết của trẻ em và cho biết cái hay của các từ đó trong
bài “Cô giáo tí hon” của Nguyễn Thi
Trong câu “Không biết dế khóc hay dế cười”, nhưng chưa bao giờ tôi
nghe được tiếng kêu dữ dội đến thế”
Tìm từ chỉ sự so sánh trong khổ thơ cuối ở bài “Mẹ vắng nhà ngày bão”.
Tìm từ được lặp lại nhiều lần trong khổ thơ đầu và cho biết lặp lại nhiều
lần như vậy nói lên ý gì? (Bài Hạt gạo làng ta của Trần Đăng Khoa).
Tìm từ chỉ đặc điểm trong đoạn 1 của bài “Hũ bạc của người cha”.
Trò chơi này có nhiều tác dụng, qua việc hiểu từ, các em sẽ hiểu ý, đồng
thời lồng ghép củng cố về từ-câu qua môn Tập đọc.
b. Luyện từ và câu:
*Trò chơi: “Xếp từ theo nhóm”
Trò chơi này, tôi thường áp dụng ở các bài học mở rộng vốn từ để các em
có kĩ năng hiểu từ và xếp đúng theo nhóm.
4


+ Bài: Mở rộng vốn từ: Gia đình.
- Ở bài tập 1, tôi tổ chức cho các em chơi như sau:
Chơi theo nhóm (4 em), xếp đúng các thành ngữ, tục ngữ vào 3 nhóm
(theo yêu cầu của bài tập) trên bảng nhóm. Chọn 2 nhóm nhanh nhất.
- Kết quả: Nhóm 2 nhanh nhất và có đáp án chính xác.
+ Bài: Mở rộng vốn từ: Thành thị - nông thôn.
Tôi cho một số từ như sau: xe buýt, tắc-xi, xích-lô, xe lam, cái cào cỏ, cây
đa, rạp chiếu bóng, cái bừa, cung văn hóa, máy cày, liềm, giếng nước, rạp xiếc,
mái đình, ...
Yêu cầu: Xếp các từ trên thành 4 nhóm.

- Công trình văn hóa phục vụ đời sống tinh thần của người dân thành phố.
- Phương tiện giao thông chủ yếu ở thành phố.
- Cảnh vật quen thuộc ở nông thôn.
- Công cụ sản xuất của người nông dân
Cách chơi: 4 nhóm, mỗi nhóm 4 em. Trong thời gian nhất định, lần lượt
từng em lên ghi 1 từ (theo đúng nhóm của mình). Nhóm nào ghi được nhiều từ
và chính xác thì nhóm đó thắng. Nhóm nào hoàn thành nhanh nhất chọn từ chính
xác (Cảnh vật quen thuộc ở nông thôn: cây đa, mái đình, bờ tre, giếng nước).
*Trò chơi: “ Nhân hóa”:
+ Mục đích: Luyện phát hiện nhanh biện pháp nhân hoá và tạo nhanh cụm
từ có dùng biện pháp nhân hoá, luyện khả năng tưởng tượng, rèn phản ứng
nhanh.
+ Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị một số từ ngữ gọi tên các đối tượng có
thể nhân hóa và một số cách nhân hóa các đối tượng này (gọi tên như người, có
hành động, đặc điểm như người, được gọi tên để chuyện trò như người).
+ Cách tổ chức: Chia lớp thành hai đội (A,B), giáo viên (hoặc mời 2 HS)
làm trọng tài, 1 học sinh đội A hô, 1 học sinh đội B đáp và ngược lại.
Lưu ý mỗi đội chỉ được một lần hô hoặc đáp. Mỗi lần hô và đáp đúng sẽ
nhận được một bông hoa( hoặc cờ). Hết giờ chơi quy định, đội nào có nhiều
hoa(cờ) hơn, đội đó tài hơn và thắng cuộc.
5


c. Tập làm văn:
*Trò chơi: “Chọn ô số”
- Mục đích: Để luyện tập thực hành. Vận dụng vào phân môn tập làm văn:
Bài: Nói, viết về cảnh đẹp quê hương (Tiếng Việt tập I trang 63).
Để thực hiện trò chơi này giáo viên chuẩn bị một bộ ảnh (5 ảnh) tranh vẽ
hoặc ảnh chụp về cảnh đẹp quê hương có ghi số thứ tự từ 1 đến 5. Năm bức ảnh
mà giáo viên đã chuẩn bị được đính thành 5 ô số như sau: 1 2 3 4 5

Giáo viên ghi sẵn bảng phụ ngắn gọn phần gợi ý a, b, c, d trong SGK: Gợi ý:
a) Tranh (ảnh) vẽ (chụp) cảnh gì ? Cảnh đó ở nơi nào ?
b) Màu sắc của tranh ảnh như thế nào ?
c) Cảnh trong tranh (ảnh) có gì đẹp ?
d) Cảnh trong tranh (ảnh) gợi cho em những suy nghĩ gì ?
HS không cần mở sách, giáo viên thay phần gợi ý trong SGK bằng trò chơi.
- Cách tiến hành: Giáo viên khuyến khích học sinh tham gia trò chơi, HS
đầu tiên sẽ chọn 1 ô số bất kì, giáo viên lật ô số lên cho học sinh nhận biết tranh
vẽ (ảnh) về cảnh đẹp nào ở đất nước ta. Học sinh có nhiệm vụ quan sát và miêu
tả tranh (ảnh) theo gợi ý ở bảng phụ (5-7 câu). Sau khi bạn nói và viết những
điều mình biết xong, giáo viên mời các bạn khác dưới lớp xem có cách nói và
viết những điều mình biết khác không để cho cả lớp nghe (1 đến 2 học sinh).
Sau mỗi tranh vẽ (ảnh chụp) được 2 đến 3 học sinh trình bày giáo viên yêu cầu
cả lớp nhận xét (theo 4 gợi ý), xem bạn cách sử dụng vốn từ, nói viết thành câu
trọn vẹn ý, bình chọn xem bạn nói, viết hay nhất. Học sinh sẽ chọn lần lượt hết
các ô số. Kết thúc trò chơi những bạn được bình chọn sẽ được tuyên dương
trước lớp. Thời gian còn lại các em sẽ hoàn thiện đoạn văn vào vở. Thông qua
trò chơi, các em sẽ rèn được kĩ năng giao tiếp, biết nói thành câu, mạnh dạn
tham gia trò chơi (kể cả HS yếu). Trong quá trình tham gia trò chơi như thế, giáo
viên kiểm soát được chặt chẽ hoạt động của từng em, có điều kiện giúp đỡ được
học sinh, nắm bắt được khả năng nói thành câu của từng em. Từ trò chơi chuyển
qua viết đoạn văn vào vở giúp các em tự tin hơn, viết tốt hơn.

6


Chương trình Tập làm văn lớp 3 chưa yêu cầu các em viết những bài văn
miêu tả trọn vẹn mà cho các em bước đầu làm quen với kiểu loại văn miêu tả
bằng những đoạn văn có yếu tố tả như nói, giới thiệu về quê hương, về thành thị,
nông thôn. Trong chương trình lại không có tiết sửa bài tập cho các em có kĩ

năng viết văn, dùng từ chính xác thì tôi thường tổ chức cho các em trò chơi này.
Qua trò chơi trên, tôi nhận thấy không những gây được hứng thú học tập
và tạo nên phong trào thi đua sôi nổi mà còn giúp các em rèn luyện kĩ năng
nghe, nhớ, phát hiện và sửa sai kịp thời. Kĩ năng đó hỗ trợ rất lớn cho việc nhận
xét bài bạn trong các tiết học của môn Tiếng Việt.
d. Chính tả.
*Trò chơi: “Ai nhanh - Ai đúng”
- Mục đích: Tìm từ có chứa các tiếng cần phân biệt âm cuối c/ t, n/ ng, âm
đầu s/ x, ng/ngh, g/gh, vần am/âm, iu/iêu…
- Cách chơi: Trên bảng có 4 cột (như phần mục đích).
Cho 4 em xung phong lên ghi, mỗi em một cột (mỗi cột 4 từ). Em nào nhanh
nhất và đúng hoàn toàn thì thắng cuộc.
Ví dụ: Khi dạy bài tập 2 (trang 56/TV tập II).
S:

X

Thanh hỏi

Thanh ngã

Trò chơi này được sử dụng ở nhiều tiết dạy. Qua trò chơi, rèn cho các em
tính nhanh nhẹn, chính xác.
* Trò chơi: Ghép chữ:
+ Mục đích: Tìm tiếng có thể ghép với mỗi tiếng để tạo thành từ ngữ:
Luyện trí thông minh nhanh tay, nhanh mắt.
+ Chuẩn bị: Bảng nhóm và thẻ trống.
- Ví dụ: Tìm tiếng có thể ghép với mỗi tiếng sau để tạo từ ngữ:
sét, sét


xào, sào

xinh, sinh

- Số đội chơi: 4 đội. Mỗi đội 3 em tham gia (HS cả lớp cổ vụ và làm trọng
tài).
- Thời gian chơi từ 3-5 phút.
7


- Cách chơi: Mỗi đội chơi có bảng nhóm và thẻ trống.
+ Giáo viên yêu cầu các nhóm thảo luận nhanh và tìm tiếng ghép thích
hợp để tạo từ ngữ. Sau đó mỗi đội cử 3 em lên chơi. Em đầu tiên lên viết từ theo
dòng một rồi đi xuống đứng vào cuối hàng của đội mình, sau đó em thứ hai lên
và cứ tiếp nối cho đến em cuối cùng. Trong thời gian như nhau, đội nào xác định
nhiều từ nhất thì đội đó thắng cuộc. Căn cứ vào số lượng từ ghép để phân loại
thắng hay thua, các đội phải tìm được các từ. Chẳng hạn (xem xét - sấm sét, cây
sào – xào rau, xinh xắn – sinh sôi). Đội nào được nhiều hơn thì đội đó thắng
cuộc.
Với trò chơi này vận dụng vào các bài chính tả ghép với tiếng cho sẵn.
e. Kể chuyện:
*Trò chơi: “Xếp đúng tranh”.
- Mục đích: HS xếp được đúng các tranh theo thứ tự đúng với trình tự câu
chuyện.
- Chuẩn bị : Các bộ tranh rời ứng với mỗi câu chuyện.
- Cách tổ chức:
Số đội chơi: Chơi theo vị trí nhóm. Thời gian chơi: 3-5 phút.
- Cách chơi: Nhóm trưởng nhận bảng nhóm và bộ tranh rời từ góc học
tập. Cho các bạn trong nhóm quan sát nhanh và nêu được tranh đó ứng với nội
dung của đoạn nào trong câu chuyện đã học. Xếp tranh và đoạn ứng với nội

dung câu chuyện.
+ Báo cáo kết quả nhóm thực hiện với thầy cô.
+ Cách đánh giá hoàn thành: nhóm nào dán nhanh và đúng với thứ tự nội
dung câu chuyện nhóm đó sẽ nhận được 3 tràn pháo tay khen ngợi.
*Trò chơi “ Dựng hoạt cảnh”
Trong chương trình lớp 3, nội dung chuyện kể chính là những câu chuyện
các em vừa học trong bài tập đọc. Do đó các em được nghe các em kể và kết
hợp chỉ tranh minh họa. Để tiết học thêm sinh động thì ở bước củng cố, tôi cho
các em dựng hoạt cảnh.

8


Chẳng hạn: Chuyện “Chiếc áo len”, phân công Bảo Yến vai mẹ; Yến Nhi
vai Lan, Khánh vai Tuấn.
Qua trò chơi này giúp các em bộc lộ khả năng diễn xuất biết đoàn kết,
tương trợ, hợp tác lẫn nhau. Từ đó các em sẽ trở nên tự tin, mạnh dạn hơn.
4.3. Nêu các điều kiện, phương tiện cần thiết để thực hiện và áp dụng
giải pháp…..:
- Vở bài tập Tiếng Việt lớp 3 (tập 1, tập 2)
- Sách thiết kế bài giảng môn Tiếng việt lớp 3 (tập 1, tập 2)
- Sách giáo viên môn Tiếng việt lớp 3 (tập 1, tập 2)
- Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3 (tập 1, tập 2)
- Tranh ảnh minh họa, đèn chiếu, máy tính
4.4. Nêu các bước thực hiện giải pháp, cách thức thực hiện giải pháp
* Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến
4.4.1 Các bước thực hiện giải pháp:
- Tạo hứng thú cho học sinh trong mỗi trò chơi
Để tránh sự căng thẳng thường gặp phải khi bắt đầu một tiết học giáo viên
với thái độ vui vẻ, nét mặt rạng ngời, cử chỉ thân mật đối với học sinh sẽ tạo ra

không khí lớp sôi nổi, việc khuyến khích học sinh lên tham gia trò chơi, nhận
xét động viên khích lệ kịp thời...đều là những yếu tố góp phần tạo nên không khí
hào hứng chung của cả lớp, để bài học mới hiệu quả.
Trong cuộc sống bất kỳ làm việc gì nếu có hứng thú thì sẽ đạt đến thành
công, đặc biệt là đối với học sinh tiểu học do đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi
các em. Nếu thích thú thì các em sẽ làm tốt, khi hoạt động nhận thức của học
sinh dựa trên cơ sở của hứng thú học sinh sẽ trở nên hào hứng, thoải mái và dễ
dàng lĩnh hội kiến thức.
- Thực hiện phân hóa đối tượng học sinh:
Ngay từ khâu thiết kế trò chơi mỗi giáo viên cần tính đến tính phù hợp với
từng đối tượng học sinh, đặc biệt chú ý đến đối tượng học sinh yếu và học sinh
giỏi nhưng vẫn đảm bảo chuẩn kiến thức kĩ năng, biết tích hợp các nội dung

9


giáo dục kĩ năng sống, giáo dục môi trường,… qua từng nội dung cụ thể của tiết
học phù hợp, thiết thực, gắn với cuộc sống hàng ngày của học sinh.
- Địa điểm tổ chức trò chơi:
Các trò chơi thường diễn ra trong lớp học nên giáo viên có thể chia lớp
thành tổ, nhóm học tập, sân khấu hóa, trình chiếu… tạo hứng thú cho các em.
- Phương tiện tổ chức:
Khi vận dụng các trò chơi trong học tập Tiếng Việt, tôi luôn hoạch định
trước việc sử dụng những phương tiện nào để nâng cao hiệu quả của trò chơi,
như:
+ Phương tiện theo nội dung trò chơi quy định (ví dụ: trang phục cho các
nhân vật sắm vai… dùng trong phân môn Tập đọc, Kể chuyện… giúp học sinh
tái hiện lại nội dung câu chuyện hay nội dung bài đọc. Các thẻ: thẻ từ, thẻ hình,
thẻ màu, thẻ trống …
- Phần thưởng sau mỗi trò chơi:

+ Phần thưởng cho đội thắng cuộc như bông hoa điểm thưởng, tràn pháo
tay… Đó chính là động lực để các em tham gia trò chơi nhiệt tình, năng động
hơn). Sau mỗi trò chơi, tôi thường đặt những câu hỏi gợi ý để học sinh rút ra nội
dung, kĩ năng mà các em đã học được qua trò chơi. Đây chính là hoạt động
“chơi mà học, vui mà học”. Đồng thời giao cho học sinh tự nhận xét, đánh giá
và tổng kết trò chơi để phát huy tối đa khả năng của các em (giáo viên chỉ tháo
gỡ những vướng mắc của các em), giúp các em rèn luyện óc suy luận, kĩ năng tư
duy, kĩ năng giao tiếp. Từ đó các em sẽ trở nên tự tin, mạnh dạn hơn.
Để góp phần nâng cao chất lượng dạy học, bản thân người giáo viên cần
tự học hỏi, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn của mình trong đó có
phương pháp, kĩ năng tổ chức các trò chơi học tập. Không những thế người giáo
viên cần phải tâm huyết với nghề nghiệp, không ngừng tìm tòi sáng tạo, tự
nghiên cứu, khắc phục khó khăn về cơ sở vật chất. Một điều quan trọng nữa là
giáo viên cần có đức tính kiên trì, không nóng vội, biết ghi chép rút kinh nghiệm
sau mỗi tiết dạy.
4.4.2. Cách thức thực hiện giải pháp:
10


Lứa tuổi học sinh tiểu học là lứa tuổi luôn thích thú những điều mới lạ. Vì
vậy để mỗi giờ học Tiếng Việt hấp dẫn, thu hút học sinh, đòi hỏi mỗi giáo viên
phải luôn sáng tạo trong việc vận dụng những trò chơi học tập. Đối với bản thân
tôi khi vận dụng các trò chơi học tập vào giảng dạy Tiếng Việt thì tôi luôn
nghiên cứu kĩ môn học, bài học, bài tập, xem bài học đó thì bài tập nào tổ chức
được trò chơi và dạng trò chơi nào là thích hợp. Đồng thời tôi tìm tòi, học hỏi,
học hỏi ở đồng nghiệp, ở các tài liệu tham khảo. Song song đó, tôi cố gắng nắm
bắt khả năng của từng học sinh để việc phân nhóm chơi cho phù hợp.
Hứng thú trong học tập giúp nâng cao chất lượng giáo dục, nuôi dưỡng ở
các em lòng ham muốn chính đáng trong việc không ngừng vươn tới những đỉnh
cao của việc nắm kiến thức, luôn tìm tòi học tập cái mới để tích cực sáng tạo cái

đã học vào hoạt động thực tiễn.
Để có được những giờ học Tiếng Việt có hiệu quả. Mỗi người giáo viên
cần phải lựa chọn các hình thức dạy học phù hợp với đặc điểm, tình hình cụ thể
của lớp mình. Trong quá trình nghiên cứu của mình tôi luôn vận dụng những
phương pháp dạy học phù hợp nhất. Một trong các phương pháp lựa chọn đó là
trò chơi. Vậy để đánh giá phương pháp tổ chức trò chơi nói chung và dạy học
Tiếng Việt có sử dụng phương pháp trò chơi nói riêng cần có các tiêu chí sau
đây:
+ Mục đích của trò chơi phải thể hiện mục tiêu của bài học hoặc một phần
của bài học.
+ Hình thức chơi đa dạng giúp học sinh được thay đổi các hoạt động học
tập trên lớp, giúp học sinh phối hợp các hoạt động trí tuệ với các hoạt động vận
động.
+ Luật chơi đơn giản để học sinh dễ nhớ, dễ thực hiện. Cần đưa ra các
cách chơi có nhiều học sinh tham gia để tăng cường kỹ năng hợp tác.
+ Các dụng cụ chơi cần đơn giản, dễ làm hoặc dễ tìm kiếm tại chỗ.
+ Chọn quản trò chơi có năng lực phù hợp với yêu cầu của trò chơi.

11


+ Tổ chức chơi vào thời gian thích hợp của bài học để vừa cho học sinh
hứng thú học tập vừa hướng cho học sinh tiếp tục tập trung các nội dung khác
của bài học một cách hiệu quả.
Nhằm đạt được những kết quả trong quá trình nghiên cứu. Tôi tiến hành
dạy thử nghiệm ở khối 3 để từ đó đánh giá chung. Những tiết dạy tôi áp dụng trò
chơi Tiếng Việt vào giảng dạy học sinh rất hứng thú và tiếp thu bài một cách chủ
động.
4.5. Chứng minh khả năng áp dụng của sáng kiến
Trò chơi học tập làm thay đổi hình thức hoạt động của học sinh, tạo ra bầu

không khí dễ chịu thoải mái trong giờ học, giúp học sinh tiếp thu kiến thức một
cách tự giác tích cực. Giúp học sinh rèn luyện củng cố kiến thức đồng thời phát
triển vốn kinh nghiệm được tích lũy qua hoạt động chơi.
Trò chơi học tập rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, thúc đẩy hoạt động trí tuệ, nhờ
sử dụng trò chơi học tập mà quá trình dạy học trở thành một hoạt động vui và
hấp dẫn hơn, cơ hội học tập đa dạng hơn. Trò chơi không chỉ là phương tiện mà
còn là phương pháp giáo dục. Như Bác Hồ đã nói: “Trong lúc học cũng cần cho
chúng vui, trong lúc vui cũng cần cho chúng học”.
Với sự đầu tư thiết kế và sử dụng có sáng tạo các trò chơi trong môn
Tiếng Việt, chất lượng môn Tiếng Việt ở lớp tôi có sự chuyển biến rõ rệt. Cụ thể
qua các đợt kiểm tra cuối học kì.
Phương pháp dạy học bằng trò chơi đã góp phần tạo được không khí học
tập vui vẻ, có hiệu quả cao. Đồng thời, giúp giáo viên phát hiện những sai sót
của các em, kịp thời sửa chữa, bổ sung.
Các em thường xuyên chơi các trò chơi học tập đó đã mang lại hiệu quả
cao trong quá trình “đọc, nói, viết” của mỗi em. Chất lượng các bài tập thực
hành được các em vận dụng kiến thức vào làm một cách chắc chắn hơn, biết sử
dụng Tiếng Việt để viết các câu văn. Các em đã biết lồng ghép các hình ảnh so
sánh, những câu văn mà trong đó sự vật được nhân hóa để viết bài. Một số học
sinh đọc chưa biết ngắt nghỉ hay nhấn giọng đến nay các em đã biết thể hiện
giọng đọc của mình, lời của các nhân vật. Thông qua các hoạt động thực hành.
12


Một số giáo viên trong tổ, khối cùng chia sẻ và áp dụng các trò chơi học tập môn
Tiếng Việt vào lớp của mình để giảng dạy, chất lượng môn Tiếng Việt đã được
nâng cao một cách tích cực.
Trên đây là một số trò chơi điển hình trong số những trò chơi tôi đã thực
hiện. Tuy chưa phải là phương pháp tối ưu nhưng cũng góp một phần không nhỏ
trong sự thành công về mặt chuyên môn.

Giải pháp này đã áp dụng ở trường tôi đang công tác năm học này đã có
hiệu quả, có thể áp dụng ở các đơn vị bạn trong địa bàn, nếu chúng ta làm triệt
để, với tinh thần trách nhiệm cao thì sẽ đem lại hiệu quả cao.
5. Những thông tin cần được bảo mật: không
6. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
Phương pháp này áp dụng được cho tất cả các môn học ở bậc Tiểu học,
trong các bài cung cấp kiến thức mới, luyện tập thực hành, ôn tập rèn kỹ năng.
Tổ chức hoạt động dạy-học bằng trò chơi học tập nó còn rèn cho học sinh các kĩ
năng cơ bản như nghe, nhìn, đọc, viết, tính toán, kĩ năng sống, kĩ năng học tập,
biết đoàn kết, tương trợ, hợp tác lẫn nhau, có những đức tính tốt cần thiết cho
bản thân và xã hội.
Như vậy tổ chức hoạt động dạy học có lồng ghép trò chơi học tập đúng
mục đích là một yếu tố góp một phần quan trọng trong việc quyết định chất
lượng giờ dạy nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung trong các nhà trường
Tiểu học trong giai đoạn hiện nay.
Qua quá trình thực nghiệm, tôi nghĩ rằng: các trò chơi, cuộc thi nhỏ,…là
yêu cầu cần thiết trong hoạt động dạy học. Bởi vì tạo cho không khí giờ học
thêm vui tươi, hồn nhiên, nhẹ nhàng và sinh động. Đồng thời thông qua các trò
chơi, học sinh được tập luyện làm việc cá nhân, theo đơn vị nhóm và tinh thần
hợp tác. Đó là cách làm việc theo phương pháp học tập mới. Nhưng khi thiết kế
trò chơi phải đảm bảo hai yếu cầu đó là mục đích và hình thức tổ chức sao cho
mang lại hiệu quả.

13


Việc tổ chức trò chơi phải được tổ chức thường xuyên ở tất cả các môn
chứ không riêng môn Tiếng Việt.
Trong quá trình thực nghiệm tất nhiên không khỏi gặp ít khó khăn nhất là

thời gian tổ chức và tổ chức vào thời gian nào là hợp lý. Hơn nữa học sinh còn
rụt rè, chưa mạnh dạn. Do đó, giáo viên phải thường xuyên động viên, khuyến
khích để tất cả các em đều tham gia.
Nhưng sau thời gian thực nghiệm, học sinh lớp tôi rất mạnh dạn, em nào
cũng tham gia trò chơi. Cũng nhờ đó mà các em đều ham thích học môn Tiếng
Việt và kiến thức Tiếng Việt được nâng lên.
Qua việc vận dụng trò chơi học tập vào môn Tiếng Việt ở lớp 3, tôi nhận
thấy mình đã giúp học sinh tự hoà mình vào cuộc “chơi mà học-vui mà học”.
Các hoạt động trò chơi cũng tạo cho học sinh tác phong linh hoạt, nhanh nhẹn
trong hoạt động học tập và trong giao tiếp. Những học sinh thường nhút nhát,
thụ động trong giờ học giờ đây đã chuyển sang chủ động chiếm lĩnh kiến thức,
thích thú với những hình thức học tập mới lạ. Sự thích thú đó đã giúp các em từ
việc ít chuẩn bị bài trước ở nhà giờ đã có thói quen chuẩn bị kĩ bài trước khi đến
lớp. Những học sinh giỏi thì ngày càng tự tin, năng động hơn. Các em biết chia
sẻ, hợp tác với nhau, thân thiện, vui vẻ với bạn để hoàn thành nhiệm vụ học tập.
Thông qua trò chơi học tập, giúp cho tất cả học sinh đều có thể tham gia
trò chơi (kể cả học sinh yếu). Nhờ vậy, giáo viên có thể kiểm soát được chặt chẽ
hoạt động của từng em, dễ dàng giúp đỡ các em.
Nhờ vận dụng trò chơi học tập vào thực tế giảng dạy nên tiết học trở nên
nhẹ nhàng hơn, vì kiến thức đã được các em tiếp thu một cách chủ động thông
qua trò chơi. Tiết học sinh động hẳn lên và mang lại hiệu quả cao. Đồng thời bản
thân tôi cũng có nhiều kinh nghiệm hơn trong việc lựa chọn trò chơi sao cho phù
hợp, đảm bảo rèn đúng kĩ năng cho học sinh theo mục tiêu bài tập. Các hoạt
động dạy học trên lớp cần tạo được hứng thú học tập qua việc tự làm thêm đồ
dùng dạy học (vật liệu dễ tìm) đẹp, lôi cuốn học sinh cùng tham gia, góp phần
thúc đẩy động cơ học tập của học sinh.

14



Qua thực tế vận dụng trò chơi học tập trong dạy- học môn Tiếng Việt ở
lớp 3. Kết quả kiểm tra môn Tiếng Việt cuối học kỳ I đã đạt được kết quả rất khả
quan:
Lớp

Số lượng học sinh

Hoàn

Hoàn

Chưa hoàn

33

thành tốt
20

thành
12

thành
01

(60.6%)

(36.3%)

(3,1%)


3/1

Chính sự say mê học tập và kết quả mà các em đạt được là nguồn động
viên, thúc đẩy tôi phải luôn vận dụng các trò chơi học tập vào giảng dạy, đặc
biệt là giảng dạy môn Tiếng Việt. Chính vì thế mà bản thân tôi luôn tìm tòi,
nghiên cứu, vận dụng các trò chơi mới để hấp dẫn học sinh, thu hút học sinh, lôi
cuốn các em tham gia tích cực vào các hoạt động học tập. Các trò chơi học tập
không chỉ áp dụng riêng cho môn Tiếng Việt, không chỉ áp dụng cho đối tượng
học sinh lớp Ba mà còn áp dụng cho tất cả các môn học, cho tất cả các khối lớp
ở bậc Tiểu học. Bởi lẽ, nó gắn liền với tâm lí lứa tuổi các em. Những trò chơi
học tập có tác động mạnh mẽ, lôi cuốn các em một cách tốt nhất.
Trên đây là báo cáo “Một số kinh nghiệm thiết kế và sử dụng trò chơi
trong môn Tiếng Việt lớp 3”. Rất mong sự đóng góp chân thành của Hội đồng
khoa học để đề tài hoàn thiện hơn, kết quả đến với học sinh khả thi hơn.
Nơi nhận:

- Như kính gửi;
- Lưu: TĐ-KT

15



×