Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

TL CÔNG tác tổ CHỨC NHÂN sự của ĐẢNG, NHÀ nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.16 KB, 35 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin và Đảng ta từ lâu đã khẳng
định vị trí, vai trò của tổ chức và công tác tổ chức trong sự phát triển của xã
1


hội và con người. Qua thực tiễn lãnh đạo cách mạng Nga, V.I.Lê Nin đã rút ra
kết luận: “Trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, giai cấp vô sản không có
vũ khí nào khác hơn là tổ chức”1 và khi đã giành được chính quyền, toàn bộ
nhiệm vụ của đảng cầm quyền là “…tổ chức, tổ chức và tổ chức”2.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về vận dụng sáng tạo và
phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin, trong đó có lĩnh vực hoạt động quan trọng là
xây dựng tổ chức và đề ra các giải pháp tổ chức thực hiện phù hợp với truyền
thống dân tộc và thực tiễn Việt Nam. Trong từng thời kỳ kháng chiến và kiến
quốc, xây dựng và phát triển đất nước, ngoài việc đề ra phương hướng, nhiệm
vụ cách mạng đúng đắn, Người và Đảng ta đã dành nhiều công sức cho việc
xây dựng đảng lãnh đạo và các tổ chức quản lý, đoàn thể nhân dân xung
quanh Đảng, xây dựng chính quyền cách mạng và hệ thống các tổ chức doanh
nghiệp, sự nghiệp từ trên xuống dưới. Sau hơn nửa thế kỷ lãnh đạo thành
công cách mạng Việt Nam, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã
khẳng định: “Tổ chức là một khâu quyết định đối với việc thực hiện thắng lợi
đường lối, chính sách của Đảng”3.
Chính vì vậy, trong thời gian tới cần kiên quyết thực hiện tốt các giải
pháp nâng cao hiệu quả công tác tổ chức. Trong đó, tiếp tục sắp xếp kiện toàn
tổ chức bộ máy của Đảng, đặc biệt là các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng uỷ
khối ở Trung ương và các địa phương; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền XHCN; tập trung vào các giải pháp chủ yếu sau: đổi mới
nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị xã hội; khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lắp về chức năng nhiệm vụ của
tổ chức; tình trạng quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan và người đứng đầu


không rõ. Để thực hiện tốt, trước hết, yêu cầu mọi cấp, mọi ngành, mọi cán
bộ, Đảng viên mà trước hết là cơ quan lãnh đạo và người phụ trách phảichăm
lo đến sự vững mạnh của tổ chức và làm tốt công tác tổ chức.
1

V.I.Lênin: Toàn tập, NXb Sự thật, 1963, tập 7, tr.481
V.I.Lênin: Sđd, 1971, tập 27, tr. 297
3
Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ V của Đảng, NXB Sự thật, 1982, tr. 143.
2

2


NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC TỔ CHỨC CỦA ĐẢNG

1. Khái niệm công tác tổ chức của Đảng
3


Công tác tổ chức là những việc làm để tập hợp nhiều người lại với
nhau, xây dựng cơ cấu bộ máy làm việc, định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm của từng người, từng bộ phận trong tổ chức, đưa ra khỏi tổ chức những
người không phù hợp, bổ sung thêm người mới hay còn thiếu, đề ra chương
trình, kế hoạch và cách thức hành động của các thành viên, để tổ chức hoạt
động được nhịp nhàng, ăn khớp với nhau và đạt hiệu quả…
Công tác tổ chức của Đảng là hoạt động lãnh đạo và tổ chức thực tiễn
của Đảng cộng sản Việt Nam trong việc xây dựng hệ thống tổ chức của Đảng
và của toàn bộ hệ thống chính trị, xây dựng các đơn vị sự nghiệp công và các

tổ chức kinh tế thuộc thành phần kinh tế nhà nước nhằm phục vụ thắng lợi
nhiệm vụ chính trị của Đảng qua các thời kỳ cách mạng.
Công tác tổ chức của Đảng bao gồm các hoạt động: xây dựng tổ chức,
bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị, xây dựng các đơn vị sự nghiệp công
và các tổ chức kinh tế thuộc thành phần kinh tế nhà nước; xây dựng đội ngũ
cán bộ, đảng viên; xây dựng phương thức lãnh đạo của Đảng; chỉnh đốn, nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng…
Nhiệm vụ chính trị của Đảng qui định nhiệm vụ, nội dung, phương
pháp xây dựng hệ thống tổ chức nói chung; khi nhiệm vụ cách mạng thay đổi
thì công tác tổ chức của Đảng cũng có những thay đổi cho phù hợp.
Chủ thể của công tác tổ chức là Đảng, mà thường xuyên và trực tiếp là
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ chính trị và Ban Bí thư; là các cấp uỷ, tổ
chức Đảng được phân cấp lãnh dạo và quản lý các tổ chức thuộc quyền . Các
chủ thể đó giữ vai trò là ngươi lãnh đạo và tổ chức quá trình xây dựng các tổ
chức của hệ thống chính trị.
Đối tượng của công tác tổ chức là xây dựng quan điểm đường lối về tổ
chức; xây dựng cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động, các điều kiện đảm bảo cho
tổ chức hoạt động và xây dựng con người nhằm thực hiện chức năng nhiệm
vụ của tổ chức. Đảng ta khẳng định phải “ tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức
4


bộ máy của đảng và của cả hệ thống chính trị; xác định rõ hơn nữa chức năng,
nhiệm vụ, cơ cấu bộ máy, cơ chế vận hành, lề lối làm việc”4
2. Vai trò công tác tổ chức của Đảng
Công tác tổ chức của Đảng có vai trò quan trọng, góp phần thực hiện
thành công nhiệm vụ chính trị của Đảng. Trong đó, công tác tổ chức xây
dựng Đảng chỉ là một bộ phận của công tác tổ chức của Đảng, song là bộ
phận giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa mẫu mực và quyết định đối
với toàn bộ công tác tổ chức của Đảng nói chung. Trong điều kiện Đảng cầm

quyền, chất lượng, hiệu quả công tác tổ chức xây dựng Đảng không chỉ có vai
trò quyết định đến chất lượng tổ chức đảng mà còn ảnh hưởng quyết định đến
chất lượng tổ chức bộ máy Nhà nước và tất cả các tổ chức khác trong hệ
thống chính trị. Đảng ta là Đảng cầm quyền, Đảng không chỉ lãnh đạo xây
dựng hệ thống tổ chức của Đảng, mà còn lãnh đạo xây dựng toàn bộ hệ thống
chính trị, xây dựng các đơn vị sự nghiệp công và các tổ chức kinh tế thuộc
thành phần kinh tế nhà nước.
Công tác tổ chức xây dựng đảng có vị trí vai trò rất quan trọng trong
toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng ta, là khâu không thể thiếu trong quá
trình lãnh đạo của Đảng đói với Nhà nước và xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ: chính sách đúng là nguồn gốc của thắng lợi; sau khi có chính sách
đúng thì thắng lợi lại tuỳ thuộc ở tổ chức công việc, ở lựa chọn cán bộ và
kiểm tra; ba việc ấy mà sơ sài thì chính sách đúng mấy cũng vô ích.
Việc tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, và kiểm tra thực hiện là
một khâu của qui trình lãnh đạo. Tiến hành công tác tổ chức, cán bộ và kiểm
tra thuộc về hoạt động lãnh đạo của Đảng, đó không phải là các hoạt động
nghiệp vụ đơn thuần. Công tác tổ chức, cán bộ là khâu trọng yếu trong quá
trình tổ chức thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng.
Công tác tổ chức của Đảng luôn thể hiện vai trò tiền phong của Đảng
đối với giai cấp và đối với quần chúng nhân dân. Đảng là đội tiền phong, có
4

Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, tr.28

5


tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp. Về mặt tổ chức, phải bảo đảm cho
Đảng luôn ở trình độ tiên phong nhất, chặt chẽ nhất và khoa học nhất so với
tất cả các tổ chức khác của hệ thống chính trị và của toàn xã hội, vì chỉ có như

thế Đảng mới xứng đáng đứng ở vị trí tiền phong, làm tròn vai trò đội tiên
phong dẫn dắt giai cấp và dân tộc về chính trị và tư tưởng; mới đủ sức nâng
trình độ các tổ chức khác trong giai cấp và dân tộc lên trình độ của Đảng tiên
phong.
Xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức là nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu của công tác tổ chức nói chung. Công tác tổ chức của Đảng có mục tiêu,
đối tượng và nhiệm vụ rộng lớn hơn xây dựng bản thân tổ chức của Đảng,
song xây dựng hệ thống tổ chức của Đảng vững mạnh là nhiệm vụ hàng đầu
của công tác tổ chức. Đảng ta là đảng cầm quyền, hạt nhân lãnh đạo toàn bộ
hệ thống chính trị và xã hội, do vậy xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức
phải là nhiệm vụ quan trọng hang đầu của công tác tổ chức. Xây dựng Đảng
về tổ chức phải bao quát các nội dung: Xây dựng hệ thống tổ chức và các
nguyên tắc hoạt động của Đảng, trong đó nguyên tắc tập trung dân chủ giữ vai
trò nền tảng; kiện toàn, củng cố bộ máy tổ chức của Đảng; xây dựng các tổ
chức cơ sở của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ; xây dựng cơ chế hoạt động,
hình thức, phương pháp, phong cách lãnh đạo và làm việc của các tổ chức…
Nhằm phát huy cao nhất sức mạnh của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân
dân thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của tổ chức. Sức mạnh của mỗi cá
nhân riêng lẻ, nằm ngoài tổ chức thật nhỏ bé và yếu ớt , nhưng sức mạnh của
chính những con người đó, khi đứng trong tổ chức, tổ chức sẽ nhân sức mạnh
của họ lên gấp bội.
Đại hội Đảng toàn quốc và đại hội các cấp của Đảng, thường xuyên và
trực tiếp là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban bí thư, là ban
chấp hành đảng bộ các cấp, và các tổ chức đảng có thẩm quyền, tiến hành các
hoạt động của công tác tổ chức như: Ban hành Cương lĩnh, Điều lệ, chủ
trương, đường lối, nghị quyết và các quan điểm xây dựng Đảng về tổ chức.
6


Trên cơ sở đó chỉ đạo các cấp bộ đảng và đảng viên thực hiện trong thực tiễn

việc xây dựng bộ máy tổ chức của Đảng như: Xác định mục tiêu, thẩm quyền,
chức năng của tổ chức; cơ cấu tổ chức, cơ chế và nguyên tắc vận hành; xác
định các yếu tố bảo đảm cho tổ chức vận hành như: Những con người tiên
tiến, mẫu mực hoạt động trong tổ chức, thời gian hoạt động có hiệu lực của tổ
chức, trụ sở, phương tiện làm việc, kinh phí chu cấp cho bộ máy hoạt động;
và cuối cùng là kiểm tra, giám sát sự vận hành của toàn bộ hệ thống, tổng kết
thực tiễn và phát triển lý luận về tổ chức. Đó chính là công tác tổ chức xây
dựng Đảng.
Công tác tổ chức của Đảng có vai trò giữ vững định hướng chính trị,
quan điểm và nguyên tắc cho toàn bộ quá trình xây dựng hệ thống tổ chức
của nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội, các đơn vị sự nghiệp công và
các tổ chức kinh tế thuộc thành phần kinh tế Nhà nước. Chỉ trên cơ sở được
xây dựng theo quan điểm, định hướng và nguyên tắc của Đảng, các tổ chức
nói trên mới phụng sự đắc lực sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân,
của nhân dân lao động và dân tộc, mới có thể đưa sự nghiệp cách mạng đến
thắng lợi hoàn toàn.
Trong thời kỳ đổi mới sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh
công nhiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập và hợp tác quốc tế rộng lớn
như hiện nay, vấn đề xác định đúng nhiệm vụ trung tâm, then chốt của cách
mạng, của đất nước là cực kỳ quan trọng. V.I.Lê nin đã chỉ rõ vai trò quan
trọng của nhiệm vụ tổ chức của Đảng công nhân Dân chủ - Xã hội Nga những
năm đầu thế kỷ XX: “Toàn bộ đời sống chính trị là một sợi dây xích vô tận
gồm một loạt mắt xích vô tận. Nghệ thuật của nhà chính trị là ở chỗ tìm ra cái
mắt xích quan trọng nhất trong một thời gian nhất định và bảo đảm chắc chắn
nhất cho người nắm mắt xích ấy làm chủ được toàn bộ dây xích”5.

5

V.I.Lê nin, Toàn tập, t6, Nxb Tiến bộ Maxcova. 1975, tr209-210


7


Theo chỉ dẫn trên của V.I.Lê nin, Đảng ta chỉ rõ “mắt xích” quan trọng
của cách mạng nước ta giai đoạn hiện nay, đó là: “phát triển kinh tế là nhiệm
vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”, trong đó, nhiệm vụ xây
dựng Đảng về tổ chức và cán bộ là then chốt của vấn đề then chốt. Hệ thống
tổ chức của Đảng được lập ra tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính bốn
cấp của Nhà nước, từ Trung ương xuống đến cơ sở, song giữ vai trò là hạt
nhân lãnh đạo chính trị của bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị.
Do đó, xây dựng các tổ chức đảng trong bộ máy nhà nước tiền phong, mẫu
mực, có chất lượng sẽ quyết định chất lượng tổ chức bộ máy nhà nước. Bộ
máy Nhà nước mạnh hay yếu thể hiện năng lực cầm quyền của Đảng vững
hay chưa vững.
3. Nội dung công tác tổ chức của Đảng
Công tác tổ chức có nội dung và phạm vi hoạt động tương đối rộng lớn,
liên quan đến tất cả các cấp từ Trung ương tới cơ sở và tất cả các ngành từ
chính trị, xã hội, văn hóa đến kinh tế, an ninh, vũ trang… Cấp nào, ngành nào,
cơ sở nào cũng phải xây dựng bộ máy tổ chức và triển khai công tác tổ chức
trong phạm vi quản lý của mình. Do vậy, cán bộ làm công tác tổ chức đòi hỏi
phải có hiểu biết và kinh nghiệm chuyên sâu công tác tổ chức về cấp và ngành
hoặc cơ sở mà mình tham gia hoặc đảm nhiệm. Trong cả nước, có hai cơ quan
làm công tác tổ chức -nhân sự có hệ thống tổ chức từ trung ương tới cơ sở
hoặc cấp huyện. Ban Tổ chức Trung ương Đảng làm công tác tổ chức xây
dựng đảng và nhân sự cấp cao của hệ thống chính trị (gồm lãnh đạo các bộ, cơ
quan ngang bộ, ngành trung ương và lãnh đạo cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương). Bộ Nội vụ làm công tác tổ chức Nhà nước (chính quyền) và
nhân sự thuộc hệ thống chính trị. Bộ trưởng Bộ nội vụ kiêm nhiệm chức danh
Phó trưởng Ban Tổ chức trung ương Đảng để phối hợp công tác về lĩnh vực
xây dựng tổ chức bộ máy và nhân sự theo thẩm quyền được giao. Dù làm

công tác tổ chức ở cấp nào, ngành nào, cán bộ tổ chức đều phải hiểu rõ những
tiêu chí chung nhất về điều kiện tồn tại, hoạt động của tổ chức và những quy
8


luật vận động của tổ chức. Người lãnh đạo quản lý ở các cấp, cách ngành,
thậm chí các cơ sở, hơn ai hết, phải am hiểu và nắm vững những tiêu chí,
những quy luật của tổ chức. Có như vậy mới tránh được những sai sót trong
việc xây dựng mới hoặc tách, nhập tổ chức cũ; mới chỉ đạo và sử dụng có
hiệu quả kiến thức, kinh nghiệm của những người làm công tác tổ chức,
những người hằng ngày tham mưu và giúp mình triển khai những chủ trương,
chính sách về lĩnh vực tổ chức.
Trong điều kiện là Đảng duy nhất cầm quyền, công tác tổ chức của
Đảng không chỉ xây dựng bộ máy của Đảng mà còn lãnh đạo và tổ chức xây
dựng bộ máy nhà nước và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, trong các
đơn vị sự nghiệp công lập và các đơn vị kinh tế thuộc thành phần kinh tế nhà
nước nữa. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu này, công tác tổ chức xây
dựng Đảng chỉ tập trung nghiên cứu: Xây dựng tổ chức, bộ máy của Đảng;
xây dựng dựng đội ngũ đảng viên; xây dựng đội ngũ cán bộ; xây dựng cơ chế
và phương thức hoạt động của bộ máy Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng.
II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TỔ CHỨC CỦA ĐẢNG HIỆN NAY

1. Thành tựu
Thời gian qua, công tác tổ chức xây dựng Đảng được triển khai thực
hiện đồng bộ, kịp thời mang lại hiệu quả cao trên tất cả các mặt công tác.
Trong đó, công tác kiện toàn tổ chức bộ máy các cấp được quan tâm thường
xuyên; việc sắp xếp, luân chuyển, bổ nhiệm, bố trí cán bộ được đẩy mạnh;
thực hiện đảm bảo đúng quy trình, quy định về công tác giới thiệu cán bộ ứng
cử, điều động, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại cán bộ, góp phần củng cố, kiện toàn tổ

chức bộ máy cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị; tham mưu thực hiện tốt
công tác nhận xét, đánh giá cán bộ và rà soát bổ sung quy hoạch cán bộ lãnh
đạo, quản lý làm cơ sở chuẩn bị phương án nhân sự ban chấp hành, ban
thường vụ, cán bộ chủ chốt các cấp. Công tác phát triển đảng được chú trọng,
nhất là trong các đơn vị doanh nghiệp, tỷ lệ nữ, người dân tộc thiểu số.
9


Về xây dựng tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị
Trong những năm vừa qua, Đảng ta đã chú trọng kiện toàn tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị nói chung, của Đảng nói riêng nhằm đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ của thời kỳ cách mạng mới. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về đổi mới kiện toàn tổ chức bộ
máy của các cơ quan Đảng, định hướng về đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, ngày 9-02-2007, đã đánh
giá: “Trong những năm qua, việc đổi mới và kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ
quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội đã
được thực hiện một bước; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi tổ chức
đã được điều chỉnh hợp lý hơn; tính chủ động, năng động, sáng tạo, tự chịu
trách nhiệm của mỗi cấp được tăng cường; chất lượng đội ngũ cán bộ công
chức nhìn chung được nâng lên… Những tiến bộ đó đã góp phần tích cực
thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo”6.
Cơ cấu tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị, từ hệ thống tổ chức bộ
máy của Đảng đến Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội đã được sắp xếp
lại, có nhiều tiến bộ. Tổ chức các ban và cơ quan đảng đã được tinh giản đáng
kể so với thời kỳ trước đổi mới. Ở cấp Trung ương, từ 24 đầu mối (16 ban,
văn phòng và 8 đơn vị sự nghiệp) nay còn 16 đầu mối (12 ban, văn phòng và
4 đơn vị sự nghiệp). Ở cấp tỉnh từ 12 - 15 đầu mối nay còn trên dưới 10 đầu
mối. ở cấp huyện nói chung vẫn giữ từ 5 - 6 đầu mối các ban và văn phòng
cấp uỷ. Các ban đảng vừa tăng cường công tác xây dựng đảng, vừa quan tâm

hơn chức năng nghiên cứu, tham mưu, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Việc củng cố các đảng đoàn, lập các ban cán sự đảng trong các cơ quan
nhà nước và đoàn thể ở Trung ương và cấp tỉnh (sau Nghị quyết Trung ương
3, khoá VII) đã góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong các tổ chức
của hệ thống chính trị, nhất là đối với công tác cán bộ.

6

Đảng Cộng sản Viêt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb CTQG,
H.2007, tr24-25

10


Việc ban hành và triển khai thực hiện các quy định, quy chế hoạt động
của các cấp uỷ và tổ chức đảng từ Trung ương đến các cơ sở đã cụ thể hoá
nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt Đảng.
Việc thực hiện mô hình bí thư hoặc phó bí thư cấp uỷ đảng đồng thời là
chủ tịch hội đồng nhân dân cùng cấp đã được thực tiễn chứng minh là một
chủ trương đúng đắn, phù hợp với điều kiện một đảng cầm quyền trong điều
kiện hiện nay ở nước ta.
Quốc hội đã có sự đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động; mối
quan hệ phối hợp giữa Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội với Chủ tịch
nước, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
được tăng cường; hình thành cơ chế tiếp xúc giữa đại biểu Quốc hội với cử
tri. Dân chủ trong sinh hoạt của Quốc hội, cùng với việc bảo đảm sự lãnh đạo
của Đảng được tôn trọng. Lòng tin, sự tín nhiệm của nhân dân đối với Quốc
hội được nâng lên.
Quốc hội từng bước nâng cao chất lượng thảo luận, ra nghị quyết về

nhiệm vụ kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm, về ngân sách nhà nước, về điều
chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, cũng
như trong việc bầu, phê chuẩn các chức vụ cấp cao của Nhà nước. Hoạt động
giám sát của Quốc hội đã được cải tiến.
Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước đã có sự đổi mới về cơ
cấu, tổ chức, bộ máy gắn với quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế, làm rõ hơn
chức năng quản lý vĩ mô của Chính phủ và các bộ, phân biệt rõ hơn quản lý
hành chính với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước. Chính
phủ đã tiến hành cải cách thể chế, tập trung cải cách thủ tục hành chính.
Trên cơ sở đổi mới thể chế, tổ chức, bộ máy của hệ thống hành chính
đã tinh giản hơn trước. So với năm 1986, ở cấp Trung ương tổng số đầu mối
các cơ quan của Chính phủ đã giảm từ 76 xuống còn 48 (23 bộ, cơ quan
ngang bộ và 25 cơ quan thuộc Chính phủ). Ở cấp tỉnh: từ 35 - 40 đầu mối, nay
còn trên dưới 20 đầu mối các sở, ban. Ở cấp huyện từ 20 - 25 đầu mối nay
còn 10 - 15 đầu mối các phòng, ban.

11


Các cơ quan tư pháp được kiện toàn và đổi mới một bước về tổ chức
và hoạt động. Hệ thống các toà án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi
hành án được điều chỉnh, bổ sung về nhiệm vụ, quyền hạn, về tổ chức, cán bộ,
về cơ sở vật chất, kỹ thuật. Việc tiêu chuẩn hoá các chức danh kiểm sát viên,
thẩm phán, điều tra viên, chấp hành viên đã bước đầu được thực hiện. Mạng
lưới tổ chức các cơ quan bổ trợ tư pháp (như luật sư, công chứng, giám định
và tổ chức tư vấn pháp lý cho người nghèo) bước đầu hình thành và phát
triển.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội có bước
đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động, coi trọng các mặt công tác
giáo dục, vận động và tập hợp nhân dân tham gia các phong trào thi đua đẩy

mạnh sản xuất, xoá đói, giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hoá, tinh thần,
giữ gìn trật tự trị an, chống các biểu hiện tiêu cực; tích cực góp phần xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong
sự nghiệp đổi mới.
Về xây dựng các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng
Xây dựng các nguyên tắc hoạt động của Đảng nói chung, nguyên tắc tổ
chức của Đảng nói riêng là một nội dung trọng yếu của công tác tổ chức,
được Đảng ta hết sức quan tâm, chú ý ghi trong Điều lệ Đảng.
Bắt đầu từ Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc khóa X, Đảng ta thống nhất
cách gọi tên các nguyên tắc hoạt động cơ bản của Đảng và qui định ngay ở
phần đầu của Điều lệ Đảng: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và
hoạt động, lấy tập trung dân chủ làm nguyễn tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh,
đồng thời thực hiện các nguyên tắc tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở
Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân,
Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”7.
Đến Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc khóa XI, Đảng ta diễn đạt lại
nguyên tắc thứ tư nêu ở Điều lệ khóa X, từ chỗ quan niệm Đảng ta: giữ mối
liên hệ mật thiết với nhân dân thành Đảng ta gắn bó mật thiết với nhân dân.
7

Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Điều lệ Đảng Cộng sản Viêt Nam, Nxb CTQG, H, tr5

12


Tuy nội dung sửa đổi không lớn, song chứng tỏ Đảng ta hết sức chú ý vấn đề
xác định các nguyên tắc hoạt động của Đảng.
Trong thời gian qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã giữ vững và chú
trọng thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng.

Về nguyên tắc tập trung dân chủ: Đảng đã thực hiện tốt hơn nguyên tắc
tập trung dân chủ trong Đảng, chế độ tập trung, kỷ cương, kỷ luật trong Đảng
được giữ vững, những quyết định lớn của Đảng đã được tổ chức thảo luận
rộng rãi trong Đảng. Trong sinh hoạt của nhiều cấp uỷ và tổ chức đảng đã có
không khí thảo luận thẳng thắn, phát huy trí tuệ của đông đảo cán bộ, đảng
viên trong việc chuẩn bị các đề án, nghị quyết, trong việc bầu cử các cơ quan
lãnh đạo. Công tác cán bộ được thực hiện dân chủ hơn, công khai hơn. Dân
chủ trong Ðảng, trong quan hệ giữa Ðảng với Nhà nước, trong tổ chức và hoạt
động của Nhà nước và dân chủ trong xã hội có tiến bộ... Kết quả về thực hiện
dân chủ trong Đảng và trong xã hội tuy mới là bước đầu, còn nhiều hạn chế,
nhưng đã góp phần quan trọng thúc đẩy công cuộc đổi mới.
Về nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng: Vượt qua mọi thử
thách khó khăn, nhìn chung Đảng vẫn giữ được truyền thống đoàn kết thống
nhất trong Đảng. Các điểm nóng về mất đoàn kết ở các địa phương, đơn vị
được tập trung giải quyết có hiệu quả, khôi phục được sự ổn định và niềm tin
của cán bộ, đảng viên, nhân dân.
Về nguyên tắc tự phê bình và phê bình: Nhiều cấp uỷ đảng thực hiện tốt
hơn chế độ kiểm điểm công tác, tự phê bình và phê bình. Việc thực hiện tự
phê bình và phê bình, đẩy mạnh đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, tiêu cực, xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật
nghiêm trọng được nhân dân đồng tình.
Về nguyên tắc Đảng giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân: Quán triệt
tư tưởng “Dân là gốc của cách mạng”, “cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng”, quá trình thực hiện sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế thi trường
định hướng XHCN, Đảng đã kiên trì và giữ vững nguyên tắc Đảng liên hệ
mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Điều đó thể hiện rõ ở việc Đảng ngày càng
hoàn thiện đường lối tăng cường xây dựng mối liên hệ mật thiết với dân một
13



cách cụ thể, thiết thực hơn nhằm đáp ứng hài hòa lợi ích của xã hội, của cộng
đồng và của cá nhân trong cộng đồng. Đường lối của Đảng đã được quán triệt,
tuyên truyền, phổ biến sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân dân trên cơ sở đó tăng
cường sự đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân. Trách nhiệm của các cơ
quan nhà nước, của cán bộ công chức ngày càng được nâng cao. Quốc hội,
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành nhiều bộ luật, pháp lệnh thể chế hoá
đường lối, chính sách của Đảng, cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp nhằm
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và phát huy các quyền dân chủ
của nhân dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đảng đã đẩy mạnh đấu
tranh phòng, chống nguy cơ quan liêu xa rời quần chúng nhân dân của đảng
cầm quyền trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
Vai trò của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân được nâng lên. Quy chế
dân chủ ở cơ sở bước đầu được thực hiện có hiệu quả, từng bước tổ chức để
nhân dân tham gia ý kiến vào công tác cán bộ, nhất là ở cơ sở.
Về nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật: Ngay từ khi giành được chính quyền, Đảng đã quan tâm xây dựng Hiến
pháp, pháp luật và đặt hoạt động của Đảng trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp
luật. Từ đổi mới đến nay, Đảng càng nhận thức rõ về nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa và đặc biệt quan tâm lãnh đạo đẩy mạnh xây dựng hệ thống
pháp luật, đồng thời đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để vừa giữ
vững, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa tôn trọng, phát huy vai trò của
Nhà nước, thực hiện đúng Hiến pháp, pháp luật, thúc đẩy xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Về xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
Trong những năm vừa qua, có thể nói không có lĩnh vực công tác nào
được Đảng ta giành sự quan tâm đặc biệt như lĩnh vực công tác cán bộ. Bước
vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, qua các nhiệm
kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc khóa VIII, IX, X, XI, Đảng ta đã ban hành
nhiều nghị quyết, qui chế, qui định về công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán

bộ. Văn kiện Hội nghị lần thứ chín, Ban chấp hành Trung ương khóa X, ngày
14


25/12/2008 về “Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3
(khóa VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước” đã đánh giá sâu sắc, toàn diện quá trình thực hiện chiến lược
cán bộ của Đảng nói chung, chính sách sử dụng và quản lý cán bộ trong hai
nhiệm kỳ khóa IX và khóa X nói riêng. Đảng và Nhà nước đã cụ thể hóa, thể
chế hóa được khá nhiều quan điểm, chủ trương, giải pháp lớn về chính sách
quản lý, bố trí, sử dụng cán bộ đề ra trong chiến lược. Công tác quản lý, bố trí
sử dụng cán bộ đã có nhiều đổi mới về nội dung, phương pháp, được thực
hiện công khai, dân chủ trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh
đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đề cao được trách nhiệm của
các tổ chức trong hệ thống chính trị. Việc phân cấp quản lý cán bộ rõ ràng,
minh bạch tạo điều kiện cho các cấp quản lý chủ động, đề cao được trách
nhiệm của cấp mình trong thực hiện các khâu công tác cán bộ.
Thông qua phân cấp quản lý cán bộ, một mặt, khẳng định được nguyên
tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trên
thực tế, mặt khác, làm rõ được vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của các cơ
quan nhà nước trong quản lý đội ngũ cán bộ công chức; cũng như làm rõ vai
trò, trách nhiệm của các đoàn thể chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị.
Nhờ phân cấp rõ ràng nên trong tổ chức, chỉ đạo, điều hành công tác cán bộ
của các cấp có thẩm quyền không lẫn lộn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
trong quản lý cán bộ giữa tổ chức đảng và cơ quan nhà nước. Đây là điều rất
quan trọng trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và
xã hội. Đối với cán bộ dân cử cũng vậy, do những đổi mới trong qui định về
bầu cử, giới thiệu cán bộ của Đảng ứng cử vào các cơ quan Nhà nước và đoàn
thể chính trị xã hội, nên trong thực tiễn chính trị đã thể hiện rõ hơn phương
thức cầm quyền của Đảng theo hướng dân chủ, công khai, công bằng, vừa

tăng cường được tính pháp lý, vừa giữ vững sự lãnh đạo chính trị của Đảng
đối với Nhà nước và xã hội.
Các khâu đánh giá, lựa chọn, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ cũng vậy,
nhờ có qui chế chặt chẽ, ngày càng được hoàn thiên đã tạo điều kiện để thực
hiện công khai, công bằng, dân chủ trong công tác cán bộ, khắc phục được rất
15


nhiều những hạn chế, tiêu cực trong công tác cán bộ trước đây. Nhờ đó, đội
ngũ cán bộ nước ta có bước trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt, đã tích luỹ
được nhiều kinh nghiệm trong thời kỳ mới đẩy mạnh CNH, HĐH và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế; là lực lượng nòng cốt cùng toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân làm nên những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Số đông cán bộ giữ vững được bản lĩnh chính trị, phẩm
chất đạo đức, lối sống lành mạnh gắn bó với nhân dân, năng động, sáng tạo
trong công tác, lao động, rèn luyện phẩm chất, năng lực, có bước trưởng
thành, đóng vai trò nòng cốt trong công cuộc đổi mới, góp phần xứng đáng
vào thành quả chung của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong thời kỳ mới, Đảng đã chú trọng nâng cao chất lượng, phát huy
vai trò tiên phong, gương mẫu của đảng viên. Công tác xây dựng đội ngũ
đảng viên đã thực hiện và hoàn thành một khối lượng lớn công việc, có những
chuyển biến quan trọng, tích cực với những đổi mới, tiến bộ đáng kể. Công
tác đảng viên đã bảo đảm được các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, đã
thống nhất quản lý đảng viên, mở rộng dân chủ, phát huy được vai trò đảng
viên, nhiều nơi đã xây dựng được đội ngũ đảng viên khá vững mạnh, bước
đầu đảm bảo được sự kế thừa giữa các độ tuổi, giới; phát hiện và tích cực bồi
dưỡng đảng viên trẻ, giúp đỡ các đồng chí sớm trưởng thành trong thực tiễn.
Nhiều cấp ủy và tổ chức đảng các cấp đã tích cực, chủ động cụ thể hóa tiêu
chuẩn đảng viên, đề ra các chủ trương, biện pháp phù hợp về giáo dục, rèn
luyện, phân công công tác và quản lý đảng viên, phát triển đảng viên mới,

phân loại và sàng lọc đảng viên, đưa những người không đủ tư cách đảng viên
ra khỏi Đảng. Nhìn chung, đội ngũ đảng viên được quan tâm phân công công
việc ngày một phù hợp hơn; công tác giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng đảng
viên được chú trọng, nhiều nơi đã cố gắng thực hiện khá tốt chính sách đối
với đảng viên.
Những tiến bộ trong công tác đảng viên đã làm cho đội ngũ đảng viên
ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng (xem bảng số 1). Trong 5
năm gần đây kết nạp từ 18 đến 19 vạn đảng viên mỗi năm, bởi vậy, số lượng
16


đảng viên tăng nhanh những năm gần đây. Đến năm 2011, toàn Đảng có trên
3,7 triệu đảng viên, chiếm tỉ lệ gần 5% số dân. Cơ cấu đội ngũ đảng viên đang
được cải thiện theo xu hướng tích cực. Đảng viên là thanh niên, đảng viên
trong công nhân, trí thức, tôn giáo, phụ nữ tăng lên; tuổi đời bình quân của
đội ngũ đảng viên đang giảm xuống còn khoảng 43 tuổi.
Phần lớn đảng viên vững về chính trị, trung thành với sự nghiệp cách
mạng của Đảng, tin tưởng vào công cuộc đổi mới và sự lãnh đạo của Đảng,
phát huy được vai trò tiên phong gương mẫu của ngưòi đảng viên. Trình độ,
năng lực của đội ngũ đảng viên được nâng cao một bước. Qua quá trình đổi
mới, đã và đang hình thành lớp đảng viên có tư duy năng động, sáng tạo thích
ứng với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH, mở cửa, hội
nhập.
Về xây dựng tổ chức cơ sở đảng
Trong những năm qua, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư và các cấp ủy đã có những nghị quyết, chỉ thị, quy định và giải
pháp lớn về xây dựng tổ chức cơ sở đảng. Ðã tập trung chỉ đạo xây dựng,
củng cố tổ chức cơ sở đảng. Xác định chức năng, nhiệm vụ các loại hình tổ

chức cơ sở đảng phù hợp hơn trong điều kiện hoạt động mới. Kiện toàn tổ
chức cơ sở đảng ở nông thôn và một bộ phận doanh nghiệp; chú ý hơn xây
dựng tổ chức cơ sở đảng ở vùng sâu, vùng xa, bước đầu xây dựng tổ chức cơ
sở đảng trong các công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài. Việc xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng gắn với
xây dựng hệ thống chính trị cơ sở bước đầu tạo nên một số chuyển biến tích
cực, xuất hiện những mô hình tốt và kinh nghiệm mới.
Quán triệt chủ trương và thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương, công tác
xây dựng Ðảng ở cơ sở đã có một số chuyển biến tiến bộ, góp phần đẩy mạnh
sự nghiệp đổi mới đất nước. Nhiều cấp ủy cấp trên đã quan tâm lãnh đạo, chỉ
đạo việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, củng cố cơ sở
yếu kém. Các cấp ủy cơ sở đã nhận thức đầy đủ hơn vị trí, vai trò, chức năng,
17


nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng và chăm lo công tác xây dựng Ðảng. Nhờ
đó, tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên của Đảng phát triển cả về số
lượng và chất lượng (xem bảng số 1). Theo thống kê, hiện toàn Đảng có trên
57 nghìn tổ chức cơ sở đảng, trong đó có: TCCSĐ ở xã, phường, thị trấn
chiếm 20,7%; TCCSĐ ở cơ quan hành chính chiếm 31,3%; TCCSĐ ở đơn vị
sự nghiệp chiếm 13,2%; TCCSĐ ở lực lượng vũ trang chiếm 15,7%; TCCSĐ
ở doanh nghiệp nhà nước chiếm 10,3%; TCCSĐ ở doanh nghiệp cổ phần có
vốn nhà nước chiếm 6,6%; TCCSĐ ở doanh nghiệp tư nhân chiếm 1,15%;
TCCSĐ ở doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 0,35%.
Về phương thức lãnh đạo của Đảng
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, phương thức
lãnh đạo của Đảng từng bước được đổi mới phù hợp với điều kiện hoạt động
của Đảng. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng được thể hiện trong
đổi mới phát triển nhận thức về phương thức lãnh đạo của Đảng, ý nghĩa, tầm
quan trọng của đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và những tiến bộ về

đổi mới phương thức lãnh đạo trong thực tế.
Tại Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh: "Đổi mới phong cách lãnh đạo và
công tác"9. Đến Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ sáu khoá VI
(năm 1989), sự phát triển nhận thức của Đảng về phương thức lãnh đạo có
bước phát triển khá lớn. Đảng đã nhấn mạnh: đổi mới tổ chức và phương thức
hoạt động của hệ thống chính trị, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trên cơ
sở đó đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Đảng, Nhà nước và các
đoàn thể quần chúng.
Đến Đại hội VII, Đảng có bước phát triển lớn trong nhận thức về
phương thức lãnh đạo của Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã chỉ rõ: "Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh,
chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công
tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và bằng hành động
gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng
lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và
các đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ
9

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật Hà Nội, 1987, tr.124.

18


thống chính trị"10.
Đến Đại hội VIII và Đại hội IX, nhận thức của Đảng về phương thức
lãnh đạo của Đảng có bước phát triển cụ thể hơn, rõ hơn về phương thức lãnh
đạo đối với các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là lãnh đạo Nhà nước.
Tại Đại hội X, Đảng xác định: đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh
đạo của Đảng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của đổi mới, chỉnh
đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đồng thời:

"đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải đồng bộ với đổi mới tổ chức và
hoạt động của hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế" 11. Trong đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng, "khâu mấu chốt là đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước ở các cấp từ Trung ương đến cơ sở; xây dựng hệ
thống các quy chế về sự lãnh đạo của Đảng ở các cấp, các ngành theo tinh
thần: Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng Cương lĩnh, đường lối, quan điểm, chủ
trương, các nghị quyết, nguyên tắc giải quyết các vấn đề lớn, có ý nghĩa chính
trị quan trọng. Phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo và tinh thần trách
nhiệm của Nhà nước trong quản lý đất nước và xã hội theo pháp luật"12.
Đại hội XI khẳng định: “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng”. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển) do Đại hội thông qua đã bổ sung làm rõ
thêm phần nói về phương thức lãnh đạo của Đảng: Đảng lãnh đạo thông qua
tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị,
tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường
xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy
mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác
trong hệ thống chính trị.
Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị
đã có những tiến bộ lớn: Đảng đã đổi mới quy trình ra nghị quyết; các cấp uỷ
đảng xây dựng chương trình, kế hoạch làm việc toàn khoá sau Đại hội; đặc
biệt coi trọng việc lãnh đạo thể chế hoá, cụ thể hoá quan điểm, chủ trương,
10

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb Sự thật, Hà Nội 1991, tr.21.
11
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2006, tr.306-307.
12

Sđd, tr.306-307.

19


đường lối của Đảng thành pháp luật, cơ chế, chính sách của Nhà nước; việc
triển khai thực hiện nghị quyết đã có tiến bộ; việc chỉ đạo điểm, sơ kết, tổng
kết rút kinh nghiệm, nhân ra diện rộng đã được coi trọng và đạt kết quả tốt; có
tiến bộ về phương thức tiến hành công tác cán bộ, về tuyên truyền vận động,
giáo dục, thuyết phục, công khai, dân chủ, phát huy vai trò của Mặt trận tổ
quốc và các đoàn thể chính trị xã hội; về công tác kiểm tra, giám sát; về
phong cách, lề lối làm việc... Đảng nhấn mạnh đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước là khâu quan trọng nhất trong việc đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng trong hơn 20 năm qua.
2. Hạn chế, khuyết điểm
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác tổ chức xây
dựng Đảng vẫn còn một số hạn chế, yếu kém cần khắc phục: Nhiều vấn đề về
cơ cấu tổ chức của hệ thống chính trị và tổ chức của Đảng; về phương thức
lãnh đạo của Đảng và của các tổ chức đảng ở các cơ quan Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội… cần được nghiên cứu kỹ lưỡng,
tìm giải pháp khắc phục. Việc đánh giá, xếp loại cán bộ công chức, viên chức
và đánh giá, phân loại đảng viên còn có điểm chưa thống nhất. Chất lượng
công tác quy hoạch có mặt chưa đáp ứng được nhu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Mô
hình tổ chức đảng ở một số loại hình còn bộc lộ những bất hợp lý, chưa đồng
bộ. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ chưa ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ.
Cải cách thủ tục hành chính trong Đảng còn chậm… Cụ thể:
Về xây dựng, kiện toàn hệ thống tổ chức
Việc xây dựng, kiện toàn hệ thống tổ chức chưa đạt yêu cầu tinh gọn,
hiệu quả; tổ chức của một số cơ quan đảng, nhà nước và tổ chức chính trị - xã
hội chưa thực sự tinh gọn, hiệu quả; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ chưa

rõ ràng. Mối quan hệ về trách nhiệm giữa tập thể và cá nhân, nhất là người
đứng đầu chưa được quy định cụ thể; chưa phát huy đúng mức vai trò của cá
nhân và tập thể, khó đánh giá được kết quả công tác và quy rõ trách nhiệm cá
nhân khi có sai phạm. Còn một số vấn đề về chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền và phương thức tổ chức, hoạt động giữa các cơ quan của Đảng, Nhà

20


nước với các tổ chức - đoàn thể nhân dân chưa được quy định cụ thể và còn
nhiều chồng chéo.
Về mặt lý luận và thực tiễn vẫn chưa xác định đầy đủ, rõ ràng một số
mối quan hệ giữa các tổ chức với nhau. Ví dụ, giữa thường vụ cấp uỷ và
thường trực uỷ ban nhân dân, giữa một số ban và tổ chức đảng với nhau và
với một số cơ quan nhà nước cùng cấp, giữa một số cơ quan nhà nước với
nhau và với các doanh nghiệp; giữa tập thể cơ quan lãnh đạo và thủ trưởng...
Thẩm quyền, trách nhiệm của từng tổ chức, từng cấp, từng ngành chưa
được chế định đồng bộ, chặt chẽ, vừa có tình trạng tập trung quá mức ở cấp
Trung ương, duy trì cơ chế “xin-cho”, vừa có những biểu hiện phân tán, cục
bộ ở các ngành, các cấp làm cho tổ chức, bộ máy vận hành kém hiệu lực và
hiệu quả.
Đảng ta đã nghiêm túc chỉ rõ những yếu kém, khuyết điểm của công tác
tổ chức: “Cho đến nay, tổ chức bộ máy các cơ quan đảng, cơ quan nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội vẫn còn nhiều nhược
điểm, chưa đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ mới. Cơ cấu tổ chức của các cơ
quan Đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội ở
các cấp vẫn còn có sự chồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ; thẩm
quyền trách nhiệm của cá nhân và tổ chức chưa thật rõ ràng”8.
Về các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng
Về nguyên tắc tập trung dân chủ: Còn hiện tượng chưa thống nhất cao

với đường lối, chủ trương, chính sách lớn của Đảng, dao động hoài nghi về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Còn tình trạng tuỳ tiện, thiếu ý thức tổ
chức, kỷ luật, không chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, báo cáo không trung thực.
Dân chủ trong Ðảng và trong xã hội còn bị vi phạm. Việc mở rộng và
thực hành dân chủ trong Đảng chậm tiến bộ. Cán bộ, đảng viên trên thực tế
vẫn chưa có điều kiện thực hiện quyền thảo luận dân chủ và quyết định những
vấn đề của Đảng đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Quyền bảo lưu ý kiến
chưa được thừa nhận trên thực tế.
8

Đảng Cộng sản Viêt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb CTQG,
H.2007, tr25

21


Kỷ cương, kỷ luật ở nhiều cấp, nhiều lĩnh vực không nghiêm. Còn
thiếu những quy chế cụ thể bảo đảm phát huy dân chủ, thực hiện đúng đắn
nguyên tắc tập trung dân chủ. Một số cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo
thiếu tôn trọng và phát huy quyền của đảng viên, ít lắng nghe ý kiến cấp dưới;
cán bộ lãnh đạo ở một số nơi gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, mất dân
chủ hoặc dân chủ hình thức. Không ít cán bộ lãnh đạo chưa quen với những
thông tin ngược chiều, không thích nghe ý kiến khác với ý kiến của mình.
Còn thiếu những cơ chế cụ thể có hiệu lực bảo đảm phát huy dân chủ,
thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Có những quy định
trong Điều lệ Đảng, trong các quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung
ương và các cấp uỷ không được chấp hành nghiêm túc. Mối quan hệ về trách
nhiệm giữa tập thể và cá nhân, nhất là người đứng đầu chưa được quy định cụ
thể; chưa phát huy đúng mức vai trò của cá nhân và tập thể, khó đánh giá

được kết quả công tác và quy rõ trách nhiệm cá nhân khi có sai phạm.
Về nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng: tình trạng mất đoàn kết
nội bộ còn xảy ra trong không ít tổ chức đảng, một số rất nghiêm trọng. Sự
đoàn kết, nhất trí ở một số cấp ủy còn yếu. Tình thương yêu đồng chí bị giảm
sút.
Về nguyên tắc tự phê bình và phê bình: Cuộc vận động xây dựng,
chỉnh đốn Ðảng, tự phê bình và phê bình trong các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng
viên chưa đạt yêu cầu đề ra, chưa tạo được chuyển biến cơ bản, chưa góp
phần tích cực ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Một số
cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp chưa nêu gương, chưa làm tròn trách nhiệm
trong đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Việc xử lý kỷ luật đối
với những người đứng đầu để xảy ra tham nhũng, lãng phí ở ngành, địa
phương, đơn vị chưa kịp thời, kiên quyết.
Về nguyên tắc Đảng giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân: Quan hệ
giữa Ðảng và nhân dân có lúc, có nơi bị xói mòn do những hạn chế, yếu kém
trong công tác tư tưởng chính trị, công tác vận động quần chúng, công tác tổ
chức cán bộ, công tác quản lý nhà nước và những khó khăn phát sinh trong quá
trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế - xã hội. Thoái hóa, biến chất về chính
22


trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách
nhiễu dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm
trọng, kéo dài chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, nhất là trong các cơ quan công
quyền, các lĩnh vực xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, quản lý doanh nghiệp
nhà nước và quản lý tài chính, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Ðảng.
Ðó là một nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Ðảng, của chế độ.
Về nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật: Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa đổi mới tư duy, phương thức hoạt
động theo hướng tôn trọng và thực hiện đúng Hiến pháp, pháp luật. Còn tình

trạng tổ chức đảng và cán bộ đảng làm thay, lấn sân chức năng tổ chức nhà
nước, ban hành chủ trương, chính sách có nội dung không phù hợp với Hiến
pháp, pháp luật. Còn hiện tượng cán bộ, đảng viên coi thường pháp luật,
không nắm vững pháp luật, làm việc chủ quan, tuỳ tiện, vi phạm trật tự luật
pháp. Công tác giám sát trong Ðảng và giám sát của nhân dân đối với các
hoạt động của Ðảng, Nhà nước, cán bộ, đảng viên chưa được quan tâm, chưa
đáp ứng yêu cầu công tác xây dựng Ðảng trong tình hình mới.
Xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng, đội ngũ cán
bộ, đảng viên
Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ còn một số khuyết điểm,
yếu kém. Nhiều cấp ủy chưa thực sự coi trọng vị trí then chốt của công tác
xây dựng Đảng; chưa dành thời gian, công sức để tập trung chỉ đạo xây dựng,
củng cố TCCSĐ. Việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp tư
nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn chậm, vai trò của tổ chức
đảng ở đây mờ nhạt. Không ít TCCSĐ chưa nhận thức và thực hiện đúng
chức năng, nhiệm vụ của TCCSĐ. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi
dưỡng lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở
chưa đúng mức, tính định hướng, tính chiến đấu và tính giáo dục, thuyết phục
chưa cao. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, khả năng nhận thức, vận dụng, cụ
thể hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước và của cấp ủy cấp trên của nhiều TCCSĐ còn yếu,
chưa đủ sức phát hiện, giải quyết những vấn đề phức tạp xảy ra ở cơ sở; có
23


TCCSĐ bị mất sức chiến đấu. Trong sinh hoạt đảng còn những yếu kém như:
Nhiều cấp uỷ, đảng bộ, chi bộ chưa thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung
dân chủ và nền nếp, chế độ sinh hoạt, nội dung sinh hoạt, phương thức lãnh
đạo và phong cách, lề lối làm việc của cấp uỷ, tổ chức đảng chậm được đổi
mới; bệnh thành tích còn nặng và khá phổ biến ở nhiều cơ sở.

Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng,
đạo đức, lối sống cho đảng viên ở cơ sở chưa đúng mức, tính định hướng, tính
chiến đấu và tính giáo dục, thuyết phục chưa cao. Công tác quản lý, kiểm tra,
giám sát, giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên còn bị buông lỏng. Cấp ủy và
chi bộ chưa nắm chắc tình hình tư tưởng và phẩm chất của đảng viên; chưa
chủ động dự báo và chuẩn bị tư tưởng cho đảng viên trước những diễn biến
phức tạp và những vấn đề mới; chưa có biện pháp hữu hiệu ngăn ngừa, phát
hiện, đấu tranh và xử lý kịp thời những đảng viên vi phạm. Việc đánh giá chất
lượng đảng viên hằng năm còn hình thức, kết quả chưa phản ánh đúng thực
chất. Công tác kết nạp đảng viên còn chú ý nhiều đến số lượng, chưa chú
trọng đúng mức đến chất lượng. Số đảng viên kết nạp ở địa bàn dân cư, là
công nhân trong các thành phần kinh tế còn ít. Động cơ phấn đấu vào Đảng
của một số người có biểu hiện lệch lạc, cơ hội.
Việc đổi mới công tác cán bộ còn chậm; thiếu cơ chế, chính sách cụ thể
để thực sự phát huy dân chủ trong công tác cán bộ, phát hiện và sử dụng
người tài; chậm đổi mới cơ chế, phương pháp và quy trình đánh giá, bổ
nhiệm, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ; đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu.
Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy bằng cấp, huân chương
chưa được khắc phục. Công tác cán bộ thiếu tầm nhìn xa. Chất lượng đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ thấp. Môi trường làm việc, chính sách cán bộ chưa tạo được
động lực để khuyến khích, thu hút, phát huy năng lực, sự cống hiến của cán
bộ; chưa cổ vũ ý chí phấn đấu vươn lên, sự gắn bó, tận tụy của cán bộ đối với
công việc.
Về phương thức lãnh đạo của Đảng
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể chính trị - xã hội trên một số nội dung chưa rõ, chậm đổi mới.
24


Chức năng, nhiệm vụ của đảng đoàn, ban cán sự đảng chưa được xác định rõ

ràng, cụ thể nên hoạt động còn lúng túng. Phong cách, lề lối làm việc đổi mới
chậm; hội họp vẫn nhiều. Nội dung và phương thức lãnh đạo của cấp uỷ và tổ
chức đảng chưa được xác định phù hợp. Trong thực tế hoạt động của Đảng,
vẫn còn hiện tượng có nơi Đảng bao biện làm thay, có nơi buông lỏng sự lãnh
đạo đối với hoạt động của hệ thống chính trị. Chưa phát huy đúng mức vai trò
của các tổ chức đảng, của các cấp uỷ viên và cán bộ phụ trách trong bộ máy
nhà nước và các đoàn thể. Chỉ đạo tổ chức thực hiện và kiểm tra vẫn là khâu
yếu, chậm được khắc phục.
Đổi mới phương thức lãnh đạo chưa quan tâm thỏa đáng đến đổi mới
phong cách, lề lối lãnh đạo đã dẫn đến tình trạng họp hành nhiều, nói không
đi đôi với làm, nói nhiều làm ít; né tránh, đùn đẩy, quan liêu, xa rời thực tiễn.
3. Nguyên nhân của thực trạng công tác tổ chức xây dựng Đảng
* Nguyên nhân của thành tựu
Một là, Đảng ta quan tâm đến công tác tổ chức xây dựng Đảng, có
nhiều chủ trương, nghị quyết, chỉ thị chỉ đạo công tác này.
Hai là, những thành tựu của công cuộc đổi mới tạo ra điều kiện thuận
lợi cho công tác tổ chức xây dựng Đảng.
Ba là, sự quan tâm và cố gắng của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong
thực hiện nhiệm vụ công tác tổ chức xây dựng Đảng.
* Nguyên nhân của khuyết điểm, yếu kém
+ Nguyên nhân khách quan.
- Tình hình thế giới diễn biến rất phức tạp, nhất là sự khủng hoảng,
thoái trào của CNXH gây ra những tác động tiêu cực kéo dài đối với công tác
xây dựng Đảng nói chung trong đó có công tác tổ chức xây dựng Đảng; cùng
với đó là sự tấn công phá hoại Đảng của các thế lực thù địch.
- Mặt trái của cơ chế thị trường tác động không nhỏ, tác động xấu đến
công tác xây dựng Đảng trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt trái của nó làm tác động, kích thích tính vị kỷ,
cá nhân chủ nghĩa, sự cạnh tranh không lành mạnh kiểu cá lớn nuốt cá bé, sự


25


×