Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số giải pháp rèn lỹ năng sống cho trẻ tại trường mầm non điện biên TP thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (476.97 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dung sáng kiến kinh nghiệm
2.3. Các giải pháp đã sử dụng khi giải quyết vấn đề
2.3.1. Bồi dưỡng nâng cao trách nhiệm của trường, của giáo viên trong
việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mầm non.

Trang
2
2
2
3
3
3
3
4
5
5

2.3.2. Rèn kĩ năng sống cho trẻ thông qua thông qua tổ chức các hoạt
động học tập, vui chơi và mọi lúc mọi nơi
2.3.3. Tạo cho trẻ một sân chơi bổ ích và lý thú

10



2.3.4. Biện pháp phối kết hợp với gia đình để dạy kĩ năng sống cho trẻ.

11

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

12

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

14
14
15

TÀI LIỆU THAM KHẢO

16

DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SKKN ĐÃ ĐƯỢC XẾP LOẠI

17

6

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Bác Hồ đã từng nói: “Có tài mà không có đức là người vô dụng…” Câu nói

đó chắc chắn không ai có thể phủ nhận được. Chúng ta có thể xét một thực tế rằng:
“Phần lớn con người chúng ta sẽ có thiện cảm với một người nhanh nhẹn, hành xử
đúng mực, biết tôn trọng người khác dù họ không tài giỏi. Và ngược lại, chúng ta sẽ
cảm thấy khó chịu khi tiếp xúc với một người được coi là thiên tài nhưng kĩ năng
1


giao tiếp, đối xử với mọi người thì hoàn toàn là con số không.” Bởi trí thông minh
của một người không thể ngày một ngày hai mà đánh giá hết được nhưng còn phẩm
chất thì chỉ thông qua vài lời nói, vài biểu hiện thì tất cả đã hiện lên rõ ràng.
Vậy nên, kĩ năng sống được coi là rất cần thiết đối với tất cả mọi người, cách
rèn luyện kĩ năng sống cho mọi lứa tuổi chính là vấn đề nan giải nhất hiện nay.
Trong những năm gần đây, nền giáo dục nước nhà đã ban hành các cuốn sách dạy
riêng về kĩ năng sống, như ở cấp tiểu học, học sinh đã có trên tay cuốn: “Kĩ năng
sống cho trẻ các độ tuổi” Khi lên cấp hai, cấp ba, học sinh được học những điều
mang tính giáo dục cao hơn nữa trong cuốn sách đạo đức, giáo dục công dân.
Nhưng thực ra điều quan trọng không nằm ở những cuốn sách đó mà là nằm ở
sự giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ngay từ độ tuổi đi học mầm non, thậm chí là khi
mới lọt lòng. Bởi, khi đó, trẻ mới bắt đầu nhận thức mọi thứ xung quanh, mọi thứ
hoàn toàn mới mẻ và lạ lẫm với trẻ, cho nên độ tuổi đó là độ tuổi thích hợp hơn cả
để làm nền móng cho tương lai của trẻ.
Song, thực tế lại cho thấy không phải trường mầm non nào cũng đã và đang
đưa kĩ năng sống vào trong chương trình giáo dục trẻ hay những trường đã làm điều
đó thì liệu hướng làm như thế nào? Đấy chính là vấn đề mà tất cả các nhà giáo đang
trăn trở suy nghĩ.
Chúng ta cũng có thể nhận thấy rằng giáo viên mầm non hiện nay thường lo
lắng cho trẻ về vấn đề hành vi và khả năng tập trung trong những năm tháng đầu
tiên trẻ đến trường. Đơn giản là vì những trẻ này không biết chú ý lắng nghe, không
thể tập trung lĩnh hội những điều cô giáo dạy, chưa có các thói quen kĩ năng sống
đơn giản hằng ngày.

Từ những nhận thức trên tôi thiết nghĩ việc hình thành cho trẻ kỹ năng sống,
rèn nề nếp thói quen, thái độ, hành vi cần thiết để chuẩn bị tâm thế bước vào lớp
một là một vấn đề hết sức quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển
toàn diện của trẻ sau này, đồng thời là tiền đề cho giai đoạn tiếp theo. Chính vì vậy
với cương vị là phó hiệu trưởng tôi đã quyết định chọn: “Một số giải pháp rèn kĩ
năng sống cho trẻ tại trường mầm non Điện Biên-Thành phố Thanh Hóa” làm đề
tài nghiên cứu cho mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá thực trạng rèn luyện kĩ năng sống cho trẻ ở trường mầm non Điện
Biên. Thông qua đó tăng cường các biệp pháp chỉ đạo về nội dung, hình thức tổ
chức nhằm tạo cho trẻ môi trường học tập thân thiện. Từ đó hình thành và giúp trẻ
tự ý thức được bản thân. Biết phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo hướng tới
hình thành phát triển toàn diện.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Một số kĩ năng sống của trẻ trường mầm non Điện Biên-Thành phố Thanh
Hóa, từ đó đề xuất các giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho trẻ nhằm thực hiện mục
tiêu giáo dục toàn diện.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2


+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Dựa trên một số tài liệu bồi dưỡng giáo
viên mầm non; tài liệu hướng dẫn các bậc cha mẹ chăm sóc giáo dục mầm non; giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo…
+ Phương pháp thực hành: Xây dựng kế hoạch cho các hoạt động học tập, vui
chơi của trẻ
+ Phương pháp quan sát khoa học: Theo dõi hoạt động của trẻ, ghi chép lại
những thay đổi của trẻ trong việc hình thành các kỹ năng
+ Phương pháp điều tra: Khảo sát chất lượng trẻ trước và sau khi áp dụng các
giải pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ

+ Phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm: Đánh giá những kết quả, kinh
nghiệm, đối chiếu với thực tiễn
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Theo tổ chức y tế thế giới coi kĩ năng sống là những kĩ năng mang tính tâm lý
xã hội và kĩ năng giao tiếp được vận dụng trong những tình huống hàng ngày để
tương tác một cách có hiệu quả với người khác và giải quyết có hiệu quả những vấn
đề những tình huống của cuộc sống.
Hiện nay các kĩ năng sống là một vấn đề mà các nhà giáo dục, các bậc phụ
huynh luôn quan tâm. Vậy làm sao để đưa các kĩ năng sống đến với trẻ để giúp trẻ
có thể đương đầu với những khó khăn trong cuộc sống. Trẻ biết vận dụng, biến
những kiến thức của mình để giải quyết những khó khăn trong cuộc sống cho phù
hợp.
Thực tế hiện nay kĩ năng tâm lý xã hội, kĩ năng giao tiếp của trẻ còn hạn chế,
trẻ chưa có khả năng tự kiểm soát, chưa tự thể hiện được cảm giác của bản thân,
chưa biết cách ứng xử phù hợp với yêu cầu, trẻ chưa giải quyết vấn đề một cách tự
lập. Vấn đề này càng được thể hiện rõ hơn đối với những trẻ ở thành thị, những
vùng kinh tế phát triển.
Chính vì thế các trường mầm non cần phải làm gì để góp phần giáo dục kĩ
năng sống cho trẻ tạo cho trẻ một môi trường để trẻ có thể tham gia một cách tích
cực, hứng thú, tự giác trong các hoạt động rèn luyện kĩ năng của trẻ. Là nhà giáo
dục chúng ta luôn trăn trở phải làm như thế nào để trẻ có những hành vi giao tiếp, kĩ
năng sống, nhận thức, tình cảm xã hội phát triển một cách toàn diện. Nó được hình
thành ngay từ buổi ban đầu. Đó cũng là các kĩ năng rất cần thiết và không thể thiếu
được trong hoạt động và sinh hoạt hàng ngày của trẻ.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
a. Thuận lợi
Trường mầm non Điện Biên luôn được Đảng, chính quyền địa phương quan
tâm, và được sự chỉ đạo trực tiếp sát sao của phòng giáo dục nên công tác chăm sóc
giáo dục, đầu tư cơ sở vật chất của nhà trường tương đối đầy đủ. Trường có 1 khu

trung tâm, giao thông thuận tiện nên thuận lợi cho các bậc phụ huynh khi đưa con
em đến trường. Khuôn viên rộng rãi thoáng mát, sạch đẹp; Phòng học có diện tích
chuẩn cho trẻ hoạt động; Đồ chơi trong lớp cũng như ngoài trời tương đối phong
3


phú phù hợp với tâm sinh lý của trẻ. Đây là những điều kiện thuận lợi để giáo viên
thực hiện tốt nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ. Thuận lợi trong việc thực hiện các nội
dung giáo dục kĩ năng sống, an toàn cho trẻ.
b. Khó khăn
Về phía các bậc cha mẹ trẻ luôn nóng vội trong việc dạy con; Đồng thời lại
nuông chiều, bao bọc con cái khiến trẻ không có kĩ năng tự lập. Chưa có thói quen
lao động tự phục vụ bản thân.
Giáo viên chưa hiểu nhiều về nội dung dạy trẻ lứa tuổi mầm non những kĩ
năng sống cơ bản nào, chưa biết vận dụng từ những kế hoạch định hướng chung để
rèn luyện kĩ năng sống cho trẻ mầm non.
Đa số giáo viên lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm nhưng việc đổi mới phương
pháp, hình thức giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động,
sáng tạo và ý thức vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh còn gặp nhiều
khó khăn; giáo viên trẻ tuổi năng động, sáng tạo nhưng lại khó trong công tác bồi
dưỡng do nhận thức về nghề chưa sâu sắc.
+ Kết quả khảo sát trên trẻ
Số trẻ
Kết quả Đạt
Ghi
TT Nội dung đánh giá
tham
chú
% Tốt
Khá

TB
gia ks
1
Trẻ mạnh dạn tự tin, tự lập,
65 %
25 %
10 %
tự phục vụ
2

Kĩ năng biết yêu thương, biết
ơn, biết tôn trọng
100 trẻ

60 %

25 %

15 %

3

Kĩ năng giao tiếp cởi mở,
hòa nhã

70%

15 %

15 %


4

Kĩ năng hợp tác, kiên trì,
trách nhiệm

55 %

20 %

25 %

5

Kĩ năng vượt khó, sáng tạo,
mạo hiểm, ham hiếu biết

45 %

25 %

30%

* Qua bảng khảo sát trên ta thấy:
- Nhà trường chưa tạo được mọi điều kiện khuyến khích khơi dậy tính tò mò,
phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin ở trẻ .
- Một số trẻ đi học chưa chuyên cần, nên gặp không ít khó khăn khi đến lớp.
Trẻ chưa có thói quen lao động tự phục vụ, chưa được rèn luyện kĩ năng tự lập. Ở
trẻ chưa có thói quen hòa nhã trong giao tiếp, chưa có sự hợp tác, chưa dám mạo
hiểm, vượt khó và sáng tạo thông qua các hoạt động hàng ngày.

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
4


2.3.1. Bồi dưỡng nâng cao trách nhiệm của trường, của giáo viên trong
việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mầm non.
* Trách nhiệm của nhà trường
- Hàng năm nhà trường thường xuyên quan tâm tạo điều kiện cho giáo viên
bồi dưỡng nâng cao trình độ, bồi dưỡng kiến thức rèn luyện kĩ năng cho trẻ.
- Tổ chức trao đổi rút kinh nghiệm chặt chẽ hàng tháng, giáo viên thực hiện
nghiêm túc và không có biểu hiện tự do, tùy tiện trong việc thực hiện kế hoạch. Biết
tham mưu với ban giám hiệu nhà trường, biết phối hợp với các bộ phận khác để kịp
thời bổ sung, điều chỉnh kế hoạch thực hiện rèn luyện kĩ năng sống cho trẻ. Tạo điều
kiện cho giáo viên tổ chức tốt các hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ theo
thời gian biểu của nhà trường đã đưa ra.
- Tập huấn cho giáo viên về các kĩ năng làm việc với cha mẹ, tạo cơ hội, tạo
môi trường để giáo viên tổ chức nhiều hoạt động vui chơi, nhiều phong trào nhằm
giúp giáo viên tăng cường phối hợp nhất quán với gia đình để dạy trẻ kĩ năng sống
đạt hiệu quả.
* Trách nhiệm của giáo viên trong việc rèn luyện kĩ năng sống cho trẻ
- Giáo viên chính là người hiểu rõ được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ như thế
nào? Tầm quan trọng của kĩ năng sống đối với trẻ mầm non ra sao, từ đó giúp trẻ
hình thành và phát triển toàn diện về nhân cách. Vì vậy người giáo viên cần phải:
+ Thường xuyên thay đổi các hình thức tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo
dục trẻ một cách thích hợp và hơn hết việc tuân theo từng mục tiêu, chủ đề là rất
quan trọng vì như vậy sẽ giúp trẻ phát triển đồng đều ở mọi lĩnh vực như: thể chất,
ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm- xã hội và thẩm mỹ. Phát huy tính tích cực của trẻ,
cho trẻ sự hứng thú để trẻ chủ động khám phá tìm tòi và vận dụng kiến thức, kĩ năng
vào việc giải quyết các tình huống.
+ Giáo viên cần xác định mục tiêu rõ ràng để hướng tới sự hình thành nhân

cách, giúp trẻ biết ý thức về bản thân, biết yêu thương, chia sẻ, tôn trọng mọi người.
Biết tự lập, tự tin, sáng tạo trong mọi tình huống. Tự ý thức được bản thân an toàn,
trách nhiệm, sáng tạo.
Ví dụ: Cho trẻ tham gia vào góc chơi nấu ăn trẻ được tự nấu các món ăn. Trẻ
được tập, thực hành các kỹ năng chia sẻ, hợp tác.
+ Giáo viên cần giúp trẻ có được những mối liên kết mật thiết với những bạn
khác trong lớp, biết chia sẻ niềm vui với các bạn, quan tâm đến các bạn khi thấy
các bạn buồn. Trẻ cần phải biết lắng nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình
khi vào trong các nhóm trẻ khác nhau, giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận
các thử thách mới. Giáo viên giúp trẻ biết chia sẻ những khó khăn với tất cả mọi
người xung quanh, có khả năng hòa nhập cuộc sống. Biết ứng xử và phân biệt các
hành vi đúng sai của bản thân cũng như của tất cả mọi người xunh quanh.
+ Khai thác phát huy năng khiếu, tiềm năng sáng tạo ở mỗi trẻ, đồng thời
khuyến khích sự chuyên cần, tích cực của trẻ. Mỗi đứa trẻ là một cá thể riêng biệt,
có những tính cách khác nhau vậy nên giáo viên cần hiểu rõ tính cách của từng trẻ.
Từ đó có những phương pháp rèn luyện kĩ năng sống phù hợp.
5


Ví dụ: Đối với những trẻ ít nói, sợ tiếp xúc với người lạ cô phải dần dần cho
trẻ làm quen với sự có mặt của cô, coi cô như một người bạn. Từ đó, cô tìm hiểu
xem sở thích của trẻ là gì; tìm các vấn đề mà trẻ có thể quan tâm nhằm khơi dậy sự
tò mò của trẻ; động viên, cổ vũ trẻ để trẻ có thể hòa nhập với tất cả mọi người
xung quanh. Dần dần sẽ hình thành ở trẻ sự tự tin, mạnh dạn khi tiếp xúc với mọi
người.
+ Giáo viên cần cung cấp cho trẻ hiểu và tự giải quyết một số vấn đề về sức
khỏe bản thân, kĩ năng tự chăm sóc bản thân như: Đội mũ bảo hiểm khi ngồi trên xe
máy, tránh xa một số vật dụng gây nguy hiểm như phích nước nóng, nồi cơm
điện... , không chơi gần những nơi có thể gây nguy hiểm như ao, hồ… Trẻ phải biết
trong quá trình chơi phải giữ gìn đồ chơi cẩn thận, phòng chống tai nạn như: không

làm đỗ vỡ đồ dùng, dụng cụ... Bước đầu phát triển ở trẻ những giá trị và những kĩ
năng sống, hình thành các hành vi tốt, có khả năng đưa đến một phong cách sống
lành mạnh, tích cực và có trách nhiệm. Có thể phòng tránh một số hoạt động nguy
hiểm đến tính mạng.
Thông qua giải pháp trên , giúp giáo viên biết lựa chọn nội dung tích hợp vào
các hoạt động một cách linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo. Qua đó, trẻ tiếp thu được
những kĩ năng giao tiếp xã hội và các hành vi ứng xử cơ bản, góp phần xây dựng
môi trường sống lành mạnh, đảm bảo cho trẻ phát triển tốt về thể chất, tinh thần và
xã hội.
2.3.2. Rèn kĩ năng sống cho trẻ thông qua thông qua tổ chức các hoạt động
học tập, vui chơi và mọi lúc mọi nơi
Để hình thành cho trẻ kĩ năng sống đó là một quá trình lâu dài, người lớn nên
không nóng vội và ép buộc được trẻ. Người lớn cần phải tạo cho trẻ cơ hội để trẻ có
thể được trải nghiệm thường xuyên hàng ngày cả ở trên lớp cũng như ở nhà.Thông
qua các hoạt động như:
+ Hoạt động chung: Là hoạt động có chủ đích, có hệ thống, có kế hoạch,
nhằm giúp trẻ tìm tòi, khám phá, giải quyết các tình huống, các vấn đề có thể xảy ra,
phát huy tính tích cực của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động phám phá tìm tòi, biết
vận dụng vốn kiến thức, kĩ năng vào việc giải quyết các tình huống.
Ví dụ: Qua đề tài “Tìm hiểu một số một số con vật sống trong rừng” trẻ được
làm quen với những con vật trong rừng như: chim, khỉ, gấu, hổ, sư tử, voi…, trẻ biết
được đặc điểm nổi bật của các con vật, biết được các món ăn ưa thích của chúng.
Thông qua đó giúp trẻ biết các con vật trong rừng là động vật quý hiếm cần được
bảo vệ, nhưng không nên lại gần khi có dịp đi thăm quan và gặp những con vật đó,
biết những con vật nào hung dữ, con vật nào hiền lành…

6


Hình ảnh: Giờ học hoạt động có chủ định tại lớp Hoa Hồng

Trường MN Điện Biên - TP Thanh Hóa
Giáo viên cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho
người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình trong thế giới
xung quanh. Đây là một kĩ năng cơ bản và khá quan trọng đối với trẻ. Nếu trẻ cảm
thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó, trẻ sẽ trở nên dễ dàng
học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để
giúp trẻ sẵn sàng học mọi thứ. Bởi thông qua việc học tập tổ chức các hoạt động
giúp trẻ lĩnh hội được những kiến thức cơ bản nhằm phát triển kĩ năng giao tiếp, cởi
mở hòa nhã.
Ví dụ: Thông qua trò chơi học tập giúp trẻ rèn những kĩ năng cơ bản như
bộc lộ cảm xúc, thể hiện hành vi, cử chỉ..
Qua chủ đề gia đình cô gợi hỏi trẻ về những người thân trong gia đình: Con
có ông bà không? Sau khi ăn cơm con hay giúp ông bà làm gì? Qua đó trẻ thể hiện
tình cảm yêu thương kính trọng, giúp đỡ ông bà…
Việc rèn kĩ năng sống cho trẻ rất đa dạng và phong phú như việc giáo dục trẻ
thể hiện cảm xúc, tình yêu thương đối với cây cối, con vật…bảo vệ chăm sóc đối
với những loại cây cỏ, hoa lá, con vật thân yêu như trong chủ đề thế giới động vật,
7


thực vật... Tùy từng nội dung của chủ đề mà cô đưa ra các từng nội dung rèn kĩ năng
sống cho trẻ phù hợp… Trong giờ học cô có thể rèn kĩ năng học tập cho trẻ như biết
giơ tay phát biểu ý kiến, không nói chuyện riêng, không nói leo…
Thông qua các hoạt động khám phá khoa học cho trẻ làm quen về thế giới
xung quanh như làm quen 1 số con vật, 1 số loại rau, củ, quả, hiện tượng tự nhiên,
thời tiết….cô nên tạo cho trẻ môi trường thuận lợi nhất như con vật thật, rau, củ quả
thật để trẻ được tri giác sờ nắm…tự khám phá, tìm hiểu. Người lớn không nên chê
bai trẻ mà nên động viên khuyến khích trẻ để trẻ được trải nghiệm nhiều lần trẻ
được tự do tìm tòi khám phá trẻ có đủ thời gian để khám phá và giải quyết vấn đề
theo nhiều hướng khác nhau. Người lớn cần hướng dẫn trẻ sử dụng tích cực các giác

quan để khám phá, dùng lời nói để miêu tả sự vật. Người lớn cùng tham gia với trẻ
khi trẻ gặp khó khăn. Hoạt động này giúp trẻ biết chia sẻ, giúp đỡ nhau cùng sáng
tạo, mạo hiểm dám làm và xử lý mọi tình huống khó khăn
Thông qua các bài thơ, câu chuyện, bài hát…rèn luyện đạo đức cho trẻ, giúp
trẻ hoàn thiện mình, dạy trẻ biết yêu thương bạn bè, yêu thương con người. Tạo
hứng thú cho trẻ nhỏ qua các câu chuyện, bài thơ, bài hát tùy theo lứa tuổi, gợi mở
tính tò mò, ham học hỏi, phát triển khả năng thấu hiểu, lòng cảm thông nhân ái ở trẻ.
Hình thành kĩ năng thương yêu tôn trọng, biết vâng lời người lớn.
Ví dụ: Qua bài hát “Cháu yêu bà” giúp trẻ biết yêu thương vâng lời ông bà,
yêu thương vâng lời tất cả mọi người xung quanh.
+ Hoạt động vui chơi : là hoạt động chủ đạo của trẻ, khi trẻ tham gia trò chơi
đóng vai có chủ đề, tham gia các trò chơi vận động, trò chơi đóng kịch… hành động
chơi đòi hỏi trẻ phải suy nghĩ, giải quyết các vấn đề, thực hành các ý tưởng để thực
hiện tốt vai chơi của mình.
Ví dụ: Cô và trẻ cùng nhau tái tạo lại trò chơi ở góc phân vai chủ đề gia đình
có mẹ xúc cơm cho em bé. Cho trẻ đóng vai mẹ cho em bé ăn, cô hướng dẫn cho trẻ
biết khi cho em bé ăn thì phải nhẹ nhàng, không cáu gắt. Khi xúc cơm không làm
cơm rơi vãi, khi ăn phải ăn hết xuất...Từ đó hình thành ở trẻ kĩ năng mạnh dạn tự
tin, tình yêu thương của bố mẹ đối với con cái, hoàn thiện kĩ năng trong ăn uống .
+ Hoạt động ngoài trời: Trẻ được trò chuyện, khám phá về thế giới xung quanh .
Giáo viên tích cực hướng dẫn trẻ sử dụng các giác quan để khám phá, dùng lời nói
để miêu tả sự vật, hiện tượng qua đó hình thành các kĩ năng như: tìm tòi, khám phá,
học hỏi đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ nhau…
Ví dụ: Cho trẻ ra sân chơi cùng nhau quan sát một số loại cây. Trẻ quan sát,
miêu tả về một số loại cây. Trẻ biết giúp người lớn chăm sóc, bảo vệ cây không bẻ
cành ngắt lá. Từ đó hình thành cho trẻ kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tìm tòi, khám phá,
giúp đỡ mọi người xunh quanh.

8



Hình ảnh: Học sinh lớp MG 5-6 tuổi thực hành nhặt cỏ, chăm sóc cây
+ Hoạt động mọi lúc, mọi nơi: Giờ đón trả trẻ, trẻ biết khi tới lớp chào cô,
chào bạn bè, biết cất đồ dùng cá nhân đúng nơi quy định. Khi về nhà trẻ chào ông
bà, bố mẹ, anh chị…Trong giờ ăn giáo viên giúp trẻ tự phục vụ bản thân làm những
việc vừa sức…lấy thìa bát để ăn, kê ghế vào bàn…ăn cơm không nói chuyện..
không để cơm rơi vãi…Giờ đi ngủ trẻ biết lấy, cất gối, gấp chăn gọn gàng đúng nơi
quy định.
Cô luôn đưa ra các tình huống để trẻ tự giải quyết. Đặc biệt cô cần quan tâm
nhiều hơn đối với những trẻ ít nói, nhút nhát. Cô luôn động viên khuyến khích trẻ để
trẻ có cơ hội thể hiện bản thân.
Ngoài ra, ở trường mần non giáo viên cần dạy trẻ nghi thức văn hóa trong ăn
uống qua đó dạy trẻ kĩ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự rửa tay
sạch sẽ trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử dụng những đồ dùng, vật
dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ
nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, cảm
ơn sau khi ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, thìa…hoặc biết giúp người lớn dọn dẹp,
ngồi ngay ngắn, ăn hết suất, không nói chuyện trong khi ăn.
Sau khi sử dụng giải pháp trên vào hoạt động thì tôi thấy trẻ rất thích trò
chuyện cùng cô và bạn bè, thích tham gia vào các hoạt động học tập,vui chơi lành
9


mạnh. Qua đó trẻ biết hợp tác và chia sẻ với các bạn, với cô giáo về những gì trẻ
biết và trẻ suy nghĩ, trẻ chủ động hơn trong giao tiếp.
2.3.3. Tạo cho trẻ một sân chơi bổ ích và lý thú
Thực tế hiện nay có thể thấy rất rõ: Trẻ ở độ tuổi mầm non đặc biệt là trẻ ở
khu vực thành thị kĩ năng sống ngày càng bị “mai một”. Trẻ chỉ thích ở một mình,
xem ti vi hoặc chơi trò chơi trên các thiết bị điện tử như điện thoại, máy tính…Trẻ
không có hứng thú với thế giới xung quanh, từ chối tiếp nhận thông tin về các sự

vật, sự việc diễn ra trong cuộc sống. Không còn bản chất của trẻ con là hay hỏi
những điều mới lạ, hay thắc mắc vì sao? Trẻ nhút nhát, ỉ lại, chưa tự thân vận động.
Đây là điều mà các nhà giáo dục đang rất lo lắng và trăn trở. Vậy câu hỏi đặt ra
chúng ta nên làm như thế nào để giảm tải được tình trạng trên?
Bản thân tôi với cương vị là một nhà quản lý cũng như là một người mẹ của
hai đứa con, tôi cảm thấy người lớn chúng ta phải có nhiệm vụ giúp trẻ hạn chế, tách
trẻ ra khỏi những cám dỗ đó và tạo cho trẻ những sân chơi thật lành mạnh bổ ích
như: tổ chức cho trẻ dạo chơi, giao lưu học hỏi với tất cả mọi người xung quanh.
Đặc biệt tổ chức nhiều sân chơi, các hội thi, các trò chơi dân gian, những buổi dã
ngoại để trẻ được thoải mái đắm chìm vào các trò chơi, bộc lộ hết những ưu nhược
điểm của bản thân. Qua đó giáo viên sẽ tìm ra các giải pháp tối ưu nhất dành cho trẻ.
Ví dụ: Trường mầm non Điện Biên vừa qua đã tổ chức cho trẻ hội thi “Hội
khỏe bé mầm non” Trẻ được đồng diễn các bài thể dục nhằm phát triển thể chất. Sau
đó là các trò chơi vận động như: Bật qua suối nhỏ, đi trên ghế thể dục đầu đội túi
cát. Nhảy bao bố, ném bóng vào rổ thông qua các trò chơi này rèn luyện sự khéo
léo, tự tin chiến thắng của trẻ. Các trò chơi dân gian như: Kéo co, ném vòng cổ
trai…với hình thức đồng đội giúp trẻ rèn luyện sự khéo léo, nhanh nhẹn, đoàn kết.
Đặc biệt,giúp trẻ trở nên thân thiết gần gũi hơn với bạn bè đồng trang lứa.
“Chủ đề Tết và mùa xuân” cũng được chúng tôi tái tạo lại một phiên chợ tết
đông vui tấp nập với rất nhiều gian hàng: Gian bán bánh kẹo, gian bán quần áo, gian
bán rau củ quả, còn có cả gian phát bánh chưng miễm phí.
Qua hội chợ này trẻ có cơ hội được trực tiếp quan sát, trò chuyện với thợ gói
bánh chưng gia truyền. Trẻ được trải nghiệm lau lá, gói những chiếc bánh trưng
cùng bác thợ. Từ đó hình thành ở trẻ biết yêu quí, kính trọng các bác thợ, giữ gìn
truyền thống dân tộc, biết bảo vệ môi trường không vứt lá bừa bãi.
Khi phiên chợ bắt đầu trẻ có được kĩ năng đi mua sắm tự chọn những thứ cần
thiết cho ngày tết. Trẻ có dịp giao tiếp với người bán hàng, được mua hàng, được
lựa chọn thứ mà trẻ yêu thích. Trẻ biết phải tôn trọng, lễ phép, biết nâng niu bảo vệ
các sản phẩm…
Thông qua việc tổ chức cho trẻ đi dã ngoại như: tổ chức cho trẻ đi xem xiếc

cũng là một việc làm rất tốt. Qua các buổi dã ngoại như vậy trẻ cũng mới có thời
gian quan sát thế giới bên ngoài. Trẻ quan sát về các con vật, thấy được sự ngộ
nghĩnh của những con vật đáng yêu, sự vui vẻ dí dỏm của các chú hề để từ đó khơi
dậy sự tò mò tìm hiểu về thế giới xung quanh của trẻ. Cũng từ đấy trẻ có thể đặt ra
10


rất nhiều câu hỏi tại sao? thế nào? Khi đặt ra các câu hỏi như vậy người lớn có thể
giúp trẻ biết hỏi những câu hỏi có đầy đủ ngữ pháp.
Ví dụ: Cô ơi, tại sao con khỉ lại biết đi xe đạp. Tại sao chú hề lại có cái mũi
màu đỏ?…
Bên cạnh đó, chúng ta cũng đưa ra các câu hỏi để trẻ trả lời về các bài học đã
được dạy trên lớp để xem xét lối tư duy của trẻ thơ. Từ đó có các thay đổi tích cực
trong phương pháp giảng dạy để trẻ được phát triển cả trí tuệ.
Ví dụ: Hỏi trẻ: con khỉ là con vật sống ở đâu? Trên khuôn mặt chú hề có
những bộ phận gì? Qua đó giáo dục trẻ tình yêu thương đối với các con vật,cách
chăm sóc bảo vệ các con vật như thế nào. Tình yêu thương gần gũi, đoàn kết với tất
cả mọi người xung quanh.
Để có thể phối kết hợp với gia đình cùng chung tay vào việc rèn luyện kĩ
năng cho trẻ. Tôi còn tổ chức cho trẻ lớp lớn phát cho trẻ những hạt đậu tương về
nhà để trẻ tham gia trồng cây. Yêu cầu trẻ trồng cây vào các chậu nhựa nhỏ hàng
ngày trẻ chăm sóc tưới nước cho cây, lau lá...Đồng thời trẻ cũng từng ngày quan sát
được sự phát triển của cây. Tuy nhiên việc này cô giáo cũng phải động viên gia đình
cùng nổ lực tham gia, giúp đỡ trẻ. Cuối đợt yêu cầu trẻ nộp lại các chậu cây để so
sánh xem trẻ nào tích cực trong việc chăm sóc cây. Việc làm này được trẻ và phụ
huynh tham gia một cách hào hứng. Trẻ rất hăng hái bắt tay vào công việc. Tôi thấy
cứ mỗi sáng đến lớp là trẻ lại khoe với cô như: Cô ơi hôm nay cháu tưới nước cho
cây rồi. Cô ơi hôm nay cây lên lá rồi…Về nhà các cháu lại nói với bố mẹ, ông bà
rằng: Mẹ ơi con đi tưới cây đây. Mẹ ơi hôm nay con tưới cây buổi sáng hay buổi
chiều…Sự hăng say làm việc của trẻ giúp trẻ có kĩ năng giao tiếp, kĩ năng làm việc,

kiên trì hợp tác, có sự thi đua vượt khó ở trẻ. Trẻ rất thích thú với hoạt động này.
Thông qua các hoạt động trên ta có thể thấy được sự tiến bộ rõ rệt của trẻ. Trẻ
càng hăng say tập luyện, tư duy và duy trì khả năng tự tin, tự lập, cởi mở trong giao
tiếp, tìm tòi sáng tạo của bản thân.
2.3.4. Biện pháp phối kết hợp với gia đình để dạy kĩ năng sống cho trẻ.
Kĩ năng sống của trẻ mầm non chỉ hình thành, duy trì và phát triển khi có sự
phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình, cộng đồng. Chính vì vậy giáo viên phải
thường xuyên liên hệ với phụ huynh trao đổi kế hoạch giáo dục kĩ năng sống cho trẻ
trong nhà trường. Cần phải tổ chức cho các bậc cha mẹ tham quan các phương pháp
và hình thức như tổ chức các hội thi, hội chợ, các phong trào thi đua nhằm xây dựng
môi trường giáo dục kĩ năng sống cho trẻ trong gia đình, cộng đồng. Để nắm bắt
tình hình của trẻ, trao đổi với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và
giáo dục trẻ tại nhà, bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải.
Muốn trẻ có được kĩ năng tốt người lớn cần phải tạo cho trẻ một môi trường
có sự tương tác với những người gần gũi nhất với trẻ đó là ông bà, bố mẹ, cô giáo,
anh chị em ruột, cô dì chú bác…Tuy nhiên những thành viên này phải là tấm gương
sáng cho trẻ noi theo.
Giáo viên cần tạo các tình huống chơi trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của
trẻ. Vì đối với trẻ chơi trò chơi có một vai trò rất quan trọng trong việc rèn kĩ năng
11


sống cho trẻ. Trẻ lớn lên, học hành và khám phá thông qua trò chơi. Các hành động
chơi đòi hỏi trẻ phải suy nghĩ, giải quyết các vấn đề, thực hành các ý tưởng.
Ví dụ: Khi trẻ tham gia chơi trò chơi phân vai chủ đề gia đình trẻ tái tạo lại
hình ảnh gia đình có ông bà, bố mẹ, con cái. Cô giáo giúp trẻ tham gia chơi trẻ biết
thể hiện con cái phải biết lễ phép chào hỏi ông bà, bố mẹ mỗi khi đi học về. Biết bế
em, cho em ăn giúp đỡ bố mẹ...Những hình ảnh đó sẽ được trẻ thể hiện và tái tạo lại,
tuy nhiên để trẻ thực hiện được cũng cần phải có sự giúp đỡ của ông bà, bố mẹ.
- Cô giáo, cha mẹ luôn khuyến khích trẻ nói lên quan điểm của trẻ, nói

chuyện với các thành viên trong lớp, trong gia đình về cảm giác và về những lựa
chọn của mình, cần giúp trẻ hiểu rằng nên có thông số để theo đó mà lựa chọn, cố
gắng không chê trách các quyết định của trẻ. Việc này sẽ hình thành kĩ năng tự kiểm
soát bản thân, rèn luyện tính tự tin cho trẻ khi tham gia các hoạt động và các buổi
thảo luận tại trường sau này.
- Cô giáo, cha mẹ giúp trẻ phát triển sở thích, ý thích của mình và đảm bảo
rằng người lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để trẻ thực hiện ý thích đó.
Ví dụ: Trẻ thích khám phá các loại phương tiện giao thông, ngoài việc cho trẻ
quan sát một số phương tiện quen thuộc cô còn cung cấp thêm cho trẻ một số
phương tiện hiếm gặp hơn xe ngựa, xe lôi, xe kéo. Cô giáo, cha mẹ có thể cùng các
con sưu tập đóng thành quyển làm thành một bộ sưu tập tranh của trẻ.
- Cô giáo, cha mẹ cần dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống, biết
cách sử dụng các đồ dùng ăn uống; hơn nữa trẻ sẽ được dạy cách sử dụng các đồ
dùng đúng chức năng một cách chính xác và thuần thục.Việc này được thực hiện
trong giờ học, giờ sinh hoạt hàng ngày của trẻ tại lớp và trong bữa cơm gia đình.
Ví dụ: Trẻ biết thói quen rửa tay trước khi ăn. Khi rửa tay trẻ biết cần phải có
nước, có xà phòng, chậu để rửa sạch sẽ gọn gàng vừa tầm với của trẻ, yếu tố trên sẽ
giúp trẻ có thói quen tốt để hình thành kĩ năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn đó là kĩ
năng sống tự lập sau này.
- Cần phải khuyến khích, động viên cha mẹ nhiệt tình cùng với các tổ chức
đóng góp cơ sở vật chất cần thiết để tạo cho trẻ một môi trường học tập và rèn luyện
tốt nhất.
Như vậy chúng ta thấy được sự phối kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà
trường là rất cần thiết đối với sự hình thành kĩ năng sống cho trẻ
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
* Kết quả
Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự đồng
thuận hợp tác của tập thể sư phạm, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ đã giúp
nhà trường đạt được một số kết quả trong việc dạy trẻ mầm non các kĩ năng sống cơ

bản thể hiện ở các kết quả sau:

12


Kết quả khảo sát trên trẻ.
TT Nội dung đánh giá

Số trẻ
KS

Kết quả Đạt
% Tốt Khá
85 %
10 %

1

Trẻ mạnh dạn tự tin, tự lập, tự phục vụ

2

Kỹ năng biết yêu thương, biết ơn, biết tôn 100 trẻ 80 %
trọng

3

Kỹ năng giao tiếp cởi mở, hòa nhã

4

5

TB
5%

15 %

5%

90 %

5%

5%

Kỹ năng hợp tác, kiên trì, trách nhiệm

75 %

15 %

10 %

Kỹ năng vượt khó, sáng tạo, mạo hiểm, ham
hiếu biết

70 %

15 %


15%

* Qua bảng khảo sát trên ta thấy:
+ Đối với trẻ:
- Sau khi tổ chức hoạt động rèn kĩ năng sống trẻ đã tham gia hoạt động một
cách tích cực hơn, chất lượng được nâng cao hơn.
- Thông qua các hoạt động giáo dục, các trò chơi…nhà trường đã tạo điều
kiện cho trẻ được trải nghiệm, được rèn luyện củng cố và khắc sâu kĩ năng sống
hàng ngày.
- Tạo cho trẻ có kĩ năng giao tiếp tốt hơn, biết nói năng lịch sự, hòa nhã, cởi
mở hơn. Trẻ có kĩ năng lao động tự phục vụ, tự lập, tự tin một cách thành thạo hơn.
- Tạo cho trẻ có thói quen rèn luyện kĩ năng xã hội, kĩ năng kiểm soát cảm
xúc, giàu tình yêu thương và lòng biết ơn đối với mọi người xung quanh. Trẻ sẵn
sàng đương đầu với thử thách, thích khám phá mạo hiểm vượt khó, sáng tạo trong
công việc.
- Trẻ được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, được bảo vệ sức khỏe, được
bảo đảm an toàn, phòng bệnh.Từ đó giúp trẻ được an toàn khỏe mạnh, nhanh nhẹn,
khéo léo thích ứng được với điều kiện sống thay đổi.
+ Đối với bản thân:
- Biết xây dựng kế hoạch một cách khoa học và chỉ đạo thực hiện nghiêm túc
kế hoạch nhà trường đề ra.
- Tham mưu tích cực với nhà trường để tổ chức nhiều hoạt động, nhiều phong
trào, hội thi để tuyên truyền, thông qua đó tăng cường củng cố, ôn luyện các kiến
thức rèn kĩ năng đã dạy cho các trẻ một cách hiệu quả.
+ Đối với Giáo viên:
- Nâng cao tinh thần trách nhiệm, sự đoàn kết, gắn bó giữa nhà trường, giáo
viên, phụ huynh. Có ý thức trách nhiệm cao trong công tác rèn luyện kĩ năng sống
cho trẻ.
13



- Tạo môi trường thân thiện giữa cô và trẻ. Giáo viên sẵn sàng tham gia vào
các hoạt động giúp trẻ hoàn thiện một cách tốt nhất.
HiÖu quả lớn nhất là nhà trường tích cực phối kết hợp tham gia cùng với các
lớp để tạo cho trẻ môi trường, một sân chơi với đầy đủ cơ sở vật chất giúp cho giáo
viên có thể tổ chức thành công các hoạt động. Thu hút được sự tham gia của cha mẹ
trẻ, của các tổ chức, các lực lượng xã hội trong việc giáo dục văn hóa, truyền thống
cho trẻ, đồng thời đây là cơ hội dạy trẻ kĩ năng sống một cách tốt nhất.
- Được sự ủng hộ và đánh giá cao của lãnh đạo cấp trên, được sự quan tâm tạo
mọi điều kiện về cơ sở vật chất và một số trang thiết bị đồ dùng, đồ chơi của lãnh
đạo cấp trên. Giúp cho việc rèn luyện kĩ năng sống cho trẻ ngày một tốt hơn.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
- Người lớn luôn là tấm gương sáng, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng
với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ.
- Người lớn cần phải kiên trì, khéo léo, không nên gò bó ép buộc trẻ. Cần có
cách cư xử nhẹ nhàng, tình cảm và gần gũi đối với trẻ.
- Người lớn luôn động viên, khuyến khích trẻ không nóng vội, thúc giục trẻ.
Cần phải dành cho trẻ một thời gian dài để trẻ luyện tập. Trẻ phải được luyện tập
thường xuyên hàng ngày cả ở trên lớp cũng như ở nhà
- Người lớn cần tạo cho trẻ nhiều cơ hội để trẻ chơi, từ đó giúp trẻ được tự do
trải nghiệm bằng chính những hoạt động của bản thân.
- Cần tạo cho trẻ một không gian thoáng, sạch, đảm bảo hợp vệ sinh, đầy đủ
cơ sở vật chất nhưng phải đảm bảo an toàn cho trẻ.
- Cần tạo cho trẻ có nhiều cơ hội giao lưu với tất cả mọi người xung quanh.
Người lớn cần phải tích cực giao lưu với trẻ, khuyến khích, động viên trẻ kịp thời.
- Cần có sự thống nhất những cách thức và phương thức giữa gia đình và
trường, lớp học. Chỉ có sự kiên trì, nhẫn nại, sự đồng cảm, sự quan tâm, chú ý và sự
giúp đỡ quý báu của người lớn mới giúp trẻ vượt qua những khó khăn, trở ngại, mới
tạo được một bầu không khí thân ái, đầm ấm cho trẻ.

Qua việc làm trên tôi thấy được trẻ tham gia đến trường một cách tích cực,
trẻ tự giác đến trường với tâm trạng thoải mái, tự tin không bị gò bó ép buộc. Trẻ
thấy được mỗi ngày đến trường là một ngày vui. Về phía giáo viên tuy vất vả nhưng
lúc nào cũng đầy ắp tiếng cười của trẻ đó là mong ước của tất cả giáo viên. Giáo
viên cũng thấy yêu nghề hơn, hăng say với công việc hơn. Về phía phụ huynh cũng
thấy rõ được sự thay đổi cách dạy, cách chăm sóc trẻ. Từ đó thu hút được sự quan
tâm, ủng hộ nhiệt tình của các bậc phụ huynh, họ yên tâm hơn khi gửi con đến
trường.
Sau khi áp dụng các giải pháp trên tôi thấy được sự tiến bộ rõ rệt ở trẻ cụ thể
đó là: sau đợt thao giảng giáo viên giỏi cấp thành phố, nhà trường đã có 2 giờ dạy
giỏi. Qua các giờ hội thảo của thành phố trường tôi được lựa chọn dạy mẫu 1 tiết
cho tất cả cán bộ, giáo viên các trường trong thành phố tham dự học hỏi. Đó là giờ
tạo hình của các cháu nhà trẻ. Trẻ tuy ở độ tuổi 24 đến 36 tháng mặc dù phải đến
14


một ngôi trường khác để học nhưng trẻ rất mạnh dạn, tự tin. Sự mạnh dạn, tự tin của
các cháu lớp nhà trẻ đã có sức lan tỏa lớn đến tất cả tập thể giáo viên trong thành
phố Thanh Hóa. Từ đó có thể thấy rằng không có việc gì khó chỉ cần người lớn kiên
trì rèn luyện cho trẻ thì sẽ gặt hái được thành công.
Từ những thay đổi trên mà tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu, bổ sung thêm một số
giải pháp và mạnh dạn đưa sáng kiến kinh nghiệm này áp dụng tới các trường bạn
và áp dụng trong những năm học tiếp theo.
3.2. Kiến nghị
- Để làm tốt công tác hình thành kĩ năng sống cho trẻ ở trường mầm non tôi
đề nghị với Phòng giáo dục & đào tạo Thành phố, ủy ban nhân dân Thành phố quan
tâm giúp đỡ hơn nữa cho nhà trường về việc bổ sung cơ sở vật chất bên ngoài cũng
như bên trong.
- Cần tuyên truyền sâu rộng nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trong các
trường học, nơi cộng đồng.

- Tổ chức nhiều hơn nữa các hoạt động bề nổi mang tính giáo dục cao có khen
thưởng đánh giá kịp thời.
Trên đây là toàn bộ bản sáng kiến của tôi. Tôi mong rằng những giải pháp này
sẽ áp dụng có hiệu quả hơn khi được các bạn đồng nghiệp góp ý kiến và tích cực đổi
mới trong quá trình vận dụng. Trong quá trình thực hiện chắc rằng không tránh khỏi
những thiếu sót. Kính mong sự giúp đỡ, góp ý của hội đồng khoa học nhà trường,
của hội đồng chuyên môn bậc học mầm non để bản sáng kiến của tôi hoàn thiện
hơn./.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Điện Biên, ngày 25 tháng 05 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Hoàng Thị Kim Nhung

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Kim Dung, Lưu Thu Thủy, Vũ Thị Sơn,
Giáodục kĩ năng sống ở trẻ Việt Nam, Hà Nội, tháng 1 năm 2004.
2. Bộ giáo dục và đào tạo, Vụ giáo dục mầm non, UNESCO, tài liệu hướng dẫn
các bậc cha mẹ chăm sóc – giáo dục mầm cộng đồng, Hà Nội, 2006.
3. MODULEMN 39: Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo.

16



DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO
HƠNDỤC
XẾPVÀ
LOẠI
TỪTẠO
C TRỞ
LÊN HÓA
SỞ GIÁO
ĐÀO
THANH

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ
Họ và tên tác giả: Hoàng Thị Kim Nhung
Chức vụ và đơn vị công tác: Phó Hiệu trưởng – Trường MN Điện Biên
Kết quả
Cấp đánh
đánh giá Năm học
giá xếp loại
TT
Tên đề tài SKKN
xếp loại
đánh giá
(Phòng, Sở,
(A, B,
xếp loại
Tỉnh...)

hoặc C)
1
Một số biện pháp chỉ
SÁNG
đạo nâng
KIẾN KINH
PhòngNGHIỆM
GD&ĐT
B
2014 - 2015
cao hiệu quả trong việc giáo dục lễ
Thành phố
giáo cho trẻ mầm non.
2
Một số kinh nghiệm bồi dưỡng
Phòng
GD&ĐT
B
2015 - 2016
nâng cao chất lượng chuyên môn
Thành phố
MỘT
SỐ
GIẢI
PHÁP
RÈN
KỸ
NĂNG SỐNG CHO TRẺ TẠI
cho đội ngũ giáo viên thông qua


TRƯỜNG
MẦM
NONvuiĐIỆN
việc tổ chức
hoạt động
chơi BIÊN - THÀNH PHỐ THANH HÓA
3

cho trẻ trong trường Mầm non.
Một số biện pháp chỉ đạo giáo
viên nâng cao chất lượng dạy kỹ

Phòng
GD&ĐT
Thành phố

B

2016 - 2017

năng ca hát cho trẻ Mẫu giáo tại
4

trường Mầm non Điện Biên.
Người thực hiện: Phòng
Hoàng Thị Kim Nhung2017 - 2018
Một số biện pháp nâng cao chất
Chức vụ: Phó Hiệu
trưởng
GD&ĐT

A
lượng chăm sóc,Đơn
giáo vị
dụccông
trẻ trong
tác: Trường
MN Điện Biên
Thành phố
thuộc lĩnh vực: Quản lý
trường Mầm nonSKKN
Điện Biên.
----------------------------------------------------

17
THANH HOÁ, NĂM 2020


18


19



×