Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tiểu luận Cao cấp chính trị Quan điểm, chủ trương của Đảng về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong tiến trình cách mạng Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.3 KB, 15 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Trong suốt chiều dài lịch sử chống giặc ngoại xâm và xây dựng đất nước
của dân tộc Việt Nam đã chứng minh, việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân ở nước
ta từ xưa đến nay luôn luôn là yếu tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp dựng
nước và giữ nước. Với đặc điểm tự nhiên và lịch sử khá đặc thù: thiên tai khắc
nghiệt, ngoại xâm triền miên, do đó muốn tồn tại được trước hết dân tộc ta phải
đoàn kết để chiến thắng thiên tai địch họa, và đi lên cùng thời đại. Chính vì lẽ đó,
đại đoàn kết toàn dân đã trở thành truyền thống quý báu và tốt đẹp của dân tộc ta.
Kế thừa và phát huy truyền thống đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy cao độ dưới ánh
sáng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành động lực và
sức mạnh chủ yếu của dân tộc, là một trong những nhân tố có tính quyết định đến
thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam trên các chặng đường lịch sử: đấu tranh
giành chính quyền (1930-1975), bước đầu xây dựng CNXH (1975-1986) và tiến
hành công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế (từ năm 1986 đến nay).
Nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng, đồng thời để tìm hiểu sâu hơn về
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong cách mạng Việt Nam, em chọn
nội dung “Quan điểm, chủ trương của Đảng về phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc trong tiến trình cách mạng Việt Nam” để viết bài thu hoạch
của mình.

PHẦN NỘI DUNG
1. Cở sở hoạch định chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng
1


Thứ nhất: Những luận điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò, sức mạnh
của quần chúng nhân dân
Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, do
đó, giai cấp vô sản không thể đơn độc trong việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của
mình mà cần phải liên minh được với các giai cấp khác mới có thể đánh đổ sự


thống trị của giai cấp tư sản, cải biến xã hội. Những nhà sáng lập chủ nghĩa MácLênin chỉ rõ: “Những người cộng sản phấn đấu cho sự đoàn kết và sự liên hiệp của
các đảng dân chủ ở tất cả các nước”.
Lênin cho rằng: Sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ mối liên hệ mật thiết với
nhân dân, từ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân: Chỉ những ai tắm mình trong
nguồn nước tươi mát của nhân dân thì mới chiến thắng và giữ được chính
quyền”...’ “Quần chúng lao động ủng hộ chúng ta. Sức mạnh của chúng ta là ở đó.
Nguồn gốc khiến cho chủ nghĩa cộng sản thế giới trở thành vô địch cũng là ở đó”.
Thứ hai: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chăm
lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, coi đây là vấn đề có ý nghĩa chiến
lược, quyết định sự thành công của cách mạng Việt Nam.
Ngay từ năm 1927, trong tác phẩm Đường kách mệnh, Người viết “cách
mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”, muốn cách
mạng thành công thì phải “đồng tâm hiệp lực mà làm”. Trong khối hiệp lực đồng
tâm đó thì công nông là gốc của cách mạng, học trò, nhà buôn, điền chủ nhỏ là bầu
bạn của cách mạng của công nông.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đại đoàn kết dân tộc là nguồn sức mạnh vô
địch, là động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam. Người khẳng định: “Trong thế
giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”; “Nhờ đoàn kết mà
2


trong bao nhiêu thế kỷ, nhân dân Việt Nam đã bảo vệ được độc lập, tự do của
mình. Nhờ đại đoàn kết mà nhân dân Việt Nam đã đánh thắng chủ nghĩa thực dân,
làm Cách mạng Tháng Tám thành công và đã kháng chiến đến thắng lợi”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải được
xây dựng trên lập trường của giai cấp công nhân, phải được tạo dựng bao gồm lực
lượng của toàn dân tộc, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, nam nữ, giàu, nghèo…
trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân, nông dân, trí thức dưới sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản. Người chỉ rõ:

“Vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân
nào, góp thành lực lượng toàn dân”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhất quán tư tưởng: Đại đoàn kết toàn dân mang tính
chiến lược cơ bản, lâu dài của cách mạng, không phải là nhất thời. Người viết:
“Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài..., không phải là
một thủ đoạn chính trị... Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc,
phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Để tập hợp lực lượng cách mạng, xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc thì vấn đề rất cơ bản là phải xây dựng và củng
cố Mặt trận Dân tộc thống nhất, thu hút rộng rãi mọi lực lượng, mọi giai cấp, mọi
tầng lớp nhân dân Việt Nam yêu nước. Mặt trận đó muốn có sức mạnh, thực sự là
cơ sở chính trị của cách mạng thì phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Người chỉ
rõ: “Chính sách Mặt trận là chính sách rất quan trọng. Công tác Mặt trận là công
tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng”, “Trong cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng XHCN, Mặt trận Dân tộc thống nhất
vẫn là một trong những lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam”.
Thứ ba: Truyền thống đoàn kết của dân tộc
3


Đại đoàn kết toàn dân tộc là một truyền thống cực kỳ quý báu và là bài học
lịch sử vô giá của dân tộc Việt Nam trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước.
Đối diện thường xuyên với thiên tai, địch họa, các thế hệ người Việt Nam nối tiếp
nhau đã hình thành tinh thần cố kết cộng đồng, cùng chung lưng, đấu cật xây
dựng, bảo vệ non sông gấm vóc và tạo nên biết bao kỳ tích. Từ thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống đế quốc Mông Nguyên, người anh hùng dân tộc Trần Hưng
Đạo đã chỉ ra nguyên nhân thành công, cũng là đúc kết chân lý tạo sức mạnh của
quốc gia phong kiến Việt Nam: “Vua tôi đồng lòng- Anh em hòa thuận – Cả nước
dốc sức”.
Từ giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược và thống trị biến nước ta

thành thuộc địa. Đối đầu với họa xâm lăng, với truyền thống yêu nước, đoàn kết,
các thế hệ người Việt Nam đã liên tục nổi dậy đấu tranh chống xâm lược nhưng
đều không giành được thắng lợi. Một trong những nguyên nhân thất bại là do chưa
xây dựng và huy động được khối đại đoàn kết toàn dân tộc phù hợp với đặc điểm
dân tộc và tình hình kinh tế, xã hội Việt Nam, chưa phù hợp với xu thế phát triển
của thời thời đại mới.
Truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc đứng trước yêu cầu phải bổ sung
những nhân tố mới, mà điều cốt yếu là phải đặt dưới sự lãnh đạo của chính đảng
vô sản.
2. Quan điểm, chủ trương của Đảng về phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc trong tiến trình cách mạng Việt Nam
Kế thừa và phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy cao độ dưới
ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trở thành động lực và
sức mạnh chủ yếu của dân tộc, là một trong những nhân tố có tính quyết định đưa
đến những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam trên các chặng đường lịch sử:
4


đấu tranh giành chính quyền, kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược, bước đầu xây dựng CNXH và tiến hành công cuộc đổi mới, hội nhập
quốc tế.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thấy động lực
cách mạng từ quảng đại quần chúng và xác định nhiệm vụ tổ chức, tập hợp, đoàn
kết, coi đây là chiến lược xuyên suốt, nhất quán, là cội nguồn của sức mạnh trong
mọi thời kỳ cách mạng:
Hội nghị thành lập Đảng đầu năm 1930 đã thông qua Cương lĩnh chính trị
đầu tiên do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Cương lĩnh đã hàm chứa những
luận điểm về xây dựng khối đại đoàn kết bao gồm lực lượng của nhiều giai cấp,
tầng lớp trong xã hội Việt Nam. Sách lược vắn tắt của Đảng ghi rõ: Đảng phải thu

phục đại bộ phận và làm cho giai cấp công nhân đóng vai trò lãnh đạo dân chúng,
phải thu phục đại bộ phận nông dân, đồng thời “phải hết sức liên lạc với tiểu tư
sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để lôi kéo họ đi vào phe vô sản
giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa
rõ mặt phản c.m thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập”.
Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (10-1930) chủ
trương coi công nhân, nông dân (trung nông và bần nông) là động lực chính của
cách mạng, thành lập các đoàn thể quần chúng, gắn kết chặt chẽ vận mệnh dân tộc
Việt Nam, phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng Lào,
Campuchia, đặt phong trào đấu tranh của nhân dân 3 nước Đông Dương dưới sự
lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Hội nghị ra nghị quyết về công tác Mặt trận (Án nghị quyết về vấn đề phản
đế), trong đó nhận định: Ở Đông Dương có nhiều lực lượng phản đế cần phải liên
hiệp lại làm một phong trào cách mạng thống nhất để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa,
mưu giải phóng cho xứ Đông Dương. Nghị quyết chỉ rõ: “Việc tổ chức phản đế là
5


một trách nhiệm cần kíp của Đảng”. Hội Đồng minh phản đế Đông Dương là hình
thức tập hợp các đoàn thể cách mạng phản đế, bao gồm các hội công nông, học
sinh, binh lính, thanh niên, phụ nữ, các đảng phái cách mạng khác (như Quốc dân
Đảng) và các cá nhân. Mục đích của Hội Đồng minh phản đế là: đoàn kết lực
lượng cách mạng phản đế lại để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa, giành hoàn toàn độc
lập cho xứ Đông Dương và bênh vực phong trào giải phóng ở các thuộc địa và bán
thuộc địa.
Sau khi “Án nghị quyết về vấn đề phản đế” ra đời, ngày 18-11-1930, Ban
Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về vấn đề thành lập Hội Phản đế Đồng
minh. Bản Chỉ thị xác định: Hội phải bảo đảm tính chất công nông đồng thời phải
mở rộng tới các thành phần trong dân tộc để Mặt trận thật sự là của toàn dân: công
nông “là hai động lực chính căn bản cho sự sắp xếp hàng ngũ lực cách mạng”, và

“giai cấp vô sản lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương mà
không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín thì cuộc
cách mạng cũng khó thành công”.
Những quan điểm của Đảng về Hội Đồng minh phản đế chính là những
quan điểm về xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết ba nước Việt Nam,
Lào, Campuchia trong một Mặt trận thống nhất.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất (3-1935), Đảng khẳng định, nguồn
gốc sức mạnh của Đảng chính là mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với quần chúng.
Nếu Đảng không được quần chúng ủng hộ thì “những nghị quyết cách mạng của
Đảng chỉ là những lời nói không”, do vậy, công tác tranh thủ rộng rãi quần chúng
là nhiệm vụ “quan trọng và cấp bách nhất” và đã ra nghị quyết thành lập tổ chức
Phản đế liên minh và thông qua Điều lệ của tổ chức này. Qua Điều lệ của Phản đế
liên minh có thể thấy, quan điểm của Đảng về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc có bước phát triển theo hướng mở rộng hơn về lực lượng.
6


Trong những năm 1936-1939, trước nguy cơ chiến tranh lớn đe dọa toàn
nhân loại, trước những chuyển biến của tình hình thế giới và trong nước, phương
hướng, mục tiêu chủ yếu và trước mắt của cách mạng Việt Nam và Đông Dương,
Đảng Cộng sản Đông Dương đề ra chủ trương: đoàn kết, tập hợp các tầng lớp
nhân dân trong một Mặt trận rộng rãi, hoạt động công khai trên báo chí, đấu tranh
nghị trường, đòi dân sinh, dân chủ, cải thiện đời sống cho người lao động.
Trong cao trào đấu tranh giải phóng dân tộc 1939-1945, những quan điểm,
chủ trương của Đảng về xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc gắn
với kiến lập một hình thức mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi có những phát
triển đột biến. Đảng chủ trương tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, coi
“thống nhất lực lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để đánh đổ đế quốc Pháp”.
Khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải lấy việc thống nhất lợi ích quốc gia và quyền
lợi mỗi người dân làm động lực; phải xây dựng trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực,

tự cường của nhân dân mỗi nước, đồng thời giữ vững và tăng cường đoàn kết nhân
dân 3 nước Đông Dương; phải mở rộng thu hút đông đảo các thành phần, các tổ
chức, đảng phái, cá nhân có mưu cầu độc lập cho xứ sở; phải tổ chức mô hình Mặt
trận Dân tộc thống nhất phù hợp; khối đại đoàn kết dân tộc trong Mặt trận Dân tộc
thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Từ quan điểm chỉ đạo trên, Đảng đã lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc trong Mặt trận phản đế, tiếp theo là Mặt trận Việt Nam độc lập đồng
minh (gọi tắt là Việt Minh), huy động sức mạnh toàn dân tộc, phát huy tinh thần
“đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, chớp thời cơ tiến hành Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 thắng lợi, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ngày 2-91945).
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), với tư
tưởng chỉ đạo “Dân tộc trên hết. Tổ quốc trên hết”, Đảng chủ trương bảo đảm,
7


tăng cường và phát huy vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân nhằm thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ “kháng chiến và kiến quốc”. Trong các văn kiện quan trọng
của Đảng, từ Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương về Kháng chiến kiến quốc
(11-1945), Chỉ thị Toàn dân kháng chiến (12-1946), Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (12-1946) và tác phẩm Kháng chiến nhất định
thắng lợi của Tổng Bí thư Trường Chinh (1947) đã đề ra đường lối kháng chiến
toàn dân, toàn diện, thể hiện nhất quán quan điểm tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân trong Mặt trận Dân tộc thống nhất là yếu tố quan trọng đưa kháng chiến
đến thắng lợi. Đảng chủ trương phải mở rộng và củng cố Mặt trận Dân tộc thống
nhất, tập hợp rộng rãi các lực lượng yêu nước trong nhân dân.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-1951) thông qua Chính
cương Đảng Lao động Việt Nam, trong đó khẳng định: “củng cố và phát triển khối
đại đoàn kết và động viên toàn dân đánh đuổi đế quốc xâm lược, hoàn thành giải
phóng dân tộc”. Đại hội nhất trí rằng: khối đại đoàn kết toàn dân tộc “không
những cần thiết cho kháng chiến thắng lợi mà còn cần thiết cho kiến thiết dân chủ

mới thành công”. “Xây dựng được khối đoàn kết toàn dân tộc cả nước một lòng
đánh thực dân Pháp cứu Tổ quốc, có Mặt trận Dân tộc thống nhất rộng rãi lấy liên
minh công - nông là nòng cốt” là một nhân tố cơ bản đưa cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp đi đến thắng lợi.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), đối đầu với một
kẻ thù có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh bậc nhất thế giới, Đảng chủ trương phát
huy mạnh mẽ sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nghị quyết Hội nghị Bộ
Chính trị họp tháng 9-1954 chủ trương: “mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất (…)
Tất cả những người trước đây tuy đã từng giúp Pháp và ngụy chống ta, những nay
công khai tỏ lòng ủng hộ Hiệp định Giơnevơ, tán thành hòa bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ thì ta đều cần tranh thủ làm cho họ đứng sang phía tá”.
8


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) chủ trương:
“Muốn củng cố hơn nữa sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân ta, còn
phải tăng cường công tác mặt trận”.
Căn cứ vào đặc điểm tình hình và nhiệm vụ chiến lược được xác định, Đảng
chủ trương xây dựng các hình thức Mặt trận Dân tộc thống nhất thích hợp ở mỗi
miền: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” ở miền Bắc; “Mặt trận Dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam” và “Liên minh các lực lượng dân chủ, hoà bình miền Nam
Việt Nam” ở miền Nam. Các quan điểm, chủ trương đúng đắn về xây dựng và phát
huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất, với các
hình thức phù hợp của Đảng đã đi vào thực tiễn, góp phần quan trọng tạo nên sức
mạnh vĩ đại của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đảng đề ra đường lối,
chủ trương đưa cả nước quá độ lên CNXH, thực hiện hai nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc XHCN. Trên chặng đường mới, Đảng chủ trương thống nhất các
tổ chức Mặt trận ở hai miền Bắc - Nam thành một Mặt trận chung lấy tên là Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam làm cơ sở để tăng cường và phát huy khối đại đoàn kết

toàn dân.
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương (khóa VI) ra Nghị quyết
8b Về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa
Đảng và nhân dân. Nghị quyết nhấn mạnh: cách mạng là sự nghiệp của dân, do
dân, vì dân. Nghị quyết khẳng định quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân là
truyền thống vô cùng quý báu của cách mạng Việt Nam. Nghị quyết xác định bốn
quan điểm chỉ đạo: (1) cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân; (2) động
lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và
kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ công dân; (3) các
hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng; (4) công tác quần chúng là trách nhiệm
9


của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6- 1991), lần đầu tiên trong Cương
lĩnh xây dưng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng nêu khái
niệm mới về khối liên minh công - nông - trí thức và khẳng định: khối liên minh
công - nông - trí làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cương lĩnh rút
ra 5 bài học lớn. Trong đó, có bài học: “sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử” và
“không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn
dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế”.
Nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của chiến lược đại đoàn kết dân tộc và
công tác xây dựng Mặt trận, ngày 17-11-1993, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 07NQ/TW Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất. Nghị
quyết nhấn mạnh: Đất nước ta đang đứng trước thời cơ mới và những thách thức
mới. Để tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, làm thất bại âm mưu và hoạt động
phá hoại của các thế lực thù địch, chúng ta phải ra sức củng cố, tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân, củng cố, mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất.
Để đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tăng cường đại đoàn kết, xây dựng Mặt
trận Dân tộc thống nhất, Đảng đề ra 4 chủ trương lớn:

Một là, đoàn kết mọi người trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, bao
gồm các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, người trong nước và
người định cư ở nước ngoài trên cơ sở lấy đại nghĩa dân tộc làm trọng, lấy mục
tiêu chung làm điểm tương đồng, chấp nhận những điểm khác nhau, không trái với
lợi ích chung của dân tộc, cùng nhau xoá bỏ định kiến, mặc cảm, hận thù, hướng
về tương lai, vì độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Hai là, đoàn kết dân tộc là đường lối cơ bản của Đảng, Nhà nước ta và được
thể hiện trong mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước... nhằm đáp
10


ứng lợi ích, nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân, gắn quyền lợi với
trách nhiệm, lợi ích riêng của mỗi người với nghĩa vụ công dân, lấy lợi ích dân tộc
làm trọng.
Ba là, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, thực sự là Nhà nước
của dân, do dân và vì dân.
Bốn là, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc bằng các hình thức tập hợp đa dạng.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (1-1994) chủ
trương tăng cường và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy mọi năng lực
sáng tạo của công nhân, nông dân và trí thức, các tầng lớp, các giai cấp, các tôn
giáo, kể cả cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6-1996) tiếp tục khẳng
định tinh thần của Đại hội VII của Đảng và nhấn mạnh phương châm: Tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở lấy minh công - nông - trí làm nền tảng,
đoàn kết mọi người trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống ở trong nước hay
đang định cư ở nước ngoài…”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4-2001) cụ thể hơn nữa về
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân: “Thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn
giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của
đất nước, người trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người

đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình Việt Nam dù sống trong nước hay ở
nước ngoài”.
Nhằm cụ thể hoá tinh thần Nghị quyết Đại hội IX, Nghị quyết Hội nghị lần
thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, coi

11


đại đoàn kết dân tộc là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Vấn đề phát huy sức mạnh toàn dân tộc là một trong những quan điểm tư
tưởng lớn của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4 -2006), là một
trong bốn thành tố tạo thành chủ đề Đại hội: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn điện công
cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.
Đại hội X của Đảng trên cơ sở tổng kết sâu sắc thực tiễn 20 năm đổi mới đã
đi đến khẳng định: “đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là
đường lối chiến lược nhất quán của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh,
động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế, trong xã hội xuất hiện nhiều giai tầng với những lợi ích
khác nhau; đồng thời, do nhận thức rõ đặc thù của Việt Nam là một quốc gia đa
dân tộc, tôn giáo, Đảng đã tìm ra ''mẫu số chung” cho những điểm khác nhau Đó
là sự tương đồng trên một số mặt:
Về chính trị, điểm đồng thuận là hướng đến mục tiêu chung: giữ vững độc
lập, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Về
kinh tế, là sự phát triển hài hoà các lợi ích (cá nhân, tập thể, cộng đồng, xã hội...)

vì sự phát triển chung của đất nước.Về tư tưởng, là chủ nghĩa yêu nước chân chính
của mọi tầng lớp nhân dân. Về văn hóa,, tín ngưỡng, tâm linh, là sự hướng thiện,
tôn trọng những giá trị văn hóa, đạo đức mang tính nhân bản; là sự giữ gìn và phát
huy truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh và nhớ ơn những người có công với Tổ
quốc, dân tộc và cộng đồng; là sự tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng.
12


Sau 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991), trong tiêu đề Báo cáo
Chính trị trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011), Đảng tiếp tục khẳng
định: Phát huy sức mạnh toàn dân tộc nhằm đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi
mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.
Đại hội tiếp tục nhấn mạnh:“Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến
lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có
ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Đại hội chỉ rõ, trong thời kỳ hiện nay, đại đoàn kết toàn dân tộc “Lấy mục tiêu xây
dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xóa bỏ mặc cảm,
định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không
trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa,
khoan dung…để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng
thuận xã hội”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (1-2016), một lần nữa Đảng khẳng
định: “Đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là
động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo”.


13


PHẦN KẾT LUẬN
Đoàn kết là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam trong suốt quá
trình lịch sử dựng nước và giữ nước. Đúc kết từ truyền thống lịch sử đó, Chủ tịch
Hồ Chí Minh thấu hiểu vai trò đặc biệt quan trọng của đại đoàn kết dân tộc và
Người đã đúc kết một chân lý rất cụ thể, mộc mạc mà rất vĩ đại: Đoàn kết, đoàn
kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công, chỉ có đoàn kết dân tộc
mới giúp dân tộc Việt Nam có được sức mạnh chiến thắng kẻ thù.
Trong bối cảnh hiện nay, tình hình thế giới đang có những biến động hết sức
phức tạp và nhanh chóng. Việc giữ vững khối đại đoàn kết toàn dân tộc để đưa đất
nước vượt qua thách thức là điều rất quan trọng. Do đó, tăng cường đoàn kết toàn
dân tộc là nguồn sức mạnh giúp dân tộc Việt Nam vượt qua những khó khăn, thử
thách để dựng nước và giữ nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, truyền thống đại
đoàn kết toàn dân tộc được phát huy cao độ dưới ánh sáng của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trở thành động lực và sức mạnh chủ yếu của dân
14


tộc, là một trong những nhân tố có tính quyết định đưa đến những thắng lợi vĩ đại
của cách mạng Việt Nam trên các chặng đường lịch sử.
Ngày nay, sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế càng đi vào chiều sâu càng cần phải mở rộng và tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân, phát huy và vận dụng bài học về phát huy sức mạnh của cả dân tộc
được kết tinh từ thực tiễn đấu tranh và giành thắng lợi của cách mạng Việt Nam từ
năm 1930 đến nay.

15




×