PHẦN MỞ ĐẦU
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô cực kỳ quan
trọng trong nền kinh tế thị trường vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu thông
tiền tệ, từ đó tác động vào tổng cầu và sản lượng của nền kinh tế, góp phần thúc
đẩy các hoạt động trong nền kinh tế.
Hiện nay nền kinh tế của Việt Nam đã hội nhập rất sâu rộng với nền kinh tế
thế giới. Để nền kinh tế quốc gia phát triển ổn định, đòi hỏi sự điều hành linh hoạt
của Chính phủ, bằng các công cụ để điều tiết nền kinh tế vĩ mô ổn định, trong đó
một trong những công cụ quan trọng bậc nhất đó là chính sách tiền tệ. Chính sách
tiền tệ và hệ thống các ngân hàng có tầm quan trọng đối với nền kinh tế được ví
như hệ thống mạch máu của cơ thể sống, đặc biệt đối với nền kinh tế thị trường đã
hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Sự điều hành chính sách tiền tệ của
ngân hàng nhà nước để đạt được những mục đích ổn định và tăng trưởng kinh tế –
như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao
động hay tăng trưởng kinh tế.
Chính sách tiền tệ là quá trình quản lý, hỗ trợ đồng tiền của chính phủ hay
ngân hàng trung ương để đạt được những mục đích đặc biệt như kiềm chế lạm
phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng
kinh tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất
định, có thể trực tiệp hay gián tiếp thông qua thị trường mở, quy định mức dự trữ
bắt buộc hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối.
Chính sách tiền tệ có vai trò vô cùng quan trọng trong việc điều tiết khối
lượng tiền lưu thông trong toàn bộ nền kinh tế. Thông qua chính sách tiền tệ ngân
hàng Trung ương có thể kiểm soát được hệ thống tiền tệ để từ đó kiềm chế và đẩy
lùi lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mặt
1
khác chính sách tiền tệ còn là công cụ để kiểm soát toàn bộ hệ thống các ngân hàng
thương mại và các tổ chức tín dụng.
Vì vậy, để đạt được các mục tiêu về tăng trưởng và phát triển kinh tế, các
quốc gia đều phải sử dụng các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách
tài khóa, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại và chính sách tiền
tệ. Thông qua việc sử dụng, điều hành các công cụ này sẽ tác động đến các
mục tiêu như tăng trưởng, lạm phát, việc làm… Như vậy, Chính sách tiền tệ đóng
vai trò là một bộ phận quan trọng và không thể thiếu trong hệ thống chính sách
kinh tế vĩ mô cũng như trong quá trình điều hành vĩ mô của Nhà nước. Xuất phát
từ thực tiễn trên em xin chọn đề tài “Chính sách tiền tệ và thành công của Việt
Nam trong việc vận dụng chính sách tiền tệ từ khi đổi mới đến nay” làm bài thu
hoạch hết môn Quản lý kinh tế.
2
PHẦN NỘI DUNG
1. Chính sách tiền tệ
1.1. Khái niệm chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là tập hợp các quyết định của ngân hàng trung ương về
mức cung ứng tiền tệ nhằm ổn định giá trị đồng nội tệ, tạo việc làm và kích thích
tăng trưởng.
Trong nền kinh tế thị trường, tiền là đơn vị quy ước phản ánh mức giá
tương đối giữa các hàng hóa với nhau. Nếu mức giá tương đối này bị rối loạn thì
các chủ thể kinh tế, nhất là người kinh doanh không thể hoạch định kế hoạch sản
xuất, kinh doanh của họ một cách chủ động, không hoạch toán được lỗ, lãi, do đó
không muốn đầu tư vì mức độ rủi ro cao. Để hỗ trợ hoạt động kinh doanh, nhà
nước thông qua ngân hàng trung ương của nước đó, có thể điều tiết lượng tiền tín
dụng cung ứng bởi ngân hàng thương mại, qua đó duy trì lạm phát ở mức vừa. Với
mức lạm phát vừa phải và được kiễm soát, nhà đầu tư có thể chỉ số hóa tỷ lệ lạm
phát vào giá bán hàng hóa, do đó có thể thích nghi với lạm phát.
Cơ sở của chính sách tiền tệ là quy luật vận động của thị trường tiền tệ.
Ở các nước có nền kinh tế thị trường, chủ thể của chính sách tiền tệ được
giao cho ngân hàng trung ương đảm nhận, không phân cấp cho bất kỳ cơ quan nào
khác. Là do nó được nhà nước giao phó cho nhiều chức năng đặc biệt như: Độc
quyền phát hành tiền giấy; quản lý một phần tài chính của nhà nước, nhất là dữ trữ
ngoại tệ; quản lý các ngân hàng thương mại và cho các ngân hàng thương mại vay.
Mặc dù về tổng thể, chính sách tiền tệ có ảnh hưởng đến mọi chủ thể trong
nền kinh tế, nhưng đối tượng chịu tác động trực tiếp và nhiều nhất của chính sách
tiền tệ là các ngân hàng thương mại. Trong trường hợp chính sách tiền tệ gây khó
khăn cho hoạt động tìm kiếm lợi nhuận của ngân hàng thương mại thì có thể nảy
sinh những phản ứng trái chiều của ngân hàng thương mại.
3
Mục tiêu của chính sách tiền tệ là kiểm soát lạm phát, hỗ trợ chính sách tài
khóa trong khắc phục các dao động của chu kỳ kinh doanh, ổn định thị trường tiền
tệ, qua đó tác động vào lãi suất thị trường, khuyến khích hoặc hạn chế đầu tư, việc
làm và sản lượng.
Về ngắn hạn, chính sách tiền tệ được điều phối trong sự kết hợp với chính
sách tài khóa nhằm ổn định thị trường, kiểm soát lạm phát. Về dài hạn, chính sách
tiền tệ chịu sự chi phối của giới điều hành ngân hàng trung ương.
1.2. Đặc điểm chính sách tiền tệ
So với các chính sách vĩ mô khác, chính sách tiền tệ có một số điểm đặc
thù sau:
Một là, diện tác động của chính sách tiền tệ khá hẹp, thời gian tác động
ngắn hơn các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
Hai là, chính sách tiền tệ có bộ công cụ đa dạng, khá độc lập với nhau, bổ
trợ cho nhau.
Ba là, chính sách tiền tệ không chỉ ổn định thị trường tiền tệ trong nước mà
còn liên quan đến tương quan giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ thông qua việc
điều tiết tỷ giá hối đoái.
1.3. Các công cụ và cơ chế tác động của chính sách tiền tệ
Để thực hiện chính sách tiền tệ, Ngân hàng Trung ương sử dụng một bộ
công cụ đa dạng gồm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu, nghiệp vụ thị trường
mở, chính sách lãi suất, tỷ giá, hạn mức tín dụng… Đây là bộ công cụ tác động vào
các mục tiêu hoạt động của chính sách tiền tệ như lãi suất thị trường liên ngân
hàng, dự trữ không vay, dự trữ đi vay… và thông qua cơ chế thị trường mà tác
động này truyền tới các mục tiêu trung gian là khối lượng tiền cung ứng và lãi suất.
Có thể khái quát bộ công cụ và cơ chế tác động của chính sách tiền tệ nhứau:
4
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ phần trăm trong
nguồn tiền mặt huy động mà ngân hàng trung ương buộc các ngân hàng thương
mại phải giữ ở tài khoản dự trữ của ngân hàng thương mại.
Xét về phí ngân hàng thương mại, dự trữ là điều kiện để ngân hàng thương
mại đảm bảo tính thanh khoản.
Về phía ngân hàng trung ương, dự trữ của ngân hàng thương mại ảnh
hưởng đến lượng cung tiền tín dụng theo cách Ms = H x 1/r. Vì thế, nếu tỷ lệ dự trữ
tăng lên, số nhân tiền giảm đi, quy mô tạo tiền tín dụng của ngân hàng thương mại
từ cơ số tiền mặt có sẵn cũng giảm. Ngược lại, khi tỷ lệ dữ trữ giảm, số nhân tiền
tăng lên, Ms sẽ tăng lên. Đó chính là cơ sở để ngân hàng trung ương sử dụng tỷ lệ
dự trữ bắt buộc như một công cụ điều tiết lượng cung tiền vào kênh lưu thông hàng
hóa, dịch vụ.
Tuy nhiên, phương thức can thiệp hành chính thông qua thay đổi tỷ lệ dữ
trữ bắt buộc không được các ngân hàng thương mại ửng hộ do tác động khắc
nghiệt của nó, nhất là nền kinh tế tăng trưởng nóng, lãi suất cao, các doang nghiệp
khát tiền việc ngân hàng trung ương nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ gây khó khăn
cho cả ngân hàng thương mại lẫn doanh nghiệp. Ngược lại, khi kinh tế suy thoái,
nhiều ngân hàng khó cho vay, việc giảm tỷ lệ dữ trữ bắt buộc không có tác động
mạnh đủ sức khích thích các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp mở rộng cho
vay như mong muốn của ngân hàng trung ương. Chính vì thế, thay đổi dữ trữ bắt
buộc không được sử dụng thường xuyên.
- Nghiệp vụ thị trường mở: Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động điều tiết
lượng cung ứng tiền mặt của ngân hàng trung ương thông qua hoán đổi tiền mặt
và chứng khoán trên thị trường giao dịch trái phiếu.
Trong nghiệp vụ thị trường mở, ngân hàng trung ương tham gia mua bán
trái phiếu (chủ yếu là trái phiếu của chính phủ và trái phiếu của ngân hàng trung
5
ương) trên thị trường tài chính nhằm điều tiết lượng cung tiền, không nhằm mục
đích kinh doanh.
Sử dụng nghiệp vụ thị trường mở để điều tiết lượng cung tiền có ưu điểm là
linh hoạt, phù hợp với nguyên tắc thuận mua, vừa bán, tự do kinh doanh trên thị
trường, dễ được các ngân hàng thường mại chấp nhận. Nghiệp vụ này cho phép
ngân hàng trung ương chủ động trong điều tiết trực tiếp lượng tiền trong lưu thông.
Qua nghiệp vụ mua bán này ngân hàng trung ương làm tăng hay giảm dự trữ của
các ngân hàng thương mại, tác động đến khả năng tín dụng của các ngân hàng này
và từ đó làm tăng hay giảm lượng tiền cung ứng.
- Lãi suất chiết khấu: Lãi suất chiết khấu là lãi suất áp dụng cho khoản tín
dụng tái cấp vốn của ngân hàng trung ương cho các ngân hàng thương mại.
Đi cùng với tăng, giảm quy mô lượng tiền mặt thông qua khoản vay tái cấp
vốn, lãi suất chiết khấu có tác động điều chỉnh giá của lượng tiền mà ngân hàng
thương mại huy động được từ ngân hàng trung ương, thông qua đó tác động thu
hẹp hay mở rộng lượng cung tiền tín dụng của ngân hàng thương mại cũng như tác
động đến lãi suất cho vay của họ.
Cơ chế tác động chính của lãi suất chiết khấu là lãi suất thưởng (thấp hơn
lãi suất thị trường) hoặc lãi suất phạt (cao hơn lãi suất thị trường). Khi khuyến
khích ngân hàng thương mại mở rộng tín dụng, ngân hàng trung ương sẽ áp dụng
lãi suất thưởng. Khi hạn chế cung tiền tín dụng, ngân hàng trung ương áp dụng lãi
suất phạt.
- Một số quy chế điều tiết:
Khi lãi suất chiết khấu ít tác dụng, ngân hàng trung ương có thể sử dụng
công cụ mạnh hơn là các quy chế kiểm soát lãi suất huy động và cho vay của ngân
hàng thương mại. Các quy chế kiểm soát lãi suất khá đa dạng như lãi suất trần, lãi
6
suất sàn, lãi suất cơ bản, lãi suất cơ sở… Nhìn chung, các quy chế chỉ áp dụng
trong tình trạng nguy cấp (lạm phát quá cao hoặc suy thoái nặng).
Ngân hàng trung ương thường sử dụng các quy chế về lãi suất nhằm
khuyến khích hoặc hạn chế đầu tư. Khi muốn khuyến khích đầu tư, ngân hàng
trung ương có xu hướng duy trì lãi suất thấp. Ngược lại, khi muốn hạn chế đầu tư,
ngân hàng trung ương có xu hướng đẩy lãi suất lên cao.
Ngoài ra, trong tình huống biến động mạnh, ngân hàng trung ương có thể
sử dụng công cụ bổ sung là hạn mức tin dụng. Hạn mức tín dụng là tốc độ được
phép tăng tín dụng quy định cho các nhóm ngân hàng thương mại khác nhau (tính
theo thời gian, thường là một năm) hoặc tỷ lệ phần trăm trong tổng vốn dự án mà
một ngân hàng thương mại được phép cho vay. Hạn mức tín dụng thường được sử
dụng để hạn chế mức cung tiền nhằm bảo đảm an toàn vốn và giảm lượng cung
tiền khi nền kinh tế nguy cơ gặp lạm phát cao.
- Chính sách tỷ giá hối đoái: Chính sách tỷ giá hối đoái là quan điểm và
cách thức can thiệp của ngân hàng trung ương vào thị trường ngoại hối nhằm điều
tiết giá trị đồng nội tệ phục vụ các mục tiêu mà ngân hàng trung ương theo đuổi.
Tỷ giá hối đoái được đo bằng tỷ lệ đổi một đồng nội tệ bằng bao nhiêu
ngoại tệ hoặc một đồng ngoại tệ bằng bao nhiêu đồng nội tệ trên thị trường ngoại
hối liên ngân hàng.
Tỷ giá hối đoái tác động đến luồng ngoại tệ ra hoặc vào nền kinh tế quốc
gia, qua đó tác động đến giá cả đồng nội tệ và ảnh hưởng đến cung, cầu, giá cả trên
thị trường hàng hóa dịch vụ.
Nếu muốn kích thích xuất khẩu, ngân hàng trung ương có thể theo đuổi
chính sách hạ thấp giá trị tương đối của nội tệ so với ngoại tệ bằng cách mua ngoại
tệ. Ngược lại, muốn thu hút đầu tư nước ngoài, ngân hàng trung ương sẽ kiềm chế
sự giảm giá đồng nội tệ bằng cách bán ngoại tệ ròng.
7
Việc điều tiết chủ động tỷ giá cần điều kiện dự trữ ngoại tệ dồi dào. Nếu dự
trữ ngoại tệ quá mỏng, ngân hàng trung ương khó chủ động kiểm soát tỷ giá theo
mục tiêu mong muốn.
2. Ưu, nhược điểm của chính sách tiền tệ
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, chính sách tiền tệ có ưu điểm là linh
hoạt, thích ứng cao với sự biến động của thị trường. Chính vì thế, chính sách tiền
tệ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng
nội tệ. Sự ổn định của thị trường tiền tệ không những tạo môi trường thuận lợi cho
hoạt động đầu tư, kích thích tăng trưởng, tạo việc làm, thu nhập, mà còn giảm thiểu
các chi phí phát sinh về quản lý khác.
Chính sách tiền tệ được tổ chức và thực hiện một cách tập trung dựa trên
thông tin thị trường và phán đoán của ngân hàng trung ương (ở Việt Nam là Ngân
hàng Nhà nước) nên khá nhạy bén và có tác động nhanh hơn chính sách tài khóa.
Do không bị phân tán bởi các trung tâm quyết định có lợi ích khác nhau như chính
sách tài khóa nên ngân hàng trung ương có thể ra quyết định khá nhanh và bắt nhịp
với biến động thị trường nhạy bén hơn chính sách tài khóa, chính sách thương mại,
chính sách đầu tư.
Chính sách tiền tệ có nhiều công cụ nhằm thực hiện một mục tiêu, nhất là
mục tiêu kiềm chế lạm phát. So với chính sách tài khóa, tác động của chính sách
tiền tệ tới lạm phát nhanh hơn, hiệu quả cao hơn.
Song, chính sách tiền tệ cũng có một số nhược điểm nhất định. Nhược
điểm lớn nhất của chính sách tiền tệ là không có đủ sức mạnh để điều tiết nền kinh
tế trong dài hạn. Bởi vì các quyết định đầu tư và tiêu dung của người sản xuất và
người tiêu dung không chỉ phụ thuộc vào tình trạng lạm phát, mà còn phụ thuộc
vào kỳ vọng thu nhập trong tương lai cũng như các rào cản tạo ra, vào thị trường.
Khi còn tin rằng nền kinh tế sẽ tăng trưởng tốt, người sản xuất còn đầu tư, người
8
tiêu dùng còn mở rộng tiêu dùng bất chấp chính sách tiền tệ của nhà nước. Khi đó
chính sách giảm cung tiền tín dụng rất khó thực hiện. Khi mất niềm tin vào khả
năng tăng trưởng của nền kinh tế thì việc mở rộng lượng cung tiền nhiều khi không
đủ lực để kích cầu tiêu dùng và đầu tư, do đó ngân hàng thương mại khó giải ngân.
Chính sách tiền cũng có độ trễ nhất định, nhất là đối với mục tiêu kích
thích tiêu dùng, đầu tư do tác động của chính sách tiền tệ đến người sản xuất và
người tiêu dùng được truyền dẫn qua thị trường tài chính. Nếu thị trường tài chính
chưa phát triển hoặc gặp các cú sốc thì tác động truyền dẫn sẽ suy giảm. Ngoài ra,
chính sách tiền tệ chỉ có tác động tích cực khi ngân hàng trung ương dự báo đúng.
Tuy nhiên, hiện nay cơ sở dự báo để hoạch định chính sách tiền tệ thường không
đầy đủ, thông tin dự báo không kịp thời dẫn đến các chính sách tiền tệ thường
chậm hoặc không chính xác.
3. Việc vận dụng chính sách tiền tệ ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay
Từ khi đổi mới đến nay, Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần vận dụng thành
công chính sách tiền tệ chống lạm phát, kích thích tăng trưởng.
- Giai đoạn kiềm chế lạm phát, ổn định nền kinh tế (1986-1993)
Sau khi thực hiện thống nhất đất nước năm 1975, nền kinh tế Việt Nam lâm
vào khó khăn. Viện trợ nước ngoài sụt giảm mạnh, lạm phát phi mã (đỉnh điểm là
năm 1986, tỷ lệ lạm phát là 774%/năm) do tác động của chuyển đổi giá, lương theo
cơ chế thị trường, do phát hành tiền bù đắp bội chi ngân sách nhà nước.
Từ năm 1986 đến năm 1993, cùng với việc Nhà nước bắt đầu ngừng phát
hành tiền bù đắp bội chi ngân sách nhà nước, thiết lập hệ thống ngân hàng hai cấp,
Ngân hàng Nhà nước đã bắt đầu sử dụng một số công cụ của chính sách tiền tệ
nhằm ổn định thị trường, kích thích tăng trưởng.
Công cụ được sử dụng nhiều nhất là chính sách lãi suất. Thời kỳ này, Ngân
hàng Nhà nước ngoài quy định lãi suất tái cấp vốn, còn tiếp tục quy định khung lãi
9
suất của các ngân hàng thương mại nhà nước theo nguyên tắc thực dương. Điển
hình là năm 1989, Ngân hàng Nhà nước tăng lãi suất khá mạnh, nhờ đó giúp cắt
được xu hướng lạm phát cao trong các năm 1985–1988. Tuy nhiên, do lãi suất cao,
khu vực quốc doanh gặp rất nhiều khó khăn. Từ năm 1991 đến năm 1993, Ngân
hàng Nhà nước điều chỉnh lãi suất giảm xuống phục vụ mục tiêu thu hút vốn từ
dân cư để tài trợ cho doanh nghiệp nhằm khuyến khích đầu tư. Cụ thể, từ tháng 3–
1991 đến tháng 10-1993, Ngân hàng Nhà nước đã 6 lần hạ trần lãi suất.
Công cụ dự trữ bắt buộc bắt đầu được Ngân hàng Nhà nước sử dụng nhưng
chưa mang lại tác dụng do các ngân hàng thương mại chưa tuân thủ nghiêm túc.
Các công cụ khác của chính sách tiền tệ chưa được sử dụng do thiếu thị trường và
điều kiện vật chất, pháp lý cần thiết. Mặc dù vậy, kết quả tổng hợp của các công cụ
hạn chế cũng khá tích cực. Tỷ lệ lạm phát những năm đầu thập kỷ 90 đã giảm
xuống còn hai con số, trong khi mức độ tăng trưởng dần được cải thiện, năm sau
cao hơm năm trước. Có thể thấy, việc sử dụng chính sách tiền tệ thành công trong
giai đoạn này đã góp phần đưa Việt Nam rút ngắn thời kì khủng hoảng của quá
trình chuyển sang kinh tế thị trường, đến giai đoạn 1994-1997 có tốc độ tăng
trưởng cao hơn.
- Giai đoạn tăng trưởng nhanh và đối phó với khủng hoảng tài chínhtiền tệ khu vực châu Á (1994-2006)
Mục tiêu ưu tiên trong điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam giai đoạn
này là kích thích tăng trưởng. Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng đa dạng hơn các
công cụ của chính sách tiền tệ. Các công cụ như quy định lãi suất chiết khấu, lãi
suất của ngân hàng thương mại, hạn mức tín dụng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được nhấn
mạnh và hoàn thiện từng bước. Nghiệp vụ thị trường mở được áp dụng trong
khuôn khổ tín phiếu hoặc trái phiếu bắt buộc của Ngân hảng Nhà nước. Tỷ giá hối
đoái bước đầu được quản lý theo nguyên tắc điều chỉnh linh hoạt theo cung - cầu
10
trên thị trường liên ngân hàng nhằm khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu,
tăng cường dự trữ ngoại tệ.
Tác động của chính sách tiền tệ (phối hợp với chính tài khóa) trong giai
đoạn này được đánh giá là tích cực. Mục tiêu kích thích tăng trưởng đã đạt được
trong nửa đầu giai đoạn (1994-1997) nhờ chính sách tiền tệ nới lỏng, chấp nhận
mức lạm phát khá cao trong hai năm đầu, sau đó bắt đầu giảm. Nhờ đó, tốc độ tăng
trưởng bình quân năm giai đoạn 1992-1997 là 8,77%/năm, cao gấp hơn hai lần tốc
độ tăng trưởng giai đoạn 1977-1991 (chỉ đạt bình quân 4,07%/năm), lạm phát giảm
mạnh so với giai đoạn 1986-1991 (tỷ lệ lạm phát bình quân năm là 9,5% so với
180,2% trong giai đoạn 1986-1991).
Nửa sau giai đoạn, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ
tại khu vực châu Á (1997-1998), tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sụt giảm (năm
1999 chỉ tăng 4,8%, các năm sau nhích dần lên). Lạm phát trong giai đoạn này cao
nhất vào năm 1998 (chỉ ở mức 7,7%). Chính sách tiền tệ thắt chặt trong những năm
1998-2000 đã giúp Việt Nam giảm tỷ lệ lạm phát. Trong các năm 2001-2006, chính
sách tiền tệ nới lỏng, trong đó Ngân hàng Nhà nước sử dụng hầu hết các công cụ
của chính sách tiền tệ, nhất là công cụ lãi suất (áp dụng lãi suất thị trường), nghiệp
vụ thị trường mở (mở sàn giao dịch trái phiếu, tín phiếu tại Ngân hàng Nhà nước),
phối hợp với chính sách tài khoản mở rộng, đã giúp Việt Nam nhanh chóng thoát
khỏi ảnh hưởng của khủng hoảng, lấy lại đà tăng trưởng cao, lạm phát vừa phải.
- Giai đoạn 2007-2012
Trong giai đoạn này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã sử dụng hầu hết
các công cụ của chính sách tiền tệ, nhất là trong những năm đối phó với ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng ở nước Mỹ 2007-2008. Cụ thể: Năm 2008, để đối phó với
xu hướng lạm phát gia tăng (năm 2007 là 12,63%, năm 2008 là 19,89 %), Nhà
nước đã điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt bằng cách tăng lãi suất, giảm hạn
11
mức tín dụng, phát hành trái phiếu thu tiền về dự trữ của Ngân hàng Nhà nước.
Nhờ đó tỷ lệ lạm phát năm 2009 hạ xuống mức 6,52%. Chính sách kích cầu cuối
năm 2009 và trong năm 2010 của Chính phủ làm cho lạm phát trong năm 2011 có
xu hướng tăng, đạt mức 18,3%. Năm 2012, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã
phối hợp chính sách tiền tệ thắt chặt với chính sách tài khóa thắt chặt để kéo tốc độ
lạm phát năm xuống còn 6,81%.
- Giai đoạn từ năm 2012 đến nay
Khác với tư duy ưu tiên tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn trước, từ năm
2012 đến năm 2017, Ngân hàng Nhà nước luôn thể hiện rõ cam kết duy trì lạm
phát thấp không chỉ trong ngắn hạn mà cả mục tiêu duy trì lạm phát ổn định trong
trung và dài hạn. Trước những khó khăn mà nền kinh tế Việt Nam phải đối diện,
Ngân hàng Nhà nước đã triển khai quyết liệt các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho
hoạt động sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường.
Việc lựa chọn được mục tiêu cuối cùng phù hợp với bối cảnh kinh tế vĩ mô
là tiền đề quan trọng cho việc triển khai lựa chọn các mục tiêu trung gian, hoạt
động cũng như sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước.
Về mục tiêu trung gian, Ngân hàng Nhà nước kiểm soát chặt chẽ lượng
cung ứng tiền tệ, dần hướng vào mục tiêu lãi suất thị trường phù hợp với diễn biến
lạm phát, thị trường tiền tệ và góp phần tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất
kinh doanh. Trong suốt năm 2017, NHNN tiếp tục kiểm soát tổng phương tiện
thanh toán và tín dụng chặt chẽ, gắn với nâng cao chất lượng tín dụng hơn so với
giai đoạn trước nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra.
Mặc dù tốc độ tăng trưởng tín dụng giai đoạn 2012–2017 thấp hơn nhiều so
với giai đoạn trước, cơ cấu tín dụng đã có những thay đổi tích cực, khi tốc độ tăng
trưởng tín dụng được cải thiện dần, chuyển hướng tập trung vốn vào hoạt động sản
12
xuất - kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên của Chính phủ và phù hợp với chủ
trương chống đô la hóa.
Bên cạnh yếu tố về lực cầu của nền kinh tế thấp, thì tăng trưởng cung tiền
và tín dụng từ năm 2012 cho tới nay đã không tạo áp lực làm tăng lạm phát như
trong giai đoạn trước. Kết quả này xuất phát từ việc Ngân hàng Nhà nước đã kiểm
soát tốt lượng cung tiền không chỉ trong cả năm 2017 mà trong từng thời kỳ, đồng
thời tín dụng được phân bổ vào các lĩnh vực sản xuất trọng tâm của nền kinh tế.
Như vậy, tiền tệ không còn là nhân tố chính gây áp lực lên sự gia tăng của chỉ số
giá tiêu dùng (chủ yếu là kết quả của việc điều chỉnh giá của nhiều mặt hàng thiết
yếu phục vụ sinh hoạt).
Về mục tiêu hoạt động, Ngân hàng Nhà nước kiểm soát chặt chẽ lượng tiền
cơ sở thông qua nghiệp vụ thị trường mở và tái cấp vốn. Ngân hàng Nhà nước lựa
chọn chỉ tiêu hoạt động là lượng tiền cơ sở để kết nối giữa các công cụ của chính
sách tiền tệ với mục tiêu trung gian. Từ năm 2012 đến nay, mối quan hệ giữa tăng
trưởng tiền cơ sở và tăng trưởng cung tiền là tương đối ổn định so với giai đoạn
trước. Điều này xuất phát từ sự ổn định của diễn biến lượng tiền cơ sở thông qua
việc điều hành thận trọng, linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở và tái cấp vốn.
Bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô và hướng tới thực hiện các mục tiêu chính
sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước đã chủ động điều hành các công cụ chính sách
tiền tệ nhằm ổn định thị trường tiền tệ, bảo đảm thanh khoản của các tổ chức tín
dụng, kiểm soát tốt các mục tiêu trung gian.
Tiếp nối thành công của năm 2016, hệ thống các công cụ mà Ngân hàng
Nhà nước đã sử dụng trong năm 2017 bao gồm: Điều hành các mức lãi suất chỉ
đạo, quy định trần lãi suất huy động và cho vay các lĩnh vực ưu tiên, điều hành linh
hoạt nghiệp vụ thị trường mở và tái cấp vốn, giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng,
điều hành tỷ giá hối đoái linh hoạt, bám sát diễn biến thị trường…
13
Trong công tác điều hành nghiệp vụ thị trường mở và tái cấp vốn, năm
2017, Ngân hàng Nhà nước cũng đã điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở
và tái cấp vốn phù hợp với cung cầu vốn trên thị trường, hỗ trợ người sản xuất,
doanh nghiệp và tổ chức tín dụng…; đồng thời, phối hợp hiệu quả với hoạt động
can thiệp trên thị trường ngoại tệ và vàng. Bên cạnh đó, lượng cung ứng tiền tệ
được Ngân hàng Nhà nước điều hành hài hòa với chính sách tài khóa khi hỗ trợ Bộ
Tài chính phát hành thành công trái phiếu chính phủ với kỳ hạn dài, lãi suất thấp.
Đối với công tác quản lý điều hành tỷ giá hối đoái, Ngân hàng Nhà nước
tiếp tục điều hành chính sách tỷ giá chủ động, dẫn dắt thị trường nhằm mục tiêu
duy trì tỷ giá ổn định, tạo niềm tin của công chúng vào giá trị của đồng nội tệ.
Bên cạnh đó, việc thông báo về lượng dữ trữ ngoại hối với xu hướng tăng
mạnh của Ngân hàng Nhà nước cũng cho thấy, một cam kết mạnh mẽ của cơ quan
quản lý trong suốt năm 2017 về khả năng can thiệp trực tiếp trên thị trường ngoại
tệ để giữ ổn định tỷ giá, góp phần xóa bỏ tâm lý chờ đợi những đợt tăng mạnh tỷ
giá, giảm tình trạng đầu cơ ngoại tệ. Ngân hàng Nhà nước cũng đã phối hợp chặt
chẽ với các đơn vị liên quan tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi
phạm đối với hoạt động kinh doanh ngoại tệ, bảo đảm các tổ chức tín dụng, chủ thể
kinh tế chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về tỷ giá và giao dịch hối đoái.
Những thay đổi căn bản trong công tác điều hành tỷ giá và thị trường ngoại
tệ đã bước đầu tạo ra sự ổn định vững chắc. Có thể khẳng định, 2017 được đánh
giá là năm khá thành công của NHNN trong điều hành tỷ giá và bình ổn thị trường
ngoại hối (đưa mức tỷ giá trên thị trường phi chính thức về gần sát với mức tỷ giá
trên thị trường chính thức).
Nhìn chung, mặt bằng lãi suất cho vay giảm, nhất là đối với các lĩnh vực ưu
tiên cùng với tín dụng hướng vào các lĩnh vực ưu tiên của Chính phủ đã cho thấy
14
kết quả của những nỗ lực mà công tác điều hành chính sách tiền tệ tạo ra trong
nhiệm vụ hỗ trợ tái cấu trúc nền kinh tế.
Diễn biến tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát của Việt Nam từ năm 2001
đã dịch chuyển từ vị trí “tăng trưởng khá, lạm phát thấp” lên mức “tăng trưởng
cao, lạm phát vừa phải” (2004-2007), rồi dịch chuyển sang vị trí “tăng trưởng khá,
lạm phát cao” (2008 -2011), “tăng trưởng thấp, lạm phát thấp” (2012-2014), và tới
giai đoạn hiện này là “tăng trưởng và lạm phát ổn định” (2015-2017). Kết quả 3
năm trở lại đây (2015-2017) cho thấy, sự ổn định tương đối của nền kinh tế là điều
kiện để tích lũy các yếu tố cần thiết cho giai đoạn tăng trưởng cao sau này.
15
PHẦN KẾT LUẬN
Chính sách tiền tệ là một quá trình phức tạp thường đòi hỏi một thời gian
khá dài để hoàn thành. Nhưng các vấn đề liên quan đến chính sách tiền tệ hiếm khi
được giải quyết triệt để, đặc biệt đối với nền kinh tế đang trong quá trình chuyển
đổi như Việt Nam. Sự đan xen phức tạp của chính sách tiền tệ với các chính sách
kinh tế vĩ mô khác trong bối cảnh nền kinh tế đang khó khăn hơn trước có thể đưa
đến những thay đổi về ngắn hạn kèm theo những thoả hiệp nhân nhượng tình thế
trong điều hành chính sách. Tuy nhiên về trung, dài hạn, mục tiêu cuối cùng và
mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ vẫn phải được tuân thủ nghiêm ngặt.
Đặc biệt là việc hoàn thiện chính sách tiền tệ sẽ lệ thuộc nhiều vào khả năng tiếp
cận và vận dụng hệ thống các công cụ thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng
Nhà nước, gắn liền với quá trình tiếp tục đẩy mạnh, đổi mới, hiện đại hoá công
nghệ ngân hàng hiện nay.
Chính sách tiền tệ ở Việt Nam còn đứng trước thử thách ngày càng gia tăng
với nguy cơ tụt hậu trước một thế giới đang bước vào thời kỳ tăng trưởng nhanh.
Do đó, chính sách tiền tệ phải đảm bảo đạt được những ưu việt nhất định để giải
quyết mối tương quan giữa mục tiêu ổn định và tăng trưởng, xây dựng một nền
kinh tế phát triển cao, lâu bền.
16