LUẬN VĂN:
Lý thuyết của chủ nghĩa Mác-Lênin về
kinh tế thị trường và sự vận dụng nó ở
nước ta từ khi đổi mới tới nay
I/ lời mở đầu
Trong quá trình đổi mới nền kinh tế nước ta, vấn đề giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa được đặt ra như một nguyên tắc, một vấn đề chiến lược. Bởi vì có quá độ lên chủ
nghĩa xã hội được hay không, điều đó trước hết phụ thuộc vào công cuộc xây dựng nền
kinh tế có giữ vững được định hướng xã hôị chủ nghĩa hay không. Định hướng đó đòi
hỏi phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây
dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa bao gồm cả quan hệ sở hữu, quan hệ phân phối
và vấn đề quản lý nền kinh tế. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ đó sẽ đảm bảo cho nền
kinh tế không bị tụt hậu trong thời đại văn minh tin học, tạo ra được tiền đề kinh tế kỹ
thuật cho sự quá độ, đồng thời không đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Muốn quá độ
được trước hết phải có lực lượng sản xuất phát triển. Đất nước ta có thể quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nhưng không thể bỏ qua những tiền đề
kinh tế xã hội cần thiết cho sự quá độ đó. Cái thiếu của đất nước ta là một lực lượng sản
xuất phát triển. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa không thể thiết lập tràn lan trên một
lực lượng sản xuất quá thấp kém. Trước đây, có lúc chúng ta nhận thức ấu trĩ rằng
dường như có quan hệ sản xuất tiên tiến là đã có chủ nghĩa xã hội; có sở hữu xã hội chủ
nghĩa thì lực lượng sản xuất sẽ tự động phát triển, năng xuất lao động sẽ tăng nhanh; từ
đó đã dẫn đến những sai lầm đáng tiếc.ở một nước tiểu nông như nước ta, chủ nghĩa tư
bản chưa phát triển nên chưa có mâu thuẫn kinh tế cơ bản giữa trình độ xã hội hoá cao
của lực lượng sản xuất với sự chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa; chế độ tư hữu vẫn
còn tác dụng, thậm chí còn tác dụng hết sức to lớn đối với sự tăng trưởng của nền kinh
tế quốc dân. Hơn nữa sự ra đời của chủ nghĩa xã hội không phải từ miếng đất trống
không mà từ nền sản xuất do xã hội cũ để lại; vì vậy xây dựng xã hội mới không phải là
phủ định toàn bộ cái cũ, mà phải biết vừa xây dựng cái mới, vừa sử dụng cái cũ để thúc
đẩy chế độ kinh tế mới ra đời. Do vậy con đường cần thiết cho sự quá độ lên chủ nghĩa
xã hội là phải duy trì nền kinh tế nhiều thành phần nhằm huy động mọi năng lực sản
xuất, phát triển kinh tế hàng hoá để phát triển lực lượng sản xuất. Do ý nghĩa to lớn đó
mà đề tài về kinh tế thị trường trở nên hết sức cần thiết. Đề tài “Lý thuyết của chủ
nghĩa Mác-Lênin về kinh tế thị trường và sự vận dụng nó ở nước ta từ khi đổi mới
tới nay” được nghiên cứu bằng phương pháp duy vật biện chứng, dưới góc độ môn kinh
tế chính trị bao gồm những nội dung chính sau:
-sự ra đời và phát triển kinh tế hàng hoá với các qui luật vận động
-sự phát triển của Lênin:kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã h
- sự vận dụng vào nước ta từ 1986 tới nay
Ii/ nội dung
A/CƠ sở lý luận của vấn đề
1/Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường
a/Kinh tế thị trừơng là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá
Từ nền kinh tế tự nhiên chuyển sang nền kinh tế hàng hoá giản đơn
Mặc dù có những đặc điểm riêng,nhưng tât cả những phương thức sản xuất tiền tư bản
chủ nghĩa đều có nét chung là nền kinh tế tự nhiên. trong nền kinh tế tự nhiên sản xuất
nhỏ chiếm ưu thế. Nền kinh tế tự nhiên do nhiều đơn vị kinh tế thuần nhất hợp thành (
các gia đình nông dân gia trưởng,các công xã nông thôn,các lãnh địa phong kiến) và
mỗi đơn vị kinh tế ấy làm chủ mọi công việc để tạo ra những sản phẩm cuối cùng.
Trong nền kinh tế tự nhiên, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu; nông nghiệp là nghành
sản xuất cơ bản; công cụ và kỹ thuật canh tác lạc hậu: dựa vào lao động chân tay là chủ
yếu, chỉ có một số trang trạI của địa chủ hoặc phường hội mới có hiệp tác lao động giản
đơn. trong nền kinh tế dưới chế độ phong kiến, phân công lao đông kém phát triển, cơ
cấu nghành đơn điệu, mới chỉ có một số nghề thủ công tách khỏi nông nghiệp, sản xuất
chủ yếu hướng vào giá trị sử dụng, có tính chất tự cung tự cấp. Trong chế độ phong
kiến, bên cạnh sở hữu phong kiến còn có sở hữu cá thể nhỏ của nông dân và thợ thủ
công về công cụ lao đông, nhà cửa , giống và những tàI sản phụ khác. những hình thức
sở hữu đó là hinh thức tồn tạI của những tiểu nông và thợ thủ công độc lập. Sản xuất
nhỏ gồm hai dạng: sản xuất nhỏ mang tính tự cung, tự cấp và sản xuất nhỏ dưới hình
tháI sản xuất hàng hoá giản đơn. hai hình tháI đó có thể hiện hai trình độ phát triển khác
nhau của trình độ sản xuất xã hội. Sản xuất nhỏ chỉ đạt tới hình tháI điển hình khi
người lao động là người chủ tự do của những tư liệu sản xuất do chính họ sử dụng.
Những đặc điểm chủ yếu của sản suất nhỏ là:
Người sản xuất làm chủ tư liệu sản xuất mà họ sử dụng(tư liệu sản xuất này thuộc quyền
sở hữu riêng của họ hoặc do họ đI thuê) và chiếm hữu những kết quả lao động của
mình. Quy mô sở hữu thường không vượt quá khả năng đáp ứng nhu cầu đáp ứng của
bản thân người lao động và gia đình họ. Người lao động trực tiếp kết hợp sức lao động
của mình với tư liệu lao động thô sơ, nhỏ bé thích hợp với lao động cá thể, bởi vậy hiệp
tác và phân công lao động kém phát triển. Kỹ thuật sản xuất lạc hậu, dựa trên lao động
thủ công và kinh nghiệm cổ truyền, thậm chí cảI tiến nên năng suất lao động thấp, sản
phẩm thặng dư ít, táI sản suất giản đơn là chính. Quy mô sản xuất nhỏ, tư liệu sản xuất
phân tán,manh mún, quản lý sản xuất là việc của riêng cá nhân và gia đình. Sản xuất
chủ yếu hướng vào giá trị sử dụng, tỷ suất hàng hoá thấp, lưu thông hàng hoá chưa phát
triển, thị trường nhỏ hẹp, mang tính chất địa phương. Nông nghiệp là nền sản xuất
chính, tuyệt đạI bộ phận lao động tập trung vào nông nghiệp, phần lớn dân cư sinh sống
ở nông thôn, cơ cấu kinh tế rời rạc. Bước đi tất yếu của sản xuất tự cung tư cấp là tiến
lên sản xuất hàng hoá giản đơn. điều kiện cho quá trình chuyển hoá này là sự phát triển
của phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là cơ sơ của kinh tế hàng
hoá. Xu hướng phát triển của phân công lao động xã hội là biến việc sản xuất không
những từng sản phẩm riêng biệt, mà việc sản xuất từng bộ phận của sản phẩm thành
những ngành sản xuất riêng biệt. Công nghiệp chế biến tách khỏi công nghiệp khai thác
và mỗi nghành công nghiệp đó lại chia thành nhiều loại nhỏ và phân loạI nhỏ. Chúng
sản xuất ra -dưới hình thức hàng hoá-những sản phẩm riêng biệt rồi đem đi trao đổi với
những hàng hoá khác. chính sự phát triển ngày càng sâu rộng đó của phân công lao
động xã hội là nhân tố chủ yếu dẫn đến hình thành thị trường trong nước. Quá trình trên
cũng thể hiện cả trong nông nghiệp, làm nảy sinh những khu vực nông nghiệp chuyên
môn hoá và dẫn đến những sự trao đổi không những giữa sản phẩm nông nghiệp với sản
phẩm công nghiệp mà cả giữa những sản phẩm nông nghiệp với nhau. Trong nền kinh
tế tự nhiên, nhân khẩu nông nghiệp chiếm đa số. điều đó không có nghĩa là dân cư chỉ
chuyên làm nghề nông, mà chỉ có nghĩa là dân cư làm nghề nông đã tự mình chế biến
lấy nông sản, hầu như chưa có sự phân công trao đổi. Đến khi hàng hoá ra đời, một bộ
phận ngày càng đông trong dân cư tách khỏi nông nghiệp để làm công nghiệp, làm cho
nhân khẩu nông nghiệp giảm xuống. Sự phát triển công nghiệp và nông nghiệp, sự hình
thành những trung tâm công nghiệp ,sức hút của chúng với dân cư ảnh hưởng sâu sắc
tới đời sống nông thôn, thúc đẩy nông nghiệp hàng hoá phát triển. Những người sản
xuất ở những vùng khác nhau có những điều kiện tự nhiên khác nhau, có khả năng và
ưu thế trong sản xuất những sản phẩm khác nhau có hiệu quả hơn. ngay trong một vùng
một địa phương, những người sản xuất cũng có những khả năng , điều kiện kinh nghiệm
sản xuất khác nhau. Mỗi người sản xuất chỉ tập trung sản xuất sản phẩm nào mà mình
có ưu thế, đem sản phẩm của mình ra trao đổi lấy những sản phẩm cần thiết cho sản
xuất và đời sống của mình. Họ trở thành những người sản xuất hàng hoá. Trao đổi mua
bán, thị trường tiền tệ ra đời và phát triển. Sản xuất hàng hoá ra đời, lúc đầu dưới hình
hình thức sản xuất hàng hoá nhỏ giản đơn nhưng là một bước tiến lớn trong lịch sử nhân
loại.
Từ kinh tế hàng hoá giản đơn lên nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời từ nền kinh tế hàng hoá giản đơn, nhưng có đặc
điểm cơ bản khác với nền kinh tế hàng hoá giản đơn. ở đây người sản xuất trực tiếp là
những người công nhân làm thuê, không phải là những người sở hữu tư liệu sản xuất,
còn tư liệu sản xuất thụôc nhà tư bản, sản phẩm lao động do những người công nhân
làm ra thuôc về chủ sở hữu tư liệu sản xuất. Sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời khi có
haiđiều kiện sau đây: phải có sư tập trung một số tiền lớn vào trong tay một số ít người
đủ để lập ra các xí nghiệp. Và các ông chủ xí nghiệp phải tìm được người lao động làm
thuê. đó là những người tự do sở hữu năng lực lao động của mình, có thể bán sức lao
động cho người cần mua trong quan hệ bình đẳng với nhau về mặt pháp lý. Khi bán sức
lao động vẫn sở hữu sức lao động của mình. đó là điều khác nhau với người nô lệ trước
đây. hơn nữa họ buộc phải bán sức lao động để kiếm sống, vì không còn tư liệu sản xuất
để trực tiếp kết hợp với sức lao động của mình. “tư bản chỉ phát sinh ở nơi nào mà
người chủ những tư liêu sản xuất và tư liêu sinh hoạt tìm thấy người lao động tự do vơí
tư cách là người bán sức lao động của mình ở trên thị trường và chỉ điều kiện lịch sử ấy
cũng hàm cả một lịch sử thế giới. Vì ngay lúc xuất hiện, tư bản đã báo hiệu một thời đại
đặc biệt của quá trình sản xuất xã hội”. Hai điều kiện ra đời của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa đó đã xuất hiện do sự phát triển sản xuất hàng hoá giản đơn dưới tác
động của qui luật giá trị. Trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá giản đơn, tác động của qui
luật giá trị dẫn tới sự phát triển tự phát cuả lực lượng sản xuất. Vì hàng hoá đươc mua
bán theo giá trị xã hội của nó, cho nên người sản xuất phảI cố gắng làm cho hao phí lao
động của mình đạt mức lao động xã hội cần thiết. Những người sản xuất hàng hoá sử
dụng kỹ thuật cao hơn thì sẽ sản xuất hàng hoá với lao động ít hơn hao phí lao động xã
hội cần thiết, nhưng vẫn bán với giá cả như người sản xuất hàng hoá khác, do đó họ làm
giàu nhanh. Do tác động tự phát qui luật giá trị, do sự biến động của giá cả canh tranh
đã làm phân hoá những người sản xuất hàng hoá và trong giai đoạn phát triển lịch sử
nhất định làm nảy sinh chủ tư bản. kinh tế hàng hoá giản đơn đẻ ra chủ nghĩa tư bản. tuy
nhiên nếu chỉ tác động của qui luật giá trị thì cần có lịch sử lâu dài mới có thể tạo ra
những điều kiện cho sự ra đời chủ nghĩa tư bản. trong thực tế lịch sử ra đời phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa đã được đẩy mạnh nhờ quá trình tích luỹ ban đầu của tư bản.
tích luỹ ban đầu của tư bản là quá trình lịch sử tách rời băng bạo lực hàng loạt những
người sản xuất nhỏ khỏi tư liệu sản xuất và tập trung những tư liệu sản xuất ấy vào
trong tay nhà tư bản. quá trình này diễn ra ở các nước tây âu chủ yếu vào hồi trhế kỷ
XVI-XVIII. Tích luỹ ban đầu của tư bản là khởi điểm của sự thiết lập phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa, là sự phát sinh của tư bản trong lịch sử mà thực chất của nó là
việc xoá bỏ chế độ tư hữu dựa trên lao động của chính bản thân sự vân động lịch sử biến
những người sản xuất thành những người lao động làm thuê, một mặt thể hiện sự giảI
phóng họ khỏi sự phụ thuộc phong kiến và cưỡng bức của phường hội; mặt khác biến
họ thành những người bị tước hết tư liệu sản xuất và mọi thứ bảo đảm đời sống do chế
độ phong kiến cũ cấp cho họ. Về phần mình những nhà tư bản công nghiệp chẳng
những phải gạt bỏ các thợ cả phường hội, mà còn gạt bỏ những chúa phong kiến nắm
những nguồn của cải. Cơ sơ của toàn bộ quá trình trên đây là sự tước đoạt toàn bộ ruộng
đất của nông dân. lịch sử ra đời của chủ nghĩa tư bản ở anh là thí dụ điển hình về việc
dùng bạo lực đuổi nông dân ra khỏi những vùng đất đai mà họ vẫn canh tác để biến
đồng ruộng thành bãI chăn cừu; đồng thời ban hành những đạo luật máu để chống lạI
những người nông đã bị mất ruộng đất, như cấm họ đI lang thang hoặc ra nước ngoài,
nhằm buộc họ làm thuê. Lượng cầu về lao động tăng lên nhanh cùng với tích luỹ tư bản,
trong khi lượng cung về lao động làm thuê chỉ theo sau một cách chậm chạp. bởi vậy
nhà nước đã rá pháp chế về lao động làm thuê để tạo điều kiện thuận lợi cho giai cấp tư
sản bóc lột công nhân. Chính việc biến những người tiểu nông thành công nhân làm
thuê và biến những tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt của họ thành những yếu tố tư
bản cũng đồng thời tạo ra thị trường trong nước cho tư bản. Nếu trước kia gia đình nông
dân tự mình sản xuất và chế biến tư liệu sản xuất và nguyên liệu để rồi tự mình tiêu
dùng một phần lớn, thì giờ đây những nguyên liệu và tư liệu sinh hoạt đó trở thành hàng
hoá. Vậy là đi đôi với việc tước đoạt những người nông dân độc lập trứơc đây và viêc
tách họ ra khỏi tư liệu sản xuất cũng diễn ra thủ tiêu nghề phụ gia đình ở nông thôn và
sự tách rời công trường thủ công với nghề nông. Và chỉ có sự thủ tiêu nghề phụ gia đình
ở nông thôn mới làm cho thị trường bên trong của một nước có được qui mô và sự ổn
định cần thiết cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Tích luỹ ban đầu còn được
khai thác bằng những mỏ vàng, bạc mới được phát hiện ở châu mỹ,dựa vào việc sử
dụng nô lệ bản xứ; bằng việc buôn bán nô lệ ở châu phi; bằng việc trinh phục và cướp
bóc thuộc địa bằng thực hiện chính sách thực dân thực hiện thương mại bất bình đẳng,
mua rẻ bán đắt; bằng phát hành công tráI, v v nhận xét về tích luỹ ban đầu C.Mác
viết:”việc tìm thấy các mỏ vàng,bạc ở châu mỹ, việc tuyệt diệt người bản xứ, bắt họ làm
nô lệ và chôn vùi họ trong các hầm mỏ, việc bắt đầu đi chinh phục và cướp bóc miền
đông ấn, việc biến châu phi thành khu cấm để săn bắt buôn bán người da đen- đó là bình
minh của thời đại sản xuất tư bản chủ nghĩa. Những quá trình thơ mộng ấy là những yếu
tố chủ yếu tích luỹ ban đầu” tất cả các phương pháp đó đều lợi dụng quyền lực nhà
nước, tức là quyền lực xã hội tập trung và có tổ chức, để đẩy nhanh quá trình chuyển
hoá của phương thức sản xuất phong kiến thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,
và rút ngắn giai đoan quá độ của quá trình đó lại. Bạo lực là bà đỡ của một chế độ xãhội
cũ đang thai nghén một chế độ mới. Bản thân bạo lực là một tiềm lực kinh tế”
b/ Đặc trưng của kinh tế thị trường
Trên thế giới có nhiều quốc gia phát triển nền kinh tế của mình theo mô hình nền kinh tế
thị trường. Chẳng hạn như mô hình nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của cộng
hoà liên bang đức, kinh tế thị trường của thuỵ điển, kinh tế thị trường mang màu sắc
trung quốc .v v. nếu gác lại những đặc điểm riêng cá biệt của những mô hình kể trên,
chỉ tính đến những đặc trưng chung nhất, vốn có của nền kinh tế thị trường, có thể nêu
nên những đặc đIểm mang tính phổ biến như sau:
Một là Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao.Các chủ thể kinh tế tự bù đắp những
chi phí và chịu trách nhiệm với kết quả sản xuất và kinhdoanh của mình các chủ thể
kinh tế được tự do liên kết liên doanh,tự do tổ chức quá trình sản xuất theo luật định
.Đây là đặc trưng rất quan trọng của kinh tế thị trường .Đặc trưng này xuất phát từ
những đIều kịên khách quan của việc tồn tại kinh tế hàng hoá .Đồng thời cũng là biểu
hiện ,là yêu cầu nội tại của kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá không bao dung hành vi
bao cấp. Nó đối lập với bao cấp và đồng nghĩa với tự chủ,năng động.
Hai là trên thị trường hàng hoá rất phong phú. Người ta tự do mua ,bán hàng hoá. Trong
đó người mua chọn người bán. Người bán chọn người mua. Họ gặp nhau ở giá cả thị
trường. Đặc trưng này phản ánh tính ưu việt hơn hẳn của kinh tế thị trường so với kinh
tế tự nhiên.
Sự đa dạng và phong phú về số lượng và chủng loại những hàng hoá trên thị trường,
một mặt phản ánh trình độ cao của năng xuất lao động xã hội, mặt khác cũng nói lên
mức độ phát triển của quan hệ trao đổi, trình độ của phân công ao động xã hội và sự
phát triển của thị trường. Những ưu thế trên của kinh tế thị trường phản ánh trình độ
phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ, tựu chung phản ánh trình độ cao của lực
lượng sản xuất xã hội. Vì vậy, nói đến kinh tế thị trường là nói đến một nền kinh tế phát
triển cao.
Ba là giá cả được hình thành ngay trên thị trường. Giá cả thị trường vừa là biểu hiện
bằng tiền của giá trị thị trường, vừa chị sự tác động của quan hệ cạnh tranh và quan hệ
cung cầu hàng hoá ,dịch vụ. Trên cơ sở giá trị thị trường, giá cả là kết quả của sự
thương lượng và sự thoả thuận giữa người mua và người bán. Đặc trưng này phản ánh
yêu cầu của quy luật lưu thông hàng hoá. Trong quá trình trao đổi mua bán hàng hoá,
người bán luôn luôn muốn bán với giá cao, ngưòi mua lại luôn muốn mua với giá thấp.
Đối với người bán giá cả phải bù đắp được chi phí và có doanh lợi. Chi phí sản suất là
giới hạn dưới, là phần cứng của giá cả, còn doanh lợi càng nhiều càng tốt. Đối với
người mua giá cả phải phù hợp với lợi ích của họ. Giá cả thị trường dung hoà đựơc cả
lợi ích của người mua lẫn lợi ích của người bán. tất nhiên trong cuộc giằng co giữa
người mua và người bán hình thành nên giá cả thị trường, lợi thế sẽ nghiêng về phía
người bán nếu như cung ít cầu nhiều và ngược lại lợi thế sẽ nghiêng về phía người mua
nếu như cung nhiều cầu ít.
Bốn là cạnh tranh là một yêu cầu tất yếu của kinh tế thị trường. Nó tồn tạI trên cơ sở
những đơn vị sản xuất hàng hoá độc lập và khác nhau về lợi ích kinh tế. Theo yêu cầu
của qui luật giá trị, tất cả đơn vị sản xuất hàng hoá đều phải sản xuất và kinh doanh trên
cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong đIều kiện đó muốn có nhiều lợi nhuận
các đơn vị sản xuất và kinh doanh phải đua nhau cải tiến kỹ thuật, áp dụng kỹ thuật mới
vào sản xuất để nâng cao năng xuất lao động cá biệt, giảm hao phí lao động cá biệt
nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh diễn ra một
cách phổ biến trong cả lĩnh vực sản xuất lẫn cả lĩnh vực lưu thông. Cạnh tranh trong
lĩnh vực sản xuất bao gồm:canh tranh nội bộ nghành và giữa các ngành với nhau. Cạnh
tranh trong lĩnh vực lưu thông bao gồm: cạnh tranh giữa những người tham gia trao đổi
hàng hoá và dịch vụ trên thị trường(người bán với những người bán, người mua với
những người mua). Hình thức, biện pháp rất phong phú nhưng động lực và mục đích
cuối cùng là lợi nhuận.
Năm là kinh tế thị trường là nền kinh tế mở. Nó rất đa dạng, phức tạp và được điều hành
bởi hệ thống tiền tệ , hệ thống pháp luật của nhà nước.
Mỗi đặc trưng trên phản ánh một khía cạnh mô hình kinh tế thị trường, tổng hợp cả năm
đặc điểm trên giúp ta hình dung được khái quát cấu trúc của nó.
C/ Các hình thức của kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa trải qua các giai đoạn: giai đoạn cạnh tranh tự do
kéo dài mãi đến cuối thế kỷ XI X . trong giai đoạn này hầu như nhà nước không có vai
trò gì, tất cả mọi vấn đề, giá cả ,qui mô, điều tiết sản xuất, khả năng thanh toán của
người mua đều do thị trường quyết định. Giá cả là tín hiệu khách quan thông báo cho
người sản xuất biết sử lý khôn khéo ba vấn đề : sản xuất cái gì , sản xuất bằng cách nào,
sản xuất cho ai. Cạnh tranh là môi trường là động lực phát triển, tạo điều kiện phát huy
mọi tiềm năng, nâng cao ý thức trách nhiệm cá nhân, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển. Bên cạnh những mặt tích cực của cơ chế kinh tế thị trường tự điều tiết nó còn tạo
ra sự mất cân đối, bất hợp lý. Cạnh tranh sinh ra độc quyền, buôn bán lậu, lừa đảo, đầu
cơ làm hàng giả, thất nghiệp lạm phát, vi phạm đạo đức, con người trở thành vật hy sinh
cho lợi nhuận, cho đồng tiền sau chiến tranh thế giới thứ hai kinh tế thị trường CNTB
được hoàn thiện với sự can thiệp của nhà nước. Người ta gọi đó là nền kinh tế thị trường
hiện đại hay là nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô nhà nước. Kinh tế thị trường
hiện đại định hướng sản xuất và lưu thông thông qua việc phân phối hợp lý lao động,
phân bố hợp lý tài nguyên, để từ đó tối ưu hoá cơ cấu sản xuất. Bảo đảm phát triển cân
đối toàn bộ nền sản xuất xã hội. Trong kinh tế thị trường hiện đại thị trường giữ vai trò
quyết định trong việc điều chỉnh hệ thống cân đối giữa tổng cung và tổng cầu. Kinh tế
thị trường hiện đại đòi hỏi sự xoá bỏ sự chia cắt thị trường theo địa giới hành chính giữa
các địa phương , thiết lập thị trường thống nhất toàn quốc, thị trường trong nước gắn với
thị trường thế giới, phân công lao động trong nước gắn với phân công lao động quốc tế
qua hàng loạt mối quan hệ kinh tế. Sự kết hợp giữa thị trường và kế hoạch là công cụ
điều tiết vĩ mô nhà nước tư sản, hình thành nên lý luận “ kinh tế thị trường xã hội” kết
hợp giữa bàn tay vô hình và bàn tay hữu hình. Kế hoạch hoá nền kinh tế xuất phát từ
cân đối tổng thể cung cầu, sản xuất - tiêu dùng,hàng hoá- tiền tệ căn cứ vào thị
trường, kế hoạch hoá vĩ mô tác động trở lại cung cầu, giá cả , uốn nắn những lệch lạch
do thị trường gây ra, thông qua đó hướng mọi hoạt động vào kế hoạch. Trong thực tế
các xí nghiệp các công ty, các tập đoàn tư bản đều sản xuất với một kế hoạch rất chu
đáo và tỷ mỉ. Do đó đã hạn chế được rất nhiều tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.
Tuy nhiên xét trên bình diện vĩ mô các nhà nước tư bản đã tỏ ra bất lực vì quyền lực chi
phối sản xuất thuộc về từng chủ sở hữu riêng lẻ.
d/ phân loại thị trường và các chức năng chủ yếu của thị trường
Thứ nhất thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ. ở thị trường này người ta mua bán
những tư liệu sinh hoạt như lương thực thực phẩm, vải vóc quần áo và các tư liệu sinh
hoạt khác trong gia đình v.v những hàng hoá tiêu dùng ngày càng nhiều theo đà phát
triển của kinh tế hàng hoá. NgoàI những hàng hoá hữu hình, còn có những hàng hoá vô
hình được coi là dịch vụ như sửa chữa, may vá cắt tóc.v.v hoạt động dịch vụ ngày càng
phát triển và đem lại những thu nhập ngày càng lớn.Nhìn chung, ở thị trường hàng hoá
và dịch vụ người ta mua bán những sản phẩm là kết quả của sản xuất, nên thị trường
này được gọi tắt là thị trường đầu ra.
Hai là thị trường các yếu tố sản xuất. Trên thị trường này người ta mua , bán các yếu tố
cần thiết cho quá trình sản xuất: như các nguyên vật liệu thiết bị máy móc, sức lao
động.v v thị trường này được gọi là thị trường đầu vào.
Sự phân chia thị trường thành hai loạI như trên là dựa trên cơ sở chủng loại hàng hoá
đưa ra trao đổi trên thị trường,dựa vào sự phát triển phạm trù hàng hoá. Hàng hoá mở
rộng ra đến đâu thì thị trường cũng mở rộng ra tới đó. Ngày nay thị trường hàng hoá
được phát triển rộng rãi nó bao hàm các yếu tố đầu vào của sản xuất cũng như các sản
phẩm do sản xuất tạo ra. Khi những tư liệu tiêu dùng và dịch vụ là hàng hoá và xuất
hiện cung, cầu về những hàng hoá này thì xuất hiện trên thị trường hàng tiêu dùng và
dịch vụ. trong lịch sử loạI thị trường này xuất hiện rất sớm. Khi các yếu tố sản xuất(tư
liệu sản xuất và sức lao động) trở thành hàng hoá và khi có cung, cầu về các yếu tố này
thì thị trường các yếu tố sản xuất ra đời. LoạI thị trường này thường xuất hiện sau thị
trường hàng tiêu dùng và dịch vụ.
Thị trường thường có chức năng chủ yếu sau:
Thực hiện giá trị hàng hoá. Trong chức năng này, thị trường là nơI giá trị hàng hoá được
thực hiện hoặc không được thực hiện; có thể thực hiện cao, bằng và thấp hơn giá trị
hàng hoá trong sản xuất. Chức năng này gắn với mục đích của sản xuất và khách hàng
giữ vai trò quyết định đối với sản xuất .
Thông tin cho người sản xuất và người tiêu dùng, nhất là người sản xuất và cung ứng,
qua thông số như: qui mô nhu cầu cơ cấu, chất luợng, thời gian, không gian và giá cả
mà nhu cầu có thể chấp nhận được.
Kích thích sản xuất và tiêu dùng. Thị trường không dừng lạI ở chức năng thông tin mà
qua chức năng thông tin tác động đến các chủ thể tham gia thị trường buộc họ phảI có
những ứng xử kịp thời về các đIều kiện sản xuất và tiêu dung phù hợp với các thông số
thị trường, nhờ đó sản xuất và tiêu dùng được kích thích hoặc hạn chế. Thông qua các
chức năng nói trên, thị trường có vai trò quan trọng đIều tiết hoạt động của doanh
nghiệp và người tiêu dùng, thông qua thị trường nhà nước có thể đIều tiết vĩ mô hoạt
động của toàn bộ nền kinh tế. Khi cần sản xuất mặt hàng gì số lượng là bao nhiêu điều
đó phảI thông qua thị trường. Như vậy thị trường là lực lượng hướng dẫn đặt nhu cầu
cho sản xuất. Sản xuất là sự kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động theo quan hệ tỷ lệ
nhất định. Quan hệ tỷ lệ này tuỳ thuộc vào trình độ kỹ thuật sản xuất. Nếu kỹ thuật tiến
bộ thì một sức lao động nhất định sẽ vận hành được nhiều tư liệu sản xuất hơn, sản xuất
ra nhiều sản phẩm hơn. để sản xuất cần có các yếu tố sản xuất, thi hành bình thường.
Sản xuát hàng hoá để trao đổi, để bán. thị trường là nơI tiêu thụ hàng hoá doanh nghiệp.
Thông qua thị trường giá trị hàng hoá được thực hiện và các doanh nghiệp thu hồi được
vốn. Như vậy là người mua các yếu tố sản xuất và bán những sản phẩm mình làm ra.
Quy mô của việc mua vào và bán ra sẽ quýết định quy mô sản xuất. Nếu coi doanh
nghiệp như những cơ thể sống thì thị trường là nơI đảm bảo các yếu tố cho sư sống đó
và cũng là nơI thực hiện sự trao đổi chất để sự sống tồn tạI và phát triển. Trên ý nghĩa
đó thị trường là đIều kiện và là môI trường cho hoạt động sẩn xuất các doanh nghiệp.
Thị trường là nơI kiểm tra cuối cùng chủng loạI các hàng hoá, số lượng cũng như chất
lượng sản phẩm. Thị trường kiểm nghiệm tính phù hợp sản xuất với tiêu dùng xã hội.
Trên ý nghĩa đó có thể coi thị trường đIều tiết sản xuất và là động lực của sản xuất kinh
doanh. Thông qua thị trường hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngaỳ càng
năng động sáng tạo hơn, hiệu quả của sản xuất kinh doanh ngày càng tốt hơn. thị trường
còn là nơI cuối cùng chuyển lao động tư nhân thành lao động xã hộị
E/ Cơ chế thị trường và các qui luật kinh tế
hiện nay có rất nhiều kháI niệm khác nhau về cơ chế thị trường
cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, quan hệ, môI trường, động lực và quy luật chi
phối sự vận động của thị trường.
Cơ chế thị trường là thiết chế kinh tế chi phối ý chí và hành động của người sản xuất và
người tiêu dùng, người bán và người mua thông qua cơ chế thị trường và giá cả.
Cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó cá nhân người tiêu dùng và
các doanh nghiệp tác động qua lạI lẫn nhau trên thị trường để xác định vấn đề trung tâm
của tổ chức kinh tế là sản xuất cáI gì? như thế nào? và cho ai?
Tuy nhiên nên tiếp cận với kháI niệm cho rằng cơ chế thị trương là bộ máykinh tế đIều
tiết toàn bộ sự vận động của cơ chế thị trường, đIều tiết quá trình sản xuất và lưu thông
hàng hoá thông qua sự tác động của các quy luật kinh tế khách quan .
Quy luật giá trị, cạnh tranh và cung cầu
Trong nền kinh tế hàng hoá, hàng hoá và dịch vụ do nhiều chủ thể sản xuất ra. Những
chủ thể này cạnh tranh với nhau, tìm cáchgiữ vững và mở rộng thêm vị thế của mình
trên thị trường. Mỗi người sản xuất đêu độc lập, tự quyết định các hoạt động sản xuất-
kinh doanh của mình. Nhưng trong thực tế những quết định của người sản xuất-kinh
doanh chịu sự chi phối của thị trường. Sản xuất hàng hoá càng phát triển thì quyền lực
của thị trường đối với người sản xuất hàng hoá ngày càng mạnh mẽ. Quyền lực này tồn
tạI như một lực lượng khách quan chi phối họat động và độc lập với ý chí của người sản
xuất ;lực lượng khách quan đó chi phối những quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá,
mà trước hết là quy luật giá trị.
Quy luật giá trị
Nội dung
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Theo quy luật này sản xuất và lưu thông hàng hoá được thực hiện theo hao phí lao động
xã hội cần thiết. Những người sản xuất và trao đổi hàng hoá tuân theo mệnh lệnh của
giá cả thị trường. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường sẽ thấy được sư vận
động của quy luật giá trị. Giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị hàng hoá và trở
thành cơ chế tác đọng của quy luật giá trị. Cơ chế này phát sinh tác dụng trên thị trương
thông qua cạnh tranh, cung cầu sức mạnh của đồng tiền. điều này cắt nghĩa vì sao khi
trình bày qui luật kinh tế chi phối hoạt động của sản xuất và lưu thông hàng hoá người
ta chỉ trình bày qui luật giá trị, một qui luật bao quát cả bản chất và các nhân tố cấu
thành cơ chế tác động của nó. Do tầm quan trọng của cơ chế tác động và để tăng ý nghĩa
thực tiễn của qui luật giá trị , các nhà kinh tế học gần đây thấy phải nhấn mạnh các nhân
tố cạnh tranh, lượng tiền cần thiết cho lưu thông và cung cầu đối với sự biến động của
giá cả thị trường và trình bày chúng thành các qui luật:cạnh tranh cung cầu và lưu thông
tiền tệ. Mặc dù được trình bày thành các qui luật kinh tế riêng song về nhận thức lý luận
chúng cũng chỉ nên coi chúng là những qui luật kinh tée phát sinh từ qui luật giá trị,
hiểu theo nghĩa đầy đủ của qui luật này.
Tác động của qui luật giá trị.
Thứ nhất điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. Trong nền sản xuất hàng hoá thường
cảy ra tình hình người sản xuất bỏ ngành náy đổ xô vào ngành khác; qui mô sản xuát
của ngành này được thu hẹp trong khi ở ngàng khác lại được mở rộng, làm cho tư liệu
sản xuất và sức lao động được phân bố lại giữa các ngành. Hiện tựơng này được gọi là
sự điều tiết sản xuất. Sự điều tiết này được hình thành một các tự phát thông qua sự biến
động giá cả trên thị trường. Có thể hiểu vai trò điều tiết này thông qua những trường
hợp biến động quan hệ cung cầu xảy ra trênthị trường. Khi cung nhỏ hơn cầu, sẩn phẩm
không đủ để thoả mãn nhu cầu của xã hội , giá cao hơn giá trị, hàng hoá bán chạy vay
lãi cao, người sản xuất mở rộng qui mô sản xuất. Những người trước đây sản xuất hàng
hoá khác nay chuyển sang sản xuất hàng hoá này. Như vậy tư liệu sản xuất và sức lao
động được chuyển vào ngành này nhiều hơn những ngàng khác khi cung lớn hơn cầu
sản phẩm làm ra quá nhiều so với nhu cầu xã hội giá cả thấp hơn giá trị, hàng hoá bán
không chạy, có thể lỗ vốn. Tình hình đó buộc người sản xuất ở ngành này thu hẹp qui
mô sản xuất hay chuyển sang ngành khác, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động giảm
đi ở ngành này và tăng ở ngành khác mà họ thấy có lợi hơn. Qui luật giá trị không chỉ
điều tiết lĩnh vực sản xuất mà còn điều tiết cả lĩnh vực lưu thông qua sự biến động của
giá cả. Hàng hoá được mang từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, từ nơi cung lớn hơn
cầu đến nơi cung nhỏ hơn cầu. Như vậy thông qua sự biến động của giá cả trên thị
trường ,qui luật giá trị có tác dụng phân phối lại hay điều tiết luồng hàng trên thị trường.
Thứ hai kích thích cải tiến kĩ thuật, hợp lý hoá sản xuất nhằm tăng năng xuất lao động.
Các hàng hoá được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau nên có giá trị cá biệt
khác nhau, nhưng trên thị trừng thì các hàng hoá đều được trao đổi theo giá trị xã hội.
Người sản xuất có giá trị cá biệt nhỏ hơn giá trị xã hội ở thế có lợi sẽ thu được lợi nhuận
siêu ngạch; người sản xuất có giá trị cá biệt lớn hơn giá trị xã hội thì bất lợi. Muốn đứng
vững trong cạnh tranh và khỏi bị phá sản họ phải tìm cách làm cho giá trị cá biệt hàng
hoá của mình nhỏ hơn hoặc bằng giá trị xã hội do đó họ tìm cách cải tiến quản lý, cải
tiến kĩ thuật, tăng năng xuất lao động. Lúc đầu việc cải tiến đó còn lẻ tẻ nhưng do canh
tranh với nhau nên cuối cùng việc cải tiến mang tính xã hội. Rõ ràng qui luật giá trị
thông qua tác động này đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Thứ ba thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá giàu nghèo giữa những người sản
xuất hàng hoá. Trong quá trình cạnh tranh chạy theo lợi ích các nhân những người sản
xuất hàng hoá có điều kiện sản xuát khác nhau, tính năng động khau,b khả năng nắm bắt
nhu cầu thị trường khác nhau, khả năng đổi mới kĩ thuật công nghệ, hợp lý hoá sản xuát
khác nhau, do đó giá trị cá biệt của hàng hoá khác nhau, phù hợp với nhu cầu xã hội và
thị trường khác nhau. Ttrong điều kiện đó không tránh khỏi tình trạng một số người
giàu lên mau sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh, và một số người
khác bị thua lỗ thu hẹp sản xuất, thậm trí bị phá sản trở thành người nghèo. Đầu cơ lừa
đảo khủng hoảng kinh tế làm tăng thêm tác động phân hoá này.
Quy luật cạnh tranh
Cạnh tranh là động lực ,là một trong những nguyên tác cơ bản, tồn tại khách quan và
không thể thiếu được của sản xuất hàng hoá. Cạnh tranh là sự ganh đua,sự đấu tranh về
kinh tế giữa cácchủ thể tham gia sản xuất-kinh doanhvới nhau nhằm giành những điều
kiện thuận lợi trong sản xuất kinh doanh, tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ thu được nhiều
lợi ích cho mình. Mục tiêu của cạnh tranh là giành lợi ích, lợi ích lớn nhất, đảm bảo sự
tồn tại và phát triển của chủ thể tham gia cạnh tranh. Cạnh tranh bao gồm cạnh tranh
chiếm nguồn nguyên liệu cạnh tranh chiếm nguồnlực sản xuất cạnh tranh về khoa học-
kỹ thuật;cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ, giành nơi đầu tư, các hợp đồng các
đơn đặt hàng, cạnh tranh bằng giá cả và phí giá cả, bằng chất lượng hàng hoá và những
dịch vụ lắp đặt bảo hành sửa chữa bằng phương thức thanh toán băng thủ đoạn kinh tế
và phi kinh tế cạnh tranh có nhiều loại: cạnh tranh giữa người mua và người bán cạnh
tranh giữa người bán với nhau hoặc giữa những người mua với nhau, cạnh tranh nội bộ
ngành và giữa các ngành với nhau, giữa các quốc gia và quốc tế.
Trong nền sản xuất hàng hoá, cạnh tranh có vai trò to lớn. Nó buộc người sản xuất-
kinh doanh thường xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng nhũng phương pháp công nghệ mới,
nhạy bén, năng động tổ chức quản lý có hiệu quả thực tế cho thấy, ở đâu và lúc nào
thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện độc quyền thì thường trì trệ bảo thủ kém hiệu quả vì
mất đi cơ chế có tác dụng đào thải đi cái lạc hậu, bình tuyển cái tiến bộđể thúc đẩy sản
xuất hàng hoá phát triển. Bên cạnh vai trò to lớn đó, cạnh tranh cũng để lại tác hại:cạnh
tranh làm xuất hiện và phát triển các hình thức đầu cơ, làm hàng giả, trốn lậu thuế, ăn
cắp bản quyền, mua chuộc hối lộ, vừa vi phạm pháp luật, vừa làm đồi bại các quan hệ
xã hội. Cạnh tranh chạy theo lợi nhuận và lợi ích riêng làm các nguồn tài nguyên bị khai
thác cạn kiệt, môi trường sinh thái bị ô nhiễm, nền kinh tế luôn ở trạnh thái bất ổn định
vì khủng hoảng thất nghiệp, lạm phát làm tăng phân hoá giàu nghèo
Quy luật cung cầu
Hoạt động của quy luật giá trị không chỉ được biểu hiện qua sự vận động của giá cả trên
thị trường do tác động của cạnh tranh, mà còn biểu hiện thông qua quan hệ cung cầu.
Cầu là khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà người tiêu dùng mua trong một thời kỳ tương
ứng với giá cả, thu nhập và các biến số kinh tế xác định. Người tiêu dùng ở đây bao
gồm dân cư các doanh nghiệp nhà nước và cả doanh nghiệp nước ngoài. Tiêu dùng báo
gồm cả tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân. lượng cầu phụ thuộc vào nhiều nhân
tốchủ yếu như: thu nhập sức mua của tiền tệ, giá cả , lãi xuất trong các nhân tố đó giá
cả hàng hoá là nhân tố tác động trực tiếp và tỷ lệ nghịch với lượng cầu. Giá cả hàng hoá
cao thì cầu về hàng hoá đó thấp, ngược lại giá cả hàng hoá thấp lượng cầu hàng hoá đó
sẽ cao.
Cung là khối lượng hàng hoá , dịch vụ mà các chủ thể kinh tế đem bán ra trên thị trường
trong một thời kỳ nhất định, tương ứng với mức giá cả, khả năng sản xuất, chi phí sản
xuất xác định. Lượng cung phụ thuộc vào khả năng sản xuất vào sản lượng, chất lượng
các nguồn lực, các yếu tố sản xuất được sử dụng, năng suất lao động và các chi phí sản
xuất.
f/ Những ưu thế và khuyết tật của cơ chế thị trường
Cơ chế thị trường có những ưu thế sau đây:
Trước hết cơ chế thị trường kích thích việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng năng
suất lao động, nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất. Kinh tế thị trường lấy lợi nhuận
siêu ngạch làm mục tiêu hoạt động. động lực này đòi hỏi các doanh nghiệp thường
xuyên hạ thấp chi phí lao động cá biệt xuống thấp hơn chi phí lao động xã hội cần
thiết.đièu này đòi hỏi phải nâng cao năng suất lao động trên cơ sơ áp dụng những thành
tựu mới của khoa học công nghệ.
Hai là,cơ chế thị trường có tính năng động và khả năng thích nghi nhanh chóng.
Sở dĩ như vậy là vì: trong kinh tế thị trường tồn tạimột nguyên tắc là ai đưa ra thị trường
một loại hàng hoá mới và sớm nhất sẽ thu được lợi nhuận nhiều nhất. điều đótất yếu đòi
hỏi phải năng động thường xuyên và thường xuyên đổi mới.
Ba là trong điều kiện kinh tế thị trường hàng hoá rất phong phú và đa dangj.do vậy nó
tạo điều kiện thuận lọi cho việc thoả mãn ngày càng tốt hơnnhững nhu cầu vật chất, văn
hoá và sự phát triển của mọi thành viên trong xã hội.
Cơ chế thị trường có những khuyết tật mà bản thân nó không thể tự giải quyết được.
Trước hết phải nói tới những căn bệnh gắn liền với sự vận động của cơ chế thị trườngđó
là: khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp ,lạm phát, phân hoá giàu nghèo và gây ô nhiễm môi
trường Do mức cung hành hoá vượt quá mức cầu có khả năng thanh toán, cho nên
dẫn tới tình trạng dư thừa hàng hoá. Nguyên nhân của tình trạng trên là do mâu thuãn cơ
bản của phương thức sản xuất TBCN. Mâu thẫn này được thể hiện ở tính kế hoạch cao
độ trong từng doanh nghiệp với tính vô chính phủ trên toàn bộ nền sản xuất xã hội. Xu
hướng mở rộng sản xuất vô hạn mâu thuẫn với sức mua có hạn của quần chúng. Mâu
thuẫn đối kháng giai cấp giữa tư sản và vô sản. ngắn liền với khủng hoảng kinh tế là nạn
thất nghiệp của người lao động-căn bệnh nan giải của kinh tế thị trường. Kinh tế thị
trường tạo ra sự phân hoá giai cấp do đó cũng làm tăng thêm mâu thuẫn giai cấp. Tác
động của các quy luật kinh tế thị trường đã dẫn đến tình trạng một số người phát tài giàu
có, còn một số người khác bị phá sản trở thành những người làm thuê. Sự đối kháng về
lợi ích kinh tế là cơ sở của đấu tranh giai cấp. Một khuyết tật khác của cơ chế thị trường
là gây ô nhiễm môi trường sinh thái, tàn phá đất đai, rừng do chạy theo lợi nhận.Vì
vậy xã hội cần có sự kiểm tra , điều tiết, định hướng một cách có ý thức đối với sự vận
động của cơ chế thị trường. đó là những lý do cần thiết phải thiết lập vai trò quản lý nhà
nước ở tất cả các nước có nền kinh tế thị trường.
2/ sự phát triển của lê nin: kinh tế thị trường trong CNXH
A/Hoàn cảnh ra đời của NEP
không bao lâu sau cách mạng tháng mười việc thực hiện kế họach xây dựng CNXH của
lê nin bị dán đoạn bởi cuộc nội chiến 1918-1920. Trong thời kỳ này lê nin đã thực hiện
chính sách cộng sản thời chiến. Nội dung cơ bản của chính sách cộng sản thời chiến là
trưng thu lương thực thừa của nông dân sau khi dành cho họ mức ăn tối thiểu. đồng thời
xoá bỏquan hệ tiền tệ xoá bỏ việc mua bán lương thực tự do trên thị trường, thực hiện
chế độ cung cấp hiện vật cho quân đội và bộ máy nhà nước. Chính sách cộng sản thời
chiến đã đóng vai trò quan trọng trong thắng lợi của nhà nước xô viết. Nhờ đó mà quân
đội đủ sức để chiến thắng kẻ thù, bảo vệ được nhà nước xô viết. Tuy nhiên khi hoà bình
lặp lại, chính sách cộng sản thời chiến không còn thích hợp. Nó trở thành nhân tố kìm
hãm sự phát triển của sản xuất. Việc xoá bỏ quan hệ hàng hoá tiền tệ làm mất tính năng
động của nền kinh tế vốn dĩ mới bắt đầu vào giai đoạn phát triển. Vì vậy khủng hoảng
kinh tế chính trị diễn ra rất sâu sắc. điều dó dòi hỏi phải có chính sách kinh tế thích ứng
thay thế. Chính sách kinh tế mới của lê nin được đề xướng để đáp ứng yêu cầu này,
nhằn tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ mới.
B/ Nội dung của NEP
Nội dung của NEP là một hệ thống gồm nhiều mắt khâuliên hoàn có mối liên hệ bên
trong như một dây truyền không thể thiếu khâu nào. tất cả các khâu tạo thành cơ chế
kinh tế cho phép nhà nước tháo gỡ khó khăn, điều hành sự vận động của kinh tế xã hội
-khâu thứ nhất: thuế lương thực
có thể coi đâylà khâu đầu, là bước quá độ từ trạng thái hỗn loạn sang cơ chế kinh tế
mới. điều này được xuất phát từ điều kiện nước nga lúc bấy giờ; giai cấp nông dân và
nông nghiệp là nguồn nuôi sống xã hội. Khó khăn rất lớn mà nhà nước nga vấp phải là
thiếu lương thực. Nạn đói 1921 càng làm tăng khó khăn đó. Vì vậy mục đích của thuế
lương thực là một trong những biện pháp cấp tốc cương quyết nhất để cải thiện đời sống
nông dânvà nâng cao lực lượng sản xuất. Thực hiện thuế lương thực, xoá bỏ chế độ
trưng thu lương thực thừa có ý nghĩa là cchuyển từ biện pháp hành chính thuần tuý sang
biện pháp kinh tế, thuế lưong thực vai trò trong bước quá độ đó. Tác dụng kích thích
của thuế lương thực đối với nông dân sản xuất và có điều kiện cải tiếnđời sôngs của
mình là ở mức thuế thấp. Mức thuế lương thực đã giảm xuống thấp hơn mức trưng thu
gần 1/2thủ tục thu thuế được giản đơn hoá. Do mức thuế thấp nên năn 1921 chỉ thu
được 240 triệu pút lúa mì so với 423 triệu pút trước đây. nhưng để bù lại do nông dân
hăng hái sản xuất, mở rộng diện tích nên tổng sản lượng lương thực của xã hội và các
nông sản khác được tăng lên. nhà nước qua con đường trao đổi có được khối lượng thực
nhiều hơn. ngoài ra do mức thuế ổn định người nông dân nào cũng biết trước só thuế hải
nộp nên cố gắng sản xuất vượt quá mức độ. Nhà nước thu thuế dễ dàng thuận lợi, là yếu
tố mạnh mẽ để khôi phục nền nông nghiệp sau chiến tranh.
-khâu thứ hai :khôi phục và phát triển sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp thông qua
trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp và công nghiệp.
Muốn cải thiện đời sống nông dân và công nhân thì không thể dựa vào nền nông nghiệp
gia trưởng mang tính tự cung tự cấp mà chỉ có thể dựa vào nền nông nghiệp hàng hoá.
Trong thời kỳ áp dụng chính sách cộng sản thời chiến xu hướng hiện vật hoá được duy
trì và tăng lên, xu hướng hàng hoá bị kìm hãm. ý nghĩa và tác dụng cần có của thuế
lương thực không thể phát huy được trong nền nông nghiệp tự cung tự cấp. Vì số nông
sản tăng lên một mức độ nào đó nếu không trao đổi thì nó mất tác dụng kích thích. Do
đó thuế lương thực là một bước quá độ từ chế độ cộng sản thời chiến đến chế độ trao
đổi xã hôị chủ nghĩa bình thường về sản phẩm. Khác với chế độ giao nộp, trưng thu dựa
trên mệnh lệnh trong thời kỳ thực hiện chính sách cộng sản thời chiến, cơ chế ; cơ chế
kinh tế hàng hoá cho phép đạt được những mục tiêu sau : đáp ứng nhu cầu nhièu mặt
của sản xuất , tiêu dùng nông dân và xã hội. Thông qua trao đổi hàng hoá thúc đẩy quá
trình phân công lao động trong nông nghiệp. Khuyến khích sản xuất nông nghiệp vừa đi
vào sản xuất chuyên canh , vừa phát triển kinh doanh tổng hợp, nhờ đó các lực lựợng
sản xuất trong nông nghiệp dược khôi phục và phát triển. đó là con đường để nhà nước
để nhà nước giải quyết vấn đề lương thự một cách vững chắc. sản xuất lương thực ngày
mang tính chất hàng hoá thì nông dân có lợi hơn nên vừa mở rộng diện tichs canh tác
vùa thâm canh vì đầu tư thêm vốn và lao động. Kết quả là tổng số lương thực cửa xã hội
tăng lên, khối lượng lương thực vào tay nhà nước qua con đường trao đổi và thu thuế
cũng ngày tăng. Khôi phục và phát triển kinh tế hàng hoá trongnông nghiệp làm sống
động lại các ngành kinh tế và toàn bộ sinh hoạt của xã hội ở thành thị, nông thôn .
Như vậy quan điểm của lê nin “bắt nguồn từ nông dân “ được cụ thể hoá trong hai chính
sách liên hệ, gắn bó không thể tách rời nhaulà thuế lương thực và trao đổi hàng hoá. Vì
vậy nhiệm vụ của người làm công tác lương thực trrở thành phức tạp hơn. một mặt đó là
nhiệm vụ của thuế vụ. thu thuế nhanh chừng nào hợp lý từng nào hay chừng ấy. Mặt
khác đó là nhiệm vụ kinh tế chung. Cần cố gắng hướng dẫn hợp tác xã, giúp đỡ tiểu
công nghiệp, phát huy tinh thần chủ đạo và tính sáng tạo ở cơ sở để tăng cường và củng
cố sự trao đổi giữa nông nghiệp và công nghiệp. Xuất phát từ ý nghĩa kinh tế trao đổi
hàng hoá, lê nin đã nêu rõ sự so sánh sau đây: từ trước tới nay người làm công tác lương
thực chỉ biết có một chỉ thị chủ yếu thu đủ 100% mức lương thực trưng thu. Ngày nay
chỉ thị đã khác: thu đủ 100% thuế lương thực trong thời gian ngắn nhất, rồi thu đủ 100%
nữa bằng cách đổi sản phẩm của đại và tiểu công nghiệp. Hiệu quả của công tác được
đánh giá theo quan điểm mới như sau “người nào thu được 75% thuế lương thực và
75% (của trăm thứ hai) bằng cách đổi sản phẩm của đại và tiểu công nghiệp đã làm một
công tác có ích cho nhà nước hơn người thu 100% thuế và 55% ( của trăm thứ hai) bằng
cách trao đổi. Như vậy chính sách thuế lương thực của lê nin còn bao hàm tư tưởng
chuyển sang kinh doanh lương thực được coi như một đòn bẩy quan trọng cho sự phát
triển sản xuất lương thực và sản xuất nông nghiệp nói chung. Theo nghĩa đó nhà nước
đã đem lại sự giúp đỡ to lớn về tài chính và kỹ thuật cho nông dân
-khâu thứ ba: khôi phục và tổ chúc sản xuất lại nền công nghiệp phù hợp với nhu cầu
của nông nghiệp và nông dân
Một trong những điều kiện trao đổi hàng hoá là cần quỹ hàng hoá công nghiệp có cơ
cấu phù hợp với nhu cầu nông thôn. theo tư tưởng của lê nin khôi phục sẩn xuất công
nghiệp có hai yêu cầu quan trọng: một là có đủ hàng hoá trao đổi hàng hoá với nông dân
để kích thích nông nghiệp. Hai là tập hợp hai giai cấp nông dân đang phân tán vì đói và
thiếu việc làm, củng cố kỷ luật lao động, duy trì sản xuất lao động cần thiết để phát huy
công nghiệp và giai cấp công nhân. để thực hiện hai yêu cầu đó cần tìm tòi những khả
năng thực tế. Một là phải sắp xếp lại, lựa chọn những ngành công nghiệp phục vụ trực
tiếp nông nghiệp, đặc biệt chú trrọng phát triển tiểu thủ công nghiệp là thứ công nghiệp
không đòi hỏi phải đầu tư lớn để tìm nguyên liệu. Hai là nhà nước phải dành một số vốn
đầu tư nhất định. Nhìn một cách tổng quát quá trình khôi phục sản xuất công nghiệp có
những đặc điểm và tính qui luật sau :
Một là khôi phục công nghiệp trên cơ sở kỹ thuật cũ
Hai là phạm vi khôi phục sản xuất công nghiệp cân đối với nguồn tài chính, nhiên liệu
và nguyên liệu
Ba là bước đi của quá trình khôi phục công nghiệp. Xuất phát từ nhu cầu nông nghiệp
và nông thôn có tính đến khả năng tích luỹ ngay trong quá trình khôi phục. Trước hết
khôi phục công nghiệp nhẹ và nông nghiệp thực phẩm, là những ngành gắn bó với nông
nghiệp về nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm. Tiếp đó là khôi phục công nghiệp thân, các
ngành công nghiệp nặng được khôi phục chậm hơn
Bốn là sử dụng cơ cấu nhiều thành phần trong khôi phục công nghiệp. Hình thức cơ bản
của việc sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phầnlà những hình thức chủ nghĩa tư bản
nhà nước, hình thức tô nhượng trong công nghiệp, hình thức hợp tác xã của những
người sản xuất nhỏ, hình thức tư nhân tư nhân làm đại lý cho nhà nước trong thương
nghiệp, hình thức nhà nước cho tư nhân thuê xí nghiệp thực chất của những hình
thức đó là “ những mắt xích trung gian có thể tạo điều kiện thuận lợi cho bước chuyển
từ chế độ gia trưởng, từ tiểu sản xuất lên xã hội chủ nghĩa”
Năm là chuyển từ cơ chế tập trung bằng mệnh lệnh sang cơ chế hạch toán kinh tế theo
nguyên tắc tâpj trung dân chủ
-khâu thứ tư: quá trình lưu thông theo quan điểm NEP bao gồm
+điều tiết việc mua bán và lưu thông tiền giấy
+tổ chức thương nghiệp nhà nước bán buôn và bán lẻ
+ổn định các quan hệ hàng hoá tiền tệ giữa các cơ quan kinh tế nhà nước
+sử dụng hợp tác xã để củng cố quan hệ thương mại giữa thành thị và nông thôn
+phát triển các quan hệ tín dụng
người vạch rõ nhiệm vụ bộ máy quản lý kinh tế “ chúng ta phải học tập cách điều tiết
quan hệ buôn bán trên phạm vi cả nước, đó là một nhiệm vụ khó khăn, nhưng không
phải là không thực hiện được”
-khâu thứ năm: ổn định tiền tệ, củng cố nền tài chính xô viết
khôiphục kinhtế theo quan điẻm của NEP đã tạo điều kiện kinh tế thuận lợi cho việc giải
quyết các vấn đề tài chính tiền tệ. Các xí nghiệp đi vào hạch toán kinh tế không đòi hỏi
kinh phí từ ngân sáchnhà nước, đồng thời nộp lại một phần lợi nhuận vào ngân sách.
Hoạt động ngoại thương phục hồi, bắt đầu bổ sung vàng cho nhà nước xô viết. đó là một
mặt của tình hình, nhưng mặt khác các hoạt động sản xuất và lưu thông càng mở rộng,
kinh tế hàng hoá phục hồi và phát triển thì càng đòi hỏi phải giải quyết vấn đề tài chính
tiền tệ một cách cấp bách. Ngay sau khi cách mạng thành công LÊ NIN đã chỉ ra nhiều
biện pháp để chấn chỉnh công tác tài chính như biện pháp kiểm kê, kiểm soát việc chi
tiêu, hạn chế các chi phí sản xuất,chi phí cho bộ máy nhà nước. Nhà nước chủ trương tổ
chức tài chính quốc gia, điều tiết giá cả nhằm thiết lập quan hệ kinh tế giữa thành thị và
nông thôn. tất cả những phương hướng ấy là tiền đề cải cách tài chính tiền tệ. Nhưng
nhiều biện pháp của LÊ NIN không được thực hiện vì nội chiến xảy ra. Tuy vậy quan
điểm tài chính dựa trên kinh tế hàng hoá của lê niin đã nhất quán. ngay trong thời kỳ
thực hiện chính sách cộng sản thời chiến, khi có nhiều ý kiến cho rằng không cần dùng
đến tiền tệ, hình thức hàng-tiền nữa , thì lê nin cũng chỉ ra rằng trong thời đại chuyên
chính vô sản và chế độ công hữu vè tư liệu sản xuất, tài chính nhà nước phải trực tiếp
dựa trên cơ sở lưu thông của một bộ phận thu nhập nhất định cuả độc quyền nhà nước.
Việc cân đối thu chi có thể thực hiện được trên cơ sở tổ chức việc trao đổi hàng hoá
đúng đắn.
trong hệ thống các biện pháp để giải quyết cuộc khủng hoảng, từ thuế lương thực đến
trao đổi hàng hoá giữa nông nghiệp với công nghiệp, thì việc ổn định đồng tiền thì trở
thành khâu cuối cùng, có tác dụng củng cố kết quả toàn bộ hệ thống, chuyển hẳn nền
kinh tế quóc dân sang quĩ đạo mới và bước vào một giai đoạn phát triển ổn định vững
chắc.
C/ ý nghĩa của nep
chính sách kinh tế mới của lê nin có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, trước hết nó khôi phục
được nền kinh tế xô viết sau chiến tranh. Chỉ có một thời gian ngắn đã tạo ra bước phát
triển quan trọng biến “nước nga đói” thành một đất nước có nguồn lựcdồi dào. từ đó nó
khắc phục khủng hoảng chính trị, củng cố lòng tin cho nhân dân vào sự thắng lợi tất yếu
và bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội theo những nguyên lý mà lê nin đã vạch ra.
Chính sách kinh tế mới của lê nin còn đánh dấu một bước phát triển mới về lý thuyết
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Theo tư tưởng này nền kinh tế nhiều thành phần, các hình
thức kinh tế quá độ, việc duy trì và phát triển kinh tế hàng hoá tiền tệ, quan tâm tới lợi
ích kinh tế cá nhân trước hết là nông dân là những vấn đề có tính nguyên tắc trong việc
xây dựng mô hình nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Từ đó chính sách kinh tế mới có ý
nghĩa quốc tế to lớn đối với các nước phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó
có nước ta. Những quan điểm kinh tế của đảng ta nhất là từ đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ v đến nay đã thể hiện nhận thức vận dụng quan điểm của lê nin trong chính sách
kinh tế mới. Tất nhiên do thời gian và không gian xa cách nhau, trải qua những biến
động khác nhau, nên nhận thức và vận dụng có thể có sự khác nhau về bước đi, nội
dung và biện pháp cụ thể trong kgi tiến hành ở nước ta
B/ sự vận dụng lý luận vào việt nam (1986 tới nay)
1/ đặc điểm kinh tế xã hội ở việt nam trước đổi mới (1975-1986)
đây là thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong tình hình đất nước chịu đựng
những đảo lộn kinh tế và xã hội với những quy mô lớn sau cuộc chiến tranh ác liệt lâu
dài, với những diễn biến trong tình hình thế giới có mặt không thuận lợi. đây là thời kỳ
mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp bộc lộ một cách tàon diện mặt tiêu cực của
nó mà hậu quả là tập trung là cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội sâu sắc vào những năm
70 đầu những năm 80. đại hội đảng toàn quốc lần thứ v của đảng sản việt nam dã đánh
giá tình hình đất nước từ năm 1976 đến 1980 là thời kỳ nền kinh tế ở tình trạng trì truệ.
Trên mặt trận kinh tế đất nước ta đứng trước nhiều vấn đề kinh tế gay gắt. kết quả thực
hiện kinh tế 5 năm(1976-1980) chưa thu hẹp được những mất cân đối nghiêm trọng của
nền kinh tế quốc dân. sản xuất phát triển chậm trong khi dân số phát triển nhanh. Thu
nhập quốc dân chưa đảm bảo được tiêu dùng xã hội, một phần tiêu dùng xã hội phải vay
và dựa vào viện trợ, nền kinh tế chưa được tích luỹ. Lưong thực và các hàng tiêu dùng
thiết đều thiếu. Tình hình cung ứng vật tư, tình hình giao thông vận tải rất căng thẳng.
Nhiều xí nghiệp sử dụng công suất ở mức thấp. Chênh lệch lớn giữa thu và chi, giữa
hàng và tiền, giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Thị trường và vật giá không ổn định. Số
người người lao động chưaq dược sử dụng vẫn còn đông. đời sống nhân dân lao động
vẫn còn nhiều khó khăn. tình hình ấy có nguyên nhân khách quan như nền kinh tế đang
chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh lâu dài, phải đối phó với hai cuộc chiến tranh biên
giới để bảo vệ tổ quốc, viện trợ từ bên ngoài giảm so với thời kỳ chiến tranh. Nhưng
nguyên nhân chủ yếu làm trầm trọng thêm tình hình khó khăn về kinh tế, xã hội vẫn là
mô hình kinh tế không phù hợp với qui luật kinh tế khách quan. Mô hình kinh tế đó đã
phát triển ở mức cao và đã áp dụng trong phạm vi cả nước cho nên hậu quả càng nặng
nề trên qui mô lớn. Chính khó khăn của đất nước buộc đảng ta phải phải suy nghĩ, phân
tích tình hình và nguyên nhân, tìm tòi các giải pháp, từ đó thực hiện đổi mới các cơ sở,
địa phương, đề ra những chính sách cụ thể, có tính chất đổi mới từng phần như: khăng
định sự cần thiết nền kinh tế nhiều thành phần ở miền nam trong một thời gian nhất
định; cải cách một phần mô hình hợp tác xã qua chỉ thị khoán sản phẩm đến nhóm và
ngưòi lao động trong hợp tác xã; cải tiến công tác kế hoạch hoá và toán kinh tế ở các xí
nghiệp quốc doanh nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất- kinh doanh và quyền tự
chủ tài chính của xí nghiệp; hai lần cải cách giá và lương, coi đó là khâu đột phá có tính
chất quyết định để chuyển hẳn sang nền kinh tế hạch toán kinh doanh xãhội chủ nghĩa.
Mặc dù không thành công trong phạm vi cả nước, song quá trình cải cách đã đề cập đến
việc dứt khoát bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện hoạch toán kinh doanh
xãhội chủ nghĩa, đã đề cập đến vấn đề kế hoạch và thị trường, vận dụng các qui luật sản
xuất hàng hoá tóm lại đã có quan niệm chủ trương ban đầu đổi mới cơ chế kinh tế cũ
theo tư tưởng làm cho sản xuất bung ra, nghĩa là đổi mới quan hệ sản xuất để giải phóng
lực lượng sản xuất, phát triển sản xuất. Từ những thay đổi bộ phận mô hình kinh tế cũ
như trên đất nước đã thu dược những thành tựu đáng khích lệ. Nhờ chỉ thị 100 mà nông
dân xã viên nhiệt tình thực hiện khoán mới, mô hình hợp tác xã có sự thay đổi. Khi có
quyết định 25/cp thì kế hoạch hoá tập trung có sự suy yếu một phần. Khi chủ trương kế
hoạch hoá theo phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa, quyết định về hai giá, thu hẹp
diện tích các mặt hàng được cung cấp thì cơ chế bao cấp cũng bắt đầu chuyển đổi. điều
đáng ghi nhất ở thời kỳ này là tư duy mới từng bước được hình thành và phát triển, biểu
hiện chủ yếu ở nghị quyết hội nghị lần thứ sáu của ban chấp hành trungương khoá IV,
nghị quết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, nghị quyết hội nghị lần thứ tám ban chấp
hành trung ương khoá V và cuối cùng là nghị quết bộ chính trị khoá V về các vấn đề
kinh tế. đến đây quan niệm cốt lõi của mô hình kinh tế mới về cơ bản đã hình thành . sự
phát triển tiệm tiến này đã dẫn đến bước nhảy vọt trong đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI về mô hình nền kinh tế mới. đại hội quyết định đường lối đỏi mới và đường lối
đổi mới đó đi vào cuộc sống nhanh chóng vì đó là một đường lối đúng, được chuẩn bị từ
trước không chỉ về mặt nhận thức, lý luận mà cả về mặt tổ chức thực tiễn.
2/ sự phát triển kinh tế thị trường ở việt nam (1986 tới nay)
a/Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế hàng hoá ở việt nam
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam, sự tồn tại của sản xuất hàng hoá
là một tất yếu khách quan. Bởi vì trong nền kinh tế nước ta lực lượng sản xuất xãhội còn
rất thấp, đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế rất khách nhau, sự phân công lao động
xãhội gắn với sự tồn tại nhiều chủ thể sở hữu khác nhau như các chủ thể kinh tế độc lập.
Trong những điều kiện đó việc trao đổi sản phẩm giữa các chủ thể sản xuất với nhau
không thể thưc hiện nguyên tắc nào hơn là nguyên tắc trao đổi ngang giá, tức là thực
hiện trao đổi hàng hoá thông qua thị trường, sản phẩm phải trở thành hàng hoá.ơ nước
ta trong thời kỳ quá độ muốn phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất thì phải xãhội hoá
và chuyên môn hoá lao động. Quá trình ấy chỉ có thể diễn ra một cách thuận lợi trong
một nền kinh tế hàng hoá. Sản xuất càng xãhội hoá, chuyên môn hoá thì càng đồi hỏi
phát triển sự hợp tác và trao đổi hoạt động trong xã hội, càng phải thông qua sự trao đổi
hàng hoá giữa các đơn vị sản xuất để đảm bảo những nhu cầu cần thiết của những loại
hoạt động sản xuất khác nhau. Chỉ có đẩy mạnh sản xuất hàng hoá mới làm cho nền
kinh tế nước ta phát triển năng động. Kinh tế tự nhiên do bản chất của nó chỉ duy trì tái
sản xuất giản đơn. trong cơ chế kinh tế cũ, vì coi thường quy luật giá trị nên các cơ sở
kinh tế cũng thiếu sức sống và động lực để phátetriển sản xuất. Sử dụng sản xuất hàng
hoá là sử dụng qui luật giá trị , qui luật này buộc mỗi người sản xuất chịu trách nhiệm
về hàng hoá do mình sản xuất ra. Chính vì thế mà nền sản xuất trở nên sống động. Mỗi
người sản xuất chịu sức ép buộc phải quan tâm tới sự tiêu thụ trên thị trường, sao cho
sản phẩm của mình được xã hội thừa nhận và từ đó họ mới được thu nhập. Phát triển
sản xuất hàng hoá là sự phát triển của sản xuất xã hội, cũng có nghĩa là sản phẩm xã hội
ngày càng phong phú, đáp ứng nhu cầu đa dạng của mọi người. ậ nông thôn nước ta sự
phát triển kinh tế hàng hoá và việc tăng tỷ lệ hàng hoá nông sản, đã làm cho hàng hoá
bán ra của nông dân nhiều lên, thu nhập tăng lên, đòng thời các ngành nghề ở nông thôn
cũng ngày một phát triển, tạo cho nông dân nhiều việc làm. đó cũng là điều diễn ra ở
thành phố, đói với những người lao đọng ở thành thị. Phát triển sản xuất hàng hoá có
thể đào tạo ngày nhiều cán bộ quản lý và lao động. Muốn thu hút được lợi nhuận, họ
cần phải vận dụng nhiều biện pháp để quản lý kinh tế, thúc đẩy khoa học kỹ thuật, hạ
giá thành sản phẩm, làm cho sản xuất phù hợp với nhu cầu thị trường, nâng cao hơn nữa
hiệu quả kinh tế. Qua cuộc cạnh tranh trên thị trường, những nhân tài quản lý kinh tế và
lao động thành thạo xuất hiện ngày càng nhiều và đó là một dấu hiệu tiến bộ kinh tế.
Như vậy phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta là một tất yếu kinh tế, một nhiệm vụ kinh
tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự
phân công lao động quốc tế. đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất,
khai thác có hiệu quả tiềm năng đất nước, thục hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá . kinh