Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào giảng dạy phần công dân với đạo đức GDCD lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.42 KB, 18 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT ĐẶNG THAI MAI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÍCH HỢP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG VÀO GIẢNG DẠY
PHẦN: CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC – GDCD LỚP 10

Người thực hiện: Phạm Thị Hồng Duyên
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Giáo dục công dân

THANH MỤC
HOÁ, LỤC
NĂM 2020
1


Mục lục
Tran
g
1. Mở đầu…..…………….…………………...……………………………………3
1.1. Lí do chọn đề tài…...……………………..……...……………………………3
1.2. Mục đích nghiên cứu………….………...……..…...…………………………3
1.3. Đối tượng nghiên cứu….………………...……..……………………………..4
1.4.Phương pháp nghiên cứu………………...…………….………………………4
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết…...………………………………..……4
1.4.3. Phương pháp chuyên gia……………...…………….………………………4
1.4.2. Phương pháp thực tập sư phạm……...…………...…………………………5
1.4.4. Phương pháp thống kê toán học……...……………..………………………5


2.Nội dung sáng kiến kinh nghiệm………...………………………………………5
2.1.Cơ sở lí luận…………………………..……………………….………………5
2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm………...….……7
2.3.Các giải pháp thực hiện để tích hợp giáo dục kĩ năng sống…………...………8
2.3.1. Bài 10 - Quan niệm về đạo đức…………………………...………...………8
2.3.2. Bài 11- Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học…………………...……...9
2.3.3. Bài 12 - Công dân với tình yêu hôn nhân và gia đình…………..…...……...9
2.3.4. Bài 13 - Công dân với cộng đồng…………………………………...…..…10
2.3.5. Bài 14 - Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc…..………11
2.3.6. Bài 15 - Công dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân loại……...……...11
2.3.7. Bài 16 - Tự hoàn thiện bản thân…………………………………...………12
2.4. Hiệu quả của sáng kiến…………………….. …………………..…...………13
3.Kết luận và kiến nghị…………………………………………………...………15
3.1. Kêt luận ……………………………………………………………..………15
3.2. Kiến nghị……………………………………………………………...…..…16
Tài liệu tham khảo

2


1. Mở đầu
1.1.Lí do chọn đề tài:
Mục tiêu đào tạo của nhà trường phổ thông là hình thành và phát triển toàn
diện nhân cách tốt đẹp cho thế hệ trẻ, đó sẽ là những công dân tương lai những
người lao động mới phát triển hài hoà trên tất cả các mặt đức dục, trí dục, mỹ dục,
lao động, những người sẽ xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, sẽ nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng tươi đẹp và hạnh phúc.
Để hình thành và phát triển những con người như vậy, nhà trường trung học
phổ thông phải có chương trình, nội dung giáo dục, giáo dưỡng phù hợp với đất
nước con người Việt Nam, phù hợp với thời đại. Yêu cầu khách quan đó được quán

triệt trong tất cả các chương trình và nội dung học tập của toàn bộ các môn trong
nhà trường nói chung, trong đó có môn giáo dục công dân (GDCD). Cùng với các
môn khoa học khác, môn GDCD góp phần đào tạo thế hệ trẻ thành những người lao
động mới, vừa có tri thức khoa học vừa có đạo đức, có năng lực hoạt động thực
tiễn, vừa có phẩm chất chính trị, tư tưởng, vừa có ý thức trách nhiệm đối với gia
đình và đối với chính bản thân mình. Hơn nữa, môn GDCD không chỉ cung cấp cho
những công dân tương lai những tri thức khái quát hoá, mà còn thông qua môn học
giúp cho người học hình thành và phát triển phương pháp suy nghĩ và hành động
phù hợp với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể trong từng giai đoạn phát triển của
lịch sử xã hội loài người.
Bộ môn GDCD trong những năm vừa qua đã được sự quan tâm, chỉ đạo sát
sao, đánh giá đúng tầm quan trọng của bộ môn trong hệ thống giáo dục, nhất là
giáo dục tư cách, đạo đức, lối sống cho học sinh. Chính vì vậy, đội ngũ giáo viên đã
và đang nỗ lực không ngừng trong quá trình công tác nhằm nâng cao chất lượng bộ
môn, nâng cao tỷ lệ học sinh khá, giỏi. Tuy nhiên nếu như nhìn vào điểm số thì có
thể thấy kết quả của bộ môn GDCD tương đối cao, nhưng nếu đánh giá dựa vào
hành vi, thái độ của học sinh, kĩ năng vận dụng của học sinh trong thực tiễn cuộc
sống thì chưa được như mong muốn. Thời gian gần đây, dư luận xã hội đang lên án
mạnh mẽ tình trạng bạo lực học đường, ăn chơi, sa vào các tệ nạn xã hội của một
bộ phận học sinh. Mọi người chưa hết bàng hoàng khi chứng kiến cảnh từng đôi
nam nữ học sinh bỏ học, lêu lổng, thậm chí là đưa nhau vào nhà nghỉ, hay cảnh
những nữ học sinh đánh nhau, trong khi có rất nhiều học sinh khác chỉ đứng nhìn
và dùng máy quay rồi tung lên mạng mà không hề can ngăn, hay trình báo với
người có chức trách ... Câu chuyện về giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh
không phải là mới, nhưng đang là yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay. Bên cạnh
những học sinh biết vượt lên số phận, thì vẫn còn một bộ phận không nhỏ học sinh
ham chơi, vi phạm pháp luật, thiếu kĩ năng sống, không tự tin làm chủ bản thân.
Phải nhìn thẳng vào hạn chế của giáo dục hiện nay, mới chỉ quan tâm đến việc dạy
"chữ", chưa thật sự quan tâm đến việc dạy "người" một cách toàn diện. Các gia
đình coi điểm các bộ môn là thước đo sự tiến bộ của con cái, tạo thành sức ép, buộc

3


học sinh chỉ nghĩ đến chuyện phải học để có điểm cao. Vì sao lại còn tồn tại những
vấn đề đó? Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến các hành vi sai trái về đạo đức, lối
sống, vi phạm pháp luật của học sinh, bên cạnh trách nhiệm của gia đình, nhà
trường và xã hội, nguyên nhân sâu xa là do bản thân học sinh thiếu kĩ năng sống,
thiếu kiến thức, suy nghĩ nông cạn, thiếu hiểu biết để giải quyết đúng đắn các vấn
đề trong cuộc sống. Như vậy việc tiến hành tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào
trong các môn học, đặc biệt tích hợp vào môn GDCD là việc làm quan trọng và cần
thiết. Chính vì vậy bản thân tôi đã chọn đề tài:"Tích hợp giáo dục kĩ năng sống
vào giảng dạy phần: Công dân với đạo đức - GDCD lớp 10”, để phát huy vai trò
của môn học và góp phần khắc phục tình trạng trên.
1.2.Mục đích nghiên cứu
-Đưa ra những phương pháp để tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào giảng dạy
phần thứ hai: Công dân với đạo đức - trong chương trình GDCD lớp 10.
-Lấy một số ví dụ để chứng minh cho những phương pháp đặt ra.
-Tạo được hứng thú cho học sinh học tập môn GDCD
Thay đổi được thực trạng học tập và nâng cao sự hiểu biết của học sinh về
vai trò của đạo đức đối với cá nhân, gia đình và xã hội.
-Hình thành kĩ năng sống cho học sinh, nói phải đi đôi với làm, học phải đi
đôi với hành, giúp học sinh rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia
đình, cộng đồng và Tổ quốc, giúp học sinh có khả năng ứng phó tích cực trước các
tình huống của cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và
mọi người, sống tích cực, chủ động, an toàn, hài hòa và lành mạnh.
1.3.Đối tượng nghiên cứu
-Phần thứ hai: "Công dân với đạo đức" - trong chương trình GDCD lớp 10.
1.4.Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài được thực hiện dựa trên phương pháp nghiên cứu chính là:
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết

Nghiên cứu tài liệu về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Trung học phổ
thông.
Nghiên cứu về cấu trúc và nội dung phần : Công dân với đạo đức - Giáo dục
công dân lớp 10.
Nghiên cứu cơ sở lý luận về các phương pháp dạy học tích hợp theo hướng
phát triển năng lực học tập của học sinh.
1.4.2. Phương pháp chuyên gia
Gặp gỡ, trao đổi, tiếp thu ý kiến của các đồng nghiệp để tham khảo ý kiến
làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài.
4


1.4.3. Phương pháp thực tập sư phạm
Thực nghiệm sư phạm ở trường THPT, tiến hành theo quy trình của đề tài
nghiên cứu khoa học giáo dục để đánh giá hiệu quả của đề tài nghiên cứu.
1.4.4. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp này để thống kê, xử lý, đánh giá kết quả thu được.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1.Cơ sở lý luận.
Trên thế giới hiện nay đã và đang tồn tại nhiều định nghĩa và quan niệm khác
nhau về kĩ năng sống. Mỗi định nghĩa được thể hiện dưới những cách thức khác
nhau.Thông thường, kĩ năng sống được hiểu là những kĩ năng thực hành mà con
người cần để có được sự an toàn, cuộc sống khỏe mạnh với chất lượng cao. Theo tổ
chức Y tế Thế giới (WHO), kĩ năng sống là những kĩ năng tâm lý xã hội và giao
tiếp mà mỗi cá nhân có thể có để tương tác với những người khác một cách hiệu
quả với giải pháp tích cực hoặc ứng phó với những vấn đề hay những thách thức
của cuộc sống hàng ngày. Theo quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF), kĩ năng
sống là tập hợp rất nhiều kĩ năng tâm lý xã hội và giao tiếp cá nhân giúp cho con
người đưa ra những quyết định có cơ sở, giao tiếp một cách có hiệu quả, phát triển
các kĩ năng tự xử lý và quản lý bản thân nhằm giúp họ có một cuộc sống lành mạnh

và có hiệu quả. Từ kĩ năng sống có thể thể hiện thành những hành động cá nhân và
những hành động đó sẽ tác động đến hành động của những người khác cũng như
dẫn đến những hành động nhằm thay đổi môi trường xung quanh, giúp nó trở nên
lành mạnh.
Theo tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO), kĩ
năng sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục, đó là: Học để biết (Learning to know)
gồm các kĩ năng tư duy như: kĩ năng tư duy phê phán, kĩ năng tư duy sáng tạo, kĩ
năng ra quyết định, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng nhận thức được hậu quả ...;
Học để làm (Learning to do) gồm các kĩ năng thực hiện công việc và các nhiệm vụ
như: kĩ năng đặt mục tiêu, kĩ năng đảm nhận trách nhiệm; kĩ năng quản lí thời gian;
kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin ...; Học để tự khẳng định (Learning to be) gồm
các kĩ năng cá nhân như: kĩ năng ứng phó căng thẳng, kĩ năng kiểm soát cảm xúc,
kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng thể hiện sự tự tin ...; Học để cùng chung sống
(Learning to live together) gồm các kĩ năng xã hội như: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng
thương lượng, kĩ năng tự khẳng định, kĩ năng hợp tác, kĩ năng làm việc theo nhóm,
kĩ năng thể hiện sự cảm thông ...
Từ những quan niệm trên đây, có thể thấy kĩ năng sống bao gồm một loạt các
kĩ năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hằng ngày của con người. Bản chất của kĩ
năng sống là kĩ năng tự quản lý bản thân và kĩ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự
lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác, kĩ năng sống là
kĩ năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử với người khác và với xã
5


hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. Như vậy, các kĩ
năng sống nhằm giúp chúng ta chuyển dịch kiến thức - "cái chúng ta biết” và thái
độ, giá trị - "cái chúng ta nghĩ, cảm thấy, tin tưởng” thành hành động thực tế - “làm
gì và làm bằng cách nào?” là tích cực nhất và mang tính chất xây dựng. Kĩ năng
sống thường được thiết lập với một nền tảng riêng biệt, do đó mọi người có thể
hiểu và thực hành. Kĩ năng sống liên hệ mật thiết với những nội dung giáo dục thực

hành giúp chúng ta trả lời những câu hỏi như là: Chúng ta cần làm gì để có thái độ
quyết đoán? Quyết định của chúng ta liên quan đến những điều gì?... Khái niệm kĩ
năng sống được hiểu rất khác nhau. Ở một số nước như: Trung Quốc; Singapore;
Thái Lan ... đào tạo kĩ năng sống chính là để giáo dục cách vệ sinh, dinh dưỡng,
giáo dục phòng chống bệnh tật hoặc giáo dục hòa bình ... Ở một số nước khác như:
Mỹ; Anh; Pháp; Nhật ... kĩ năng sống đào tạo tập trung vào giáo dục hành vi, giáo
dục an toàn trên đường phố, hay giáo dục bảo vệ môi trường ... Kĩ năng sống vừa
mang tính cá nhân vừa mang tính xã hội. Tính cá nhân bởi vì đó là khả năng của
mỗi cá nhân. Tính xã hội là vì trong mỗi giai đoạn của sự phát triển xã hội, cá nhân
được yêu cầu để có sự phù hợp với những kĩ năng sống ấy. Chẳng hạn: kĩ năng
sống của mỗi cá nhân trong thời bao cấp khác với kĩ năng sống của các cá nhân
trong cơ chế thị trường, trong giai đoạn hội nhập; kĩ năng sống của người sống ở
miền núi khác với kĩ năng sống của người sống ở vùng biển; kĩ năng sống của
người sống ở nông thôn khác với kĩ năng sống của người sống ở thành phố. Trong
điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam nói riêng và bối cảnh toàn cầu nói chung,
càng ngày chúng ta càng nhận ra tầm quan trọng của việc học các kĩ năng sống để
ứng phó với sự thay đổi, biến động của môi trường kinh tế, xã hội và tự nhiên.
Chính vì vậy rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh được xác định là một nội dung cơ
bản của phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực"
trong các trường phổ thông, do Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo, triển khai và thực
hiện. Qua nghiên cứu tài liệu và hoạt động thực tiễn của bản thân. Tôi nhận thấy:
những kĩ năng sống cơ bản cần tích hợp cho học sinh thông qua môn GDCD ở bậc
THPT như sau:
- Kĩ năng tự nhận thức.
- Kĩ năng kiểm soát cảm xúc.
- Kĩ năng ứng phó với căng thẳng.
- Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ.
- Kĩ năng thể hiện sự tự tin.
- Kĩ năng giao tiếp.
- Kĩ năng lắng nghe tích cực.

- Kĩ năng thể hiện sự cảm thông.
- Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn .
6


- Kĩ năng hợp tác.
- Kĩ năng tư duy phê phán.
- Kĩ năng tư duy sáng tạo.
- Kĩ năng ra quyết định.
- Kĩ năng giải quyết vấn đề.
- Kĩ năng kiên định.
- Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm.
- Kĩ năng đặt mục tiêu.
- Kĩ năng quản lí thời gian.
- Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin ...
2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Giáo dục kĩ năng sống là một vấn đề không mới trong dạy học và cũng
không xa lạ trong thực tiễn cuộc sống vì nó là lĩnh vực giáo dục liên ngành. Tuy
nhiên, đặc trưng của môn GDCD là không chỉ cung cấp cho học sinh kiến thức của
môn học phù hợp với đặc điểm lứa tuổi mà điều quan trọng hơn là hình thành và
phát triển những kĩ năng vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống của học sinh,
đồng thời hình thành và phát triển cảm xúc, thái độ đúng đắn trước các vấn đề liên
quan đến nội dung bài học cho các em. Vì vậy, môn học này có khả năng tích hợp ở
nhiều mức độ khác nhau với các nội dung giáo dục kĩ năng sống cả về kiến thức, kĩ
năng, thái độ. Do đó, khi tích hợp giáo dục kĩ năng sống cần đảm bảo nguyên tắc:
không gượng ép, không làm nặng nội dung, không làm biến dạng môn học. Tuy
nhiên, qua thực tế dự một số giờ của đồng nghiệp ở trường hiện nay tôi nhận thấy,
có nhiều giáo viên bộ môn GDCD quan niệm rằng: tích hợp giáo dục kĩ năng sống
là vô hình dung làm nặng thêm nội dung kiến thức bài học, biến dạng môn học
dưới hình thức đơn điệu khô cứng. Bên cạnh đó, có một bộ phận giáo viên không

tâm huyết với nghề, ít đọc sách, báo, ít quan tâm đến các vấn đề chính trị xã hội,
việc tự học, tự bồi dưỡng còn hạn chế, cho nên ngại tích hợp vì cho rằng chỉ cần tập
trung vào kiến thức bài học là đủ, không cần phải tích hợp những nội dung khác.
Từ thực tế dạy học ở trường trong nhiều năm qua,tôi đã chọn đối tượng thực
nghiệm và đối chứng là học sinh 6 lớp 10: 10A4, 10A5, 10A6, 10A7, 10A8, 10A9
có số lượng học sinh như nhau,trình độ nhận thức tương đương nhau,tinh thần thái
độ học tập của học sinh 6 lớp đều rất tốt. Tôi tiến hành dạy với 2 cách dạy khác
nhau. Lớp 10A4, 10A5, 10A6 là 3 lớp thực nghiệm, tôi đã sử dụng tích hợp giáo
dục kĩ năng sống. Còn 3 lớp: 10A7, 10A8, 10A9 là các lớp đối chứng trong bài dạy
tôi không sử dụng tích hợp giáo kĩ năng sống. Sau khi dạy xong phần: Công dân
với đạo đức không sử dụng tích hợp giáo kĩ năng sống, tôi đã nêu câu hỏi khảo sát
7


thái độ học sinh “ Em có thích học môn GDCD không?” Kết quả tôi đã thu được
như sau:
Đối tượng
điều tra

Thích học

Bình
thường

Không thích
học

Không tỏ
thái độ


10A7,10A8,10A9
(126 học sinh)

0 học sinh
(0 %)

50 học sinh
(39,7 %)

50 học sinh
(39,7 %)

26 học sinh
(20,6%)

Xuất phát từ thực tiễn dạy học như vậy và từ chính kinh nghiệm giảng dạy
của bản thân, tôi nhận thấy rằng với sự phát triển của xã hội như hiện nay cần đào
tạo con người một cách toàn diện, cần phải giáo dục cho các em những kĩ năng
sống cơ bản và cần thiết. Muốn vậy, các em phải hứng thú say mê trong học tập. Để
làm được điều đó, bản thân giáo viên phải đầu tư đổi mới bài giảng, phải tích hợp
vào bài giảng những kĩ năng sống để giáo dục cho học sinh. Qua việc giáo dục kĩ
năng sống sẽ làm thay đổi nhận thức của học sinh về môn học và đặc biệt sẽ hình
thành những kĩ năng sống cơ bản cho học sinh. Chính vì vậy, tôi đã chọn tích hợp
giáo dục kĩ năng sống làm đề tài nghiên cứu của mình.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để tích hợp giáo dục kĩ năng sống.
2.3.1. Bài 10: Quan niệm về đạo đức.
Ở bài này, tôi tích hợp kĩ năng so sánh, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng thể
hiện sự tự tin và kĩ năng thể hiện sự thông cảm. Khi dạy mục 1.a: Đạo đức là gì?
Tôi đưa ra một số ví dụ về hành vi của cá nhân tuy không vi phạm pháp luật nhưng
lại trái với chuẩn mực đạo đức xã hội.

Ví dụ 1: Một số bạn đi xe buýt gặp người tàn tật, thương bệnh binh, người già, trẻ
em, phụ nữ mang thai ... nhưng không nhường ghế ngồi.
Câu hỏi:
1. Em có suy nghĩ gì khi các bạn hành động như vậy?
2. Nếu gặp các trường hợp trên em sẽ hành động như thế nào? Vì sao?
Ví dụ 2: Trong lớp bố bạn Hoa đau nặng, phải nằm viện, nhưng một số bạn không
hề hỏi thăm, động viên hay giúp đỡ Hoa.
Câu hỏi:
1. Em có suy nghĩ gì khi các bạn hành động như vậy?
2.Nếu chúng ta biết hỏi thăm, động viên hay giúp đỡ thì sẽ giúp ích được gì cho
bạn Hoa?

8


Thông qua các ví dụ đó học sinh sẽ nhận ra được những thiếu sót trong cách
ứng xử của bản thân và từ đó biết thay đổi hành vi, biết chia sẻ, biết thông cảm, biết
giúp đỡ người khác cho phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội.
2.3.2. Bài 11: Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học.
Trong bài học này, tùy theo các phạm trù như: nghĩa vụ, lương tâm, nhân
phẩm, danh dự, hạnh phúc, tôi tích hợp các kĩ năng phù hợp như: kĩ năng xác định
giá trị, kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng ứng phó với những căng thẳng ...
Khi dạy xong phạm trù nghĩa vụ, lương tâm, tôi đưa ra tình huống sau: Giữa
một ngõ nhỏ có viên gạch vỡ, một cụ già mắt kém chống gậy đi qua do không nhìn
thấy đã vấp phải viên gạch và bị ngã. Mấy thanh niên ngồi bên quán nước cười ồ
lên…viên gạch vẫn nằm nguyên ở vị trí đó. Một tốp học sinh đi qua mải cười đùa
nên một học sinh không may vấp phải viên gạch làm bật cả móng chân. Tốp học
sinh lại đi qua…viên gạch vẫn nằm yên tại chỗ. Một em bé bán hàng rong đang đi
đến, nhìn thấy viên gạch vỡ, em dừng lại nhặt viên gạch vứt vào đống rác bên
đường.Tiếng cười của mấy thanh niên chấm dứt…

Câu hỏi:
1. Tại sao tiếng cười của mấy thanh niên lại chấm dứt?
2. Nếu có mặt ở đó em sẽ hành động như thế nào? Vì sao?
Sau khi học sinh phát biểu ý kiến cá nhân, tôi nhận xét và khái quát lại để
học sinh thấy được tác hại của những hành động thiếu lương tâm và ý nghĩa của
những hành động có lương tâm từ đó học sinh sẽ có ý thức trong việc giữ cho
lương tâm mình luôn trong sáng.
Khi dạy phạm trù hạnh phúc, tôi hướng dẫn lớp tiến hành một trò chơi “Vẽ
cây tâm trí” bằng cách đặt câu hỏi sau: theo em hạnh phúc được biểu hiện như thế
nào? Tôi yêu cầu các em vẽ ra những điều làm cho các em hạnh phúc bằng cách thể
hiện qua các nhánh cây như: đạt được điểm cao; bố mẹ mua cho bộ áo quần mới;
giúp bố mẹ một số công việc của gia đình; có được sự quan tâm, tôn trọng của mọi
người; được bạn thân tặng cho một món quà... Với mỗi biểu hiện học sinh dùng bút
màu để vẽ ra. Nhóm nào vẽ càng nhiều nhánh cây thể hiện những điều làm các em
hạnh phúc, biểu thị một vòng tròn khép kín, đẹp sẽ là nhóm thắng cuộc. Sau phần
hoạt động của học sinh, tôi kết luận hạnh phúc là gì? Định hướng trong nhận thức
và cách xác định giá trị, làm tăng thêm kĩ năng hợp tác, lắng nghe, chia sẻ giữa các
bạn trong nhóm và lớp học. Học sinh sẽ tiếp cận với phạm trù hạnh phúc một cách
sâu sắc, toàn diện.
2.3.3. Bài 12: Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình.
Khi dạy bài này, tôi dùng phương pháp thảo luận nhóm, với những câu
chuyện phù hợp, hấp dẫn, lôi cuốn sự tập trung của học sinh. Thông qua những câu
chuyện, tác động trực tiếp tới suy nghĩ, cảm xúc của người học. Qua đó giúp học
9


sinh hình thành kĩ năng xác định giá trị, cảm thông, chia sẻ với những người xung
quanh mình. Giúp học sinh tích cực suy nghĩ để có thể lập luận chặt chẽ, đưa ra
những ví dụ dẫn chứng, rèn luyện tính kiên định, tư duy phê phán và khả năng giao
tiếp có hiệu quả. Với những mối quan hệ trong cuộc sống như quan hệ với bạn bè,

bố, mẹ, hàng xóm ... học sinh sẽ lựa chọn cách ứng xử phù hợp với từng đối tượng
và trong từng hoàn cảnh cụ thể. Kĩ năng giao tiếp được coi là một trong những kĩ
năng quan trọng, kĩ năng này có thể thể hiện bằng lời nói, sự trao đổi thông tin giữa
các học sinh hoặc cũng có thể sử dụng kĩ năng giao tiếp không lời (kĩ năng lắng
nghe). Sự lắng nghe, chia sẻ, biết tôn trọng các ý kiến giữa các thành viên trong lớp
sẽ làm cho học sinh tự tin, cởi mở, làm cho mối quan hệ giữa học sinh và giáo viên
trở nên gần gũi. Qua đó quá trình học tập sẽ tích cực hơn.
Khi dạy mục 1.b: Thế nào là một tình yêu chân chính? Tôi đưa ra các mẩu
chuyện sau đây:
Mẩu chuyện 1: Trong một buổi giao lưu Hồng đã gặp Sơn và đã thầm yêu
Sơn - một người chiến sỹ biên phòng. Gia đình và bạn bè chê bai Hồng vì sao
không yêu những chàng trai có địa vị xã hội, có học vấn, có tiền của ... lại yêu một
người lính.
Mẩu chuyện 2: Hùng và Hòa học với nhau một lớp từ phổ thông. Hai người
thường xuyên giúp đỡ nhau trong cuộc sống và học tập. Cả hai đều đậu vào Đại học
và đến năm cuối Đại học họ đã công bố cho gia đình và bạn bè về tình yêu của họ.
Mẩu chuyện 3: Ông An và ông Hoàng là chỗ bạn bè thân thiết. Thủy con gái
ông An một người con gái giỏi giang, xinh đẹp ... Hai ông muốn làm thông gia với
nhau nên đã cùng với con trai ông Hoàng tìm mọi cách để có được tình cảm của
Thủy.
Câu hỏi: Trình bày quan điểm của em về các trường hợp trên?
Sau khi học sinh trình bày quan điểm của mình, tôi sẽ kết luận và hướng học
sinh đến những quan điểm đúng đắn về tình yêu.
2.3.4. Bài 13: Công dân với cộng đồng.
Trong bài này, tùy vào các trách nhiệm của công dân đối với cộng đồng như:
nhân nghĩa, hòa nhập và hợp tác, tôi sử dụng phương pháp dự án, tọa đàm, thảo
luận nhóm ... để tích hợp các kĩ năng phù hợp như: kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng
tự nhận thức, kĩ năng hợp tác và chia sẽ, kĩ năng thể hiện sự tự tin trước đám đông,
kĩ năng đánh giá người khác ... Khi nói đến trách nhiệm nhân nghĩa, tôi tích hợp
bằng việc đưa ra các hành vi sau đây:

Ví dụ 1: Chị Nguyễn Thị Bé sinh ra và lớn lên ở huyện Triệu Phong, tỉnh
Quảng Trị. Khi xuất ngũ chị làm quản trang ở nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn.
Nghĩa trang rộng 40ha là nơi yên nghỉ của 10.642 liệt sỹ cả nước. Tuy công việc rất
10


vất vả nhưng chị luôn thấy hạnh phúc và hết lòng với công việc. Câu hỏi: Em suy
nghĩ như thế nào về việc làm của chị Bé?
Ví dụ 2: Đền bù, giải phóng mặt bằng luôn là vấn đề quan tâm trong các
công trình xây dựng cơ bản. Tuy nhiên, mặc dù không có kinh phí hỗ trợ đền bù,
gần chục hộ dân thôn Tân Mỹ, xã Quang Thịnh, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang
đã hiến gần 200m2 đất ở của gia đình để công trình giao thông thuộc dự án Giao
thông nông thôn 3 do Bộ Giao thông - Vận tải làm chủ đầu tư đi qua địa bàn được
triển khai đúng tiến độ. Câu hỏi: Em suy nghĩ như thế nào về việc làm của các hộ
dân thôn Tân Mỹ, xã Quang Thịnh, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang?
Sau khi học sinh nêu lên suy nghĩ, quan điểm của mình qua hai ví dụ trên, tôi
đã phân tích và kết luận để học sinh thấy được trách nhiệm của công dân đối với
cộng đồng, hướng cấc em đến những hành vi biết sống nhân nghĩa, hòa nhập, hợp
tác với những người xung quanh.
2.3.5. Bài 14: Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Bài học này thích hợp với việc lồng ghép các kĩ năng như: kĩ năng đảm nhận
trách nhiệm, kĩ năng tư duy phê phán, kĩ năng giải quyết các vấn đề, kĩ năng kiên
định ... Khi dạy mục 2: Trách nhiệm của công dân trong việc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, tôi tích hợp giáo dục kĩ năng sống bằng việc đưa ra tình huống sau:
Tình huống 1: Anh Nguyễn Văn Hùng sinh ra và lớn lên ở mảnh đất xã
Hương Điền, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh. Sau khi học xong cấp 3, anh đậu vào
trường Đại học Nông nghiệp I - Hà Nội. Ra trường với tấm bằng loại giỏi, anh
được rất nhiều cơ quan, xí nghiệp ở thủ đô Hà Nội mời về làm việc với mức lương
rất cao, nhưng anh đã từ chối, vì anh muốn trở về mảnh đất nơi mình sinh ra để góp
một phần sức lực của bản thân mình xây dựng quê hương, đất nước.

Câu hỏi: Em suy nghĩ gì về hành động của anh Hùng? Nếu sau này học xong
Đại học em có hành động như anh Hùng không? Vì sao?
Tình huống 2: Anh trai Nam có giấy gọi nhập ngũ. Bố mẹ Nam không muốn
con đi bộ đội nên bàn nhau tìm cách xin cho anh ở lại.
Câu hỏi: Theo em, Nam nên làm gì khi biết ý định của bố mẹ? Vì sao?
Sau khi giải quyết tình huống, học sinh đã nhận thức được trách nhiệm xây
dựng và bảo vệ quê hương đất nước, biết tham gia những hoạt động xây dựng và
bảo vệ quê hương, đất nước phù hợp với bản thân.
2.3.6.Bài 15: Công dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân loại.
Tôi sử dụng phương pháp động não, xử lý tình huống, phân tích thông tin,
trình bày 1 phút ... để rèn luyện kĩ năng tìm kiếm và xử lý thông tin, kĩ năng thể
hiện sự tự tin, kĩ năng lắng nghe, kĩ năng phản hồi tích cực ... Khi dạy đến các nội
dung cấp thiết của nhân loại hiện nay, tôi cho trình chiếu các đoạn băng hình và yêu
11


cầu học sinh trình bày các sản phẩm tự sưu tầm được (yêu cầu học sinh chuẩn bị
trước) về đại dịch HIV/AIDS, dịch Covid 19 ở Việt Nam và trên thế giới.
Ví dụ 1: Clip đau lòng và những điều bạn không muốn biết về HIV/AIDS
Ví dụ 2: Hình ảnh về những người nơi tuyến đầu chống dịch Covid 19
Câu hỏi: Trình bày hiểu biết của em về những vấn đề này?
Ví dụ 3: Đại diện các nhóm trình bày các sản phẩm tự sưu tầm được về dịch bệnh
ở Việt Nam và trên thế giới. Các nhóm khác chất vấn, nhận xét, bổ sung, sau đó tôi
kết luận.
Qua bài học này, học sinh đã tỏ thái độ đồng tình và tích cực tham gia những
hoạt động phòng chống dịch Covid 19,biết giữ gìn, bảo vệ sức khỏe của bản thân
và cộng đồng.
2.3.7.Bài 16: Tự hoàn thiện bản thân.
Ở bài học này, tôi dùng phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp động não
để tích hợp giáo dục các kĩ năng như: kĩ năng đặt mục tiêu; kĩ năng giải quyết vấn

đề; kĩ năng ra quyết định; kĩ năng thể hiện sự tự tin; ... với phương pháp này tôi có
thể tập hợp nhiều ý kiến khác nhau trong một thời gian ngắn, tạo không khí học tập
sôi nổi, học sinh sẽ chủ động, tích cực, tự tin. Để tự hoàn thiện bản thân học sinh
phải tự nhận thức được mặt mạnh và mặt hạn chế của mình, biết được những giá trị
định hướng niềm tin và hành động trong cuộc sống. Việc giáo viên hướng dẫn học
sinh đặt ra mục tiêu sẽ giúp cho người học sống có định hướng, không có quá nhiều
ảo tưởng. Kĩ năng này làm cho việc tiếp cận mục tiêu đề ra một cách cụ thể, thực
tế. Học sinh xác định mục tiêu phù hợp với hoàn cảnh của bản thân, xác định đúng
những thuận lợi, khó khăn trước mắt và có kế hoạch cho những giai đoạn thực hiện
mục tiêu. Học sinh cũng đồng thời xác định được quyết tâm là nhân tố quan trọng,
là động lực thúc đẩy việc thực hiện đạt tới mục tiêu đề ra. Từ đó sẽ thay đổi nhận
thức, thái độ học tập, khắc phục tình trạng học đối phó, học “không tư duy” của học
sinh.
Khi dạy mục 2.a. Thế nào là tự hoàn thiện bản thân, tôi cho học sinh nghiên
cứu 2 mẩu chuyện trong sách giáo khoa GDCD 10 (trang 113) và 2 mẩu chuyện sau
đây để tích hợp vào bài.
Mẫu chuyện 1: Anh Lê Hồng Sơn, sinh năm 1979, nhà ở vùng 3, xã Phú Gia,
huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, bị tật nguyền từ bé, cả hai tay anh đều không vận
động, cử động được. Với nghị lực vươn lên, anh đã tự chọn một nghề để làm nuôi
sống mình và giúp thêm được cho gia đình – nghề mộc. Nghề này đã khó với người
bình thường có đủ chân tay, lại càng khó hơn cho người khuyết tật. Hồng Sơn đã
kiên trì tập nghề mộc hàng ngày, dùng đôi chân của mình làm thay đôi tay để đục,
cưa, xẻ, đóng. Từ những chiếc ghế đơn giản, cho đến chiếc tủ, chiếc bàn uống
nước, chiếc phản ... anh lần lượt làm được và làm rất đẹp. Anh dùng hai chân đục,
12


ghép mộng, ghép gỗ thành thạo, khéo léo như đôi tay của người thợ cả. Sản phẩm
của anh được nhiều bà con mua về dùng. Nhưng cảm phục hơn, khi anh đã giỏi
nghề và bán được nhiều sản phẩm, anh đã tự mở một tổ sản xuất, sửa chữa đồ gỗ tại

nhà, mời thêm nhiều người khuyết tật trong xã về cùng làm nghề mộc. Việc làm
của anh đã được Chủ tịch nước gửi thư khen ngợi, được Bộ lao động – Thương
binh và xã hội tặng bằng khen.
Mẩu chuyện 2: Chị Lê Thị Thắm cựu học sinh trường THPT Đông Sơn 1 do
bị dị tật bẩm sinh nên không có tay. Chị đã luyện viết bằng chân, cố gắng vươn lên
trong học tập. Năm 2015-2016 chị đã tốt nghiệp THPT và được trường Đại học
Hồng Đức xét đặc cách vào khoa tiếng Anh của trường.
Câu hỏi: Nêu suy nghĩ của bản thân về các nhân vật trên?
Việc đưa ra tình huống, các mẩu chuyện, các trò chơi ... giúp giảm lối học
thụ động, sách vở, tăng cường khả năng vận dụng kiến thức vào thực tế, khuyến
khích học sinh tích cực xem xét, thảo luận về một tình huống, một câu chuyện,
nhân vật có thật trong thực tế. Với những tình huống đưa ra, học sinh tiếp nhận lý
thuyết bằng cách giải quyết những vấn đề thực tế. Từ đó tăng cường khả năng suy
nghĩ độc lập, kiên định khi tiếp cận tình huống dưới nhiều góc độ, tăng cường tính
sáng tạo để tìm giải pháp cho vấn đề, kĩ năng đánh giá các giải pháp đã lựa chọn.
Phát triển kĩ năng giao tiếp, ứng xử, tinh thần tập thể, tính trách nhiệm và tự khẳng
định mình của học sinh. Nâng cao lòng tin vào khả năng giải quyết vấn đề trong
tương lai.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến.
Tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào giảng dạy môn GDCD thực sự mang lại
hiệu quả cao trong giảng dạy.
Đối với giáo viên: Đại đa số giáo viên trong tổ, nhóm dự giờ đều ủng hộ và
khích lệ tôi sử dụng phương pháp tích hợp này. Bản thân tôi khi vận dụng phương
pháp này cũng cảm thấy rất tự tin khi truyền thụ tri thức cho học sinh.
Đối với học sinh: Sau khi tích hợp nội dung giáo dục kĩ năng sống vào trong
các bài dạy thì học sinh học say sưa hơn, hứng thú cảm nhận bài, đồng thời có
nhiều em đưa ra những phát hiện, những ý tưởng, những câu trả lời khá thú vị và
sâu sắc, giúp học sinh hình thành mối quan hệ tốt đẹp với bạn bè, gia đình, người
thân và mọi người, sống chủ động tích cực, tránh xa các tệ nạn xã hội, có trách
nhiệm với bản thân, gia đình, cộng đồng, Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ

đó kết quả học tập và rèn luyện đạo đức cũng được nâng cao.
Sau khi dạy xong phần “Công dân với đạo đức” có nội dung tích hợp giáo
dục kĩ năng sống, tôi đã tiến hành thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm chứng tính
hiệu quả của bài dạy bằng một câu hỏi tình huống trong 15 phút:

13


Tình huống: Lê được các bạn bầu làm lớp trưởng, Lê có năng lực tổ chức và
tích cực trong các công việc của lớp. Từ khi Lê làm lớp trưởng, tập thể lớp đã có
những tiến bộ rõ rệt, còn Lê cũng trở nên tự cao, tự đại hơn. Nhiều khi Lê coi
thường bạn bè, nói những lời xúc phạm đến người khác. Vì vậy, bạn bè từ chỗ quý
mến dần dần xa lánh Lê.
Câu hỏi: Theo em, Lê cần phải làm gì để lấy lại niềm tin và tình cảm quý
mến của bạn bè? Vì sao?
Nhìn vào kết quả ta thấy, kết quả học tập của HS lớp thực nghiệm ( 10A3,
10A4, 10A5 ) cao hơn lớp đối chứng ( 10A6,10A7,10A8 ).

Giỏi

Lớp
10A3, 10A4, 10A5
(TN)
10A6, 10A7, 10A8
(ĐC)

Khá

Trung bình


Yếu

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

45

35,7

60

47,7

21

16,6


0

0

15

11,9

18

14,3

75

59,5

18

14,3

Cụ thể là: Loại giỏi ở lớp đối chứng chỉ có 15 HS, còn lại đa số các em
không nêu được quan điểm của mình, không biết cách giải quyết tình huống. Trong
khi đó, lớp thực nghiệm lại thể hiện rất rõ quan điểm thái độ của mình và cách giải
quyết tình huống hợp lí, tỉ lệ HS đạt mức khá, giỏi tăng, không có học sinh yếu
kém. Lớp 10A3, 10A4, 10A5 là 3 lớp thực nghiệm (TN) tôi đã sử dụng tích hợp
giáo dục kĩ năng sống trong bài dạy.
Qua điều tra khảo sát thái độ của học sinh được hỏi sau khi học xong phần
“Công dân với đạo đức” có sử dụng tích hợp giáo dục kĩ năng sống. Em có thích
học môn GDCD không? Tôi đã thu được kết quả như sau:


Đối tượng điều tra

Thích học

Bình thường

Không
thích học

Không tỏ
thái độ

10A3, 10A4, 10A5
(126 học sinh)

102 HS
(%)

24 HS
(%)

0 HS
( 0 %)

0 HS
( 0%)

Mặt khác, kết quả học lực, hạnh kiểm năm học 2019-2020 của ba lớp thực
nghiệm cũng cao hơn ba lớp đối chứng, đặc biệt các phong trào của nhà trường do
14



Đoàn Thanh niên, Hội Chữ thập đỏ phát động thì ba lớp thực nghiệm 10A3, 10A4,
10A5 đều là những lớp dẫn đầu trong trường.
3.Kết luận và kiến nghị
3.1.Kêt luận
Có thể nói rằng người giáo viên dạy giáo dục công dân phải là nhà chính trị
lão luyện, là người nghệ sỹ đích thực, đam mê, tâm huyết với mỗi tiết dạy, phải
lường hết và ứng xử linh hoạt, khéo léo trước mọi tình huống không có trong “kịch
bản”, phải thả hồn vào mỗi bài dạy để thắp sáng trong trái tim học trò những rung
cảm lành mạnh trước cái đẹp, cái chính nghĩa, cái cao cả của cuộc đời, thanh lọc
tâm hồn bằng thứ ánh sáng thuần khiết trong suốt như pha lê. Chính sự thao thức
trăn trở đã là yếu tố quan trọng quyết định thành công của giờ dạy.
Việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống là hướng đến người học, một mặt đáp
ứng nhu cầu của người học tạo ra những năng lực để đáp ứng trước những thử
thách của cuộc sống và nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân. Mặt khác
việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào bộ môn thông qua những phương pháp
hướng đến học sinh, phương pháp dạy học tương tác, cùng tham gia, đề cao vai trò
chủ động, tự giác của học sinh sẽ có những tác động tích cực đến mối quan hệ giữa
thầy, cô giáo và học sinh, giữa học sinh với học sinh. Đồng thời học sinh sẽ cảm
thấy mình được tham gia giải quyết các vấn đề có liên quan đến cuộc sống của bản
thân, học sinh sẽ thích thú và tích cực học tập hơn. Trên cơ sở đó chất lượng giáo
dục cũng được nâng lên. Để việc tham gia rèn luyện kĩ năng sống của học sinh
được hiệu quả, cần hội tụ 4 yếu tố cơ bản: bản thân các em, gia đình, nhà trường và
xã hội. Học sinh cần có sự cố gắng và hợp tác với thầy, cô giáo trong quá trình học
tập. Gia đình phải thương yêu, định hướng, hỗ trợ tạo điều kiện nhưng không bắt ép
các em, cha mẹ cần dành nhiều thời gian lắng nghe con mình hơn. Gia đình động
viên giúp các em tránh xa tệ nạn xã hội, bố trí thời gian học tập, vui chơi phù hợp.
Gia đình phải là nơi xây dựng cho các em thái độ yêu thích môn học, không coi nhẹ
môn học. Chính việc làm này sẽ giúp học sinh hoàn thiện hơn về nhân cách, đạo

đức, nâng cao được chất lượng giáo dục. Với nhà trường, quan tâm đào tạo và lồng
ghép tích cực để tạo cơ hội cho học sinh rèn luyện kĩ năng sống. Giáo viên phải đến
với học sinh bằng trái tim nồng ấm, chan chứa tình yêu thương và trách nhiệm của
mình. Đối với xã hội cần có những chủ trương, chính sách kịp thời để nhà trường
có điều kiện, có cơ sở đưa các nội dung giáo dục kĩ năng sống tích hợp vào trong
các môn học. Thiết nghĩ việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống chỉ là một trong rất
nhiều các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, cần khẳng định việc tích
hợp giáo dục kĩ năng sống không phải là giải pháp vạn năng để giải quyết được tất
cả những tồn tại trên. Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần tích cực
chủ động áp dụng các biện pháp khác nhau để giúp cho học sinh hình thành các kĩ
năng sống phù hợp với các lứa tuổi. Bản thân tôi nhận thấy không chỉ môn GDCD
15


tích hợp giáo dục kĩ năng sống, mà các môn khác trong hệ thống giáo dục cũng có
thể làm được điều này.
3.2.Kiến nghị
Đối với Sở Giáo dục và đào tạo Thanh Hóa:
Cần hỗ trợ, tạo điều kiện hơn nữa về cơ sở vật chất, các phương tiện dạy học
như: máy chiếu Projecter, các phòng chức năng, đồ dùng dạy học, băng đĩa, các tư
liệu tham khảo. Để tạo điều kiện cho giáo viên có thể thực hiện đổi mới phương
pháp để bài dạy môn GDCD đạt hiệu quả hơn.
Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng để chúng tôi được tiếp nhận những
thông tin thời sự mới, chính sách mới, văn bản mới để giáo viên không bị lạc hậu
và giảng dạy tốt hơn nữa.
Đối với các trường phổ thông:
Không ngừng yêu cầu giáo viên tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực
chuyên môn, kiên trì, tích cực đổi mới phương pháp trong giảng dạy nhằm phát huy
tốt năng lực học của trò và dạy của thầy.
Tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên sử dụng các phương tiện dạy học trong

quá trình giảng dạy
Tổ chức các buổi ngoại khóa với các nội dung trong chương trình, tạo sân
chơi lành mạnh cho học sinh, giúp các em phát huy hết năng lực, sở trường của bản
thân mình, tránh xa các tệ nạn xã hội.
Có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo
dục thái độ, động cơ, mục đích học tập, lao động đúng đắn - hình thành kĩ năng
sống cho học sinh.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hoá, ngày 20 tháng 06 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác.

Phạm Thị Hồng Duyên

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Sách giáo khoa Giáo dục công dân 10 - Mai Văn Bính (Tổng Chủ biên kiêm
chủ biên) - Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
[2] Sách giáo viên Giáo dục công dân 10 - Mai Văn Bính (Tổng Chủ biên kiêm chủ
biên) - Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
[3] Tình huống giáo dục công dân 10 - Trần Văn Chương ( Chủ biên) – Nhà xuất
bản giáo dục – 2006.
[4] Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức và chuẩn kí năng Giáo dục công dân
Trung học phổ thông – Nguyễn Hữa Khải (chủ biên) - Nhà xuất bản giáo dục
[5] Tài liệu BDTX Module 35 “Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT” – Bộ
Giáo dục và Đào tạo

[6] Tài liệu tập huấn: Dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định
hướng phát triển năng lực học sinh năm 2014 của Bộ Giáo dục và đào tạo
[7] Tham khảo một số tài liệu trên mạng internet
- Nguồn: Tailieu: text.123doc.org
- Nguồn:

17


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG KHOA
HỌC NGÀNH ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI
Họ và tên tác giả: Phạm Thi Hồng Duyên
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường THPT Đặng Thai Mai
Kết quả
đánh giá
xếp loại

Năm học
đánh giá
xếp loại

TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá
xếp loại

1


Đổi mới phương pháp kiểm
tra, đánh giá trong dạy học
môn GDCD

Sở GD&ĐT

C

2003-2004

2

Đổi mới phương pháp nêu
vấn đề trong dạy học môn
GDCD

Sở GD&ĐT

C

2005-2006

3

Nâng cao hiệu quả giáo dục
lòng tin cho học sinh trong
dạy học môn GDCD

Sở GD&ĐT


C

2012-2013

4

Khai thác hình ảnh trực quan
vận dụng vào giảng dạy bài
6: Công nghiệp hóa,hiện đại
hóa đất nước- tiết 2- GDCD
lớp11

Sở GD&ĐT

C

2016-2017

18



×