BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y
TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
ĐÀM VĂN VIỆT
VŨ MẠNH TUẤN
NGHIÊN CỨU ĐIỀU TRỊ MẤT RĂNG HÀM TRÊN
TỪNG PHẦN BẰNG KỸ THUẬT IMPLANT CÓ GHÉP
XƯƠNG
Chuyên ngành: Răng Hàm Mặt
Mã số: 62720601
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
HÀ NỘI 2013
CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI :
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
trêng ®¹i häc y hµ néi
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. TRỊNH ĐÌNH HẢI
GS. TS. TRẦN VĂN TRƯỜNG
Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Bắc Hùng
Phản biện 2: PGS.TS. Lê Văn Sơn
Phản biện 3: PGS.TS Trương Uyên Thái
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án Tiến sĩ cấp
Trường họp tại Trường Đại học Y Hà Nội
Vào hồi: giờ phút, ngày tháng năm
Có thể tìm luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Đại học Y Hà Nội
- Thư viện Thông tin Y học
- Th viÖn Quèc gia ViÖt Nam
NHỮNG CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
1.
Đàm Văn Việt, Lê Văn Sơn( 2008): “Đánh giá kết quả cấy ghép
implant nha khoa một thì bằng hệ thống Platon tại Viện Răng
Hàm Mặt Quốc Gia”, tạp chí y học thực hành – Bộ y tế, số 2 ( 644
+ 645).
2.
Đàm Văn Việt, Trịnh Đình Hải ( 2013): “ Thay đổi nhú lợi xung
quanh phục hình implant ở nhóm răng trước hàm trên : Niêm mạc
dày so với niêm mạc mỏng”, tạp chí y học thực hành – Bộ y tế, số
4 ( 866).
3.
Đàm Văn Việt, Trịnh Đình Hải ( 2013): “Nhận xét một số đặc
điểm lâm sàng bệnh nhân mất răng hàm trên từng phần trong kỹ
thuật cấy ghép implant nha khoa có ghép xương”, tạp chí y học
thực hành – Bộ y tế, số 5(869).
A. GIỚI THIỆU LUẬN ÁN
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay với những ứng dụng mới của khoa h ọc kỹ thu ật vào y học,
ngành răng hàm mặt đã có những bước tiến đột phá trong phục hình mất răng.
Phục hình răng giả cố định tối ưu nhất là sử dụng phương pháp cấy ghép
implant nha khoa. Cấy ghép Implant giúp phục hồi lại chức năng ăn nhai, có
tính thẩm mỹ cao, tồn tại lâu dài, ngăn chặn sự tiêu xương hàm, ổn định khớp
cắn, bảo vệ sự toàn vẹn của các răng còn lại, nhờ đó chất lượng cuộc sống
của bệnh nhân được cải thiện. Chính vì những lý do trên, cấy ghép implant
đang là sự lựa chọn hàng đầu cho những người bị mất răng. Một trong những
yếu tố quan trọng để cấy ghép implant là thể tích xương đầy đủ nhằm đảm bảo
cho implant thành công cả chức năng ăn nhai và thẩm mỹ. Xương hàm trên là
xương xốp, vì thế sau khi mất răng thường gây tiêu xương nhiều, hơn nữa đặc
điểm giải phẫu bản xương phía ngoài nhóm răng phía trước hàm trên rất mỏng,
phía sau thì liên quan đến xoang hàm, vì vậy ở vùng giải phẫu này hiện tượng
thiếu xương là thường gặp và gây rất nhiều khó khăn cho các bác sĩ trong thực
hành cấy ghép implant nha khoa. Mặt khác, nhóm răng trước hàm trên đóng vai
trò quan trọng trong khía cạnh thẩm mĩ, là nơi mà các nhà lâm sàng trên thế giới
gọi là “vùng thách thức” trong implant nha khoa. Xuất phát từ những tình huống
trên lâm sàng và nhu cầu thực tiễn chúng tôi tiến hành đề tài "Nghiên cứu điều
trị mất răng hàm trên từng phần bằng kỹ thuật implant có ghép xương" với
những mục tiêu sau :
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng và X quang của bệnh nhân mất răng hàm trên từng
phần được điều trị cấy implant có ghép xương.
2. Đánh giá kết quả cấy ghép implant nha khoa của nhóm bệnh nhân trên.
3. Nhận xét một số yếu tố ảnh hưởng đến nhú lợi quanh implant.
TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Khi cấy ghép implant ở xương hàm trên thường gặp các khó khăn về kích
thước xương theo ba chiều trong không gian do cấu tạo của xương hàm trên là
xương xốp, chứa hốc mũi và xoang hàm nên tiêu xương nhanh sau khi mất răng.
Để đạt được khối lượng xương cần thiết, hầu hết các trường hợp đặt implant
cho phía trước hàm trên phải ghép xương bổ xung mặt ngoài hoặc nâng xoang ở
phía sau. Những yếu tố: Dạng sinh học mô mềm, chiều dày xương, niêm mạc
sừng hóa, thời gian sau phục hình, thiết kế kết nối và xử lý bề mặt vùng cổ
implant có ảnh hưởng như thế nào đến sự tiêu xương và kích thước nhú lợi
quanh implant đang còn là vấn đề cần được khảo sát, xác định, nhằm góp phần
lập kế hoạch cấy ghép implant đạt kết quả tốt.
Ý NGHĨA THỰC TIỄN VÀ ĐÓNG GÓP MỚI
1. Là nghiên cứu đánh giá kết quả cấy ghép implant có ghép hỗn hợp
xương tự thân và xương đồng loại đông khô không khử khoáng ở những bệnh
nhân mất răng hàm trên từng phần. Tại Việt Nam, cho đến nay chưa có nghiên
cứu nào về cấy ghép implant riêng biệt ở xương hàm trên. Vì thế các kết quả
nghiên cứu đã khẳng định sự cần thiết, tính khoa học của đề tài .
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến kích thướ c nhú lợi quanh implant: Dạng
sinh học mô mềm, thời gian, niêm mạc sừng hóa, mức độ tiêu xươ ng .
3. Nghiên cứu đã tiến hành đặt implant và ghép hỗn hợp xươ ng tự thân
và xương đồng loại đông khô không khử khoáng, sau đó đánh giá bằng phim X
quang và máy Periotest cho th ấy kh ả năng tích hợp xương tốt.
4. Ứng dụng phim CT.cone beam trong lập kế hoạch và đánh giá kết quả
điều trị là phương pháp tốt nhất hiện nay. Sử dụng máy Periotest để đánh giá tích
hợp xương là phương pháp an toàn và có độ tin cậy cao.
5. Kỹ thuật nâng xoang kín bằng bộ mũi khoan mở đáy xoang là phương
pháp an toàn và tạo độ ổn định sơ khởi tốt.
CẤU TRÚC LUẬN ÁN
Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận và kiến nghị, luận án gồm 4 chương:
Tổng quan nghiên cứu: 38 trang. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 21
trang. Kết quả nghiên cứu: 30 trang. Bàn luận: 40 trang. Luận án có 34 bảng, 7
biểu đồ, 72 hình ảnh, 172 tài liệu tham khảo (10 tiếng Việt, 162 tiếng Anh).
B. NỘI DUNG LUẬN ÁN
Chương 1. TỔNG QUAN
1.2. Sự thay đổi của sống hàm sau khi mất răng: Răng và mô bám dính xung
quanh xêmăng chân răng, dây chằng nha chu và xương bó lập thành một đơn vị
chức năng. Do đó, lực nhai được truyền từ thân răng qua chân răng và mô bám
dính tới cấu trúc mô cứng nâng đỡ trong xương ổ răng. Sự mất răng dẫn tới kích
thước của sống hàm giảm đi rõ rệt. Vì thế khi cấy ghép implant thường phải
phối hợp các kỹ thuật ghép xương nhằm đảm bảo thể tích xương lý tưởng xung
quanh implant.
1.3. Tích hợp xương: Là sự liên kết trực tiếp về cấu trúc và chức năng giữa bề
mặt Implant và tổ chức xương xung quanh.
1.4. Vật liệu ghép xương : Vật liệu ghép xương có nhiều mục đích khác nhau
trong tái tạo xương có hướng dẫn: Nâng đỡ cho màng, hoạt động như một cái
giàn để xương phát triển vào từ vùng nhận xương, kích thích xương phát triển
vào, là một tấm chắn cơ học chống lại áp lực từ mô mềm che phủ phía trên…
Gồm có các loại xương và màng sinh học:
Xương tự thân, xương đồng loại, xương dị loại, xương tổng hợp.
Màng sinh học: Màng collagen, màng PTFE, màng Titanium.
1.6. Diễn biến mô học của quá trình ghép xương: Sự lành thương và tái tạo
của xương ghép nhờ ba cơ chế: Sinh tạo xương, dẫn tạo xương, cảm ứng
xương. Quá trình tái tạo xương phải có một trong ba cơ chế trên tham gia.
1.7. Kỹ thuật ghép xương
1.7.1. Kỹ thuật tái sinh xương có hướng dẫn (GBR): Hơn 20 năm qua, đã
có một sự tiến bộ đáng kể trong sự phát triển của kỹ thuật GBR vào lĩnh vực
Implant nha khoa. GBR đã trở thành một kỹ thuật cơ bản trong việc tái tạo các
thiếu hổng cục bộ của xương ổ răng, tạo khả năng thực hiện cấy implant cho bệnh
nhân. Sự tiến bộ này là yếu tố quan trọng góp phần vào sự phát triển nhanh chóng
của implant nha khoa trong thời gian qua.
1.7.2. Kỹ thuật nâng xoang ghép xương: Xương còn đủ là yếu tố chính giúp
cho việc cấy ghép implant nha khoa vào hàm trên thành công. Khi chiều cao
xương từ nền xoang đến mào sống hàm trên còn dưới 10 mm thì nên tiến hành
ghép xương nâng cao sàn xoang hoặc ghép xương ổ răng để có thể cấy được
implant ≥ 10mm và làm phục hình. Hiện nay với trang thiết bị hỗ trợ ngày
càng tốt như sử dụng máy siêu âm trong mở xương, nâng xoang hay bộ
dụng cụ mở đáy xoang an toàn và nâng màng xoang bằng bơm nước…Kỹ
thuật nâng xoang ngày càng an toàn vì thế chỉ định ghép xương nâng xoang
kín để cấy implant ngày càng phổ biến.
1.8. Đặc điểm mô mềm quanh implant: Mặt ngoài của niêm mạc quanh
implant cũng được bao phủ bởi niêm mạc miệng sừng hóa nối với hàng rào biểu
mô mỏng (giống như biểu mô nối ở răng) đối diện trụ lành thương (healing
abutment). Hàng rào biểu mô có chiều dày chỉ vài lớp tế bào và điểm tận cùng
của cấu trúc biểu mô nằm khoảng 2 mm về phía chóp so với đường viền mô
mềm, cách mào xương 11,5 mm. Mô liên kết trên xương có sự tiếp xúc trực
tiếp với bề mặt (TiO2) của implant. Những sợi collagen trong mô liên kết xuất
phát từ màng xương của mào xương và mở rộng về phía viền mô mềm theo
hướng song song với bề mặt trụ. Hệ thống mạch máu của niêm mạc quanh
implant có nguồn gốc chủ yếu từ những mạch máu trên màng xương bên ngoài
xương ổ răng. Những mạch máu này tỏa ra các nhánh đến niêm mạc trên xương
ổ răng rồi hình thành các mao mạch bên dưới biểu mô miệng và đám rối mạch
máu nằm ngay bên cạnh hàng rào biểu mô. Phần mô liên kết của bám dính xuyên
niêm mạc vào bề mặt của implant chứa ít mạch máu và toàn bộ những mạch
máu này được xác định là nhánh tận của mạch máu trên màng xương.
1.9. Cách thức kết nối và xử lí kỹ thuật vùng cổ implant nhằm giảm
mức độ tiêu xương: Vùng cổ implant là nơi lực tác động lớn nhất lên tổ
chức xương xung quanh và cũng là nơi xương thường bị tiêu trước và sau
khi chịu lực. Theo nguyên tắc sinh học thì luôn có sự tiêu xương xung quanh
implant. Albrektson và cs(1986) cho rằng implant được coi là thành công nếu
mức độ tiêu xương năm đầu là 1mm và 0,2mm mỗi năm tiếp theo. Ngày nay
với những tiến bộ khoa học kỹ thuật mức độ tiêu xương đã giảm rất
nhiều, một trong những yếu tố quan trọng góp phần vào kết quả đó là
thiết kế chuyển vị kết nối giữa implant với trụ phục hình (Platform
Switching hoặc Platform Shifting) và xử lí bề mặt vùng cổ implant bằng
Laser.
1.11. Tỉ lệ thành công của implant nha khoa: Công nghệ xử lí bề mặt,
các nghiên cứu về hình thái kết nối cũng như các thiết bị, vật liệu sử dụng
trong ghép xương ngày càng đa dạng và thuận tiện, đặc biệt kết quả khả
quan trên những vị trí thiếu xương được ứng dụng kỹ thuật GBR, kĩ thuật
nâng xoang ngày càng đơn giản và an toàn là những yếu tố làm cho sự phát
triển mạnh mẽ của chuyên ngành cấy ghép trong những năm gần đây, tỉ lệ
thành công của cấy ghép implant ngày càng tiệm cận gần hơn với con số
100% đã là những khích lệ không nhỏ cho các Bác sĩ lâm sàng trong lĩnh vực
này.
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng được chọn vào nghiên cứu là bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên bị
mất răng hàm trên từng phần được cấy ghép implant có ghép hỗn hợp xương tự
thân và xương đồng loại đông khô không khử khoáng trong cùng một thì phẫu
thuật tại BVRHMTW Hà Nội từ 2009 – 2012.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
Bệnh nhân mất răng hàm trên từng phần, có chiều cao xương có ích ở
phía sau hàm trên từ 5 đến dưới 10 mm và ở phía trước ≥ 10 mm, chiều rộng
xương tối thiểu 4 mm, khoảng cách gần xa tối thiểu 6 mm, khoảng cách từ
mào xương đến mặt nhai răng đối ≥ 5mm.
Tự nguyện đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ:
Bệnh nhân có các chống chỉ định cấy ghép như: Bị các bệnh tim mạch,
tiểu đường và các bệnh hệ thống, bệnh lý xoang hàm…
Bệnh nhân mất răng toàn hàm.
Bệnh nhân đã bị xạ trị vùng đầu mặt cố…
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu: Từ 1 /2009 đến 03/2013 tại Khoa Cấy
ghép Implant Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương Hà Nội.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng không đối chứng
2.3.2. Phương pháp xác định cỡ mẫu
Công thức tính cỡ mẫu:
2
1
n Z
s2
/2
2
Trong đó: n (cỡ mẫu) , s (độ lệch chuẩn), Δ (sai số ước lượng), Z12
/2
là hệ số
tin cậy = 1,96 (phân vị chuẩn ở mức ý nghĩa = 0,05). Sử dụng độ lệch chuẩn là
0,164 theo nghiên cứu của Linkevicius (2009) và sai số ước lượng là 0,03 đã tính
được cỡ mẫu tối thiểu là 115. Trên thực tế chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu
trên 126 implant được cấy cho 70 bệnh nhân.
2.4. Phương tiện và vật liệu nghiên cứu.
2.4.1. Hệ thống implant.
Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng 2 hệ thống implant Platon (Nhật Bản)
và Biohorizons (Mỹ) vì chúng có các đặc điểm tương đồng sau:
Đường kính và chiều dài tương đương nhau, cách thức kết nối lục giác
trong, implant có hình dạng chân răng có rãnh xoắn, vật liệu hợp kim Titanium có
độ mức độ chịu lực như nhau. Lực kết nối trụ phục hình và implant đều từ 32 –
35 N/cm.
Đều có implant đường kính nhỏ (3.0mm) hai thành phần, đây là loại
đường kính thường dùng khi chiều dày xương bị hạn chế tại vùng răng phía
trước. Ở Việt Nam, thời điểm chúng tôi tiến hành nghiên cứu chỉ có hai hệ
thống trên có loại implant này.
Chúng đều được xử lí thiết kế hiện đại, phù hợp với những xu hướng của
hiện nay nhằm mục tiêu bảo tồn xương và mô mềm quanh implant. Hệ thống
Platon thiết kế chuyển vị kết nối giữa trụ cấy ghép và abutment với mục đích
tăng lượng mô liên kết vùng trên mào xương để bảo vệ mào xương ít bị ảnh
hưởng bởi các yếu tố bất lợi (vi khuẩn, độc tố, vi chuyển động…) trong môi
trường miệng nhằm giảm mức độ tiêu xương. Hệ thống Biohorizons được thiết
kế 3mm vùng cổ có những rãnh xoắn nhỏ và xử lí bề mặt bằng công nghệ Laser
Lok có khả năng tạo bám dính mô mềm chặt chẽ hơn các bề mặt thông thường,
bám dính của mô liên kết này được gọi là tích hợp mô mềm nhằm bảo vệ mào
xương xung quanh cổ implant.
2.4.2. Vật liệu ghép xương.
Xương đồng loại đông khô không khử khoáng được sử dụng trong nghiên
cứu này là xương Miner Oss (Mỹ) gồm có 50% xương xốp để tăng yếu tố dẫn
tạo xương , 50% là xương vỏ nhằm duy trì khoảng trong thời gian một năm
giúp cho xương mới có thể phát triển tốt. Ngoài ra chúng tôi luôn tận dụng
những mảnh xương vụn trong quá trình khoan hoặc dụng cụ nạo, mũi khoan lấy
xương ở những vị trí lân cận để sử dụng phối hợp nhằm phát huy khả năng sinh
xương chỉ có trong xương tự thân. Như thế vị trí khuyết hổng xương trong
nghiên cứu này đã được sử dụng một hỗn hợp xương mang đầy đủ các yếu tố
sinh xương, dẫn tạo xương và tính cảm ứng xương (có trong xương đồng loại
và tự thân) nhằm đảm bảo cho kết quả ghép xương tốt hơn.
Màng collagen tự tiêu kích thước 10 x 20 mm, 20 x 30 mm hoặc 30 x 40
mm được sử dụng trong nghiên cứu có tên thương mại là Mem Lok (Mỹ) có
khả năng tự tiêu trong khoảng thời gian từ 26 đến 38 tuần. Màng Mem lok có
lỗ với kích cỡ vừa đủ giúp các phân tử lớn lưu chuyển các dưỡng chất cần thiết
cho quá trình lành thương, thích nghi dễ dàng với nhiều loại khiếm khuyết
xương.
2.5. Các bước tiến hành nghiên cứu
2.5.1. Khám lâm sàng
2.5.2. Chụp phim X quang
2.5.3. Đánh giá hình thái thiếu xương để lựa chọn cách thức phẫu thuật.
2.5.4. Các xét nghiệm cận lâm sàng khác
2.5.5. Kỹ thuật tiến hành cấy ghép Implant
2.5.6. Phẫu thuật bộc lộ implant và đặt trụ lành thương để làm phục hình
2.5.7. Làm phục hình trong labo
2.5.8. Lắp răng giả trên lâm sàng.
2.8. Xử lý số liệu : Phần mềm SPSS 16.0 và một số thuật toán thống kê
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm lâm sàng và Xquang vùng răng mất.
3.1.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo giới tính và tuổi: Tổng số đối
tượng tham gia nghiên cứu là 70 bệnh nhân, nữ giới chiếm 64,3% nhiều hơn
nam giới chiếm 35,7%, tuổi trung bình là 42,2 ± 14,8 tuổi. Không có sự khác
nhau giữa nam và nữ ở các nhóm tuổi với p > 0,05.
3.1.5. Độ đặc của xương: Xương loại D3 gặp phổ biến, có 68/126 trường hợp
chiếm 54%, tập chung chủ yếu ở vùng răng sau. Xương loại D2 có 46/126 trường
hợp chiếm 36,5% tập trung nhiều ở vùng răng trước. Xương loại D4 ít gặp, có
12/126 trường hợp chiếm 9,5 % và chỉ gặp ở răng sau hàm trên. Có sự liên quan
giữa độ đặc xương và vị trí răng hàm trên với p < 0.001.
3.1.6. Phân bố vị trí thiếu xương
Bảng 3.9. Phân bố vị trí thiếu xương và vị trí răng mất
Vị trí răng mất
Dạng thiếu
Răng trước
Răng sau
Chung
xương
Cổ
n
%
n
%
n
%
29
59,2
18
23,4
47
37,3
Thân
20
40,8
17
22,1
37
29,4
Chóp
0
0,0
42
54,5
42
33,3
Tổng
49
100,0
77
100,0
126
100,0
p
<0,001
Vị trí thiếu xương vùng cổ implant có 47/126 trường hợp chiếm 37,3%. Thiếu
xương vùng thân implant có 37/126 trường hợp chiếm 29,4 %. Thiếu xương
vùng chóp implant có 42/126 trường hợp chiếm 33.3 %. Trong nhóm răng sau thì
thiếu xương vùng chóp implant chiếm đa số với 54,5%. Trong nhóm răng trước
thì thiếu xương vùng cổ implant chiếm đa số với 59,2%. Sự liên quan giữa vị trí
thiếu xương và vị trí mất răng với p < 0,001.
3.1.7. Dạng sinh học mô mềm: Nhóm răng trước thì dạng mô mềm mỏng
phổ biến hơn với tỉ lệ 55,1% . Nhóm răng sau thì dạng mô mềm dày chiếm đa số
với 53,2%.
3.1.8. Kích thước trụ cấy ghép: Đường kính trụ 3,3 3,8 mm được sử dụng
nhiều nhất (46,8%). Toàn bộ trụ đường kính 3,0 mm sử dụng cho nhóm răng
trước. Đường kính trụ 4,6 – 4,7 – 5,8 chỉ sử dụng ở nhóm răng sau. Nhóm chiều
rộng xương > 9 mm thì đường kính trụ 4,6 – 4,7 mm được sử dụng nhiều nhất
với 84,4%. Nhóm chiều rộng xương <6 mm thì đường kính trụ 3,3 – 3,8mm
được sử dụng nhiều nhất với 60,6%. Sự liên quan đường kính trụ và chiều rộng
xương có ý nghĩa với p < 0.001.
3.2. Kết quả cấy ghép
3.2.1. Mức độ ổn định sơ khởi
20 35
> 35
33,3%
66,7%
Biểu đồ 3.1. Mức độ ổn định số khởi
Trong nghiên cứu của chúng tôi mức độ ổn định sơ khởi > 35 N/cm chiếm tỉ lệ cao
gấp đôi so với mức độ ổn định sơ khởi 2035N/cm với 66,7%.
3.2.2. Tình trạng vết thương
3.2.2.1. Mức độ đau sau phẫu thuật: Mức độ đau nhẹ chiếm nhiều nhất với tỉ
lệ 39,7%. Mức độ không đau chiếm 23%, trong đó mức độ này xuất hiện nhiều
nhất ở nhóm có vị trí thiếu xương vùng chóp với 19/29 trường hợp, chiếm 65,5
%. Tại vị trí thiếu xương vùng cổ và thân trụ cấy ghép mức độ đau vừa chiếm tỉ
lệ cao tương ứng là: 53,2% và 40,5%. Ngược lại, tại ví trí thiếu xương vùng
chóp trụ cấy ghép thì mức độ đau vừa lại chiếm tỉ lệ thấp nhất là 16,7%. Sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p< 0,001.
3.2.2.2. Sưng nề sau phẫu thuật: Đa số những trường hợp ghép xương đều có
phản ứng sưng nề với 87/126 chiếm 69%. Tỉ lệ phản ứng sưng nề giảm dần
theo vị trí thiếu xương từ cổ, thân và chóp của trụ cấy ghép (48,3%, 33,3%,
18,4%). Tại vị trí thiếu xương vùng cổ và thân thì số trường hợp có phản ứng
sưng nề luôn cao hơn nhiều so với những trường hợp không có phản ứng sưng
nề với tỉ lệ tương ứng là 89,4 % và 78,4%. Trong khi đó, tại vị trí thiếu xương
vùng chóp thì những trường hợp không có phản ưng sưng nề lại chiếm tỉ lệ cao
hơn với 61,9%. Có sự liên quan giữa phản ứng sưng nề sau phẫu thuật và vị trí
thiếu xương với p< 0,001.
3.2.2.3. Hở vết thương:
Bảng 3.20. Liên quan giữa biến chứng hở vết thương và tiêu xương trước phục
hình(mm)
Gần
Tiêu xương
Hở vết thương
Xa
p
n
X SD
n
X SD
Có
18
0,41 0,12
18
0,43 0,14
>0,05
Không
105
0,33 0,08
105
0,32 0,08
>0,05
p
0,005
0,001
Bảng 3.20 cho thấy 18 trường hợp bị hở vết thương ở thời điểm 7 10 ngày có
mức độ tiêu xương cao hơn so với những trường hợp không bị hở vết thương.
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p= 0.005 phía gần và p= 0,001 phía xa.
3.2.3. Tiêu xương trước phục hình(mm):
Bảng 3.21. Liên quan giữa loại mô mềm và mức độ tiêu xương trước phục
hình
Tiêu xương
Gần
Xa
p
n
X SD
n
X SD
Mỏng
60
0,39 0,09
60
0,38 0,11
>0,05
Dày
63
0,29 0,06
0,000
63
0,30 0,07
0,000
>0,05
Mô mềm
p
Bảng 3.21 cho thấy trên những bệnh nhân có dạng mô mềm mỏng có mức tiêu
xương trung bình phía gần là 0,39 0,09, phía xa là 0,38 0,11. Trong khi đó trên
những bệnh nhân có dạng sinh học mô mềm dày thì mức độ tiêu xương trung bình
phía gần là 0,29 0,06, phía xa là 0,30 0,07. Sự khác biệt mức độ tiêu xương
giữa dạng sinh học mô mềm mỏng và dày có ý nghĩa thống kê với p< 0,0001.
3.2.4. Độ rộng niêm mạc sừng hóa:
Bảng 3.22. Liên quan giữa vị trí thiếu xương và sự thay đổi độ rộng niêm
mạc sừng hóa trước và sau phẫu thuật
Vị trí thiếu
xương
Độ rộng
niêm mạc
Cổ
n
X SD
Thân
n
X SD
Chóp
n
X SD
6,45 0,9
6,62 0,8
6,89 1,0
37
42
6
7
2
5,05 1,1
6,55 0,9
Sau PT
44
37 5,37 1,0 42
3
5
p
0,000
0,000
0,117
Những trụ cấy ghép có vị trí thiếu xương vùng cổ và vùng thân : Sự thay đổi độ
Trước PT
44
rộng niêm mạc sừng hóa giữa trước và sau khi phẫu thuật có ý nghĩa thống kê
với p< 0,05. Những trụ cấy ghép có vị trí thiếu xương vùng chóp: Sự thay đổi
độ rộng niêm mạc sừng hóa giữa trước và sau phẫu thuật chưa có ý nghĩa thống
kê với p> 0,05.
3.2.6. Tỉ lệ thành công : 97,6%, tỉ lệ đào thải : 2,4%.
3.2.9. Kết quả phục hồi chức năng: Khả năng phục hồi chức năng ăn nhai
của phục hình trên implant ở mức tốt luôn chiếm tỉ lệ cao ở các thời điểm đánh
giá khác nhau, tỉ lệ này tăng dần theo thời gian (77,2%; 90,6%; 94,6% và 90%).
Khả năng phục hồi chức năng ăn nhai kém luôn chiếm tỉ lệ ít nhất ở các thời
điểm đánh giá khác nhau, tỉ lệ này giảm dần theo thời gian . Khả năng khôi phục
thẩm mĩ ở mức độ tốt luôn đạt tỉ lệ cao nhất tại mỗi thời điểm đánh giá, số
trường hợp đạt kết quả tốt cũng tăng dần tỉ lệ thuận với thời gian theo
dõi(73,2%; 74,4%; 81,1%; 80%). Khả năng khôi phục thẩm mĩ ở mức độ kém
luôn chiếm tỉ lệ ít nhất tại các thời điểm đánh giá.
3.2.10. Tiêu xương sau phục hình: Mức độ tiêu xương tăng dần theo thời
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
1
0.8
0.639
0.723
0.538
0.6
0.412
0.4
0.2
0
6 tháng
12 tháng
24 tháng
36 tháng
Thờ
i
gia
n
Tiêu xương
gian, tuy nhiên mức độ tiêu xương giữa các khoảng thời gian thì giảm dần. Sự
3.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kích thước nhú lợi quanh implant
3.3.1. Thời gian sau phục hình
Bảng 3.28. Mối liên quan giữa thời gian sau phục hình và mức độ đầy đủ của
nhú lợi quanh implant ( so sánh giữa 12 và 6 tháng)
Nhú lợi
Thời gian PH
Sau 12 tháng
Đầy đủ
Chưa đầy đủ
n
%
n
%
16
22,9
54
77,1
RR (95% CI)
p
2,66
0,02
Sau 6 tháng
6
8,6
64
91,4
(1,11 – 6,42)
Kết quả bảng 3.28 cho thấy ở thời điểm sau phục hình 12 tháng số nhú lợi đầy
đủ cao gấp 2,66 lần so với thời điểm 6 tháng sau phục hình. Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p < 0,02.
Bảng 3.29. Mối liên quan giữa thời gian sau phục hình và mức độ đầy đủ của
nhú lợi quanh implant (so sánh 24 tháng và 6 tháng)
Nhú lợi
Thời gian PH
Sau 24 tháng
Sau 6 tháng
Đầy đủ
Chưa đầy đủ
RR (95% CI)
n
%
n
%
29
50,0
29
50,0
7,25
93,1
(2,72 – 19,32)
4
6,9
54
p
0,001
Kết quả bảng 3.29 cho thấy ở thời điểm sau phục hình 24 tháng số nhú lợi đầy
đủ cao gấp 7,25 lần so với thời điểm 6 tháng sau phục hình. Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p < 0,001.
3.3.2. Dạng sinh học mô mềm
Bảng 3.31. Mối liên quan giữa dạng sinh học mô mềm và mức độ đầy đủ của
nhú lợi quanh implant.
Nhú lợi
Loại mô mềm
Dày
Đầy đủ
Chưa đầy đủ
OR (95% CI)
n
%
n
%
26
25,5
76
74,5
15,57
(3,66 – 138,06)
Mỏng
2
2,2
91
97,8
Tổng
28
14,4
167
85,6
p
<0,001
Kết quả bảng 3.31 cho thấy ở nhóm đối tượng có dạng sinh học mô mềm dày
thì khả năng nhú lợi đầy đủ cao gấp 15,57 lần so với nhóm đối tượng có dạng
sinh học mô mềm mỏng. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,001.
3.3.3. Niêm mạc sừng hóa
Bảng 3.33. Mối liên quan giữa chiều cao niêm mạc sừng hóa và mức độ đầy đủ
của nhú lợi quanh implant.
Nhú lợi
Chiều cao
Đầy đủ
Chưa đầy đủ
OR (95% CI)
niêm mạc
> 2
n
%
n
%
26
27,1
70
72,9
18,01
≤ 2
2
2,0
97
98,0
(4,14 – 78,40)
Tổng
28
14,4
167
85,6
p
<0,001
Kết quả bảng 3.33 cho thấy nhóm đối tượng có chiều cao niêm mạc sừng hóa >
2 mm thì khả năng nhú lợi đầy đủ cao gấp 18,1 lần so với nhóm đối tượng có
chiều cao niêm mạc sừng hóa ≤ 2 mm.Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p
<0,001.
3.3.4. Mức độ tiêu xương
Bảng 3.34. Mối liên quan giữa mức độ tiêu xương sau phục hình và kích thước
nhú lợi quanh implant
Thời
gian
Kích
thước
0
12 tháng
6 tháng
X SD
n
X SD
n
X SD
n
2
0,70 0,0
2
1,22 0,0
2
1,45 0,0
0
88
0,44 0,1
0
12
5
2
77
0,40 0,0
28
0,40 0,3
2
0,59 0,1
40
0,44 0,0
6
0,47 0,1
5
0,79 0,1
4
9
21
7
16
X SD
0
6
8
3
36 tháng
n
0
1
24 tháng
0,51 0,0
0
2
4
29
0,62 0,8
0
0,98 0,0
0,67 0,0
9
14
0,65 0,0
8
Kết quả bảng 3.34 cho thấy: Ở cùng một thời điểm, kích thước nhú lợi càng
cao thì mức độ tiêu xương càng thấp.Những nhú lợi có cùng một kích thước có
mức độ tiêu xương tăng dần theo các mốc thời gian 6, 12, 24 và 36 tháng.
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Chương 4. BÀN LUẬN
4.1. Nhận xét về các đặc điểm lâm sàng và X quang của nhóm bệnh
nhân nghiên cứu.
4.1.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo giới tính và tuổi
4.1.1.1. Giới tính: Trong nghiên cứu của chúng tôi, tổng số đối tượng tham gia
nghiên cứu là 70 bệnh nhân, nữ giới chiếm tỉ lệ 64,3% nhiều hơn nam giới
chiếm 35,7%. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Phạm Thanh Hà (2011)
có 38,9% là nam và nữ là 61,1% , Đàm Văn Việt(2009) có 62,85% là nữ và
37,15% là nam, Agnini(2012) có 66,7% nữ và 33,3% là nam.
4.1.1.2. Lứa tuổi của bệnh nhân: Các đối tượng tham gia nghiên cứu ở nhiều lứa
tuổi, nhỏ nhất là 19 tuổi, lớn nhất là 66 tuổi, tuổi trung bình của nữ là: 39,1
14,5, tuổi trung bình của nam là: 47,2 14,1 tuổi và trung bình chung là 42,2 ±
14,8 tuổi. Tỉ lệ này cũng tương tự tuổi trung bình trong nghiên cứu của Trịnh
Hồng Mỹ là 44,9 ± 11,2, Tạ Anh Tuấn 42,4 tuổi hoặc nghiên cứu của Raes và cs
(2012) có tuổi trung bình là 40 ± 19.
4.1.5. Độ đặc của xương
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy xương loại D2 có 46/126 trường hợp
chiếm 36,5% tập trung nhiều ở vùng răng trước với 34/46 trường hợp, chiếm
73,9%. Lứa tuổi thường gặp là < 30 với 69%. Xương loại D2 là loại xương thích
hợp nhất để cấy ghép implant. Xương loại D3 gặp phổ biến chiếm 54%, tập
chung chủ yếu ở vùng răng sau với 53/68 trường hợp, chiếm 77,9%. Lứa tuổi
thường gặp là 30 – 50 tuổi với 64,7%. Xương loại D3 tương đối mềm nên quá
trình khoan xương diễn ra đễ dàng. Xương loại D4 ít gặp, có 12/126 trường hợp
chiếm 9,5 % và chỉ gặp ở răng sau hàm trên, chủ yếu là lứa tuổi > 50 tuổi.
Xương loại D4 là xương xốp nên implant khó có sự ổn định ban đầu, khi khoan
xương loại D4 cần đặc biệt lưu ý vì mũi khoan dễ bị lệch hướng. Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi về sự phân bố mật độ xương trên cung hàm và nhóm
tuổi phù hợp với nghiên cứu của các tác giả Phạm Thanh Hà, Đỗ Đình Hùng,
Fud, Turkyilmaz (2008).
4.1.6. Phân bố vị trí thiếu xương
Trong nhóm răng trước hàm trên có vị trí thiếu xương vùng cổ implant chiếm tỉ
lệ cao nhất là 59,2%, sau đó là nhóm thiếu xương vùng thân implant chiếm
40,2%. Nghiên cứu của chúng tôi sử dụng phân loại IIA và IIIA của Young
Sang Park (2007) để ứng dụng kỹ thuật tái tạo xương có hướng dẫn. Bach Le và
cs (2008) đã ghép xương đồng loại đông khô cho 42 implant trên 10 bệnh nhân có
những khuyết hổng nhỏ vùng cổ đạt kết quả 41 ca thành công, 2010 Dahlin và
cs ghép xương dị loại cho 41 implant Nobel Biocare trên 20 bệnh nhân theo kĩ
thuật tái sinh xương có hướng dẫn, kết quả chỉ có một implant thất bại. Trong
nhóm răng sau thì thiếu xương vùng chóp implant chiếm đa số với 54,5% vì thế
kĩ thuật nâng xoang kín ghép xương đã được ứng dụng nhằm tăng chiều cao đủ
để cấy trụ implant có chiều dài ≥ 10 mm.
4.1.7. Dạng sinh học mô mềm
Dạng sinh học mô mềm là một tiêu chí quan trọng để tiên lượng khả năng
đạt được tính thẩm mỹ của phục hình trên implant, tiên lượng sự tiêu niêm mạc
và viêm quanh implant trong tương lai. Thống kê kết quả nghiên cứu của chúng
tôi cho thấy dạng mô mềm dày và mỏng là tương đương nhau giữa nhóm răng
trước và nhóm răng sau. Tuy nhiên, trong nhóm răng trước thì dạng mô mềm
mỏng phổ biến hơn với tỉ lệ tương ứng là 27/49(55,1%), trong nhóm răng sau thì
dạng mô mềm dày chiếm đa số với 41/77 trường hợp, chiếm 53,2%. Về giới
tính cũng tương tự như vậy tỉ lệ mô mềm dày và mỏng là tương đương nhau ở
cả hai giới. Nam giới thì loại mô mềm dày chiếm tỉ lệ cao hơn với 26/48 trường
hợp, chiếm 54,2% nhưng ở nữ giới loại mô mềm dày lại chiếm tỉ lệ thấp hơn
với 37/78 trường hợp, chiếm 47,4%. Chưa thấy liên quan có ý nghĩa thống kê
giữa loại mô mềm với vị trí răng mất và giới tính của bệnh nhân với p> 0,05.
4.1.8. Kích thước trụ cấy ghép
4.1.8.1. Liên quan giữa vị trí mất răng với đường kính trụ cấy ghép
Trong nghiên cứu của chúng tôi loại implant có đường kính 3,0 mm chỉ
được sử dụng ở vùng răng phía trước, đây là vùng mất răng thiếu xương theo
chiều rộng, ngoài ra implant đường kính nhỏ còn giúp các bác sĩ lựa chọn trong
những trường hợp kích thước xương gần – xa hẹp khoảng 5 – 6 mm. Loại
đường kính sử dụng nhiều nhất trong nghiên cứu là 3,3 – 3,8 mm chiếm 46,8%,
đa số những implant này được cấy ghép ở vùng xương có chiều rộng nhỏ hơn 6
mm. Đường kính 4,6 4,7 5,8 chỉ được sử dụng ở nhóm răng sau. Trong đó loại
đường kính 5,8 chiếm tỉ lệ ít nhất với 5/126 trường hợp, chiếm 4%. Như vậy,
trong nghiên cứu này loại implant phổ biến được dùng là đường kính nhỏ và
vừa , đây cũng là xu hướng của các nhà lâm sàng trên thế giới hiện nay, quan
điểm này mới xuất hiện gần đây vì công nghệ sản xuất những implant nhỏ đã
đạt nhiều tiến bộ trong thiết kế chịu lực, hơn nữa các nhà lâm sàng nhận ra việc
duy trì một lượng mô xương đầy đủ xung quanh implant, đặc biệt là bản xương
ngoài là yếu tố quan trọng nhất để đạt kết quả cao trong điều trị.
4.1.8.2. Liên quan giữa vị trí mất răng và chiều dài trụ cấy ghép
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy chiều dài trụ từ 10 – 12 mm
chiếm nhiều nhất với tỉ lệ 77%(97 trụ) trong đó nhóm răng sau chiếm đến 75,3%
(73/97 trụ). Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Guirado (2010) cấy
60 implant có nâng xoang ghép xương bằng ba hệ thống implant :Osseotite®,
Certain®, PREVAIL® trên 50 bệnh nhân, kết quả là có 10 implant có chiều dài
10mm, 50 implant còn lại có chiều dài 11,5 mm đã được sử dụng. Chiều dài trụ
> 12mm có 29/126 trụ ,chiếm 23%, trong đó có 25/29 trụ ( 86%) được cấy ở
nhóm răng phía trước, đây là vị trí thường có chiều cao thuận lợi để chọn những
trụ có chiều dài 1215 mm nhằm khắc phục nhược điểm cho những implant
đường kính nhỏ hay được sử dụng ở nhóm răng trước do thiếu bề dày xương
hoặc những răng có khoảng gần – xa hẹp. Nghiên cứu của Raes và cs (2012)
cấy 48 trụ implant cho nhóm răng trước hàm trên trong đó có 45/48(93,75%) trụ
implant có chiều dài ≥ 13 mm. Như vậy việc lựa chọn chiều dài trụ cấy ghép
cho các vùng mất răng trong nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả
nghiên cứu của các tác giả trên thế giới.
4.2. Kết quả cấy ghép
4.2.1. Mức độ ổn định sơ khởi
Trong nghiên cứu của chúng tôi, mặc dù tiến hành cấy ghép ở hàm trên lại
thiếu xương nhưng do phối hợp sử dụng những bộ dụng cụ nén xương hay sự
điều chỉnh tốc độ khoan với mỗi loại xương , mỗi giai đoạn khoan xương, lựa
chọn mũi khoan cuối cùng hợp lí…chúng tôi đã có được 66,7% trường hợp đạt
sự ổn định sơ khởi trên 35 N/cm và 33,3 % đạt 20 – 35 N/cm. Nghiên cứu của
Kahraman và cs (2009) trên 42 implant (19 ở hàm trên, 23 ở hàm dưới) có mức độ
ổn định sơ khởi là 33 ± 11 N/cm.
4.2.2. Tình trạng vết thương
4.2.2.1. Mức độ đau và phản ứng sưng nề : Phản ứng sưng nề là dấu hiệu
thường gặp, đặc biệt trên những bệnh nhân phải sử dụng thủ thuật ghép xương
hay mô mềm thì tỉ lệ và mức độ sưng nề luôn cao hơn, nghiên cứu của chúng tôi
ghi nhận có 69% có phản ứng này. Kết quả cho thấy mức độ đau nhẹ chiếm
nhiều nhất với tỉ lệ 39,7% ,không có triệu chứng đau dữ dội nào được ghi nhận
trong quá trình thu thập số liệu nghiên cứu. Mức độ không đau chiếm 29/126
trường hợp với 23%. Tại vị trí thiếu xương vùng cổ và thân trụ cấy ghép mức
độ đau vừa (là mức đau cao nhất được ghi nhận trong nghiên cứu) và phản ứng
sưng nề đều chiếm tỉ lệ cao tương ứng là: 53,2% và 40,5%.
Ngược lại, tại vị trí thiếu xương vùng chóp trụ cấy ghép thì mức độ đau vừa và
phản ứng sưng nề lại chiếm tỉ lệ thấp nhất là 16,7%, đây là vùng sử dụng vạt
tối thiểu và không cần những đường rạch giảm căng khi thực hiện thủ thuật
nâng xoang kín. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. Diserens(2006)
đặt 66 implant trên 55 bệnh nhân chia làm hai nhóm nâng xoang kín ghép xương
Bio Oss và cấy ghép thông thường cho thấy kết quả mức độ đau không khác
nhau giữa hai nhóm. Brodala (2009) cho thấy kỹ thuật không lật vạt làm giảm
mức độ đau và phản ứng sưng nề. Wright (2011) đã báo cáo hai trường hợp loạn
cảm kéo dài sau cấy ghép nha khoa phải điều trị bằng tiêm tại chỗ hỗn hợp
Dexamethasone 4mg/ml và 2% Lidocaine (1: 100,000 Epinephrine) với tỉ lệ 50:50.
Trong nghiên cứu của chúng tôi cũng đã ghi nhận một số trường hợp xuất hiện
khối máu tụ (6/ 126 = 4,8%), bầm tím vùng môi má trên những trường hợp cần
giảm căng nhiều, vạt mở rộng về phía chóp. Tỉ lệ này trong nghiên cứu của
Schwartz (2005) trên 56 bệnh nhân ghép xương khối tự thân là 12,5 % đến 16,1%
tùy theo vị trí và phân loại khuyết hổng xương.
4.2.2.2. Hở vết thương: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy biến chứng
hở vết thương chiếm tỉ lệ 16,7%. Trong đó tỉ lệ bị hở vết thương cao nhất là
nhóm thiếu xương vùng cổ trụ cấy ghép với 14/21 trường hợp, chiếm 66,7%. Ở
vùng này, ngay bên dưới mép vết thương là vị trí khuyết hổng xương vừa được
phủ hỗn hợp xương ghép và màng sinh học nên việc đóng kín vết thương thì đầu
khó khăn hơn so với những vị trí hướng về phía chóp implant(vị trí thân implant:
33,3%).
4.2.3. Tiêu xương trước phục hình
Nghiên cứu của chúng tôi tiến hành đánh giá mức độ tiêu xương ở thời điểm
chụp phim kiểm tra ngay sau khi lắp phục hình cho thấy trên những bệnh nhân
có dạng mô mềm mỏng có mức tiêu xương trung bình phía gần là 0,39 0,09,
phía xa là 0,38 0,11. Trong khi đó trên những bệnh nhân có dạng sinh học mô
mềm dày thì mức độ tiêu xương trung bình phía gần là 0,29 0,06, phía xa là
0,30 0,07. Sự khác biệt mức độ tiêu xương giữa dạng sinh học mô mềm
mỏng và dày có ý nghĩa thống kê với p< 0,0001
4.2.4. Độ rộng niêm mạc sừng hóa