Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều trị mất răng hàm trên từng phần bằng kỹ thuật implant có ghép xương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (611.48 KB, 33 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO                                                 BỘ Y 
TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­

ĐÀM VĂN VIỆT
VŨ MẠNH TUẤN

NGHIÊN CỨU ĐIỀU TRỊ MẤT RĂNG HÀM TRÊN 
TỪNG PHẦN BẰNG KỸ THUẬT IMPLANT CÓ GHÉP 
XƯƠNG

Chuyên ngành: Răng Hàm Mặt
Mã số: 62720601

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC


 
                                                                           

 HÀ NỘI ­ 2013


CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI :
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
trêng ®¹i häc y hµ néi

Người hướng dẫn khoa học: 
            PGS.TS. TRỊNH ĐÌNH HẢI
GS. TS. TRẦN VĂN TRƯỜNG



Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Bắc Hùng
Phản biện 2: PGS.TS. Lê Văn Sơn
Phản biện 3: PGS.TS Trương Uyên Thái
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án Tiến sĩ cấp 
Trường họp tại Trường Đại học Y Hà Nội 
Vào hồi:       giờ       phút, ngày      tháng       năm

Có thể tìm luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Đại học Y Hà Nội


- Thư viện Thông tin Y học
- Th viÖn Quèc gia ViÖt Nam

NHỮNG CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 
ĐàĐƯỢC CÔNG BỐ
1.

Đàm Văn Việt, Lê Văn Sơn( 2008): “Đánh giá kết quả cấy ghép  
implant  nha khoa  một  thì  bằng  hệ   thống Platon tại  Viện Răng  
Hàm Mặt Quốc Gia”, tạp chí y học thực hành – Bộ y tế, số 2 ( 644  
+ 645).

2.

Đàm Văn Việt, Trịnh Đình Hải ( 2013): “ Thay đổi nhú lợi xung  
quanh phục hình implant ở nhóm răng trước hàm trên : Niêm mạc  
dày so với niêm mạc mỏng”, tạp chí y học thực hành – Bộ y tế, số 

4 ( 866).

3.

 Đàm Văn Việt, Trịnh Đình Hải ( 2013): “Nhận xét một số đặc  
điểm lâm sàng bệnh nhân mất răng hàm trên từng phần trong kỹ 
thuật cấy ghép implant nha khoa có ghép xương”,  tạp chí y học 
thực hành –  Bộ y tế, số 5(869). 


A. GIỚI THIỆU LUẬN ÁN
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay với những  ứng dụng mới của khoa h ọc kỹ  thu ật vào y học,  
ngành răng hàm mặt đã có những bước tiến đột phá trong phục hình mất răng.  
Phục hình răng giả  cố   định  tối  ưu nhất là  sử  dụng phương pháp cấy ghép 
implant nha khoa. Cấy ghép Implant giúp phục hồi lại chức năng ăn nhai, có 
tính thẩm mỹ  cao, tồn tại lâu dài, ngăn chặn sự  tiêu xương hàm, ổn định khớp  
cắn, bảo vệ  sự  toàn vẹn của các răng còn lại, nhờ  đó chất lượng cuộc sống  
của bệnh nhân được cải thiện.  Chính vì những lý do trên, cấy ghép implant 
đang là sự  lựa chọn hàng đầu cho những người bị  mất răng. Một trong những 
yếu tố quan trọng để cấy ghép implant là thể tích xương đầy đủ nhằm đảm bảo  
cho implant thành công cả  chức năng ăn nhai và thẩm mỹ. Xương hàm trên là  
xương xốp, vì thế sau khi mất răng thường gây tiêu xương nhiều, hơn nữa đặc 
điểm giải phẫu bản xương phía ngoài nhóm răng phía trước hàm trên rất mỏng,  
phía sau thì liên quan đến xoang hàm, vì vậy  ở  vùng giải phẫu này hiện tượng 
thiếu xương là thường gặp và gây rất nhiều khó khăn cho các bác sĩ trong thực 
hành cấy ghép implant nha khoa. Mặt khác, nhóm răng trước hàm trên đóng vai 
trò quan trọng trong khía cạnh thẩm mĩ, là nơi mà các nhà lâm sàng trên thế giới  
gọi là “vùng thách thức” trong implant nha khoa. Xuất phát từ  những tình huống  
trên lâm sàng và nhu cầu thực tiễn chúng tôi tiến hành đề tài "Nghiên cứu điều  

trị mất răng hàm trên từng phần bằng kỹ thuật implant có ghép xương" với 
những mục tiêu sau :
 1. Mô tả đặc điểm lâm sàng và X quang  của bệnh nhân mất răng hàm trên từng  
phần được điều trị cấy implant có ghép xương.
 2.  Đánh giá kết quả cấy ghép implant nha khoa của nhóm bệnh nhân trên.
 3.  Nhận xét một số yếu tố ảnh hưởng đến nhú lợi quanh implant.


TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
       Khi cấy ghép implant  ở xương hàm trên thường gặp các khó khăn về  kích 
thước xương theo ba chiều trong không gian do cấu tạo của xương hàm trên là 
xương xốp, chứa hốc mũi và xoang hàm nên tiêu xương nhanh sau khi mất răng.  
Để  đạt được khối lượng xương cần thiết, hầu hết các trường hợp đặt implant  
cho phía trước hàm trên phải ghép xương bổ xung mặt ngoài  hoặc nâng xoang ở 
phía sau. Những yếu tố: Dạng sinh học mô mềm, chiều dày xương, niêm mạc 
sừng hóa, thời gian sau phục hình, thiết kế  kết nối và xử  lý bề  mặt vùng cổ 
implant có  ảnh hưởng như  thế  nào đến sự  tiêu xương và kích thước nhú lợi  
quanh implant đang còn là vấn đề cần được khảo sát, xác định, nhằm góp phần  
lập kế hoạch cấy ghép implant đạt kết quả tốt.

Ý NGHĨA THỰC TIỄN VÀ ĐÓNG GÓP MỚI
1. Là nghiên cứu đánh giá kết quả  cấy ghép implant có ghép hỗn hợp 
xương tự  thân và xương đồng loại đông khô không khử  khoáng  ở  những bệnh  
nhân mất răng hàm trên từng phần. Tại Việt Nam, cho đến nay chưa có nghiên 
cứu nào về  cấy ghép implant riêng biệt  ở  xương hàm trên. Vì thế  các kết quả 
nghiên cứu đã khẳng định sự cần thiết, tính khoa học của đề tài .
2. Các yếu tố   ảnh hưởng đến kích thướ c nhú lợi quanh implant: Dạng  
sinh học mô mềm, thời gian, niêm mạc sừng hóa, mức độ tiêu xươ ng . 
3. Nghiên cứu đã tiến hành đặt implant và ghép hỗn hợp xươ ng tự  thân 
và xương đồng loại đông khô không khử khoáng, sau đó đánh giá bằng phim X  

quang và máy Periotest cho th ấy kh ả năng tích hợp xương tốt.
4. Ứng dụng phim CT.cone beam trong lập kế hoạch và đánh giá kết quả 
điều trị là phương pháp tốt nhất hiện nay. Sử dụng máy Periotest  để đánh giá  tích 
hợp xương là phương pháp an toàn và có độ tin cậy cao.
5. Kỹ  thuật nâng xoang kín bằng bộ  mũi khoan mở  đáy xoang là phương 
pháp an toàn và tạo độ ổn định sơ khởi tốt. 

CẤU TRÚC LUẬN ÁN


Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận và kiến nghị, luận án gồm 4 chương:  
Tổng quan nghiên cứu: 38 trang.  Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 21 
trang. Kết quả  nghiên cứu: 30 trang. Bàn luận: 40 trang. Luận án có 34 bảng, 7 
biểu đồ, 72 hình ảnh, 172 tài liệu tham khảo (10 tiếng Việt,  162 tiếng Anh).

B.  NỘI DUNG LUẬN ÁN
Chương 1. TỔNG QUAN
1.2. Sự thay đổi của sống hàm sau khi mất răng:   Răng và mô bám dính xung 
quanh­ xêmăng chân răng, dây chằng nha chu và xương bó lập thành một đơn vị 
chức năng. Do đó, lực nhai được truyền từ  thân răng qua chân răng và mô bám  
dính  tới cấu trúc mô cứng nâng đỡ trong xương ổ răng. Sự mất răng dẫn tới kích 
thước của sống hàm giảm đi rõ rệt. Vì thế  khi cấy ghép implant thường phải  
phối hợp các kỹ thuật ghép xương nhằm đảm bảo thể tích xương lý tưởng xung  
quanh implant.
1.3. Tích hợp xương: Là sự liên kết trực tiếp về cấu trúc và chức năng giữa bề 
mặt Implant và tổ chức xương xung quanh. 
1.4. Vật liệu ghép xương : Vật liệu ghép xương có nhiều mục đích khác nhau 
trong tái tạo xương có hướng dẫn: Nâng đỡ  cho màng, hoạt động như  một cái  
giàn để xương phát triển  vào từ  vùng nhận xương, kích thích xương phát triển  
vào, là một tấm chắn cơ  học chống lại áp lực từ  mô mềm che phủ  phía trên…

Gồm có các loại xương và màng sinh học:
 ­ Xương tự thân, xương đồng loại,  xương dị loại, xương tổng hợp.
 ­ Màng sinh học: Màng collagen, màng PTFE, màng Titanium.
1.6. Diễn biến mô học của quá trình ghép xương: Sự  lành thương và tái tạo 
của xương ghép nhờ  ba cơ  chế: Sinh tạo xương, dẫn tạo xương, cảm  ứng  
xương. Quá trình tái tạo xương phải có một trong ba cơ chế trên tham gia.

1.7. Kỹ thuật ghép xương
1.7.1. Kỹ thuật tái sinh xương có hướng dẫn (GBR):  Hơn 20 năm qua, đã 
có một sự  tiến bộ  đáng kể  trong sự  phát triển của kỹ  thuật GBR vào lĩnh vực  
Implant nha khoa. GBR đã trở  thành một kỹ  thuật cơ  bản trong việc tái tạo các 


thiếu hổng cục bộ của xương ổ răng, tạo khả năng thực hiện cấy implant cho bệnh  
nhân. Sự tiến bộ này là yếu tố quan trọng góp phần vào sự phát triển nhanh chóng 
của implant nha khoa trong thời gian qua.

1.7.2. Kỹ thuật nâng xoang ghép xương: Xương còn đủ là yếu tố chính giúp 
cho việc cấy ghép implant nha khoa vào hàm trên thành công. Khi chiều cao  
xương từ  nền xoang đến mào sống hàm trên còn dưới 10 mm thì nên tiến hành 
ghép xương nâng cao sàn xoang hoặc ghép xương  ổ  răng để  có thể  cấy được 
implant   ≥ 10mm và làm phục hình.  Hiện nay với trang thiết bị  hỗ  trợ  ngày 

càng tốt như  sử  dụng máy siêu âm trong mở  xương, nâng xoang hay bộ 
dụng cụ mở  đáy xoang an toàn và nâng màng xoang bằng bơm nước…Kỹ 
thuật nâng xoang ngày càng an toàn vì thế chỉ định ghép xương nâng xoang 
kín để cấy implant ngày càng phổ biến.
1.8. Đặc điểm mô mềm quanh implant:  Mặt ngoài của niêm mạc quanh 
implant cũng được bao phủ bởi niêm mạc miệng sừng hóa nối với hàng rào biểu 
mô mỏng (giống như  biểu mô nối  ở  răng) đối diện trụ  lành thương (healing 

abutment). Hàng rào biểu mô có chiều dày chỉ  vài lớp tế  bào và điểm tận cùng  
của cấu trúc biểu mô nằm khoảng 2 mm về  phía chóp so với đường viền mô 
mềm, cách mào xương 1­1,5 mm. Mô liên kết trên xương có sự  tiếp xúc trực  
tiếp với bề mặt (TiO2) của implant. Những sợi collagen trong mô liên kết xuất 
phát từ  màng xương của mào xương và mở  rộng về  phía viền mô mềm theo 
hướng song song với bề  mặt trụ. Hệ  thống mạch máu của niêm mạc quanh  
implant có nguồn gốc chủ  yếu từ  những mạch máu trên màng xương bên ngoài 
xương ổ răng. Những mạch máu này tỏa ra các nhánh đến niêm mạc trên xương 
ổ  răng rồi hình thành các mao mạch bên dưới biểu mô miệng và đám rối mạch  
máu nằm ngay bên cạnh hàng rào biểu mô. Phần mô liên kết của bám dính xuyên  
niêm mạc vào bề  mặt của implant chứa ít mạch máu và toàn bộ  những mạch  
máu này được xác định là nhánh tận của mạch máu trên màng xương.

1.9. Cách thức kết nối và xử  lí kỹ  thuật vùng cổ  implant nhằm giảm  
mức độ  tiêu xương: Vùng cổ implant là nơi lực tác động lớn nhất lên tổ 
chức xương xung quanh và cũng là nơi xương thường bị tiêu trước và sau  


khi chịu lực. Theo nguyên tắc sinh học thì luôn có sự tiêu xương xung quanh  
implant. Albrektson và cs(1986) cho rằng implant được coi là thành công nếu 
mức độ tiêu xương năm đầu là 1mm và 0,2mm mỗi năm tiếp theo. Ngày nay  
với những tiến bộ    khoa học kỹ  thuật mức  độ  tiêu xương đã giảm rất  
nhiều, một trong những yếu tố  quan trọng góp phần vào kết quả  đó là 

thiết kế  chuyển vị  kết nối giữa implant với trụ  phục hình  (Platform 
Switching hoặc Platform Shifting) và xử  lí bề  mặt vùng cổ  implant bằng 
Laser.
1.11. Tỉ  lệ  thành công của implant nha khoa:   Công nghệ  xử  lí bề  mặt, 
các nghiên cứu về hình thái kết nối cũng như các thiết bị, vật liệu sử dụng  
trong ghép xương ngày càng đa dạng và thuận tiện, đặc biệt kết quả  khả 

quan trên những vị trí thiếu xương được ứng dụng kỹ thuật GBR, kĩ thuật  
nâng xoang ngày càng đơn giản và an toàn là những yếu tố làm cho sự phát 
triển mạnh mẽ của chuyên ngành cấy ghép trong những năm gần đây, tỉ lệ 
thành công của cấy ghép implant ngày càng tiệm cận gần hơn với con số 
100% đã là những khích lệ không nhỏ cho các Bác sĩ lâm sàng trong lĩnh vực  
này.

                Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu 
Đối tượng được chọn vào nghiên cứu  là bệnh nhân từ  18  tuổi trở  lên  bị 
mất răng hàm trên từng phần được cấy ghép implant có ghép hỗn hợp xương tự 
thân và xương đồng loại đông khô không khử  khoáng trong cùng một thì phẫu 
thuật tại BVRHMTW Hà Nội từ 2009 – 2012.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
­ Bệnh nhân mất răng hàm trên từng phần,  có chiều cao xương có ích  ở 
phía sau  hàm trên  từ  5  đến dưới 10  mm và ở  phía trước  ≥  10 mm, chiều rộng 


xương  tối  thiểu  4  mm, khoảng  cách  gần ­ xa  tối thiểu  6  mm, khoảng cách từ 
mào xương đến mặt nhai răng đối ≥ 5mm.
         ­ Tự nguyện đồng ý tham gia nghiên cứu. 
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ:
­ Bệnh nhân có các chống chỉ  định cấy ghép như: Bị  các bệnh tim mạch, 
tiểu đường và các bệnh hệ thống, bệnh lý xoang hàm…
­ Bệnh nhân mất răng toàn hàm.
­ Bệnh nhân đã bị xạ trị vùng đầu mặt cố…
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu: Từ  1 /2009 đến 03/2013 tại Khoa Cấy 
ghép Implant Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương Hà Nội.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng không đối chứng 

2.3.2. Phương pháp xác định cỡ mẫu 
­ Công thức tính cỡ mẫu:
2
1

n Z

s2
/2

2

   Trong đó: n (cỡ mẫu) , s (độ lệch chuẩn), Δ (sai số ước lượng),  Z12

/2

 là hệ số 

tin cậy = 1,96 (phân vị chuẩn ở mức ý nghĩa   = 0,05). Sử dụng độ  lệch chuẩn là 
0,164 theo nghiên cứu của Linkevicius (2009) và sai số ước lượng là 0,03 đã tính 
được cỡ  mẫu tối thiểu là 115. Trên thực tế  chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu 
trên 126 implant được cấy cho 70 bệnh nhân. 
2.4. Phương tiện và vật liệu nghiên cứu.
2.4.1. Hệ thống implant.
Trong nghiên cứu này chúng tôi sử  dụng 2 hệ thống implant Platon (Nhật Bản)  
và Biohorizons (Mỹ) vì  chúng có các đặc điểm tương đồng sau:
­ Đường kính và chiều dài tương đương nhau, cách thức kết nối lục giác 
trong, implant có hình dạng chân răng có rãnh xoắn, vật liệu hợp kim Titanium có 
độ mức độ chịu lực như nhau. Lực kết nối trụ phục hình và implant đều từ 32 – 
35 N/cm.

­ Đều   có   implant   đường   kính   nhỏ   (3.0mm)   hai   thành   phần,   đây   là   loại 
đường kính thường dùng khi chiều dày xương bị  hạn chế  tại vùng răng phía  


trước.  Ở  Việt Nam, thời điểm chúng tôi tiến hành nghiên cứu chỉ  có hai hệ 
thống trên có loại implant này.
­

Chúng đều được xử lí thiết kế hiện đại, phù hợp với những xu hướng của  

hiện nay nhằm mục tiêu bảo tồn xương và mô mềm quanh implant. Hệ  thống 
Platon thiết kế  chuyển vị  kết nối giữa trụ cấy ghép và abutment với mục đích  
tăng lượng mô liên kết vùng trên mào xương để  bảo vệ  mào xương ít bị   ảnh  
hưởng bởi các yếu tố  bất lợi (vi khuẩn, độc tố, vi chuyển động…) trong môi 
trường miệng nhằm giảm mức độ tiêu xương. Hệ thống Biohorizons được thiết 
kế 3mm vùng cổ có những rãnh xoắn nhỏ và xử lí bề mặt bằng công nghệ Laser 
Lok có khả năng tạo bám dính mô mềm chặt chẽ hơn các bề mặt thông thường,  
bám dính của mô liên kết này được gọi là tích hợp mô mềm nhằm bảo vệ  mào  
xương xung quanh cổ implant.
2.4.2. Vật liệu ghép xương.
Xương đồng loại đông khô không khử khoáng được sử dụng trong nghiên 
cứu này là xương Miner Oss (Mỹ) gồm có 50% xương xốp để  tăng yếu tố  dẫn  
tạo xương , 50% là xương vỏ  nhằm duy trì khoảng trong thời gian   một năm  
giúp cho xương mới có thể  phát triển tốt. Ngoài ra chúng tôi luôn tận dụng  
những mảnh xương vụn trong quá trình khoan hoặc dụng cụ nạo, mũi khoan lấy 
xương ở những vị trí lân cận để sử dụng phối hợp nhằm phát huy khả năng sinh 
xương chỉ  có trong xương tự  thân. Như  thế  vị  trí khuyết hổng xương trong  
nghiên cứu này đã được sử  dụng một hỗn hợp xương mang đầy đủ  các yếu tố 
sinh xương, dẫn tạo xương và tính cảm  ứng xương (có trong xương đồng loại 
và tự thân) nhằm đảm bảo cho kết quả  ghép xương tốt hơn. 

­ Màng collagen tự tiêu kích thước 10 x 20 mm, 20 x 30 mm hoặc 30 x 40  
mm được sử  dụng trong nghiên cứu có tên thương mại là Mem ­ Lok (Mỹ) có  
khả  năng tự  tiêu trong khoảng thời gian từ  26 đến 38 tuần. Màng Mem ­ lok có 
lỗ với kích cỡ vừa đủ giúp các phân tử lớn lưu chuyển các dưỡng chất cần thiết  
cho  quá   trình  lành   thương,  thích   nghi  dễ   dàng   với   nhiều  loại   khiếm   khuyết 
xương.
2.5. Các bước tiến hành nghiên cứu
2.5.1. Khám lâm sàng
2.5.2. Chụp phim X quang


2.5.3. Đánh giá hình thái thiếu xương để lựa chọn cách thức phẫu thuật.
2.5.4.  Các xét nghiệm cận lâm sàng khác
2.5.5. Kỹ thuật tiến hành cấy ghép Implant
2.5.6. Phẫu thuật bộc lộ implant và đặt trụ lành thương để làm phục hình
2.5.7. Làm phục hình trong labo
2.5.8. Lắp răng giả trên lâm sàng.
2.8. Xử lý số liệu : Phần mềm SPSS 16.0 và một số thuật toán thống kê
                                   Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Đặc điểm lâm sàng và Xquang vùng răng mất.
3.1.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo giới tính và tuổi:  Tổng số  đối 
tượng tham gia nghiên cứu là 70  bệnh nhân, nữ  giới chiếm   64,3%  nhiều hơn 
nam  giới chiếm  35,7%,    tuổi  trung bình là 42,2  ± 14,8  tuổi.  Không có sự  khác 
nhau giữa nam và nữ ở các nhóm tuổi với p > 0,05.

3.1.5. Độ đặc của xương: Xương loại D3 gặp phổ biến, có 68/126 trường hợp 
chiếm 54%, tập chung chủ yếu ở vùng răng sau.  Xương loại D2 có 46/126 trường 
hợp chiếm 36,5% tập trung nhiều  ở vùng răng trước. Xương loại D4 ít gặp, có 
12/126 trường hợp chiếm 9,5 % và chỉ gặp  ở răng sau hàm trên. Có sự liên quan 

giữa độ đặc xương và vị trí răng hàm trên với p < 0.001.


3.1.6. Phân bố vị trí thiếu xương
Bảng 3.9. Phân bố vị trí thiếu xương và vị trí răng mất
   Vị trí răng mất
Dạng thiếu 

Răng trước

Răng sau

Chung

xương
Cổ

n

%

n

%

n

%

29


59,2

18

23,4

47

37,3

Thân 

20

40,8

17

22,1

37

29,4

Chóp 

0

0,0


42

54,5

42

33,3

Tổng

49

100,0

77

100,0
126
100,0
p
<0,001
  Vị trí thiếu xương vùng cổ implant có 47/126 trường hợp chiếm 37,3%.   Thiếu 
xương  vùng thân implant    có 37/126  trường hợp chiếm 29,4  %.  Thiếu xương 
vùng chóp implant có 42/126 trường hợp chiếm 33.3 %. Trong nhóm răng sau thì 
thiếu xương vùng chóp implant chiếm đa số  với 54,5%. Trong nhóm răng trước 
thì thiếu xương vùng cổ implant chiếm đa số với 59,2%. Sự liên quan giữa vị trí 
thiếu xương và vị trí mất răng với p < 0,001.

3.1.7. Dạng sinh học mô mềm:  Nhóm răng trước thì dạng mô mềm mỏng 

phổ biến hơn với tỉ lệ 55,1% . Nhóm răng sau thì dạng mô mềm dày chiếm đa số 
với 53,2%. 
3.1.8. Kích thước trụ  cấy ghép: Đường kính trụ  3,3­ 3,8 mm được sử  dụng 
nhiều nhất  (46,8%). Toàn bộ  trụ  đường kính  3,0  mm  sử  dụng  cho nhóm răng 
trước. Đường kính trụ  4,6 – 4,7 – 5,8 chỉ sử dụng  ở nhóm răng sau. Nhóm chiều 
rộng xương > 9 mm thì  đường kính trụ 4,6 – 4,7 mm được sử dụng nhiều nhất  
với 84,4%. Nhóm chiều rộng xương <6 mm thì đường kính trụ  3,3 – 3,8mm 
được sử dụng nhiều nhất với 60,6%. Sự liên quan đường kính trụ và chiều rộng 
xương có ý nghĩa với p < 0.001.

3.2. Kết quả cấy ghép
3.2.1.  Mức độ ổn định sơ khởi
20 ­35
> 35
33,3%

66,7%


Biểu đồ 3.1. Mức độ ổn định số khởi
Trong nghiên cứu của chúng tôi mức độ ổn định sơ khởi > 35 N/cm chiếm tỉ lệ cao 
gấp đôi so với mức độ ổn định sơ khởi 20­35N/cm với 66,7%.

3.2.2. Tình trạng vết thương
3.2.2.1.  Mức độ  đau sau phẫu thuật: Mức độ  đau nhẹ chiếm nhiều nhất với tỉ 
lệ 39,7%. Mức độ không đau chiếm 23%, trong đó mức độ  này xuất hiện nhiều  
nhất  ở nhóm có vị  trí thiếu xương vùng chóp với 19/29 trường hợp, chiếm 65,5 
%. Tại vị trí thiếu xương vùng cổ và thân trụ cấy ghép mức độ đau vừa chiếm tỉ 
lệ  cao   tương  ứng là: 53,2% và 40,5%. Ngược lại, tại ví trí thiếu xương vùng 
chóp trụ  cấy ghép thì mức độ   đau vừa lại chiếm tỉ  lệ  thấp nhất là 16,7%. Sự 

khác biệt có ý nghĩa thống kê với p< 0,001.
3.2.2.2.  Sưng nề  sau phẫu thuật: Đa số  những trường hợp ghép xương đều có 
phản  ứng sưng nề  với 87/126 chiếm 69%. Tỉ  lệ  phản  ứng sưng nề  giảm dần  
theo vị  trí thiếu xương từ  cổ, thân và chóp của trụ  cấy ghép (48,3%, 33,3%, 
18,4%). Tại vị  trí thiếu xương vùng cổ  và thân thì số  trường hợp có phản  ứng 
sưng nề luôn cao hơn nhiều so với những trường hợp không có phản ứng sưng  
nề với tỉ  lệ  tương  ứng là 89,4 % và 78,4%. Trong khi đó, tại vị  trí thiếu xương  
vùng chóp thì những trường hợp không có phản ưng sưng nề lại chiếm tỉ lệ cao  
hơn với 61,9%. Có sự  liên quan giữa phản  ứng sưng nề sau phẫu thuật và vị  trí 
thiếu xương với p< 0,001.
3.2.2.3.  Hở vết thương:  
Bảng 3.20. Liên quan giữa biến chứng hở vết thương và tiêu xương trước phục  
hình(mm)
Gần

       Tiêu xương
Hở vết thương

Xa

p

n

X  SD

n

X  SD




18

0,41   0,12

18

0,43   0,14

>0,05

Không

105

0,33   0,08

105

0,32   0,08

>0,05

p

0,005

0,001



Bảng 3.20 cho thấy 18 trường hợp bị hở vết thương  ở thời điểm 7­ 10 ngày có 
mức độ  tiêu xương cao hơn so với những trường hợp không bị  hở  vết thương.  
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p= 0.005 phía gần và p= 0,001 phía xa. 


3.2.3. Tiêu xương trước phục hình(mm): 

Bảng 3.21. Liên quan giữa loại mô mềm và mức độ tiêu xương trước phục  
hình
       Tiêu xương

Gần

Xa

p

n

X  SD

n

X  SD

Mỏng

60


0,39   0,09

60

0,38   0,11

>0,05

Dày

63

0,29   0,06
0,000

63

0,30   0,07
0,000

>0,05

Mô mềm

p

Bảng 3.21 cho thấy trên những bệnh nhân có dạng mô mềm mỏng có mức tiêu  
xương trung bình phía gần là 0,39   0,09, phía xa là 0,38   0,11. Trong khi đó trên 
những bệnh nhân có dạng sinh học mô mềm dày thì mức độ tiêu xương trung bình 
phía gần là 0,29   0,06, phía xa là 0,30   0,07. Sự  khác biệt mức độ  tiêu xương 

giữa dạng sinh học mô mềm mỏng và dày có ý nghĩa thống kê với p< 0,0001.

3.2.4. Độ rộng niêm mạc sừng hóa: 
Bảng 3.22. Liên quan giữa vị trí thiếu xương và sự thay đổi độ rộng niêm  
mạc sừng hóa trước và sau phẫu thuật
Vị trí thiếu
 xương
Độ rộng
 niêm mạc

Cổ
n

X  SD

Thân
n

X  SD

Chóp
n

X  SD

6,45 0,9
6,62 0,8
6,89 1,0
37
42

6
7
2
5,05 1,1
6,55 0,9
Sau  PT
44
37 5,37 1,0 42
3
5
p
0,000
0,000
0,117
Những trụ cấy ghép có vị trí thiếu xương vùng cổ và vùng thân : Sự thay đổi độ 
Trước PT

44

rộng niêm mạc sừng hóa giữa trước và sau khi phẫu thuật có ý nghĩa thống kê 
với p< 0,05. Những trụ  cấy ghép có vị  trí thiếu xương vùng chóp:  Sự  thay đổi  
độ rộng niêm mạc sừng hóa giữa trước và sau phẫu thuật chưa có ý nghĩa thống 
kê với p> 0,05.
3.2.6. Tỉ lệ thành công : 97,6%, tỉ lệ đào thải : 2,4%.

3.2.9. Kết quả  phục hồi chức năng: Khả  năng phục hồi chức năng ăn nhai 
của phục hình trên implant ở mức tốt luôn chiếm tỉ lệ cao ở các thời điểm đánh  
giá khác nhau, tỉ  lệ  này tăng dần theo thời gian (77,2%; 90,6%; 94,6% và 90%).  



Khả  năng phục hồi chức năng ăn nhai kém luôn chiếm tỉ  lệ  ít nhất  ở  các thời  
điểm đánh giá khác nhau, tỉ lệ này giảm dần theo thời gian . Khả năng khôi phục 
thẩm mĩ  ở  mức độ  tốt luôn đạt tỉ  lệ  cao nhất tại mỗi thời điểm đánh giá, số 
trường   hợp   đạt   kết   quả   tốt   cũng   tăng   dần   tỉ   lệ   thuận   với   thời   gian   theo  
dõi(73,2%; 74,4%; 81,1%; 80%). Khả  năng khôi phục thẩm mĩ  ở  mức độ  kém 
luôn chiếm tỉ lệ ít nhất tại các thời điểm đánh giá.

3.2.10. Tiêu xương sau phục hình: Mức độ tiêu xương tăng dần theo thời 
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
1
0.8

0.639

0.723

0.538

0.6
0.412
0.4
0.2
0
6 tháng

12 tháng

24 tháng

36 tháng


Thờ
i
gia
n

Tiêu xương

gian, tuy nhiên mức độ tiêu xương giữa các khoảng thời gian thì giảm dần. Sự 

3.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kích thước nhú lợi quanh implant
3.3.1. Thời gian sau phục hình
Bảng 3.28. Mối liên quan giữa thời gian sau phục hình và mức độ đầy đủ của  
nhú lợi quanh implant ( so sánh giữa 12 và 6 tháng)
             Nhú lợi
Thời gian PH 
Sau 12 tháng

Đầy đủ

Chưa đầy đủ

n

%

n

%


16

22,9

54

77,1

RR (95% CI)

p

2,66

0,02


Sau 6 tháng

6

8,6

64

91,4

(1,11 – 6,42)

Kết quả bảng 3.28 cho thấy  ở thời điểm sau phục hình 12 tháng số nhú lợi đầy 

đủ  cao gấp 2,66 lần so với thời điểm 6 tháng sau phục hình. Sự  khác biệt có ý 
nghĩa thống kê với p < 0,02.
Bảng 3.29. Mối liên quan giữa thời gian sau phục hình và mức độ đầy đủ của  
nhú lợi quanh implant (so sánh 24 tháng và 6 tháng)
             Nhú lợi

Thời gian PH 
Sau 24 tháng
Sau 6 tháng

Đầy đủ

Chưa đầy đủ
RR (95% CI)

n

%

n

%

29

50,0

29

50,0


7,25

93,1

(2,72 – 19,32)

4

6,9

54

p

0,001

Kết quả bảng 3.29 cho thấy  ở thời điểm sau phục hình 24 tháng số nhú lợi đầy 
đủ  cao gấp 7,25 lần so với thời điểm 6 tháng sau phục hình. Sự  khác biệt có ý 
nghĩa thống kê với p < 0,001.

3.3.2. Dạng sinh học mô mềm
Bảng 3.31. Mối liên quan giữa dạng sinh học mô mềm và mức độ đầy đủ của  
nhú lợi quanh implant. 
             Nhú lợi

Loại mô mềm 
Dày

Đầy đủ


Chưa đầy đủ
OR (95% CI)

n

%

n

%

26

25,5

76

74,5

15,57
(3,66 – 138,06)

Mỏng

2

2,2

91


97,8

Tổng

28

14,4

167

85,6

p

<0,001


Kết quả  bảng 3.31 cho thấy  ở nhóm đối tượng có dạng sinh học mô mềm dày 
thì khả năng nhú lợi đầy đủ  cao gấp 15,57 lần so với nhóm đối tượng có dạng 
sinh học mô mềm mỏng. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,001.


3.3.3. Niêm mạc sừng hóa
Bảng 3.33. Mối liên quan giữa chiều cao niêm mạc sừng hóa và mức độ đầy đủ  
của nhú lợi quanh implant. 
             Nhú lợi
Chiều cao 

Đầy đủ


Chưa đầy đủ
OR (95% CI)

niêm mạc 
> 2

n

%

n

%

26

27,1

70

72,9

18,01

≤ 2

2

2,0


97

98,0

(4,14 – 78,40)

Tổng

28

14,4

167

85,6

p

<0,001

Kết quả bảng 3.33 cho thấy nhóm đối tượng có chiều cao niêm mạc sừng hóa > 
2 mm thì khả  năng nhú lợi đầy đủ  cao gấp 18,1 lần so với nhóm đối tượng có  
chiều cao niêm mạc sừng hóa ≤ 2 mm.Sự  khác biệt có ý nghĩa thống kê với p 
<0,001.

3.3.4. Mức độ tiêu xương
Bảng 3.34. Mối liên quan giữa mức độ tiêu xương sau phục hình và kích thước  
nhú lợi quanh implant
   Thời 

gian
Kích 
thước  
0

12 tháng

6 tháng

X  SD

n

X  SD

n

X  SD

n

2

0,70 0,0

2

1,22 0,0

2


1,45 0,0

0

88

0,44 0,1

0
12

5
2

77

0,40 0,0

28

0,40 0,3
2

0,59 0,1

40

0,44 0,0


6

0,47 0,1
5

0,79 0,1

4

9
21

7
16

X  SD

0

6

8
3

36 tháng

n

0
1


24 tháng

0,51 0,0

0
2

4
29

0,62 0,8
0

0,98 0,0
0,67 0,0
9

14

0,65 0,0
8


 Kết quả  bảng 3.34 cho thấy:  Ở  cùng một thời điểm, kích thước nhú lợi càng 
cao thì mức độ  tiêu xương càng thấp.Những nhú lợi có cùng một kích thước có 
mức độ tiêu xương tăng dần theo các mốc thời gian 6, 12, 24 và 36 tháng.
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Chương 4. BÀN LUẬN


4.1. Nhận xét về các đặc điểm lâm sàng và X quang của nhóm bệnh 
nhân nghiên cứu.
4.1.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo giới tính và tuổi
4.1.1.1. Giới tính: Trong nghiên cứu của chúng tôi, tổng số  đối tượng tham gia 
nghiên cứu là 70 bệnh nhân,   nữ  giới chiếm tỉ  lệ  64,3% nhiều hơn nam giới  
chiếm 35,7%. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Phạm Thanh Hà (2011)  
có 38,9% là nam và nữ  là 61,1% ,  Đàm Văn Việt(2009) có 62,85% là nữ  và 
37,15% là nam, Agnini(2012) có 66,7% nữ và 33,3% là nam.
4.1.1.2. Lứa tuổi của bệnh nhân: Các đối tượng tham gia nghiên cứu ở nhiều lứa 
tuổi, nhỏ  nhất là 19 tuổi, lớn nhất là 66 tuổi, tuổi  trung bình của nữ  là:  39,1 
14,5, tuổi  trung bình của nam là: 47,2   14,1 tuổi và trung bình chung là 42,2 ± 
14,8 tuổi. Tỉ  lệ  này cũng tương tự  tuổi trung bình trong nghiên cứu của Trịnh 
Hồng Mỹ là 44,9 ± 11,2, Tạ Anh Tuấn 42,4 tuổi hoặc nghiên cứu của Raes và cs 
(2012) có tuổi trung bình là 40  ± 19.

4.1.5. Độ đặc của xương
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy xương loại D2 có 46/126 trường hợp  
chiếm 36,5% tập trung nhiều  ở  vùng răng trước với 34/46 trường hợp, chiếm 
73,9%. Lứa tuổi thường gặp là < 30 với 69%. Xương loại D2 là loại xương thích  
hợp nhất  để  cấy ghép implant. Xương loại D3 gặp phổ  biến chiếm 54%, tập  
chung chủ  yếu  ở  vùng răng sau với 53/68 trường hợp, chiếm 77,9%. Lứa tuổi  
thường gặp là 30 – 50 tuổi với 64,7%. Xương loại D3 tương đối mềm nên quá 
trình khoan xương diễn ra đễ dàng. Xương loại D4 ít gặp, có 12/126 trường hợp 
chiếm 9,5 % và chỉ  gặp  ở  răng sau hàm trên, chủ  yếu là lứa tuổi > 50 tuổi. 


Xương loại D4 là xương xốp nên implant khó có sự  ổn định ban đầu, khi khoan  
xương loại D4 cần đặc biệt lưu ý vì mũi khoan dễ  bị  lệch hướng. Kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi về  sự  phân bố  mật độ  xương trên cung hàm và nhóm  
tuổi phù hợp với nghiên cứu của các tác giả  Phạm Thanh Hà, Đỗ  Đình Hùng,  

Fud, Turkyilmaz (2008).

4.1.6. Phân bố vị trí thiếu xương
Trong nhóm răng trước hàm trên có vị  trí thiếu xương vùng cổ  implant chiếm tỉ 
lệ  cao nhất là 59,2%, sau đó  là nhóm thiếu xương vùng thân implant chiếm  
40,2%. Nghiên cứu của chúng tôi sử  dụng phân loại  II­A và III­A của Young­
Sang Park (2007) để ứng dụng kỹ thuật tái tạo xương có hướng dẫn. Bach Le và 
cs (2008) đã ghép xương đồng loại đông khô cho 42 implant trên 10 bệnh nhân có 
những khuyết hổng nhỏ vùng cổ   đạt kết quả  41 ca thành công, 2010 Dahlin và 
cs ghép xương dị  loại cho 41 implant Nobel Biocare trên 20 bệnh nhân theo kĩ 
thuật tái sinh xương có hướng dẫn, kết quả  chỉ  có một implant thất bại. Trong 
nhóm răng sau thì thiếu xương vùng chóp implant chiếm đa số với 54,5% vì thế 
kĩ thuật nâng xoang kín ghép xương đã được ứng dụng nhằm tăng chiều cao đủ 
để cấy trụ implant có chiều dài ≥ 10 mm.

4.1.7. Dạng sinh học mô mềm
Dạng sinh học mô mềm là một tiêu chí quan trọng để tiên lượng khả năng  
đạt được tính thẩm mỹ của phục hình trên implant, tiên lượng sự tiêu niêm mạc  
và viêm quanh implant trong tương lai. Thống kê kết quả nghiên cứu của chúng 
tôi cho thấy dạng mô mềm dày và mỏng là tương đương nhau giữa nhóm răng 
trước và nhóm răng sau. Tuy nhiên, trong nhóm răng trước thì dạng mô mềm 
mỏng phổ biến hơn với tỉ lệ tương ứng là 27/49(55,1%), trong nhóm răng sau thì  
dạng mô mềm dày chiếm đa số  với 41/77 trường hợp, chiếm 53,2%. Về  giới  
tính cũng tương tự như vậy tỉ lệ mô mềm dày và mỏng là tương đương nhau ở 
cả hai giới. Nam giới thì loại  mô mềm dày chiếm tỉ lệ cao hơn với 26/48 trường  
hợp, chiếm 54,2% nhưng  ở  nữ  giới loại mô mềm dày lại chiếm tỉ  lệ  thấp hơn 


với 37/78 trường hợp, chiếm 47,4%.  Chưa thấy liên quan có ý nghĩa thống kê 
giữa loại mô mềm với vị trí răng mất và giới tính của bệnh nhân với p> 0,05.


4.1.8. Kích thước trụ cấy ghép
4.1.8.1. Liên quan giữa vị trí mất răng với đường kính trụ cấy ghép
Trong nghiên cứu của chúng tôi loại implant có đường kính 3,0 mm chỉ 
được sử  dụng  ở  vùng răng phía trước, đây là vùng mất răng thiếu xương theo 
chiều rộng, ngoài ra implant đường kính nhỏ  còn giúp các bác sĩ lựa chọn trong  
những trường hợp kích thước xương   gần – xa hẹp khoảng 5 – 6 mm. Loại  
đường kính sử  dụng nhiều nhất trong nghiên cứu là 3,3 – 3,8 mm chiếm 46,8%, 
đa số những implant này được cấy ghép ở vùng xương có chiều rộng nhỏ hơn 6  
mm. Đường kính 4,6­ 4,7­ 5,8 chỉ được sử dụng ở nhóm răng sau. Trong đó loại  
đường kính 5,8 chiếm tỉ  lệ  ít nhất với 5/126 trường hợp, chiếm 4%. Như  vậy,  
trong nghiên cứu này loại   implant phổ  biến được dùng là đường kính nhỏ  và 
vừa , đây cũng là xu hướng của các nhà lâm sàng trên thế  giới hiện nay, quan  
điểm này mới xuất hiện gần đây vì công nghệ  sản xuất những implant nhỏ  đã  
đạt nhiều tiến bộ trong thiết kế chịu lực, hơn nữa các nhà lâm sàng nhận ra việc  
duy trì một lượng mô xương đầy đủ xung quanh implant, đặc biệt là bản xương  
ngoài là yếu tố quan trọng nhất để đạt kết quả cao trong điều trị. 
4.1.8.2. Liên quan giữa vị trí mất răng và chiều dài trụ cấy ghép
Kết quả  nghiên cứu của chúng tôi cho thấy chiều dài trụ  từ  10 – 12 mm 
chiếm nhiều nhất với tỉ lệ 77%(97 trụ) trong đó nhóm răng sau chiếm đến 75,3% 
(73/97 trụ). Kết quả  này cũng phù hợp với nghiên cứu của  Guirado (2010) cấy 
60 implant có nâng xoang ghép xương bằng   ba hệ  thống implant   :Osseotite®, 
Certain®,  PREVAIL® trên 50 bệnh nhân, kết quả là có 10 implant có chiều dài 
10mm, 50 implant còn lại có chiều dài 11,5 mm đã được sử  dụng. Chiều dài trụ 
> 12mm  có 29/126 trụ  ,chiếm 23%, trong đó có  25/29 trụ  ( 86%) được cấy  ở 
nhóm răng phía trước, đây là vị trí thường có chiều cao thuận lợi để chọn những 
trụ  có chiều dài 12­15 mm nhằm khắc phục nhược  điểm cho những implant  


đường kính nhỏ  hay được sử  dụng  ở  nhóm răng trước do thiếu bề  dày xương  

hoặc những răng có khoảng gần – xa hẹp.  Nghiên cứu của  Raes và cs (2012) 
cấy 48 trụ implant cho nhóm răng trước hàm trên trong đó có 45/48(93,75%) trụ 
implant có chiều dài ≥ 13 mm. Như  vậy việc lựa chọn chiều dài trụ  cấy ghép 
cho các vùng mất răng trong nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả 
nghiên cứu của các tác giả trên thế giới.

4.2. Kết quả cấy ghép
4.2.1. Mức độ ổn định sơ khởi
Trong nghiên cứu của chúng tôi, mặc dù tiến hành cấy ghép ở hàm trên lại 
thiếu xương nhưng do phối hợp sử dụng những bộ dụng cụ nén xương hay sự 
điều chỉnh tốc độ  khoan với mỗi loại xương , mỗi giai đoạn khoan xương, lựa  
chọn mũi khoan cuối cùng hợp lí…chúng tôi đã có được 66,7% trường hợp đạt  
sự   ổn định sơ  khởi trên 35 N/cm và 33,3 % đạt 20 – 35 N/cm. Nghiên cứu của  
Kahraman và cs (2009) trên 42 implant (19 ở hàm trên, 23 ở hàm dưới) có mức độ 
ổn định sơ khởi là 33 ± 11 N/cm. 

4.2.2. Tình trạng vết thương
4.2.2.1.   Mức độ  đau và phản  ứng sưng nề  :  Phản  ứng sưng nề  là dấu hiệu 
thường gặp, đặc biệt trên những bệnh nhân phải sử dụng thủ thuật ghép xương  
hay mô mềm thì tỉ lệ và mức độ sưng nề luôn cao hơn, nghiên cứu của chúng tôi  
ghi nhận có 69% có phản  ứng này. Kết quả  cho thấy mức độ  đau nhẹ  chiếm  
nhiều nhất với tỉ lệ 39,7% ,không có triệu chứng đau dữ dội nào được ghi nhận 
trong quá trình thu thập số  liệu nghiên cứu. Mức độ  không đau chiếm 29/126 
trường hợp với 23%. Tại vị trí thiếu xương vùng cổ  và thân trụ  cấy ghép mức 
độ  đau vừa (là mức đau cao nhất được ghi nhận trong nghiên cứu) và phản ứng  
sưng nề đều chiếm tỉ lệ cao  tương ứng là: 53,2% và 40,5%. 
Ngược lại, tại vị trí thiếu xương vùng chóp trụ cấy ghép thì mức độ  đau vừa và 
phản  ứng sưng nề lại chiếm tỉ lệ thấp nhất là 16,7%, đây là vùng sử  dụng vạt  
tối thiểu và không cần những đường rạch giảm căng khi thực hiện thủ  thuật  



nâng xoang kín. Sự  khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. Diserens(2006) 
đặt 66 implant trên 55 bệnh nhân chia làm hai nhóm nâng xoang kín ghép xương  
Bio Oss và cấy ghép thông thường cho thấy kết quả  mức độ  đau không khác  
nhau giữa hai nhóm. Brodala (2009) cho thấy kỹ  thuật không lật vạt làm giảm 
mức độ đau và phản ứng sưng nề.  Wright (2011) đã báo cáo hai trường hợp loạn 
cảm kéo dài sau cấy ghép nha khoa phải điều trị  bằng tiêm tại chỗ  hỗn hợp  
Dexamethasone 4mg/ml và 2% Lidocaine (1: 100,000 Epinephrine) với tỉ lệ 50:50.  
Trong nghiên cứu của chúng tôi cũng đã ghi nhận một số trường hợp xuất hiện  
khối máu tụ  (6/ 126 = 4,8%), bầm tím vùng môi má trên những trường hợp cần 
giảm căng nhiều, vạt mở  rộng về  phía chóp. Tỉ  lệ  này trong nghiên cứu của 
Schwartz (2005) trên 56 bệnh nhân ghép xương khối tự thân là 12,5 % đến 16,1%  
tùy theo vị trí và phân loại khuyết hổng xương.
4.2.2.2.  Hở vết thương: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy biến chứng 
hở  vết thương chiếm tỉ  lệ  16,7%. Trong đó  tỉ  lệ  bị  hở  vết thương cao nhất là 
nhóm thiếu xương vùng cổ trụ cấy ghép với 14/21 trường hợp, chiếm 66,7%. Ở 
vùng này, ngay bên dưới mép vết thương là vị trí khuyết hổng xương vừa được 
phủ hỗn hợp xương ghép và màng sinh học nên việc đóng kín vết thương thì đầu  
khó khăn hơn so với những vị trí hướng về phía chóp implant(vị trí thân implant: 
33,3%).

4.2.3. Tiêu xương trước phục hình
Nghiên cứu của chúng tôi tiến hành đánh giá mức độ  tiêu xương  ở  thời điểm 
chụp phim kiểm tra ngay sau khi lắp phục hình cho thấy trên những bệnh nhân  
có dạng mô mềm mỏng có mức tiêu xương trung bình phía gần là  0,39   0,09, 
phía xa là 0,38    0,11. Trong khi đó trên những bệnh nhân có dạng sinh học mô 
mềm dày thì mức độ  tiêu xương trung bình phía gần là 0,29   0,06, phía xa là 
0,30     0,07. Sự    khác biệt mức độ  tiêu xương giữa dạng sinh học mô mềm 
mỏng và dày có ý nghĩa thống kê với p< 0,0001


4.2.4. Độ rộng niêm mạc sừng hóa


×