Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Một số phương pháp nâng cao hiệu quả giờ dạy lịch sử ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (924.21 KB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT HÀM RỒNG
------oOo------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIỜ DẠY Ở
TRƯỜNG THPT ĐẠT HIỆU QUẢ

Người thực hiện: Lê Thị Bình
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực : Lịch sử

THANH HOÁ, NĂM 2020


MỤC LỤC
Trang
1. PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………………...2
1.1:Lý do chọn đề tài ……………………………………………………………3
1.2.Mục tiêu nghiên cứu…………………………………………………………3
1.3.Đối tượng nghiên cứu ……………………………………………………….3
1.4.Phương pháp nghiên cứu ……………………………………………………3
2.PHẦN NỘI DUNG ……………………………………………………….…....
2.1.Cơ sở lí luận của đề tài …………………………………………………...…3
2.2.Thực trạng vấn đề nghiên cứu ……………………………………………... 4
2.3.Nội dung cụ thể ……………………………………………………………. 5
3.PHẦN KẾT LUẬN ………………………………………………………….....
3.1.Kết luận…………………………………………………………….............19
3.2.Một số kiến nghị……………………………………………………….…...19


TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………...…...21
DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SKKN ĐÃ ĐƯỢC XẾP LOẠI………………….22


1. MỞ ĐẦU
1.1 LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
-Lịch sử là một môn khoa học .Lịch sử loài người bắt đầu từ đâu thì tư duy
con người bắt đầu từ đó .Từ buổi bình minh của loài người ,con người đã có ý
thức về tổ tiên ,quê hương ,nguồn cội của mình ,biết được những gì xảy ra trong
quá khứ .Vì vậy thực tế việc giáo dục lịch sử đã có từ lâu
-Môn lịch sử ở trường phổ thông có vị trí chức năng và nhiệm vụ quan
trọng để đào tạo,giáo dục thế hệ trẻ.Chương trình lịch sử ở trường phổ thông bao
gồm các kiến thức khái quát,cụ thể về lịch sử từng quốc gia dân tộc.Do vậy
lượng kiến thức vô cùng rộng lớn cả với thầy và trò.Việc học tập lịch sử không
phải cung cấp một số kiến thức,và mẩu chuyện về quá khứ mà trang bị cho học
sinh những kiến thức khoa học.Lịch sử là hiện tượng khách quan,tồn tại độc
lập,không lệ thuộc vào nhận thức của con người.Nhận thức là một quá trình từ
không biết đến biết,từ hiểu sơ lược đến hiểu sâu sắc.Vì vậy nội dung dậy học
lịch sử tuy gồm những kiến thức tương đối ổn định song vẫn phản ánh kịp thời
những thành tựu mới của khoa học lịch sử.
- Trong giai đoạn xã hội phát triển nhanh theo hướng hiện đại hóa, cơ chế
thị trường đã làm xuất hiện lối sống thực dụng, một bộ phận không nhỏ học sinh
ở trường phổ thông không còn coi trọng kiến thức lịch sử, dẫn đến việc học sinh
học đối phó , học trước quên sau, có thái độ hời hợt khi học lịch sử,đặc biệt là
các em thuộc tổ hợp thi các môn khoa học tự nhiên không mặn mà cùng môn
học này, bên cạnh đó thực tế việc làm của bộ môn khi ra trường không như
mong muốn .
-Việc giảng dạy lịch sử là một công việc hết sức phức tạp và rất dễ sa vào
nêu các sự kiện một cách khô khan ,nặng nề ,thiếu sinh động . Qúa trình dạy học
lịch sử là quá trình nhận thức,nó không chỉ có nội dung mà còn có phương pháp

dạy học,bởi vậy việc đổi mới nội dung gắn liền với đổi mới phương pháp.Vì vậy
dạy học lịch sử theo phương pháp “ Lấy học sinh làm trung tâm” là nhằm để
phát huy tính chủ động,năng lực tư duy sáng tạo của học sinh trong học tập lịch
sử có hiệu quả.Từ đó giúp cho học sinh có nhận tức đúng đắn trong việc nắm bắt
những kiến thức của khoa học lịch sử cơ bản ở trường phổ thông..Mặc dù
phương pháp dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng đã được chú trọng đổi
mới, cải tiến nhiều, tuy nhiên nhìn chung phương pháp dạy học lịch sử vẫn chưa
theo kịp các cải tiến về nội dung, chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo. Có thể nói
phương pháp dạy học lịch sử còn có phần bảo thủ, thực dụng. Sự lạc hậu về
phương pháp dạy học là một trong những trở ngại của việc nâng cao chất lượng
giáo dục bộ môn. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là do giáo viên chưa
nhận thức đúng đắn, sâu sắc vai trò, vị trí của phương pháp dạy học, chưa tiếp
nhận những cơ sở khoa học, lí luận về phương pháp dạy học mà còn tiến hành
giảng dạy theo kinh nghiệm chủ nghĩa, đặc biệt chưa chú trọng phát huy tính
tích cực của học sinh.
Yêu cầu thực tiễn đặt ra là cần phải đổi mới phương pháp dạy học lịch sử
theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng,
3


hiệu quả dạy học bộ môn.
Vậy thế nào là phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học nói
chung, trong dạy học lịch sử nói riêng, làm thế nào để phát huy tính tích cực của
học sinh trong dạy học lịch sử thông qua từng khóa học, chương, bài học cụ thể
ở trường THPT ….đó chính là lí do tôi lựa chọn đề tài “Một số giải pháp nâng
cao hiệu quả giờ dạy Lịch sử ở trường THPT ” với mong muốn góp phần nhỏ
vào việc nâng cao chất lượng bộ môn .
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở lí luận phương pháp dạy học lịch sử, đề tài đi sâu vào đề xuất
một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong dạy

học phần Lịch sử ở cấp THPT Nhằm giảm bớt số lượng học sinh yếu kém trong
nhà trường và phát huy hết năng lực của các em khá, giỏi nắm chắc được kiến
thức bài học và hiểu sâu hơn các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử...
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu mà tôi áp dụng cho đề tài là học sinh cả 3 khối
10,11,12 của trường THPT
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tôi đã vận dụng vào quá trình dạy học của mình cấp phổ thông trung
học trong đó đặt học sinh vào vị trí trung tâm để phát huy được tính tích cực
của học sinh.sự say mê hứng thú của học sinh trong học tập bộ môn Lịch sử
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Phương pháp “Lấy học sinh là trung tâm “ không phải là từ bỏ những
phương pháp truyền thống để tìm kiếm những phương pháp hoàn toàn mới
,trong đó học sinh sẽ phải trả lời nhiều câu hỏi do Thầy đặt ra ,vấn đề ở chỗ ,từ
khả năng nhận thức của học sinh ,từ những dạng bài ,giáo viên sẽ sử dụng các
phương pháp truyền thụ thích hợp để giờ học đạt chất lượng cao
Trong quá trình dạy học lịch sử giáo viên đóng vai trò chủ đạo bởi giáo
viên là người chủ động về nội dung kiến thức giảng dạy và lựa chọn phương
pháp truyền đạt, tổ chức hoạt động của học sinh trong giờ học, điều khiển giờ
học một cách linh hoạt, sinh động. Muốn quá trình dạy học đạt được kết quả cao
giáo viên cần nắm được đặc điểm tâm lí của học sinh diễn ra trong quá trình
nhận thức để có những tác động phù hợp về mặt sư phạm nhằm kích thích hoạt
động tư duy độc lập của học sinh. Việc tạo được những xúc cảm lịch sử,khơi dậy
khả năng hứng thú học tập bộ môn sẽ tạo được động cơ tích cực thúc đẩy học
sinh hăng hái học tập.
Giảng dạy lịch sử là một công việc hết sức phức tạp,rất dễ sa vào nêu các
sự kiện một cách khô khan,nặng nề thiếu sinh động,bởi vậy đòi hỏi người giáo
viên phải có phương pháp lịch sử,trình bày rõ sự phát triển của lịch sử đúng như
nó đã diễn ra với những sự kiện và tư liệu chính xác.Trong đó việc phát huy tính

tích cực chủ động của học sinh được coi trọng đặc điểm.Bởi vậy,với vai trò chủ
đạo,người giáo viên phải biết gây hứng thú học tập bộ môn.Phải hướng học sinh
4


thực hiện vai trò chủ động của mình,từ đó giúp cho học sinh gắn liền kiến thức
với tri thức cuộc sống.
2.2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
Một thực tế hiện nay là học sinh rất ít chú ý đến bộ môn này (Trừ nhũng
học sinh theo khối C),tự bản thân các em coi đó là môn phụ,bởi vậy trong giờ
học các em chỉ ghi chép những điều mà giáo viên ghi lên bảng (hoặc đọc chậm)
và nhắc lại nội dung các vấn đề vừa nghe thầy giảng.Rõ ràng như vậy là không
gây hứng thú như học sinh và không phát huy được tính tích cực chủ động của
học sinh.Bởi vậy để một giờ học lịch sử đạt hiệu quả,học sinh có hứng thú ham
học thì với vai trò chủ đạo người giáo viên phải phát huy tính tích cực,chủ động
sáng tạo trong học tập của học sinh.Từ sự kiện,hiện tượng lịch sử phải đi sâu
phân tích vào vấn đề,tiến tới hiểu cả một quá trình lịch sử,qua đó học sinh tiếp
thu được những kiến thức mới và xây dựng tích cực bài học trên lớp sáng
tạo,chủ động trong lĩnh hội kiến thức.
Bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông có vị trí chức năng và nhiệm vụ quan
trọng trong việc đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ . Nhưng hiện nay học sinh ( ngay
cả quan niệm của một số phụ huynh ) lại ít chú ý học đến môn này:
Thứ nhất: Quan niệm của các em học Sử chỉ vì đó là một môn học chính
khoá, chỉ vì điểm trung bình của bộ môn có ảnh hưởng đến việc xét duyệt lên
lớp và khen thưởng . Khối lượng học sinh theo khối C rất ít , đặc biệt theo quan
niệm của các em môn Sử cũng là bộ môn khó so với hai môn Văn và Địa . Tình
trạng đó tất nhiên do nhiều nguyên nhân gây nên . Có thể là do quan niệm không
đúng về bộ môn , do quĩ thời gian học ở trường và ở nhà ít , do thiếu thốn về cơ
sở vật chất nói chung và đồ dùng dạy học môn Lịch sử nói riêng... Nhưng phải
thừa nhận một nguyên nhân rất quan trọng là do kết quả , chất lượng giảng dạy

của chính những giáo viên dạy lịch sử hiện nay...
Thứ hai: Mặc dù đã suy nghĩ, cải tiến, thậm chí nhiều giáo viên sử dụng
cả phương tiện dạy học hiện đại ( máy chiếu đa năng, đèn chiếu hắt... ) . Song
nhìn chung vẫn là hoạt động của thầy ở trên lớp . Qua khảo sát , trao đổi sau các
giờ dạy học và giờ thao giảng bộ môn Lịch sử ở nhiều trường phổ thông , có thể
thấy lối giảng dạy khá phổ biến hiện nay là thầy trình bày từng mục của sách
giáo khoa, đặt ra một vài vâu hỏi ( thường chỉ là nhắc lại những kiến thức đã học
hoặc vừa học ) cho học sinh rồi kết hợp ghi lên bảng một vài ý để học sinh ghi
chép vào vở. Suốt giờ học, học sinh chỉ làm mỗi việc ghi chép những điều giáo
viên ghi trên bảng ( hoặc đọc chậm ) vào vở và nhắc lại nọi dung các vấn đề vừa
nghe. Rõ ràng, giảng dạy như vậy không thẻ gây hứng thú , không thể phát huy
tính tích cực , chủ động và sáng tạo của học sinh trong việc học tập môn lịch sử.
Vì vậy, nhìn chung chất lượng dạy học Lịch sử hiện nay không cao.
Thứ ba: Việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá
người học là cần thiết , phù hợp với nguyện vọng của giáo viên và học sinh . Tuy
nhiên, muốn đổi mới phương pháp phải đồng thời cải tiến về mặt nội dung , hình
thức trên lớp , phương tiện dạy học và cả ý thức xã hội . Nội dung dạy học còn
nặng nhiều sự kiện , hiện tượng trong một bài Lịch sử sẽ dẫn đến tình trạng dạy
5


học nhồi nhét. Học sinh học Sử mà chỉ nhận thức ý nghĩa giáo dục, lý luận của
quá khứ mà không thấy ý nghĩa thực tiễn ( đúng hơn là thực dụng , tức là học để
thi cử ) thì sẽ không quyết tâm, không say sưa, dẫn đến tình trạng học đối phó.
Thứ tư: Cần mạnh dạn thay đổi quan điểm về bài trên lớp , cấu trúc của
giờ học , đánh giá kiểm tra cho điểm . Cho đến nay, khi bước vào đầu giờ học,
học sinh, học sinh đã biết được cấu trúc của giờ học với các bước lên lớp của
người Thầy đã tỏ ra lỗi thời . ổn định lớp , kiểm tra bài cũ ( 1 đến 2 em).
Thầy giảng bài mới theo kiến thức sách giáo khoa, củng cố dặn dò... Cờu trúc
của giờ học đó không gây được hứng thú, bất ngờ cho học sinh, Các em đoán

được ý đồ sư phạm của thầy và tìm cách đối phó hoặc thụ động tuân thủ theo
những bước đó .
Phần lớn học sinh sẽ thụ động tiếp thu kiến thức lịch sử ,vai trò chủ đạo
của người giáo viên chưa được thể hiện sinh động ,rõ nét. Vì vậy ,để một giờ
dạy lịch sử ở trường THPT đạt được hiệu quả thì người giáo viên phải quan tâm
đến hàng đầu “dạy cách học” chú trọng đến nhân tố con người ,phát triển ở học
sinh kĩ năng,năng lực học tập độc lập ,tự tin tìm tòi ,nghiên cứu của học sinh
,định hướng cho việc tự khám phá môn học.Bản thân là một giáo viên dạy lịch
sử đã nhiều năm công tác ,tôi đã mạnh dạn đưa ra ý kiến của bản thân về việc”
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giờ dạy Lịch sử ở trường THPT ”ở tất
cả các quá trình song đây cũng chỉ là ý kiến nhỏ của bản thân với vai trò chủ đạo
là người giáo viên Lịch sử, là người hướng dẫn để gây hứng thú học tập bộ
môn , phải hướng dẫn để học sinh thực hiện vai trò chủ động của mình , từ đó có
sự sáng tạo trong học tập bộ môn Lịch sử.
2.3.NỘI DUNG CỤ THỂ
2.3.1. Những giải pháp chung
- Giaó viên phải xác định rõ ràng mục đích yêu cầu của giờ học ,lựa chọn
nội dung bài học đảm bảo tính khoa học ,tính cơ bản,tính chính xác và rõ
ràng để tạo điều kiện cho học sinh hiểu biết về lịch sử . Tính khoa học
,tính cơ bản của nội dung bài học gắn chặt với tính vừa sức đối với việc
lĩnh hội của học sinh về khối lượng kiến thức ,giúp họ có thể độc lập và
hứng thú ,tự tin lĩnh hội kiến thức
- Phát triển các hoạt động nhận thức độc lập ,nhất là tư duy độc lập sáng tạo
của học sinh có ý nghĩa đặc biệt đối với hiệu quả bài học Hoạt động độc
lập, nhận thức của học sinh đảm bảo kết quả lĩnh hội kiến thức của các em.
Có hai loại hội kiến thức: Lĩnh hội sáng tạo dựa trên cơ sở hoạt động tư
duy độc lập và lĩnh hội tái tạo dựa trên cơ sở nhớ lại và hiểu biết những
kiến thức có sẵn. Trong giờ học lịch sử, giáo viến cần kết hợp hai loại lĩnh
hội này, song đặc biệt chú ý tới lĩnh hội sáng tạo trên cơ sở hoạt động tư
duy độc lập.

- Trình bày miệng của giáo viên không chiếm quá nhiều thời gian và phải
thật sinh động ,gợi hình ảnh gây xúc cảm lịch sử cho học sinh .Thiếu hình
ảnh trong trình bày kiến thức ,học sinh rất khó hình dung cụ thể sự kiện
quá khứ.Trình bày có hình ảnh gợi cảm còn gây sự hồi hộp ,xúc động của
6


học sinh . Trong quá trình trình bày của giáo viên ,việc sử dụng đa dạng
phong phú các loại tài liệu như đoạn trích lịch sử, đồ dùng trực quan ..có
tác dụng rất tốt tạo nên hình ảnh lịch sử cho học sinh
- Sử dụng một cách đa dạng ,kết hợp nhuần nhuyễn hợp lí các phương pháp
,cách dạy cho một bài lịch sử ,đặc bệt chú ý tới dung lượng kiến thức để
không làm nặng nề học sinh trong tiếp thu kiến thức .
2.3.2. Các bước tổ chức
2.3.2.1. Về việc chuẩn bị bài giảng chu đáo
Qua nội dung của bài ,xác định những kiến thức cơ bản ,những ý
chính,những vấn đề quan trọng nhất .Từ đó ,dự kiến các phương pháp và biện
pháp giảng dạy trên lớp để phù hợp với các loại đối tượng học sinh .Cũng từ
đó ,dự kiến và xác định các tình huống sẽ xảy ra trên lớp và dự kiến biện pháp
xử lí ,giải quyết . Làm được những việc trên ,người giáo viên lịch sử hoàn toàn
chủ động trong tiết dạy của mình ,mặt khác biết chuyển giao một cách khéo
léo ,hợp lí một phần công việc cho học sinh ,tạo nên sự đồng bộ giữa việc dạy và
học ,giữa việc làm của thầy và hoạt động của trò trong cùng một tiết học trên lớp
Các nhà nghiên cứu giáo dục đã xác định” Giaó án là bản kế hoạch của
một tiết lên lớp trong đó nêu ra các bước chủ yếu trong công việc của giáo viên
và học sinh ở trên lớp ,đồng thời cũng nêu một cách tóm tắt nội dung và phương
pháp của công việc đó nhằm đạt được mục đích cụ thể rõ ràng mà người giáo
viên xác định trước yêu cầu của chương trình học”
Để soạn một giáo án tốt cần vận dụng theo phương pháp đổi mới thì
người giáo viên cần tiến hành tốt các công việc có tính nguyên tắc như sau:

*Một là: Cần xác định được loại bài học hợp lí để phát triển tư duy ,kích
thích sự học hỏi của học sinh.Gồm các loại bài học sau:
- Bài cung cấp kiến thức mới : Các phương pháp được sử dụng rất đa
dạng nhằm hình thành kiến thức ,phát triển tư duy và kĩ năng của học sinh .Vai
trò trung tâm cả học sinh thể hiện trước tiên ở việc tái hiện lại kiến thức cũ ,làm
cơ sở để hiểu kiến thức mới . Ví dụ: Để học sinh hiểu được về tính chất cuộc
cách mạng Tư sản Pháp năm 1789 thì học sinh phải đánh giá được tính chất của
cuộc cách mạng tư sản Anh ,chiến tranh giành độc lập của 13 bang thuộc địa
Anh ở Bắc Mĩ để từ đó có sự so sánh toàn diện vấn đề đưa ra.
- Bài ôn tập,sơ kết ,tổng kết được sử dụng khi hoàn thành việc nghiên cứu
một giai đoạn,một thời kì ,một khóa trình hay các vấn đề lịch sử của chương
trình . Dựa vào kiến thức đã học và sự gợi ý của giáo viên thì học sinh sẽ tổng
hợp ,khái quát hóa các kiến thức đã học để hiểu sâu hơn những đơn vị kiến thức
lịch sử . Ví dụ :khi tổng kết lịch sử Việt Nam từ 1919-1991 ,học sinh phải tái
hiện lại các kiến thức đã học theo từng giai đoạn để hiểu một cách sâu sắc,toàn
diện về đặc điểm của tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam ,rút ra những kết
luận khái quát về nguyên nhân thắng lợi,bài học lịch sử cho giai đoạn tiếp và
hiểu sâu sắc hơn các vấn đề có tính lí thuyết về chiến lược ,sách lược cách mạng
,về chỉ đạo chiến lược ..

7


- Bài kiểm tra: nhằm xem xét kết quả lĩnh hội kiến thức của học sinh ,hoàn
thiện tri thức ,hình thành thế giới quan ,phát triển tư duy ,ngôn ngữ và
giáo dục lòng yêu lao động và học tập của học sinh .Có 2 hình thcs kiểm
tra: miệng và viết . .Học sinh phải độc lập suy nghĩ ,hiểu đúng yêu cầu
của câu hỏi mà giáo viên đưa ra và lập được dàn ý sơ lược .Sau đó ,trên
cơ sở những kiến thức đã nhớ lại ,các em lựa chọn sự kiện ,nội dung sự
kiện phù hợp để trả lời .Cuối cùng ,học sinh phải lựa chọn ngôn ngữ để

diễn đạt nói hay viết.
- Bài học hỗn hợp gồm hai hay ba khâu của quá trình dạy học , kiểm tra
kiến thức ,nghiên cứu kiến thức mới ,củng cố,ôn tập .Trong đó nghiên cứu
kiến thức mới chiếm phần lớn thời gian của bài học .
Các biện pháp này có quan hệ mật thiết với nhau .Vì vậy,trong quá trình dạy
học ,giáo viên cần căn cứ vào nội dung bài dạy cụ thể ,trình độ của học sinh
để sử dụng cho thích hợp , phát huy được hứng thú cho học sinh trong giờ
học.
* Hai là: Phải xác định rõ được mục đích của bài dạy lịch sử cụ thể .ở
từng bài học có mục đích khác nhau,vì qua từng bài học đó học sinh sẽ nhận
thức được những vấn đề cơ bản của giai đoạn lịch sử cụ thể ,có thái độ ,trách
nhiệm nghiêm túc của bản thân với lịch sử.
Ví dụ qua bài 19” Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trong các thế kỉ
X-XV” sẽ giúp học sinh nhận thức được vấn đề là trong gần 6 thế kỉ đầu thời
độc lập phong kiến ,nhân dân ta phải lieden tục tổ chức các cuộc kháng chiến
chống ngoại xâm ,bảo vệ tổ quốc ,biết được những trận quyết chiến đầy sáng
tạo của nhân dân ta ,tên tuổi ccủa những tài năng,các vị anh hùng dân tộc như
Lê Hoàn,Lý Thường Kiệt ,Trần Quốc Tuấn …bồi dưỡng lòng yêu nước, tự
hào dân tộc và lòng biết ơn với các thế hệ tổ tiên
* Ba là : Phải xây dựng đề cương và viết giáo án bài giảng: Nội dung bài
soạn tránh lối dạy nhồi nét kiến thức.Một giáo án tốt đầy đủ những yêu cầu sau:
+ Nó phản ánh được chương trình cơ bản vè SGK.
+ Thể hiện các điều kiện cụ thể của từng lớp,từng trường,từng vùng địa
phương.
+ Tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên lên lớp đạt hiệu quả cao
+ Tạo điều kiện cho học sinh lĩnh hội bài tốt nhất
- Trong giáo án phải dự kiến các phương pháp và biện pháp phù hợp với các
loại đối tượng học sinh,đặt ra hệ thống câu hỏi chính xác liên tục kích
thích học sinh tìm tòi,dự kiến và xác định các tình huống sẽ xảy ra trên lớp
và biện pháp xử lí giải quyết.Mặt khác người giáo viên phải biết chuyển

giao mội cách khéo léo hợp lí phần công việc của học sinh,tạo nên sự đồng
bộ giữa việc dạy và học,giữa việc làm của thầy và hoạt động của trò trong
cùng một tiết học.
2.3.2.2. Việc đặt mục đích học tập trước học sinh:
Để chuẩn bị tiết dạy của giáo viên tốt trên lớp ,trước khi cho các em
nghiên cứu kiến thức mới ,phân biệt mục đích học tập trước học sinh từ đó định
8


hướng cho các em những nội dung chính cần nắm ,học sinh sẽ chuẩn bị việc
tiếp thu kiến thức mới bằng việc bản thân tự đọc ,soạn bài ,tư duy bài học ở nhà
để sau đó người giáo viên thực hiện thao tác dạy ở lớp thì học sinh sẽ nắm và
hiểu bản chất bài học có hiệu quả
Ví dụ ,khi nghiên cứu bài học về cuộc “Cách mạng Tư sản Pháp 1789” ,để
giải thích cho câu ví của Lê Nin về cuộc cách mạng này là “Đại cách mạng” thì
người giáo viên sẽ tạo cho học sinh cuộc xung đột về kiến thức giữa cuộc cách
mạng tư sản Anh,chiến tranh giành độc lập ở Bắc Mĩ về giai cấp lãnhđạo,nhiệm
vụ,tính chất ,kết quả để học sinh nghiên cứu .
2.3.2.3. Tiến hành giờ dạy trên lớp
Đây là khâu quan trọng,có tính chất quyết định đến việc xây dựng và phát
huy tính tích cực,chủ động sáng tạo của học sinh.Việc tiến hành giờ dạy trên lớp
theo phương pháp “ lấy học sinh làm trung tâm “ bao gồm các thành phàn cơ
bản sau.
- Ổn định lớp nhằm tổ chức giữ vững kỉ luật,công việc này không chỉ giới
hạn ở những phát đầu giờ học mà trong suốt giờ học.Kỉ luật của giờ học
phụ thuộc vào việc hoàn thành chính xác tất cả các yêu cầu học tập của
học sinh và việc tổ chức giảng dạy cảu giáo viên.
- Kiểm tra bài cũ tùy thuộc vào nội dung chủ đề của bài mới vì bài học
trước đó,chủ đề.Mục đích kiểm tra không chì để xem xét học sinh thu
nhận kiến thức mà chuẩn bị cho các em tiếp nhận kiến thức mới.

- Ví dụ:Khi chuẩn bị học bài cách mạng tưu sản Pháp,người giáo viên đặt
câu hỏi” em hãy nêu và phân tích tính chất cảu cuộc chiến tranh giành độc
lập của 13 Bang thuộc địa Anh ở bắc Mĩ”,sau khi học sinh trả lời thì các
em sẽ nhận thức sâu sắc hơn về tính chất vĩ đại của cuộc cách mạng tư sản
Pháp:một cuộc cách mạng tư sản triệt để.
- Chuẩn bị cho học sinh nghiên cứu kiến thức mới:Trong quá trình dạy lịch
sử phải kết hợp nhiều biện pháp để tổ chức các hoạt động nhận thức cho
học sinh,phải kết hợp đa dạng các phương pháp,biện pháp giảng dạy bộ
môn như tường thật,miêu thả,so sánh,phân tích về chuyện…Cần nhớ
rằng:Học sinh phổ thông đang háo hức muốn hiểu biết những cái mới
lạ,mong muốn lĩnh hội các tri thức khoa học mới và rõ ràng hấp dẫn,dễ
hiểu và thái đọ tự tin,biểu hiện sự chủ động dồi dào kiến thức của người
giáo viên chắc chắn sẽ là những cơ sở quan trọng để gây cho học sinh
phấn khời,hứng thú khi học vào bài mới
Nguồn cảm hứng của học sinh được tạo ra sẽ làm cho học sinh tự giác,chủ
động theo dõi,ghi chép bài giảng và theo dõi chăm chú các vấn đề lịch sử mà
giáo viên phải phát huy khả năng kiến thức cũng như khả năng trình bày bằng
lời nói,bằng cách trình bày bảng để cuốc hút học sinh phát hiện những cái mới lạ
so với vốn hiểu biết mà các em đã có.
Ví dụ : khi dạy bài về sự thành lập Đảng cộng sản Việt Nam của lớp 12 ,người
giáo viên nêu câu hỏi

9


1.Tại sao phải triệu tập hội nghị hợp nhất 3 tổ chức cộng sản vào đầu
năm 1930?
2.Tại sao nói Đảng cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 lại là một bước
ngoặt lịch sử ?....
Để một giờ dạy lịch sử thật sinh động ,có hiệu quả cao thì người giáo viên

cần phải biết chú ý vừa khai thác sách giáo khoa ,vừa sử dụng các đồ dùng dạy
học khác như tranh ảnh ,bản đồ …Như vậy học sinh có thể tiến hành đồng thời
cả các hoạt động nghe nhìn ,suy nghĩ ….cùng với việc ghi chép kiến thức và như
vậy học sinh sẽ lĩnh hội kiến thức có hiệu quả cao chứ không đơn thuần việc ghi
chép máy móc,người giáo viên phải tổ chức tốt việc trao đổi ,đàm thoại trong
dạy học lịch sử với các hình thức đó là:
+ Trao đổi tài liệu : nhằm gợi lại những kiến thức đã học để tiếp thu kiến
thức mới ,nó giúp học sinh củng cố,hiểu sâu hơn kiến thức cũ ,làm cơ sở cho
việc tiếp nhận kiến thức mới.Việc trao đổi tài liệu thường được tiến hành ở đầu
giờ học
Hoặc trong tiến trình bài giảng cần nhắc lại kiến thức cũ để nhận tức của học
sinh được liên tục ,có hệ thống .
+Trao đổi ,đàm thoại phân tích và khái quát hóa làm cho học sinh tiếp thu
tốt kiến thức trình bày
+Trao đổi tìm tòi phát hiện nhằm tổ chức hoạt động nhận thức của học
sinh khi giải quyết nhiệm vụ học tập phức tạp . Trao đổi tìm tòi phát hiện bao
gồm một chuỗi các câu hỏi lần lượt tìm hiểu những vấn đề nhỏ ,bộ phận có liên
Quan.
+ Trao đổi theo hình thức thảo luận nhóm Sau khi áp dụng hình thức trao
đổi tái hiện .nhóm như vậy, học sinh rất hứng thú học tập, chuẩn bi mọi điều
kiện chờ đón cho một tiết học mới.
Ngoài ra , phương pháp trao đổi, đàm thoại trong dạy học lịch sử được
thực hiện bằng cách giáo viên hỏi và tổ chức để học sinh trả lời , cũng có thể
tiến hành giữa học sinh với nhau, bản thân mỗi học sinh tự đặt câu hỏi và trả lời.
Song, vấn đề đặt ra là phải tuân thủ những yêu cầu sư phạm . Các câu hỏi và tổ
chức trao đổi thế nào cho đúng với dự định sư phạm.
Trong quá trình tiến hành dạy lịch sử, người giáo viên phải xây dựng được
một hệ thống câu hỏi hợp lí để học sinh suy nghĩ, trả lời. Qua đó, người giáo
viên có thể đánh giá được trình độ nhận thức của học sinh cũng như khả năng tư
duy sáng tạo của các em. Khi xây dựng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích

cực, chủ động, sáng tạo của học sinh thì cần phải đạt những yêu cầu sau về mặt
sư phạm: Câu hỏi phải rõ ràng nêu được vấn đề cần đặt ra để có thể hiểu đúng,
sâu hơn sự kiện…Câu hỏi phải mang tính chất bài tập nhận thức liên quan đến
hứng thú, những cảm xúc mạnh mẽ của học sinh…Câu hỏi phải mang tính vừa
sức với học sinh…- Khi xây dựng và sử dụng hệ thống các câu hỏi nhằm phát
huy năng lực hoạt động độc lập của học sinh tôi dã thực hiện những yêu cầu về
mặt sư phạm sau:

10


Câu hỏi phải rõ ràng: Nêu được vấn đề cần đặt ra để có thể hiểu đúng ,
sâu hơn sự kiện. Câu hỏi như vậy đòi hỏi học sinh phải có những thao tác tư duy
mới tìm được câu trả lời thích đáng . Không nên đặt câu hỏi mà học sinh chỉ cần
trả lời một cách đơn giản có hay không.
Câu hỏi phải mang tính chất bài tập nhận thức: Liên quan đến hứng thú,
những cảm xúc mạnh mẽ của học sinh, phải gây ra cảm giác ngạc nhiên khi đối
chiếu cái chưa biết và cái đã biết sau khi trả lời đúng câu hỏi.
Câu hỏi phải vừa sức đối với học sinh, không nên để học sinh thoả mãn đi
đến chủ quan về vốn hiểu biết của mình. Dù học sinh đã trả lời đúng và đủ yêu
cầu của câu hỏi nêu ra, song cần phải tiếp tục suy nghĩ để trả lời hay hơn, sâu
sắc hơn
Để tổ chức học sinh trả lời câu hỏi, giáo viên phải theo dõi hoạt động của
các em, giúp các em trả lời một cách cụ thể khi nào, ở đâu, như thế nào và vì
sao? Có như vậy tính tích cực trong hoạt động độc lập của học sinh mới được
phát huy, bài học mới đạt hiệu quả cao, kích thích sự tò mò khoa học, gợi trí
thông minh Để tổ chức học sinh giải quyết vấn đề đã nêu, giáo viên cần đưa ra
các câu hỏi gợi mở, sử dụng phương pháp tiếp nhận thông tin qua những hoạt
động nêu vấn đề.
- Trong quá trình khai thác kiến thức mới cùng học sinh thì việc sử dụng

kênh hình tranh ảnh cũng rất có ý nghĩa Các loại tranh, ảnh được sử dụng trong
dạy học lịch sử, dưới nhiều hình thức khác nhau, là nguồn tri thức cung cấp cho
học sinh, chứ không phải chỉ là phương tiện minh hoạ, tăng “mầu sắc”, “hình
ảnh” cho sách giáo khoa vào giờ học. Do đó, việc chống “dạy chay” trong dạy
học Lịch sử không có nghĩa là phải sử dụng bản đồ , mà phải sử dụng mọi đồ
dùng, phương tiện trực quan khác phù hợp với nội dung, điều kiện của giờ học.
Tranh ảnh dùng trong dạy học lịch sử là loại tư liệu trực quan, nghệ thuật
tạo hình khác nhau, phản ánh hiện thực lịch sử ở những góc độ khác nhau.
Chính vì vậy, để tạo cho giờ học sinh động , học sinh hiếu rõ hơn về bản chất
lịch sử, nhân vật lịch sử, tôi đã áp dụng tối đa- triệt để đồ dùng hơn nữa phải
khai thác được những kênh hình trong sách giáo khoa.
Việc sử dụng tranh, ảnh trong giờ học Lịch sử phải dựa vào những nguyên
tắc của phương pháp trực quan. ở đây chúng ta tập trung trình bày một số vấn đề
về việc phát huy năng lực độc lập tư duy theo hương hoạt động hoá người học.
- Việc giáo viên cung cấp kiến thức bao giờ cũng phải gắn liền với trang
bị cho học sinh phương pháp, kĩ năng lĩnh hội kiến thức. Mối quan hệ giữa tri
thức và kĩ năng quy định việc phát huy hoạt động hoá người học trong học tập
nói chung, trong sử dụng tranh ảnh nói riêng. Cần tránh tình trạng đưa tranh, ảnh
trong giờ học mà học sinh không được quan sát, nhật xét về nội dung hoặc chỉ
thấy “đẹp” hay “ xấu”. Cách dạy này không gây được hứng thú, lại ảnh hưởng
đến nhận thức của học sinh.
Tranh, ảnh đuợc sử dụng phải nhằm các mục đích chủ yếu sau:
+ Bằng chứng về sự tồn tại của hiện thực Lịch sử.
+ Khôi phục hình ảnh của quá khứ có liên quan.
11


+ Giải thích về sự kiện để rút ra kết luận khái quát, bài học cho cuộc sống
hiện nay...
Vì vậy, sau khi xác định tranh, ảnh là tài liệu gốc, phản ảnh đúng sự kiện

đang học, giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát kỹ, rồi trình bày những nhận
xét về hiện vật. Những chi tiết nào phản ánh được toàn bộ, hay từng bộ phận của
sự kiện. ở đây cần lưu ý cho học sinh đến các chi tiết quan trọng, về những nội
dung cơ bản, tránh việc bị thu hút vào các chi tiết phụ, nêu những sự kiện không
cơ bản, không bản chất, chỉ miêu tả hiện tượng bề ngoài mà không đi sâu vào
bản chất sự vật. Những chi tiết của tranh, ảnh được nêu ra, được dẫn dắt kem
theo các loại tài liệu khác có liên quan càng giúp cho học sinh hiểu sâu sắc sự
kiện. Tiếp đó giáo viên hướng dẫn học sinh trình bày tổng hợp nội dung sự kiện
qua tranh, ảnh dưới hình thức một bài miêu tả hay tường thuật.
Việc sử dụng tranh, ảnh trong dạy – học Lịch sử như vậy không hề làm thời
giờ vốn ít trong giảng dạy mà còn tiết kiệm thời gian, huy động tối đa năng lực
tư duy độc lập của học sinh, làm cho các em hứng thú hiệu quả bài học cao.
Ngoài việc sử dụng tranh, ảnh trong bài cung cấp kiến thức mới, giáo viên cần
lưu ý đến việc sử dụng các loại bài học khác, đặc biệt là bài kiểm tra.
Để thực hiện tốt việc sử dụng tranh, ảnh trong dạy học Lịch sử theo hướng
“Hoạt động hoá người học”, giáo viên cần phải sưu tầm tài liệu nắm vững nội
dung tranh, ảnh, chủ động quản lý giờ học, phát huy năng lực độc lập, hoạt động
tư duy của học sinh. Công việc này không chỉ đòi hỏi tinh thần, ý thức trách
nhiệm mà còn đòi hỏi cả về trình độ lẫn chuyên môn, nghiệp vụ cao cuả giáo
viên.
-Kết thúc bài học cần phải tiến hành những công việc sau:
+Kiểm tra hoạt động nhận thức của học sinh (củng cố) để đánh giá mức
độ lĩnh hội tài liệu nghiên cứu, trình độ hiểu biết kiến thức, kết quả hoạt động
nhận thức độc lập của học sinh, bổ sung nâng cao kiến thức mới. Việc này có thể
tiến hành ở cuối mục ,cuối bài .Câu hỏi kiểm tra có thể là câu hỏi đặt ra ở đầu
mục ,đầu giờ .Trên cơ sở kiến thức học sinh đã lĩnh hội ,giáo viên sữa chữa ,bổ
sung ,khái quát và nâng cao kiến thức của học sinh
+Biết tạo ra bài tập hợp lí ,phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện và khả năng
của học sinh ngoài giờ học trên lớp, đăc biệt là đối với học sinh cuối cấp. Yêu
cầu điền vào bản đồ câm lịch sử, yêu cầu tìm tư liệu và tranh ảnh lịch sử hoăc

yêu cầu hiểu về một sự kiện hoặc nhân vật lịch sử qua các sách báo. Điều này sẽ
gây hứng thú, say mê tự tìm hiểu lịch sử và từ đó có hứng thú trong học tập lịch
sử. Có nhiều dạng bài tập lịch sử về nhà: câu hỏi tổng hợp, lập niên biểu về bản
đồ, lược đồ, sơ đồ,biểu đồ, đồ thị.
Ví dụ: Lập niên biểu về cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
Hoặc câu hỏi tổng hợp:“So sánh điểm tiến bộ của chủ nghĩa xã hội khoa
học với chủ nghĩa xã hội không tưởng?”
Trong việc đặt câu hỏi ra bài tập, người giáo viên phải chú ý các vấn đề
sau:

12


-Các bài tập đươc lựa chọn đúng nội dung cơ bản của việc học tập và đạt
được yêu cầu, mục đích kiểm tra.
-Các bài tập phù hợp với trình độ, phát huy được tư duy độc lập, sáng tạo
của học sinh.
Các bài tập yêu cầu học sinh từ các dữ liệu diễn tả về một sự kiện lịch sử
trên bản đồ, vẽ biểu đồ, sơ đồ…
+Bài tập về nhà : Cần tránh yêu cầu học sinh học thuộc sách giáo
khoa rồi kể lại,nhắc chung chung…..
Tính tích cực ,chủ động sáng tạo của học sinh được diễn ra dưới nhiều hình
-Những hoạt động tự nhận thức trên lớp khi nghe giáo viên giảng (biết tự
điều chỉnh nghe giảng,chọn lọc kiến thức tự ghi chép,tự trả lời câu hỏi mà giáo
viên nêu ra……)
-Đọc và tự ghi chép tóm tắt ngắn gọn những vấn đề cơ bản của bài viết
trong sách giáo khoa ,tài liệu tham khảo….
-Ghi lại và tìm hiểu những nội dung khó hiểu, đặc biệt là các
thuật ngữ, khái niệm lịch sử.
-Hoàn thành bài tập câu hỏi trong sách giáo khoa.

-Biết làm việc với bản đồ, tranh ảnh trong sách giáo khoa
cũng như ngoài sách giáo khoa, tìm hiểu nội dung và trình bày lịch sử theo bản
đồ tranh ảnh.
-Đọc và làm việc với các tài liệu lịch sử, văn học trong các sách tài liệu
tham khảo, sách đọc thêm…nhằm hiểu rõ hơn những kiến thức đã học, mở rộng
những kiến thức cho học sinh.
2.3.2.4. Hướng dẫn việc tự học của học sinh
Sau mỗi giờ học lịch sửb ,học sinh không chỉ dừng lại ở việc ghi nhớ sự
kiện ,mà điều quan trọng là phải hiểu được bản chất của sự kiện ,hiện tượng và
rút ra quy luật ,bài học kinh nghiệm của quá khứ với hiện tại ,đồng thời có sự
nhìn nhận ,phán đoán xu hướng phát triển trong tương lai .
Việc tự học lịch sử sẽ giúp cho học sinh có thể mở rộng kiến thức ,tự
mình khám phá những vùng kiến thức mới ,điều này sẽ tạo ra những hứng thú
trong bộ môn.Trong việc dạy học lịch sử có nhiều cách tự học khác nhau ,phù
hợp khả năng ,trình độ ,sự hứng thú học tập của mỗi học sinh song có những
hình thức tự học cơ bản như sau:
-Những hoạt động tự nhận thức trên lớp khi nghe giáo viên giảng bài
- Đọc và ghi tóm tắt ngắn gọn những vấn đề cơ bản của bài viết ,sách giáo
khoa và tài liệu tham khảo
-Ghi lại ,tìm hiểu những nội dung khó hiểu ,đặc biệt các thuật ngữ,khái
niệm lịch sử
-Hoàn thành các câu hỏi trong sách giáo khoa ,bài tập nhận thức .Biết
cách làm việc với bản đồ ,tranh ảnh trong và ngoài sách giáo khoa ,tìm hiểu nội
dung và trình bày nội dung lịch sử theo bản đồ và tranh ảnh .
Biết cách làm việc với bản đồ ,tranh ảnh trong và ngoài sách giáo viên
,tìm hiểu nội dung và trình bày nội dung lịch sử theo bản đồ và tranh ảnh .
13


Đọc và làm việc với các tài liệu lịch sử ,văn học ,các tư liệu tham khảo

nhằm làm rõ những kiến thức đã học ,mở rộng hiểu biết cho học sinh .Tự ôn tập
theo sự hướng dẫn của giáo viên .Như vậy ,việc tự học lịch sử của học sinh được
tiến hành bằng sự tự vận động của học sinh ,cũng có thể dưới sự hướng dẫn
,điều khiển của giáo viên hoặc trao đổi với bạn bè .
2.3.2.5. Hiệu quả giờ học học lịch sử
Qúa trình dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng bao gồm nhiều
hình thức tổ chức ,trong đó có các bài học nội khóa và ngoại khóa .Vì vậy ,hiệu
quả đạt được là kết quả chung của những bài học này ,trong đó bài học nội khóa
có vai trò to lớn
Hiệu quả giờ học lịch sử được đánh giá trên 3 mặt sau:
Thứ nhất : Về kiến thức ,bài học hiệu quả phải giúp cho học sinh nắm
được những kiến thức cơ bản của bài .Đó là những sự kiện lịch sử cơ bản,rút ra
bài học ,qui luật và hình thành khái niệm lịch sử ,xác định phương pháp học
tập ,kiểm tra .Kiến thức cơ bản ấy giúp học sinh trả lời được các câu hỏi như thế
nào? Vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống ra sao?
Thứ hai : giờ học lịch sử phải đạt được mục tiêu giáo dục đề ra .Kết quả
giáo dục thể hiện ở thái độ ,xúc cảm của học sinh đối với các sự kiện ,nhân
vật ,những phản ứng tự nhiên ..của các em đối với hiện tượng,sự kiện và nhân
vật lịch sử .Đồng thời kết quả giáo dục còn thể hiện ở kĩ năng của học sinh trong
việc đánh giá đúng sự kiện ,vai trò của nhân vật lịch sử kĩ năng sử dụng những
kiến thức lí luận đã học để phân tích các hiện tượng xã hội ,giáo dục cho học
sinh tư tưởng chính trị , đạo đức cho quá trình học tập.
Thứ ba : Hiệu quả giờ học lịch sử còn thể hiện ở việc phát triển toàn diện
học sinh như năng lực nhận thức (tri giác,tưởng tượng ,trí nhớ ,tư duy..),các
thành phần nhân cách (xúc cảm lịch sử ,hứng thú học tập ,ý chí…)năng lực thực
hành và các kĩ năng,kĩ xảo…
Như vậy ,hiệu quả dạy học có phạm vi rộng hơn ,khái quát được hiệu quả bài
học ,kích thích sự ham học hỏi từ học sinh.
2.2.3.6. Ví dụ cụ thể minh họa
Bài dạy “ Nhật Bản” thuộc chương trình cơ bản lớp 11 –Tiết PPCT: 1

- Về kiến thức : Sau khi học xong bài học, yêu cầu học sinh cần:
+ Hiểu rõ sự sụp đổ của chế độ Mạc Phủ Tô-ku-ga-oa và những cải cách tiến
bộ của Thiên Hoàng Minh Trị năm 1868 có ý nghĩa như một cuộc cách mạng tư
sản , đưa Nhật Bản phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa , nhanh chóng
chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
+ Biết được bản chất cuộc duy tân Minh trị , đặc điểm của chủ nghĩa đế quốc
phong kiến Nhật Bản.
- Kĩ năng:
+ Giúp học sinh biết phan tích , đánh giá đúng các sự kiện chủ yếu trong bài:
Bản chất của cuộc Duy tân Minh Trị, đặc điểm của chủ nghĩa đế quốc phong
kiến Nhật bản.

14


+ Giúp học sinh nắm vững khái niệm “ cải cách”, biết sử dụng bản đồ để trình
bày các sự kiện có liên quan đến bài học. Rèn luyện kĩ năng quan sát tranh ảnh
tư liệu để rút ra nhận xét đánh giá.
- Thái độ:
Biểu lộ sự đồng tình ủng hộ cuộc cải cách Minh Trị tiến hành năm 1868.
Dánh giá được những ưu điểm, hạn chế của cuộc Duy tan Minh Trị. Biết so sánh
và liên hệ với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
Đặc biệt ,Tính khoa học còn thể hiện ở việc đánh giá, giải thích tìm ra bản
chất, mối quan hệ nhân quả, sự phát triển có tính qui luật của sự kiện, nhân vật
lịch sử. Giáo viên phải biết dẫn dắt , so sánh giữa hình thức cải cách Duy tân
như ở Nhật Bản 1868 với các cuộc cách mạng tư sản khác ở Châu Âu thời Cận
đại – giúp học sinh đánh giá , phân tích và so sánh giữa các cuộc Cách mạng với
nhau- Từ đó , học sinh thấy rằng hình thức vận động của các cuộc cách mạng rất
khác nhau. Có cuộc cách mạng diễn ra dưới hình thức một cuộc đấu tranh giai
cấp quyết liệt như cuộc cách mạng Pháp 1789, có cuộc cách mạng diễn ra dưới

hình thức chiến tranh giải phóng dân tộc như cuộc cách Hà Lan thế kỷ XVI ,
chiến tranh giành độc lập như ở Mỹ 1775- Còn ở Nhật diễn ra dưới hình thức
một cuộc cải cách...
Hình thức vận động của mỗi cuộc Cách mạng phụ thuộc vào điều kiện cụ
thể mỗi nước, vào tương quan giai cấp , thái độ của các giai cấp khác nhau trong
xã hội khi nhìn nhận và tham gia Cách mạng . Hình thức cách mạng khá phong
phú , phụ thuộc vào điều kiện cụ thể nước đó. Điều đó giúp học sinh không chỉ
nhận thức đúng bản chất các sự kiện lịch sử mà còn giúp các em xem xét, đánh
giá những sự kiện đang diễn ra ở nước ta hiện nay, cũng như nhiều sự kiện khác
trên thế giới.Cụ thể .
• Mục 1: Nhật bản từ đầu thế kỉ XIX đến trước năm 1868
-Gv sử dụng phương pháp Trao đổi tái hiện : Nhằm gợi lại những kiến thức đã
học để tiếp thu kiến thức mới, để khái quát hoá và hệ thống hoá kiến thức . Nó
giúp học sinh củng cố , hiểu sâu hơn kiến thức cũ , làm cơ sở cho việc tiếp nhận
kiến thức mới, không bị gián đoạn trong nhận thức.
GV nêu câu hỏi Hãy cho biết tình hình chung nhất về các quốc gia Châu á cuối
thế kỷ XI X - đầu thế kỷ XX ? Học sinh nhớ lại những kiến thức lịch sử thế giới
đã học để trả lời .GV dẫn dắt học sinh vào tình hình Nhật Bản với những điểm
nổi bật về Kinh tế , Xã hội ,Chính trị ..thấy được sự khủng hoảng trầm trọng của
Nhật Bản trước sự lựa chọn: hoặc tiếp tục duy trì chế độ phong kiến trì trệ ,bảo
thủ hoặc duy tân phát triển đất nước ? Với hệ thống câu hỏi:
- Trình bày nét nổi bật về kinh tế, chính trị, xã hội của Nhật Bản trước năm
1868 ?
- Em hãy tìm hiểu về quá trình các nước tư bản xâm nhập vào Nhật Bản ?
- Em có nhận xét gì về tình hình Nhật Bản trước năm 1868 ?
- Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến Mạc Phủ dẫn đến hậu quả gì ?
Qua đó đã gây được sự kích thích , tính tò mò của học sinh, tạo nên được
tính tích cực trong hoạt động độc lập của học sinh, giờ học đạt được hiệu quả
15



cao. Các em đã hiểu rõ được tình hình Nhật bản trước năm 1868 khủng
hoảng, suy yếu . Và cũng chính sự khủng hoảng , suy yếu đó mà tạo điều
kiện cho các nước tư bản Phương tây đến xâm nhập vào Nhật Bản. Làm cho
chế độ Mạc Phủ khủng hoảng, mâu thuẩn xã hội ngày càng gay gắt. Phong
trào chống Mạc bùng lên mạnh mẽ.

• Mục 2: Cuộc Duy tân Minh trị
GV dẫn dắt :Trong bối cảnh chung đó , Nhật Bản vẫn giữ được độc lập và phát
triển nhanh chóng về kinh tế , trở thành một nước đế quốc duy nhất ở Châu Á ,
Nhật bản đã thoát khỏi thân phận thuộc địa trở thành một cường quốc đế quốc ?
Để hiểu được điều đó chúng ta cùng tìm hiểu bài học hôm nay.
Sau khi áp dụng hình thức trao đổi tái hiện như vậy, học sinh rất hứng thú
học tập, chuẩn bi mọi điều kiện chờ đón cho một tiết học mới.
- Trao đổi theo hình thức thảo luận nhóm:
Tôi chia lớp học thành 4 nhóm và giao công việc cho mỗi nhóm như sau
Nhóm1:Tìm hiểu về nội dung cải cách chính trị ?
Nhóm 2: Tìm hiểu về nội dung cải cách kinh tế ?
Nhóm 3: Tìm hiểu về nội dung cải cách giáo dục?
Nhóm 4: Tìm hiểu về nội dung cải cách giáo dục ?
Giáo viên yêu cầu học sinh theo dõi sách giáo khoa tìm hiểu những chính
sách cải cách của Thiên Hoàng trên các lĩnh vực cụ thể trong vòng 4 phút , sau
đó đại diện của từng nhóm phát biểu, các nhóm khác theo dõi – bổ sung cho
nhau . Sau đó giáo viên kết luận và chốt ý bằng sử dụng bảng và sơ đồ.
Chính trị

-Thủ tiêu chế độ Mạc Phủ và thành lập chính phủ mới
16



theo kiểu châu Âu .
- Xóa bỏ cát cứ , thành lập quốc gia thống nhất
1889 ban hành Hiến pháp mới->thiết lập chế độ quân
chủ lập hiến.
Kinh tế
- Tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế TBCN phát
triển.
Giáo dục
- Thi hành chế độ giáo dục bắt buộc
Đổi mới nội dung và phương pháp học tập
->Xem giáo dục là chiếc chìa khóa cho công cuộc hiện
đại hóa
Quân sự
- Được tổ chức và huấn luyện theo kiểu phương Tây
->Biện pháp chủ yếu vươn lên trong thế giới tư bản chủ
nghĩa
Qua đó học sinh sẽ nắm rõ được về cuộc cải cách Minh Trị được ví như
một cuộc cách mạng tư sản ở Nhật Bản giúp cho Nhật Bản nhanh chóng thoát
khỏi số phận một nước thuộc địa phụ thuộc các nước phương Tây ,trở thành một
nước TBCN hùng mạnh của khu vực châu Á. Giaó viên giới thiệu cho học sinh
tìm hiểu về hình ảnh Thiên Hoàng Minh trị
Học sinh quan sát và trả lời sau đó giáo viên nhận xét bổ sung: Thiên
Hoàng Minh Trị hiệu Mút-su-hi-tô lên kế vị vua cha vào năm 1867, khi mới 15
tuổi, hiệu là Minh Trị nhà vua là người rất thông minh, dũng cảm, sớm quan tâm
chăm việc nước, theo thời thế và biết dùng người. Tháng 1 – 1868 Thiên Hoàng
ra lệnh truất quyền Sôgun và thành lập chính phụ mới, thủ tiêu chế độ Mạc phủ.
Thiên Hoàng Minh Trị đã tiến hành những cải cách tiến bộ theo con đường của
các nước phương Tây để phát triển đất nước. Đầu năm 1868 chính quyền phong
kiến của Sôgun đã chuyển sang tay quý tộc tư sản hoá, đứng đầu là Thiên
Hoàng Minh Trị. Những chi tiết của tranh, ảnh được nêu ra, được dẫn dắt kem

theo các loại tài liệu khác có liên quan càng giúp cho học sinh hiểu sâu sắc sự
kiện.

17


Việc sử dụng tranh, ảnh trong dạy – học Lịch sử như vậy không hề làm
thời giờ vốn ít trong giảng dạy mà còn tiết kiệm thời gian, huy động tối đa năng
lực tư duy độc lập của học sinh, làm cho các em hứng thú hiệu quả bài học cao.
• Mục 3. Nhật Bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa
-Giaó viên sẽ giới thiệu cho học sinh những biểu hiện của Nhật Bản khi
chuyển sang giai đoạn Đế quốc chủ nghĩa như đẩy mạnh công nghiệp hóa ,phát
triển công nghiệp ,thương nghiệp và ngân hàng ,vai trò to lớn của các công ti
độc quyền …
-Giaó viên tiếp tục dẫn dắt học sinh về sự bành trướng của đế quốc Nhật Bản
cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Quá trình này đã dẫn đến việc bóc lột nặng nề
giai cấp công nhân trong nước trở thành nguyên nhân bùng nổ các cuộc đấu
tranh .

18


Như vậy qua bài học sẽ giúp cho học sinh hiểu được về đất nước Nhật
Bản , hiểu được và so sánh với các cuộc tư sản đã học .Từ cách dẫn dắt, đàm
thoại cùng học sinh,khai thác kiến thức mới ,sử dụng hương pháp “Lấy học sinh
là trung tâm” ,sử dụng kênh hình…se gây hứng thú cho học sinh trong tiết
học ,giúp các em lĩnh hội kiến thức có hiệu quả .
2.4. KẾT QUẢ THU ĐƯỢC SAU KHI ÁP DỤNG ĐỀ TÀI
Trong năm học 2018-2019, tôi đã vận dụng kinh nghiệm này vào các tiết
dạy và thu được kết quả khả quan. Tôi nhận thấy những kinh nghiệm này phù

hợp với cuộc vận động đổi mới phương pháp dạy học – lấy học sinh làm trung
tâm của Bộ giáo dục và đào tạo. Học sinh thấy hứng thú hơn trong học tập, tích
cực, chủ động sáng tạo để mở rộng vốn hiểu biết của mình đồng thời cũng linh
hoạt trong việc lĩnh hội kiến thức. Không khí học tập trở nên sôi nổi hơn, các em
không còn thấy Lịch sử là môn học khô khan, nhàm chán, khó ghi nhớ các mốc
thời gian, sự kiện. Qua đó các em yêu thích môn Lịch sử hơn, tỉ lệ học sinh khá,
giỏi tăng lên, tỉ lệ học sinh yếu kém giảm .
Mặc dù thời gian rất hạn chế nhưng tôi đã vận dụng sáng kiến kinh nghiệm
này vào các tiết dạy và đã đạt được kết quả khả quan. Trước hết bản thân đã
nhận thấy rằng những kinh nghiệm này rất phù hợp với chương trình sách giáo
19


khoa mới và với những tiết dạy theo hướng đổi mới. Học sinh có hứng thú học
tập hơn, tích cực chủ động sáng tạo để mở rộng vốn hiểu biết, đồng thời cũng rất
linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến thức và phát triển kĩ năng.
Không khí học tập sôi nổi, nhẹ nhàng và học sinh yêu thích môn học hơn. Tôi
cũng hi vọng với việc áp dụng đề tài này học sinh sẽ đạt được kết quả cao trong
các kì thi và đặc biệt học sinh sẽ yêu thích môn học này
Cụ thể, kết quả kiểm tra đánh giá học sinh cuối năm học ở những lớp tôi
dạy sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm như sau:
LỚP SĨ SỐ
GIỎI
KHÁ
TRUNG BÌNH
YẾU, KẾM
12C7
50
28
22

0
0
12C10
49
36
11
2
0
12C11
42
9
28
2
0
10A1
55
35
19
1
0
10A2
51
21
29
1
0
10A3
46
12
30

4
0
10A4
44
10
32
2
0
10A5
55
25
30
0
0
10A6
45
15
29
1
0

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. KẾT LUẬN
20


Quá trình học tập lịch sử của học sinh về bản chất là quá trình hoạt động
nhận thức.Qúa trình này diễn ra tương tự như quá trình con ngươi nhận thức
hiện thực và có nhiều nét giống với quá trình nhà khoa học đi tìm chân lí khách
quan.Trên đại thể, quá trình nhận thức của học sinh trong học tập sẽ diễn ra như

sau:Trước hết họ tiếp cận với những sự kiện ,hiện tượng giáo trình lịch sử cụ thể
thông qua bài giảng của người giáo viên và qua các tài liệu học tập như sách
giáo khoa ,sách đọc thêm ,tranh ảnh ,bản đồ và các tài liệu khác.Sự tiếp cận với
kiến thức cụ thể này sẽ tạo ra ở học sinh những tri giác, biểu tượng lịch sử.Chính
nhờ quá trình nhận thức này sẽ giúp học sinh hứng thú, say mê trong dạy học
lịch sử. Với sáng kiến kinh nghiệm này, tôi hi vọng sẽ góp một phần nhỏ vào
việc giúp giáo viên và học sinh trường THPT Hàm Rồng nói riêng, các đồng
nghiệp và học sinh các trường bạn nói chung thực hiện phương pháp sử dụng
những câu hỏi để phát huy tính tích cực của học sinh đạt hiệu quả cao hơn. Về
phía bản thân, tôi xin hứa tiếp tục phát huy những kết quả đạt được của việc
thực hiện sáng kiến kinh nghiệm trên, đồng thời không ngừng rút kinh nghiệm,
khắc phục khó khăn để nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học.
3.2. KIẾN NGHỊ
Để bộ môn lịch sử không rơi vào tình trạng bị coi là “môn phụ” .Chúng
tôi đề nghị
-Về phía phụ huynh học sinh: Kiểm tra đôn đốc việc chuẩn bị bài, học bài
của học sinh ở nhà. Tạo điều kiện và khuyến khích học sinh học tập, không có tư
tưởng phân biệt môn học
-Về phía trường: Hỗ trợ tích cực cho giáo viên trong việc áp dụng phương
pháp mới vào dạy học .Động viên khuyến khích giáo viên cả về vật chất lẫn
tinh thần
-Về phía ngành: Hỗ trợ thêm về phương tiện thiết bị nhằm phục vụ tốt
hơn cho công tác dạy học của giáo viên,tổ chức các lớp giảng mẫu,hội thảo
chuyên môn để giáo viên nâng cao trình độ nghiệp vụ
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG THANH HÓA NGÀY 18 THÁNG 6
ĐƠN VỊ
NĂM 2020
TÔI XIN CAM ĐOAN ĐÂY LÀ
SKKN CỦA MÌNH, KHÔNG SAO
CHÉP NỘI DUNG CỦA NGƯỜI

KHÁC.
NGƯỜI THỰC HIỆN
LÊ THỊ BÌNH

21


Trên đây là những đóng góp nhỏ bé của bản thân trong quá trình dạy học
lịch sử ở trường THPT ,rất còn hạn chế và mong sự đóng góp chân thành của
đồng nghiệp Cuối cùng , xin chân thành cảm ơn tập thể giáo viên và học sinh
trường THPT Hàm Rồng đã giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này. Chân thành cảm
ơn quý Thầy cô cùng bạn đọc đã bỏ chút thời gian quý báu để đến với đề tài và
xin được tiếp thu ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp .

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Phát triển tính tích cực của học sinh trong quá trình dạy học
Bộ giáo dục và đào tạo 1993
2.Việc dạy học môn lịch sử ở các trường phổ thông
NXBĐHQG HN 199
3. Sách giáo khoa và sách giáo viên lớp 10,11,12THPT
NXBGD
4. Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THPT môn Lịch sử
NXB GD2007
5. Tài liệu chuẩn kiến thức Lịch sử – chương trình Lịch sử THPT Việt nam –
NXB Giáo dục, Hà nội .Lớp 10.11.12
Bộ GD và ĐT 2007
6. Đổi mới việc dạy học lịch sử “lấy học sinh làm trung tâm”
NXB Đại học QGHN 1996



DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI
Họ và tên tác giả: Lê Thị Bình
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường THPT Hàm Rồng
STT

1

2

3

4

Tên đề tài SKKN

Giảng dạy phần lịch sử địa
phương ”Công cuộc bảo vệ
địa phương Thanh Hóa
trong kháng chiến chống
Pháp 1946-1954” ở trường
trung học phổ thông
Phát huy tính chủ động
sáng tạo của học sinh trong
dạy học lịch sử ở trường
phổ thông
Làm thế nào để gây hứng
thú cho học sinh trong giờ
học lịch sử và việc liên hệ

một số vấn đề thời sự vào
dạy ở chương trình SGK
lớp 12
Một số biện pháp khơi dậy
ở học sinh khả năng và
hứng thú học tập trong dạy
học lịch sử Việt Nam giai
đoạn 1954-1975

Cấp đánh
giá xếp loại

Kết quả đánh
giá xếp
loại(A,B,C)
Sở Giáo dục
A
và Đào tạo
Thanh Hóa

Năm học
đánh giá
xếp loại
2010-2011

Sở Giáo dục
và Đào tạo
Thanh Hóa

C


2012-2013

Sở Giáo dục
và Đào tạo
Thanh Hóa

C

2015-2016

Sở Giáo dục
và Đào tạo
Thanh Hóa

C

2017-2018



×