Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm văn lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.49 MB, 33 trang )

“Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm
văn lớp 3”

UBND QUẬN THANH XUÂN

-------***-------


sáng kiến kinh nghiệm
Một số biện pháp NHằM NÂNG CAO CHấT Lượng giờ dạy
phân môn TậP LàM VĂN - lớp 3

Môn

: Tiếng Việt

Cấp học

: Tiểu học

Tên tác giả

: Lê Thị Hồng Vân

Đơn vị công tác : Trường TH Khương Đình
Chức vụ

: Khối trưởng chuyên môn - Khối 3

Năm học 2018 -2019


1/

29


“Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm
văn lớp 3”
MỤC LỤC

A. Phần mở đầu
I. Lý do chọn đề tài
ở nhà trường Tiểu học, môn Tiếng Việt có một vị trí vô cùng
quan trọng. Việc dạy Tiếng Việt ở Tiểu học nhằm giúp cho học
sinh sử dụng tiếng Việt vào hoạt động giao tiếp và học tập. Học
Tiếng Việt các em được phát triển các kĩ năng trên cơ sở những
tri thức cơ bản. Đồng thời môn Tiếng Vịêt còn góp phần bồi dưỡng
cho các em tình yêu cái đẹp, yêu quê hương đất nước, hình
thành và phát triển nhân cách tốt đẹp của con người trong thế kỉ
mới.
Do thực tế giáo dục và mục tiêu giáo dục tiểu học, việc đổi
mới chương trình SGK nói chung và SGK lớp 3 nói riêng là cấp
bách. Tập làm văn cũng là một phân môn của Tiếng Việt nên
cũng nằm trong sự đổi mới đó. Do đó việc lựa chọn những biện
pháp nhằm “nâng cao hiệu quả giờ dạy Tập làm văn lớp 3” xuất
phát từ những lý do:
1. Tập làm văn là loại bài có tính chất tổng hợp và sáng tạo
2. Các dạng bài trong sách giáo khoa Tiếng Việt 3 mới khá
phong phú, nhiều thể loại mới mẻ với học sinh được đưa vào
chương trình
2/


29


“Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm
văn lớp 3”
3. Hiện nay, việc dạy tập làm văn lớp3 rất mới mẻ với giáo
viên và học sinh. Việc dạy Tập làm văn vì thế không tránh khỏi
những khó khăn.
Hy vọng rằng, đề tài “Một số biện pháp nhằm nâng cao
chất lượng giờ dạy phân môn Tập làm văn lớp 3” sẽ góp
phần giảm bớt những khó khăn, vướng mắc cũng như góp phần
nhỏ bé để nâng cao chất lượng – hiệu quả việc dạy và học phân
môn Tập làm văn chương trình Tiếng Việt.
II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu biện pháp nâng cao chất
lượng giờ dạy Tập làm văn lớp 3 – chương trình Tiếng Việt.
2. Phạm vi nghiên cứu: Một số phương pháp dạy học phát huy
tính tích cực học tập của học sinh nhằm nâng cao hiệu quả giờ
dạy Tập làm văn lớp 3.
III. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao
chất lượng giờ dạy Tập làm văn lớp 3 ” nhằm tìm hiểu nội
dung, cấu trúc bài Tập làm văn lớp 3. Từ đó đề ra các biện pháp,
tìm ra cách dạy tối ưu nhằm nâng cao chất lượng dạy và học của
phân môn này.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc đổi mới dạy học môn
Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng.

+ Nghiên cứu thực trạng đổi mới dạy học phân môn Tập làm
văn lớp 3 ở trường tiểu học Khương Đình.

3/

29


“Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm
văn lớp 3”
+ Đề xuất những biện pháp tối ưu để nâng cao chất lượng
dạy Tập làm văn ở Tiểu học nói chung và Tập làm văn lớp 3,
chương trình Tiếng Việt 3 nói riêng.
IV. PHƯƠNG PHáP nghiên cứu
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
+Phương pháp trực quan.
+ Phương pháp giảng giải.
+ Phương pháp lý thuyết thực hành.
+ Phương pháp kiểm tra đánh giá.

4/

29


“Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm
văn lớp 3”

B. Phần nội dung
I. Cơ sở lý luận:

Tiếng Việt là một môn học có vị trí quan trọng. Qua các
phân môn của mình, Tiếng Việt góp phần giáo dục cho học sinh
những tình cảm và phẩm chất tốt đẹp như: lòng yêu thương con
người, tình yêu quê hương đất nước, lòng vị tha…rèn luyện cho
các em có những kỹ năng cơ bản và cần thiết: nghe - đọc - nói viết để giao tiếp trong cuộc sống. Chương trình Tiếng Việt 3 nói
chung và phân môn Tập làm văn nói riêng là sự thể hiện rõ nhất
đặc điểm này.
Đặc điểm nổi bật đầu tiên phải kể đến của phân môn Tập làm
văn đó là tính chất thực tiễn, tổng hợp, sáng tạo.
Hơn nữa bài Tập làm văn còn là sản phẩm không lặp lại của
mỗi học sinh trước một đề bài cụ thể. Chính điều này đã tạo cho
Tập làm văn tính sáng tạo - một đặc điểm nổi bật đặc trưng của
Tập làm văn. Trong phân môn Tập làm văn học sinh được rèn
luyện cả 4 kỹ năng: nghe - đọc - nói - viết. Chính vì thế các em
được rèn luyện hình thành không chỉ kỹ năng nói, viết mà cả kỹ
năng nghe đọc, thông qua các dạng bài khác nhau. Đó là những
kỹ năng cơ bản, cần thiết với học sinh trong giao tiếp hàng ngày.
Vì thế Tập làm văn là môn học giúp cho học sinh rèn luyện khả
năng giao tiếp một cách trực tiếp và phong phú.
Bên cạnh đó Tập làm văn mới thể hiện rõ tính toàn diện,
tổng hợp. Điều này cũng được thể hiện qua các dạng bài và yêu
cầu cụ thể cho mỗi dạng bài mà học sinh phải giải quyết. Để giải
quyết được những yêu cầu của các tiết Tập làm văn đòi hỏi học
sinh phải có vốn hiểu biết về cuộc sống, về khoa học và văn học…

5/

29



“Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm
văn lớp 3”
Tuy nhiên Tập làm văn không chỉ là phân môn mang tính
thực tiễn, toàn diện, tổng hợp mà còn là sản phẩm sáng tạo của
mỗi học sinh. Cùng là một yêu cầu nhưng khi đưa ra cho nhiều
học sinh các em lại có cách viết khác nhau để thể hiện chủ đề ấy.
Vì thế nó làm cho người đọc không cảm thấy nhàm chán mà
ngược lại đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Có được đặc
điểm này là nhờ vào vốn hiểu, kiến thức của học sinh về cuộc
sống, về từ, về câu.
Học sinh lớp 3 là lứa tuổi mà tư duy cụ thể còn phát triển.
Các em ở độ tuổi luôn mơ đến, nghĩ đến những điều kỳ diệu ở thế
giới cổ tích
Tâm hồn các em trong sáng, ngây thơ, dễ tin, dễ chấp nhận.
Tuy vậy đứng trước một vấn đề các em cũng đã có thể bộc lộ cảm
xúc, tính cách của mình khá tốt. Đặc biệt các em đang ở lứa tuổi
rất hiếu động, thích nói thích được hoạt động, ham thích tìm tòi,
sáng tạo, thích được khám phá thế giới xung quanh. Đứng trước
những lời nói, hành động của người khác đặc biệt là người lớn các
em rất hay bắt chước và làm lại y như thật. Với bạn bè và cả
người khác các em đều có nhu cầu được trao đổi giao lưu, trò
chuyện chia sẻ những thu nhận mới lạ của mình. Vì vậy các em
rất thích kể lại, thuật lại cho bạn bè, người khác những gì mình đã
biết. Đó là đặc điểm tâm lý nổi bật của học sinh lớp 3. Những đặc
điểm này có ảnh hưởng không nhỏ đến việc dạy và học Tập làm
văn lớp 3 - Tiếng Việt 3 qua các dạng bài phong phú, có tính chất
ứng dụng thực tiễn cao.
Đặc biệt đây cũng là lứa tuổi mà nhân cách đang được hình
thành. Qua các bài tập làm văn đã giúp cho các em có được tình
cảm chân thành với gia đình, quê hương, đất nước. Các em như

6/

29


“Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm
văn lớp 3”
nhận thấy nhân cách của mình được rõ lên sau khi nói. Từ đó
thích nói, thích trao đổi hơn.
Từ đặc điểm của phân môn Tập làm văn lớp 3 - Tiếng
Việt 3 với đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh lớp 3 có thể
thấy những đổi mới của chương trình là sự cần thiết và hợp
lôgic. Cùng với sự đổi mới này nếu chúng ta có một
phương pháp dạy học hợp lý chắc chắn sẽ thu được kết quả
tốt đẹp trong quá trình dạy học.

7/

29


“Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm
văn lớp 3”
II. THỰC TRẠNG
Qua quá trình tìm hiểu việc học phân môn Tập làm văn của học sinh lớp
3A6 nói riêng và học sinh lớp 3 ở trường Tiểu học Khương Đình nói chung, tôi
nhận thấy trình độ học sinh trong lớp không đồng đều, số lượng học sinh viết
văn hay ít. Phân môn Tập làm văn lớp 3 khó, mang tính trừu tượng cao nên phần
lớn học sinh không thích học phân môn này.
Học sinh làm bài hời hợt, chung chung, các ý còn mang tính liệt kê.

Vốn từ của các em còn nghèo nàn nên dẫn đến diễn đạt lủng củng, dùng từ
trùng lặp, sai nghĩa, sai lỗi chính tả trong bài Tập làm văn.
Nhiều em chưa phân biệt từ ngữ sử dụng trong văn nói và văn viết.
Đa số các em chưa tích cực đọc sách tham khảo để trau dồi cách diễn đạt và
cách hành văn lưu loát hoặc nếu có đọc, các em thường vay mượn ý của sách, lệ
thuộc vào bài mẫu, có thể chép vào làm bài của mình chứ các em chưa biết vận
dụng, liên tưởng một cách sáng tạo và linh hoạt.
Sở dĩ thực trạng học sinh nêu trên tôi thiết nghĩ là do những nguyên nhân
sau:
* Học sinh:
- Học sinh chưa thực sự thấy yêu thích môn học.
- Tập làm văn lớp 3 có nhiều kiến thức mới.
- Kỹ năng giao tiếp của học sinh còn hạn chế.
- Học sinh còn lúng túng với những kiểu bài mới: Làm đơn; Tập tổ chức
cuộc họp. Giới thiệu về trường lớp và viết báo cáo hoạt động; Viết thư, …
- Học sinh chưa có kĩ năng quan sát.
- HS chưa biết dùng từ đặt câu, chưa có kĩ năng sắp xếp câu thành đoạn.
* Giáo viên:
- Giáo viên chưa phân loại từng đối tượng học sinh để đề ra kế hoạch dạy
học phù hợp.
- Giáo viên chưa khơi gợi sự ham thích học phân môn Tập làm văn, chưa
phát huy tối đa năng lực học tập, chưa bồi dưỡng cho các em lòng yêu quý Tiếng
Việt.
8/

29


“Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm
văn lớp 3”

Đặc biệt sau mỗi bài văn, giáo viên chưa hướng dẫn học sinh nhận thấy
được hình ảnh hay, câu văn hay cần học và những chỗ sai cần khắc phục.
Sau khi dạy xong phân môn này trong 1 tháng, tôi tiến hành khảo sát làm
bài kiểm tra.
• Kết quả khảo sát như sau:
Lớp

Chưa hoàn thành
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
SL
%
SL
%
SL
%
3A6
12
20,3
37
62,7
10
17
59
Trước thực trạng đó, tôi đã tìm tòi , tham khảo nghiên cứu và đưa ra một
Sĩ số

số biện pháp cụ thể.
III. Biện pháp
Dựa trên cơ sở thực tế chương trình Tập làm văn – Tiếng Việt 3 căn cứ

vào nội dung cấu trúc bài tập làm văn, qua tìm hiểu thực tế dạy – học phân môn
này ở tiểu học tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả
giờ dạy Tập làm văn lớp 3 cụ thể như sau:

1. Xây dựng hệ thống câu hỏi gợi ý, dẫn dắt học sinh tìm hiểu bài
a. Mục đích
Mỗi tiết học, cái đích mà giáo viên luôn cần phải thực hiện để đạt được đó
là học sinh hiểu bài, nắm được nội dung bài một cách chắc chắn, lôgic. Để làm
được điều này trước đây người giáo viên thường đóng vai trò trung tâm trong
giờ học, thậm chí giáo viên đọc cho học sinh chép bài. Cách làm này đến nay
không còn phù hợp với thực tế, với những yêu cầu của sách giáo khoa đưa ra.
b. Cách tiến hành
Biện pháp hiệu quả nhất giúp học sinh hiểu bài, nắm chắc bài đó là việc
tìm hiểu, trả lời các câu hỏi liên quan đến nội dung bài. Giáo viên đưa cho học
sinh những câu hỏi, những lời gợi ý để học sinh tự suy nghĩ tìm tòi để trả lời.
Biện pháp này không chỉ phát huy tính tự giác, tự lập của học sinh mà
thông qua việc giáo viên nêu câu hỏi, học sinh trả lời, giáo viên đã giúp học sinh
làm quen với hoạt động giao tiếp, đặc biệt là giao tiếp hàng ngày xoay quanh các
nội dung của bài.
9/

29


“Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm
văn lớp 3”
Với những câu hỏi học sinh còn lúng túng, khó hiểu giáo viên gợi mở để
học sinh tiếp tục suy nghĩ tìm câu trả lời.
Hơn nữa do phân môn Tập làm văn mang tính tích hợp cao, mỗi bài
thường chứa đựng nhiều nội dung, nhiều kiến thức thuộc các lĩnh vực phong

phú. Vì vậy, với những câu hỏi đó, sau khi học sinh đã có câu trả lời giáo viên
cần giải thích thêm để mở rộng hiểu biết cho các em.
Việc trả lời những câu hỏi khai thác nội dung bài có thể tiến hành bằng
hình thức đối thoại trực tiếp. Giáo viên hỏi, học sinh trả lời, khi đó giáo viên có
thể nghe câu trả lời của từng học sinh nhưng có thể sửa chung cho cả lớp.
Mặt khác, những câu trả lời này giáo viên cũng có thể tập hợp, đưa vào
trong phiếu học tập cho học sinh làm. Bằng những phiếu cá nhân, học sinh sẽ
phát huy được tính độc lập, chủ động trong việc suy nghĩ để trả lời. Chỉ có sự
làm việc nghiêm túc mới giúp các em hiểu bài, nắm chắc bài. Hơn nữa để giúp
học sinh nắm được bài học, kích thích nhu cầu giao tiếp và tính chủ động, độc
lập suy nghĩa, khám phá kiến thức của học sinh, những câu hỏi của giáo viên
đưa ra cho học sinh bên cạnh những câu hỏi đơn giản mà các em có thể tìm câu
trả lời ngay trong bài, cần có nhiều câu hỏi tình huống. Nghĩa là để trả lời chúng,
các em cần phải suy nghĩ, chọn lựa để tìm ra câu trả lời. Có như vậy bài học mới
thực sự đi vào trong các em khiến các em hiểu chúng nhớ chúng một cách tự
nhiên không gò bó, áp đặt.
c. Ví dụ minh họa
Ví dụ 1: Bài: Nghe – kể lại câu chuyện : “Nâng niu từng hạt giống”
(Tuần 21 trang 30)
Sau khi kể mẫu và gọi học sinh kể câu chuyện một lần, giáo viên đưa ra các
câu hỏi giúp các em khai thác, tìm hiểu, nắm vững cốt truyện để nhớ và kể lại:
1. Viện nghiên cứu nhận được quà gì?
2. Vì sao ông Lương Định Của không đem gieo ngay cả 10 hạt giống?
3. Ông Của đã làm gì để bảo vệ giống lúa?
4. sau đợt rét kéo dài những hạt thóc của ông Của như thế nào?
5. Qua câu chuyện em thấy ông Của là người như thế nào?
10/

29



“Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm
văn lớp 3”
6. ở Hà Nội, tên của ông được đặt cho một con phố, em có biết con phố
đó nằm ở đâu thuộc quận nào không?
Những câu hỏi này giáo viên đưa ra cho học sinh cả lớp để các em suy
nghĩ trả lời. Mỗi câu hỏi giáo viên cho 2 đến 3 em trả lời và em khác nhận xét,
khi đưa ra câu hỏi, giáo viên gắn băng giấy ghi câu hỏi lên bảng. Sau khi học
sinh trả lời câu hỏi đó, giáo viên ghi nhanh ý chính lên bảng song song với câu
hỏi. Làm như vậy sẽ giúp cho các em nhớ sâu hơn, kĩ hơn bài học để chuẩn bị
cho việc kể chuyện. Sau khi học sinh đã tìm hiểu kĩ câu chuyện, giáo viên cho
các em kể lại chuyện.
Ví dụ 2:
Bài: Kể lại một trận thi đấu thể thao. Viết lại tin thể thao trên báo,đài
(Tuần 28 trang 88)
Với tiết học này có hai nội dung đều là kể lại, thuật lại với nội dung 1 học
sinh đã có câu hỏi trong sách giáo khoa làm gợi ý giải quyết yêu cầu 1:
- Đó là môn thể thao nào?
- Em tham gia hay chỉ xem thi đấu?
- Buổi thi đấu được tổ chức ở đâu? Tổ chức khi nào?
- Em cùng xem với những ai?
- Buổi thi đấu diễn ra thế nào?
- Kết quả thi đấu ra sao?
Nhưng với nội dung 2 chỉ đưa ra cho học sinh đề bài mà không hề có câu hỏi
gợi ý. Vì thế các em có thể sẽ gặp khó khăn trong quá trình kể. Nên để giúp học
sinh kể tốt. Kể đúng trọng tâm, giáo viên nên đưa ra một số câu hỏi gợi ý như:
- Báo em đọc là báo gì?
- Tin thể thao ấy nói đến những môn thể thao nào?
- Nó cung cấp cho các em những thông tin gì? (Thời gian, nơi diễn ra trận
đấu đó).

Giáo viên đưa ra từng câu hỏi dể học sinh trả lời, trả lời được tức là các em
đã có gợi ý để kể lại tốt tin thể thao ấy.

2. Hình thức thảo luận nhóm
11/

29


“Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm
văn lớp 3”
a/ Mục đích:
Để kích thích nhu cầu giao tiếp của học sinh, rèn cho các em tính chủ
động, bạo dạn, tự tin trình bày ý kiến trước tập thể, việc thảo luận nhóm vì thế
cũng được xem là một biện pháp có nhiều hiệu quả. Có thể nói thông qua thảo
luận nhóm học sinh tự mình rèn luyện được các kỹ năng đặc bịêt là nói, viết,
nghe. Trong nhóm, mỗi em sẽ phải đưa ra ý kiến của mình để đóng góp cho câu
trả lời. Khi một em đưa ra ý kiến tức là em đó được rèn luyện nói, các em khác
được nghe và chọn lọc ý để ghi vào phiếu sao cho ngắn gọn, đủ ý. Tuy nhiên các
em không chỉ nghe đơn thuần mà phải tập trung tư duy để xem bạn trình bày đủ
hay thiếu, đúng hay sai để bổ sung. Vì thế có thể nói các kỹ năng đều được rèn
luyện thông qua hình thức này. Qua thảo luận các em tự mình tìm ra câu trả lời,
tự mình khám phá kiến thức.
b. Cách tiến hành
Việc thảo luận có thể tiến hành theo hình thức nhóm đôi, nhóm bốn, nhóm
sáu hay theo đơn vị tổ tùy theo nội dung bài và sự bố trí mà giáo viên cho là hợp
lý. Tuy nhiên mỗi giờ học, giáo viên áp dụng một hình thức thảo luận chắc chắn
sẽ gây cho học sinh nhiều bất ngờ, hứng thú và kích thích nhu cầu học tập của
các em lên cao. Thảo luận sẽ có ý nghĩa lớn với việc rèn cho các em nhiều kỹ
năng. Sau khi thảo luận, các em cần phải được trao đổi trước lớp để rút ra cái

đúng, cái sai. Vì vậy, khi học sinh thảo luận xong,giáo viên gọi đại diện một vài
nhóm lên trình bày kết quả thảo luận của nhóm mình. Các nhóm khác lắng nghe
và nhận xét bạn, đồng thời cũng là sửa cho mình.
c. Ví dụ minh họa
*Ví dụ 1
Bài “Nghe – kể lại câu chuyện: Không nỡ nhìn. Tập tổ chức cuộc họp”
(Tuần 7 trang 61)
Với nội dung 2 của bài: Tập tổ chức cuộc họp, giáo viên dùng hình thức
thảo luận nhóm để học sinh trao đổi về nội dung, cách tiến hành cuộc họp. Mỗi
nhóm là một tổ các em cùng nhau trao đổi về một trong các chủ đề mà giáo viên
đưa ra. Mỗi thành viên lần lượt đóng vai cán bộ lớp đứng lên tổ chức cuộc họp,
12/

29


“Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm
văn lớp 3”
các thành viên khác cùng nhau xây dựng đóng góp ý kiến cho bạn. Sau mỗi lần
như vậy các em rút ra cái được và cái chưa được để giúp bạn sửa chữa.

Giờ học nhóm của học sinh lớp 3A6
Trường Tiểu học Khương Đình
Tôi xin đưa ra một ví dụ cụ thể của một nhóm học sinh đang thảo luận trong bài
học này. Các em đang thảo luận vê việc chăm sóc cây xanh trong trường.
Nhóm trưởng: Anh Thái
Các thành viên tổ 1 – lớp 3A6
Cách tiến hành cuộc họp
Nhóm trưởng: - Thưa các bạn! Hôm nay chúng ta họp để bàn về vịêc chăm sóc
cây trong trường.

- Bạn nào cho biết tình hình cây trong trường ta dạo này thế nào?
* Tôi thấy gần đây cây cảnh trong trường bị héo, chết và gẫy nhiều
- Các bạn có biết vì sao cây bị như vậy không?
Tôi mời bạn:
Học sinh A: + Tôi có ý kiến: Do chúng ta ít tưới nước cho cây
Học sinh B: + Tôi thấy một số bạn còn giẫm vào bồn cây
Học sinh C: + Tôi còn thấy một số anh chị lớp 4,5 còn ngắt lá, bẻ cành
13/

29


“Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm
văn lớp 3”
Học sinh D: + Tôi có ý kiến: tôi thấy một số em học sinh lớp 1 còn vứt giấy,
rác vào bồn cây.
Nhóm trưởng: Chúng ta sẽ cùng nhau thảo luận bàn cách chăm sóc cây nhé!
Các bạn cho ý kiến
Học sinh A: + Theo tôi chúng ta sẽ cùng nhau chăm sóc bồn cây
Học sinh B: + ý kiến của tôi là: Chúng ta sẽ nhặt giấy rác trong bồn cây
Học sinh C: + Tôi có ý kiến là: Hàng ngày, chúng ta phải tưới cây để cây
được xanh tốt
Học sinh D: + Tôi bổ sung: Chúng ta sẽ chia nhau trực để chăm sóc và bảo
vệ cây theo từng ngày.
Nhóm trưởng: Bạn nào đồng ý với ý kiến đó? (các bạn giơ tay)
Nhóm trưởng: Tôi sẽ cử mỗi ngày 2 bạn trực vào buổi sáng sớm, giờ ra
chơi, cuối buổi chiều để tưới nước cho cây và nhắc nhở các bạn cùng có ý thức
bảo vệ chăm sóc cây, giúp cho trường chúng ta thêm xanh – sạch - đẹp.
Ngay ngày thứ hai tôi và bạn A sẽ trực trước
(Các bạn khác tự nhận)

Nhóm trưởng: - Tôi mong các bạn thực hiện đúng như đã phân công
- Các bạn có đồng ý như vậy không? (Đồng ý)
- Còn bạn nào có ý kiến gì nữa không?
- Nếu không có ý kiến gì nữa, tôi xin tuyên bố kết thúc cuộc họp
ở đây!

14/

29


“Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm
văn lớp 3”

Nhóm trưởng Anh Thái đang điều hành cuộc họp
Tổ 1 lớp 3A6 - Trường Tiểu học Khương Đình
Ví dụ 2
Bài: Thảo luận về môi trường
(Tuần 31 trang 112)
“Trao đổi ở tổ và lớp: Em cần làm gì để bảo vệ môi trường?”
Với nội dung này giáo viên cho học sinh thảo luận theo nhóm (Mỗi nhóm
là một tổ) về những việc các em cần làm để bảo vệ môi trường. Các em sử dụng
sơ đồ tư duy để đưa ý kiến. Vì “nói” là một kĩ năng mà tiết học chú ý rèn luyện
nên việc giúp cho học sinh được nói, rèn nói là việc cần thiết và rất có ý nghĩa.
Với những câu hỏi gợi ý giáo viên cho học sinh thảo luận theo nhóm, mỗi em
đều phải trình bày ý kiến của mình trước nhóm sau đó các bạn bổ sung và nhận
xét. Giáo viên đi kiểm tra, nhận xét các nhóm. Nếu học sinh chưa rõ phần nào
giáo viên giúp các em nhận ra vấn đề để tiếp tục thảo luận. Sau khi các nhóm
thảo luận xong, giáo viên gọi đại diện mỗi nhóm một em lên trình bày trước lớp
để cô giáo và các bạn cùng nhận xét.

15/

29


“Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm
văn lớp 3”
Ví dụ 3
Bài: “Nghe kể lại câu chuyện. Điền vào giấy tờ in sẵn”.
Chủ điểm “Mái ấm” tuần 4 (trang 36)
Với nội dung 2: Điền nội dung cần thiết vào bức điện. Giáo viên cho học
sinh thảo luận theo nhóm để tìm hiểu nội dung của bức điện, cách viết một bức
điện. Mỗi nhóm sẽ thảo luận dựa trên phiếu do giáo viên phát cho các nhóm.
Sau khi thảo luận xong giáo viên gọi đại diện các nhóm lên trình bày kết quả của
nhóm mình và nhận xét sửa chữa cho các em.

3. Hình thức sử dụng phương tiện dạy học hỗ trợ cho việc dạy và học
đạt hiệu quả cao.
a. Mục đích
Một biện pháp khác rất dễ vận dụng đối với giáo viên mà cho hiệu quả
cao đó là việc sử dụng đồ dùng dạy học. Lứa tuổi học sinh lớp 3 là lứa tuổi các
em vẫn rất thích những gì trực quan, cụ thể, sinh động đầy màu sắc hấp dẫn. ý
thích này của các em nếu chỉ thông qua lời nói của giáo viên thì rất khó được
đáp ứng dù cho lời kể của giáo viên có bay bổng hoa lá đến đâu. Lúc này người
giáo viên cần phải biết khai thác, tập trung hiệu quả của các đồ dùng dạy học.
b. Cách tiến hành
Trong mỗi tiết Tập làm văn người giáo viên đều có thể và cần sử dụng
tranh ảnh (tranh vẽ, ảnh chụp, tranh động) có liên quan đến nội dung bài để giới
thiệu cho học sinh. Những tranh ảnh này phải có màu sắc thật tươi sáng, sinh
động mới cuốn hút được sự chú ý của học sinh.

Khi được tận mắt nhìn những hình ảnh qua tranh đặc biệt với những tranh
động các em sẽ nắm bài nhanh chắc hơn.
Ngày nay, phương tiện kỹ thuật ngày càng hiện đại vì vậy việc dạy học
cũng được thuận lợi hơn. Ngoài tranh ảnh, giáo viên có thể sử dụng băng hình,
băng âm thanh cho học sinh xem và nghe. Vì đây là những hình ảnh và âm thanh
có thật của cuộc sống nên rất sinh động. Qua việc xem băng hình, nghe băng
tiếng các em có thể nhận ra những chi tiết dù là nhỏ nhất của bài, từ đó các em
sẽ làm tốt các yêu cầu của một giờ tập làm văn.
16/

29


“Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm
văn lớp 3”
Với những tiết học khó chuẩn bị những đồ dùng này, giáo viên có thể sưu
tầm đồ dùng bằng vật thật, vật nặn mang đến cho học sinh.
Có thể nói cùng với băng hình, tranh ảnh – vật thật,vật nặn cũng có tác
dụng rất lớn đến học sinh.
Ngoài ra các đồ dùng khác như giấy khổ to, bảng phụ, bảng con, phiếu
học tập cũng góp phần đắc lực vào việc tạo nên thành công của giờ học. Những
đồ dùng dạy học có phong phú đến đâu đi nữa mà người giáo viên không biết
cách khai thác, hoặc chưa sâu đến làm ảnh hưởng đến hiệu qủa đồ dùng và chất
lượng giờ học. Vì vậy, người giáo viên ngoài việc làm sưu tầm đồ dùng dạy học
cần phải tập cho mình những kỹ năng, thao tác với các đồ dùng. Người giáo viên
phải hình dung, sắp xếp đồ dùng nào dùng trước, đồ dùng nào dùng sau, sử
dụng để làm gì?...nhằm khai thác hết công năng của nó.
Ví dụ 1
Bài: “Nghe – kể lại câu chuyện: Nâng niu từng hạt giống”
(Tuần 21 trang 30)


Một biện phỏp khỏc rất dễ vận dụng đối với giỏo viờn mà cho hiệu quả cao đú là
việc sử dụng đồ dựng dạy học. Lứa tuổi học sinh lớp 3 là lứa tuổi cỏc em vẫn rất
thớch những gỡ trực quan, cụ thể, sinh động đầy màu sắc hấp dẫn. ý thớch này
của cỏc em nếu chỉ thụng qua lời núi của giỏo viờn thỡ rất khú được đỏp ứng dự
17/

29


“Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm
văn lớp 3”
cho lời kể của giỏo viờn cú bay bổng hoa lỏ đến đõu. Lỳc này người giỏo viờn
cần phải biết khai thỏc, tập trung hiệu quả của cỏc đồ dựng dạy học.
b. Cỏch tiến hành
Trong mỗi tiết Tập làm văn người giỏo viờn đều cú thể và cần sử dụng
tranh ảnh (tranh vẽ, ảnh chụp, tranh động) cú liờn quan đến nội dung bài để giới
thiệu cho học sinh. Những tranh ảnh này phải cú màu sắc thật tươi sỏng, sinh
động mới cuốn hỳt được sự chỳ ý của học sinh.
Khi được tận mắt nhỡn những hỡnh ảnh qua tranh đặc biệt với những
tranh động cỏc em sẽ nắm bài nhanh chắc hơn.
Ngày nay, phương tiện kỹ thuật ngày càng hiện đại vỡ vậy việc dạy học
cũng được thuận lợi hơn. Ngoài tranh ảnh, giỏo viờn cú thể sử dụng băng hỡnh,
băng õm thanh cho học sinh xem và nghe. Vỡ đõy là những hỡnh ảnh và õm
thanh cú thật của cuộc sống nờn rất sinh động. Qua việc xem băng hỡnh, nghe
băng tiếng cỏc em cú thể nhận ra những chi tiết dự là nhỏ nhất của bài, từ đú cỏc
em sẽ làm tốt cỏc yờu cầu của một giờ tập làm văn.
Với những tiết học khú chuẩn bị những đồ dựng này, giỏo viờn cú thể sưu
tầm đồ dựng bằng vật thật, vật nặn mang đến cho học sinh.
Cú thể núi cựng với băng hỡnh, tranh ảnh – vật thật,vật nặn cũng cú tỏc

dụng rất lớn đến học sinh.
Ngoài ra cỏc đồ dựng khỏc như giấy khổ to, bảng phụ, bảng con, phiếu
học tập cũng gúp phần đắc lực vào việc tạo nờn thành cụng của giờ học. Những
đồ dựng dạy học cú phong phỳ đến đõu đi nữa mà người giỏo viờn khụng biết
cỏch khai thỏc, hoặc chưa sõu đến làm ảnh hưởng đến hiệu qủa đồ dựng và chất
lượng giờ học. Vỡ vậy, người giỏo viờn ngoài việc làm sưu tầm đồ dựng dạy học
cần phải tập cho mỡnh những kỹ năng, thao tỏc với cỏc đồ dựng. Người giỏo
viờn phải hỡnh dung, sắp xếp đồ dựng nào dựng trước, đồ dựng nào dựng sau,
sử dụng để làm gỡ?...nhằm khai thỏc hết cụng năng của nú.
Vớ dụ 1
Bài: “Nghe – kể lại cõu chuyện: Nõng niu từng hạt giống”
(Tuần 21 trang 30)
18/

29


“Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm
văn lớp 3”

Phong cảnh đẹp vịnh Hạ Long

Cảnh bờ biển Thành phố Vũng Tàu

19/

29


“Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm

văn lớp 3”

Gác Khuê Văn – Văn Miếu – Quốc Tử Giám

Hồ Gươm – Hà Nội

20/

29


“Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm
văn lớp 3”
Ví dụ 3
Bài: “Kể về một ngày hội”
Tuần 26 (trang 72)
Để các em có thể kể tốt, giáo viên cho học sinh xem băng hình về một lễ hội: Lễ
hội Đền Hùng, Hội Cổ Loa... Sau đó đưa ra các câu hỏi để học sinh trả lời. Từ
đó các em biết được một lễ hội sẽ được tổ chức như thế nào để kể lại tốt và hay
chủ đề này.
Ví dụ 4
Bài: “Nghe kể lại câu chuyện: Người bán quạt may mắn”.
(Tuần 24 Trang 56)
Giáo viên sử dụng vật thật là hai chiếc quạt: Quạt trắng, quạt có đề chữ để giúp
học sinh trả lời tốt hai câu hỏi:
1. Lúc đầu chiếc quạt của bà lão có đặc điểm gì?
2. Ông Vương đã làm gì với những chiếc quạt của bà lão? Chiếc quạt ban đầu và
sau khi được viết chữ nên như thế nào? (giáo viên giơ hai chiếc quạt ra và cho
học sinh quan sát trả lời).
Ngoài ra giáo viên nên sử dụng thêm hình ảnh minh họa của ông Chi đang vẽ

lên những chiếc quạt của bà lão để cho học sinh quan sát và khai thác.

21/

29


“Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm
văn lớp 3”

4. Hình thức đóng kịch
a. Mục đích
Trong giờ Tập làm văn, để tiết học có hiệu quả ngoài những biện pháp
trên, người giáo viên có thể cho học sinh đóng thành các tiểu phẩm nhỏ thể hiện
nội dung bài. Đây cũng được xem là một trong những hình thức hiệu quả. Bởi lẽ
nó không chỉ đảm bảo tính tích hợp của phân môn mà còn phù hợp với đặc điểm
tâm sinh lý của học sinh lớp 3, tạo điều kiện phát huy tính chủ động của các em
cũng như tính sáng tạo, năng động qua việc sắm vai các nhân vật trong tác
phẩm.
b. Cách tiến hành
Việc đóng kịch có thể tiến hành theo hình thức nhóm đôi, nhóm bốn,
nhóm sáu hay theo đơn vị tổ tùy theo nội dung bài . Tuy nhiên mỗi giờ học, giáo
viên áp dụng một hình thức đóng kịch chắc chắn sẽ gây cho học sinh nhiều bất
ngờ, hứng thú và kích thích nhu cầu học tập của các em lên cao. Đóng kịch sẽ có
ý nghĩa lớn với việc rèn cho các em nhiều kỹ năng. Sau khi đóng kịch, các em
cần phải được trao đổi trước lớp để rút ra thông điệp, ý nghĩa. Vì vậy, khi học
sinh thảo luận song,giáo viên gọi đại diện một vài nhóm lên trình bày kết quả
thảo luận của nhóm mình.
22/


29


“Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm
văn lớp 3”
c. Ví dụ minh họa
Ví dụ 1
Bài: “Nghe kể lại câu chuyện. Giới thiệu: Về tổ em”.
(Tuần 15 Trang 128)
Với nội dung 1 : “Nghe – kể lại câu chuyện: Giấu cày”
Đây là một câu chuyện ngắn, gây cười. Vừa để giúp học sinh nhớ truyện
một cách dễ dàng, vừa làm cho giờ học sinh động và tập cho các em làm quen
với cách nhập vai nhân vật trong truyện, sau khi các em đã tìm hiểu truyện 1 đến
2 nhóm lên kể lại chuyện, mỗi nhóm 3 em lên sắm vai để thể hiện lại câu
chuyện:
- 1 em đóng vai người vợ
- 1 em đóng vai người chồng
- 1 em đóng vai kẻ gian
Sau đó lớp nhận xét, giáo viên nhận xét.
Mỗi giờ học đều mang đến cho học sinh sự mệt mỏi, căng thẳng. Khi đó
những giây phút thư giãn với những trò chơi vui, sinh động giữa hoặc cuối giờ
sẽ giúp các em có thêm hứng khởi học tập. Trò chơi đóng vai vì thế cũng cần
được sử dụng trong mỗi tiết học để góp phần nâng cao hiệu quả giờ dạy.
Ví dụ 2
Cũng trong bài: “Nghe kể lại câu chuyện. Giới thiệu hoạt động”.
(Tuần 14 Trang 120)
Giáo viên sử dụng hình thức trò chơi cho nội dung: “Giới thiệu hoạt
động”. Giáo viên cho một học sinh đóng vai hành khách, một học sinh đóng vai
dẫn khách đi thăm quan trường, giới thiệu với khách về trường và hoạt động của
trường. Sau khi phổ biến một số nội dung: Tên trường, số lớp học, số học sinh,

các hoạt động đội, hoạt động dạy học…Giáo viên cho các tổ lên thi, tổ nào diễn
tốt tổ đó sẽ thắng. Với nội dung này, giáo viên có thể sử dụng 2 hình thức: Sắm
vai, trò chơi, từ đó làm cho tiết học sinh động vui vẻ.
Các trò chơi sau có thể cho HS chơi trong giờ tự học hoặc giờ ra chơi, giờ
sinh hoạt lớp hay trong phần củng cố của mỗi giờ học Tập làm văn tương ứng.
23/

29


“Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm
văn lớp 3”
Qua các trò chơi này HS được tăng cường rèn luyện các kiến thức vừa đợc học,
từ đó sẽ nhớ bài và vận dụng vào trong giao tiếp đời sống hằng ngày
Ví dụ 3
Bài: “Kể về một ngày hội”.
(Tuần 26 Trang 27)
Trước khi cho học sinh chuyển sang viết giáo viên cho học sinh chơi trò
chơi thi giữa các tổ:
Mỗi tổ cử đại diện 1 bạn lên giới thiệu về một ngày hội. Tổ nào giới thiệu
hay, nói có cảm xúc, trôi chảy tổ đó sẽ thắng. Như vậy, có thể lấy ngay trong các
trò chơi cũng rèn luyện cho học sinh kĩ năng cần thiết.
5. Hình thức trò chơi phỏng vấn:
a. Mục đích
: Luyện tập tự tin trong giao tiếp. Học sinh bước đầu biết trao đổi ý kiến về các
mặt của xã hội.
b. Cách tiến hành: 1 HS đóng vai phóng viên truyền hình, còn 1 HS đóng vai
người trả lời hoặc 1HS đóng vai chị phụ trách, 1 HS đóng vai đội viên Sao Nhi
đồng…..sau đó đổi vai.
- HS có thể chơi trò chơi này theo nhóm hoặc cả lớp.

- Để tất cả các em nắm được cách chơi, trước khi giao việc cho từng em,
GV cần tổ chức cho một hoặc hai cặp HS làm mẫu trước lớp.
c. Ví dụ minh họa
Trò chơi này có thể áp dụng vào bài tập 1, tuần 31: Thảo luận về bảo vệ môi
trường.
* Cách chơi: - Một HS giới thiệu về mình (tên -

phóng viên báo Môi

trường… )
- Sau khi giới thiệu xong về mình, phóng viên phải đưa ra các câu hỏi đến
từng bạn với cả lớp (hoặc nhóm ). Nội dung câu hỏi phải chính xác; nhiều học
sinh phải đưa ra được các ý kiến rõ ràng, mạch lạc, hấp dẫn càng tốt. Cho nhiều
HS tập làm phóng viên.
- Cuối cùng cho lớp bình chọn bạn hùng biện về môi trường giỏi nhất.
24/

29


“Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm
văn lớp 3”
Qua việc phân tích một số ví dụ có thể thấy các biện pháp đã nêu đề được
sử dụng trong giờ Tập làm văn. Nhưng hình thức của biện pháp lại thay đổi tuỳ
theo mỗi tiết học. Không phải bất cứ tiết học nào giáo viên cũng vận dụng đồng
loạt tất cả các biện pháp trên và tuỳ theo yêu cầu, nội dung bài đề lựa chọn biện
pháp nào là thích hợp và hiệu quả nhất. Các biện pháp nêu ra trong mỗi tiết học
vì thế cũng không hoàn toàn giống nhau. Đây cũng là điều giúp học sinh không
thấy nhàm chán giữa các tiết học. Điều này cũng đòi hỏi sự chủ động, linh hoạt
của giáo viên trong việc sử dụng các biện pháp.

IV. HIỆU QUẢ ĐỀ TÀI:
Qua thực tế giảng dạy, ỏp dụng những biện phỏp nhằm nâng
cao chất lượng giờ dạy Tập làm văn lớp 3, tôi đã thu được những kết
quả sau:
* Về học sinh:
- Học sinh lớp tôi yêu thích phân môn Tập làm văn . Các em thường mong
chờ đến tiết học để khám phá tìm ra những điều mới và được chơi các trò chơi
học tập.
- Trong giờ học các em tập trung chú ý học, tiếp thu bài tốt, hăng hái phát biểu ý
kiến, đưa ra những ý kiến của mình và lắng nghe ý kiến của bạn. Chính vì vậy giờ
học luôn sôi nổi, cuốn hút các em nắm được nội dung bài học.
- Giờ học Tập làm văn hội rất vui vì qua mỗi bài học các em lại được lớn lên
trong nhận thức, trong sự hiểu biết của mình.
- Học sinh mạnh dạn trong giao tiếp, biết trình bày ý kiến của mình, giúp các
em phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh Tiểu học.
- Kết quả học sinh hoàn thành chuẩn kiến thức, kĩ năng học kì 1 môn học như
sau:

Lớp

Sĩ số

3A6

59

Hoàn thành tốt
SL
%
34

57,6

Hoàn thành
SL
%
25
42,4

Chưa hoàn thành
SL
%
0
0

* Về giáo viên
Các tiết dạy môn Tập làm văn ở lớp tôi trong năm học này (nhà trường và
phòng giáo dục dựợc) có cả các tiết chuyên đề, dạy giỏi cấp trường và đăng ký
dự thi dạy giỏi cấp Quận được xếp loại Giỏi từ 18 điểm trở lên.

25/

29


×