Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học toán cho học sinh lớp 2 trường tiểu học xuân dương, thường xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.46 MB, 20 trang )

1

MỤC LỤC
TT

Nội dung

Trang

1

Mục lục

1

2

1.Mở đầu

2

3

1.1. Lí do chọn đề tài

2

4

1.2. Mục đích nghiên cứu


2

5

1.3. Đối tượng nghiên cứu

3

6

1.4. Phương pháp nghiên cứu

3

7

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

3

8

2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

3

9

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN


4

10

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

5

11

2.4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động dạy học

18

12

3. Kết luận và kiến nghị

18

13

3.1. Kết luận

18

14

3.2. Kiến nghị


19


2

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Bậc Tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục Quốc dân do vậy việc
dạy và học ở Tiểu học là một công việc hết sức quan trọng. Nhờ học ở bậc Tiểu
học học sinh có một công cụ, một chiếc chìa khoá vàng để mở cửa chân trời
khoa học. Những kiến thức học ở Tiểu học là phương tiện, là cẩm nang mang
theo trong suốt cuộc đời học sinh và trong cả thực tế cuộc sống.
Những năm qua việc đổi mới nội dung, chương trình sách giáo khoa được
thực hiện khá đồng bộ. Việc đổi mới nội dung, chương trình yêu cầu phải đổi
mới phương pháp dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi phải sử dụng
phương tiện dạy học phù hợp - và Công nghệ thông tin là một trong những
phương tiện quan trọng góp phần đổi mới phương pháp dạy học.
Từ những phương tiện này giáo viên có thể khai thác, sử dụng, cập nhật và
trao đổi thông tin. Việc khai thác mạng giúp giáo viên tránh được tình trạng “dạy
chay” một cách thiết thực, đồng thời giúp giáo viên có thể cập nhật thông tin
nhanh chóng nhạy bén, hiệu quả những vấn đề xã hội.
Thực tế cho thấy rằng dạy học môn toán cho học sinh lớp 2 vẫn còn mang
tính truyền thống, giáo viên phải sử dụng rất nhiều đồ dùng trong một tiết dạy.
Từ khâu kẻ vẽ, soạn đồ dùng trên lớp mất rất nhiều thời gian mà hiệu quả chưa
cao dẫn đến giáo viên ngại sử dụng đồ dùng trực quan nên thường dạy chay.
Hơn nữa trong quá trình thao tác hướng dẫn bài học, một bộ phận học sinh
không quan sát được rõ ràng do vị trí đứng của giáo viên che khuất mục tiêu
hướng dẫn. Do vậy việc sử dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy là một xu
thế hiện nay mang lại hiệu quả thiết thực. Nhờ thế mạnh của Công nghệ thông
tin: dễ quan sát theo dõi, trực quan, sinh động, dữ liệu phong phú, lưu trữ và sử

dụng dễ dàng ... mà giáo viên giúp học sinh từng bước phát triển năng lực tư
duy, rèn luyện phương pháp và kĩ năng logic, khêu gợi và tập dượt khả năng
quan sát phỏng đoán, tìm tòi. Giờ học của các em diễn ra một cách hứng thú,
nhẹ nhàng, sinh động, tích cực hoá các hoạt động nhận thức của học sinh.
Trong những năm học gần đây, tôi đã mạnh dạn đưa ứng dụng công nghệ
thông tin vào nhiều môn học. Đặc biệt là môn Toán tôi đã thiết kế được nhiều
bài giảng điện tử để đưa vào giảng dạy. Đối với bộ môn Toán, ngoài sử dụng
phần mềm Power Point tôi còn sử dụng phần mềm Violet vào phần luyện tập
dưới dạng trò chơi, tạo không khí học tập thoải mái cho học sinh. Qua quá trình
soạn giáo án và giảng dạy tôi đã đúc kết được một số kinh nghiệm và quyết định
mạnh dạn viết đề tài: “Một số biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin vào
dạy học Toán cho học sinh lớp 2 trường Tiểu học Xuân Dương, Thường
Xuân ”. Để từ đó có những kinh nghiệm bổ ích bồi dưỡng chuyên môn nghiệp
vụ của bản thân và đồng thời đóng góp những kinh nghiệm nhỏ bé của mình để
góp phần đưa chất lượng giáo dục ngày càng cao hơn.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn toán ở Tiểu học theo
phương hướng hoạt động cá thể phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của


3

học sinh, tăng cường hoạt động cá thể phối hợp với học tập giao lưu. Hình thành
và rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
- Góp phần gây hứng thú học tập môn Toán cho học sinh - một môn học
được coi là khô khan, hóc búa thì việc sử dụng phương tiện dạy học hiện đại sẽ
giúp các em nhìn nhận, nắm bắt nội dung học tập một cách cụ thể, dễ hiểu. Việc
kết hợp đưa ra các trò chơi Toán học trong một số giờ học nhằm mục đích để các em
học mà chơi, chơi mà học. Trò chơi toán học không những chỉ giúp các em lĩnh hội
được tri thức mà còn giúp các em củng cố và khắc sâu các tri thức đó.

- Tìm hệ thống nội dung, phương pháp, hình thức dạy học Toán lớp 2.
- Tìm hiểu những thuận lợi khó khăn của giáo viên và học sinh khi thiết
kế giáo án điện tử và sử dụng trò chơi trong giờ học toán.
- Đổi mới phương pháp dạy học khi đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào
giảng dạy môn toán lớp 2 góp phần nâng cao hiệu quả dạy học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Một số biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học môn Toán cho học
sinh lớp 2 trường Tiểu học Xuân Dương
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
* Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
- Đọc các tài liệu sách, báo, tạp chí giáo dục ... liên quan đến nội dung đề
tài.
- Đọc SGK, sách giáo viên, các loại sách tham khảo: Toán tuổi thơ, Giúp
em vui học toán.
* Phương pháp quan sát: Dự giờ, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp về nội
dung các tiết học có sử dụng giáo án điện tử và các trò chơi toán học.
* Phương pháp điều tra: Tìm hiểu thực trạng việc dạy học bằng giáo án
điện tử và tổ chức một số trò chơi Toán học lớp 2.
* Phương pháp thực nghiệm:
- Tổ chức và tiến hành thực nghiệm sư phạm (Thiết kế bài giảng, thực hành
dạy). Tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học để kiểm tra tính khả thi
của đề tài.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận
Công nghệ thông tin học là một lĩnh vực đột phá có vai trò thúc đẩy phát
triển kinh tế và xã hội. Nâng cao chất lượng trong cuộc sống đảm bảo an ninh
quốc phòng và khả năng đi trước đón đầu để thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp hoá
hiện đại hoá đất nước. Đối với giáo dục đào tạo công nghệ thông tin có tác dụng
mạnh mẽ phục vụ đổi mới phương pháp, phương thức dạy học nó phù hợp với
yêu cầu của hội nhập Quốc tế.

Công nghệ thông tin không những chỉ có vai trò quan trọng trong công tác
quản lý của trường học mà còn hỗ trợ giáo viên thực hiện việc thiết kế bài giảng,
đổi mới phương pháp dạy học và tổ chức quá trình dạy học ở tất cả các môn
học. Đối với học sinh, việc sử dụng đồ dùng hiện đại là một phương tiện có tác
dụng trợ giúp cho các em tiếp thu kiến thức, khả năng tư duy độc lập, sáng tạo,


4

tự học không ngừng nâng cao.
Học sinh tiểu học đặc biệt là học sinh lớp 2 còn nhỏ, nên quá trình nhận
thức thường gắn với những hình ảnh, hoạt động cụ thể. Bởi vậy các phương tiện
trực quan rất cần thiết trong quá trình giảng dạy. Đặc biệt là các phương tiện trực
quan sinh động, rõ nét sẽ thu hút được sự chú ý của học sinh. Chính vì vậy trong
những tiết học có đồ dùng trực quan đẹp, rõ nét sẽ lôi cuốn sự chú ý của học
sinh đến bài giảng nhiều hơn và kết quả là học sinh tiếp thu bài tốt hơn, nhớ lâu
hơn. Đối với môn Toán không có nhiều tranh ảnh như các bộ môn khác, nhưng
không phải vì thế mà không cần đến ứng dụng công nghệ thông tin. Đồ dùng
dạy và học toán chỉ là những con số, các bài toán và những hình vẽ. Thế nhưng,
những con số, những bài toán và những hình vẽ nếu đưa lên màn hình lớn với sự
nhấn mạnh bằng cách đổi màu chữ hay gạch chân sẽ có hiệu quả hơn. Chính vì
vậy mà việc đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy môn toán ở lớp 2
là việc làm vô cùng cần thiết, phù hợp với quá trình nhận thức của học sinh “Từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng ....”.
2.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu:
2.2.1. Về thuận lợi:
- Trường Tiểu học Xuân Dương là đơn vị điển hình về ứng dụng công nghệ
thông tin, nên đã sớm triển khai việc đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào đổi
mới phương pháp dạy và học nhiều năm nay. Năm học 2019- 2020 thực hiện
tinh thần chỉ đạo của Sở giáo dục, Phòng giáo dục và đào tạo, Trường Tiểu học

Xuân Dương đã phát động phong trào “ Mỗi giáo viên dạy ít nhất 2 giáo án điện
tử trong một năm học”. Đây cũng là một trong những tiêu chí đánh giá mỗi giáo
viên trong nhà trường.
- Được sự quan tâm của các ban ngành, sự ủng hộ của các cấp lãnh đạo và
toàn thể phụ huynh trong toàn trường hỗ trợ về cơ sở vật chất cho nhà trường.
Trong những năm học vừa qua trường đã mua nhiều máy vi tính và nối mạng
Internet.
- Nhà trường luôn tạo điều kiện cho giáo viên học nâng cao trình độ tin
học. Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn sử dụng công nghệ thông tin cho
giáo viên. Trường còn tổ chức các buổi tham luận về ứng dụng công nghệ thông
tin để giáo viên trao đổi kinh nghiệm và học hỏi lẫn nhau.
Chính vì vậy, trong quá trình giảng dạy hiện nay, đã có nhiều giáo viên giảng
dạy bằng giáo án điện tử. Giáo án điện tử tạo ra một không khí học tập sôi nổi, thu
hút sự chú ý của học sinh, học sinh thực sự làm chủ trong tiết học. Khi dạy bằng bài
giảng điện tử giáo viên đỡ vất vả hơn - thay bằng các thao tác gắn đồ dùng lên bảng,
giáo viên chỉ cần kích chuột là có. Dạy bằng giáo án điện tử còn tránh được tình
trạng cháy giáo án do quá nhiều thao tác gắn và tháo đồ dùng dạy học.
2.2.2. Về khó khăn:
+ Đối với giáo viên:
- Trình độ tin học còn hạn chế, nên việc thiết kế giáo án điện tử rất vất vả
và mất nhiều thời gian. Nhà trường luôn tạo điều kiện cho chúng tôi đi học để
nâng cao trình độ tin học, nhưng thời gian có hạn nên chúng tôi không thể đi


5

chuyên sâu tìm hiểu được các kiến thức của tin học để soạn bài theo mong muốn.
- Việc thiết kế giáo án điện tử chưa có nhiều kinh nghiệm nên việc chọn
màu sắc, phông nền hay phông chữ, chọn hiệu ứng đôi khi chưa phù hợp.
- Giờ học còn phụ thuộc vào nguồn điện, phòng học, ánh sáng.

+ Đối với học sinh:
- Đối tượng là học sinh lớp 2, các em chưa được tiếp cận với máy tính.
- Lần đầu các em được làm quen với công nghệ thông tin nên không tránh
khỏi những bỡ ngỡ chỉ quan sát đến cái mà các em thích, chưa phân biệt được
trọng tâm yêu cầu của cô đưa ra...
+ Đối với phụ huynh:
Phụ huynh cho rằng học sinh lớp 2 còn quá nhỏ. Chưa biết gì nên không
thể học được. Do đó mà thiếu sự động viên và khích lệ kịp thời để các em phấn
đấu học tốt hơn.
Việc khắc phục tình trạng trên quả là khó nhưng lại hết sức cần thiết. Với
lòng nhiệt tình về nghề nghiệp và trách nhiệm lớn lao với học sinh, tôi đã quyết
tâm khắc phục những khó khăn trên.
Xuất phát từ thực trạng và quyết tâm của bản thân, ngay từ đầu năm học
2019- 2020 khi được phân công chủ nhiệm lớp 2C trường Tiểu học Xuân Dương
khi các em chưa được học tiết dạy theo công nghệ thông tin, tôi đã kiểm tra hình
thức phỏng vấn việc nắm kiến thức về toán học qua tranh vẽ không có hình ảnh
động và âm thanh, với mục đích đánh giá chính xác hơn về thực trạng của lớp
mình để từ đó tìm ra phương pháp dạy học đạt hiệu quả cao.
Kết quả cụ thể:
Lớp

Số HS

2C

29

Làm toán nhanh
SL
TL

3
10,4

Chất lượng đạt được
Làm toán chậm
Chưa biết làm toán
SL
TL
SL
TL
15
51,6
11
37,9

Tuy nhiên việc làm toán thành thạo chưa yêu cầu quá cao vì các em mới từ
lớp 1 chuyển lên. Nhưng từ thực tế trên kết quả là điều cần đáng chú ý trong
việc hướng dẫn và rèn kĩ năng giải toán cho các em ngay từ năm học đầu cấp
này. Đây là một việc quan trọng tôi thấy cần phải làm .
2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:
2.3.1. Xây dựng kế hoạch, thiết kế bài dạy phù hợp:
Khi thiết kế bài giảng có ứng dụng công nghệ thông tin cần tuân thủ một số
nguyên tắc sau:
* Đảm bảo tính trực quan: Khi thiết kế bài dạy đòi hỏi người soạn phải lựa
chọn các kiểu mẫu phù hợp, các slide có màu sắc không lòe loẹt màu nền và
màu chữ phải hài hòa, sinh động thực sự chú ý sự thu hút của học sinh. Chọn các
hiệu ứng phải dễ nhìn, không gây căng thẳng, mỏi mắt của học sinh khi các em
quan sát, các slide trình chiếu phải tuân theo một logic nhất định.
* Đảm bảo tính vừa sức: Ngay từ khi xác định mục tiêu bài dạy, giáo viên
phải đề ra mục tiêu phù hợp, không quá dễ, nhưng cũng không quá khó, các câu



6

hỏi đưa ra phải kích thích được sự quan tâm tìm tòi của học sinh, sau mỗi câu trả
lời của học sinh, giáo viên phải có sự tổng kết và đưa ra đáp án đúng cho các em.
* Đảm bảo tính thống nhất giữa các nội dung, phương pháp:
Nguyên tắc này đòi hỏi người giáo viên ngay từ khi thiết kế cần dựa vào
nội dung sách giáo khoa, tiến hành phân tích nội dung, căn cứ vào đối tượng cụ
thể, từ đó xác định mục tiêu cần đạt sau khi học xong bài, trả lời các câu hỏi:
Để đạt được mục tiêu đó cần tập trung vào những nội dung nào? Phương
tiện dạy học cần đảm bảo những yêu cầu gì? Khi thiết kế bài giảng bằng phần
mềm PowerPoint, giáo viên phải từ sự phân tích nội dung bài học để đề ra mục
tiêu, lựa chọn thiết kế nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Giáo viên phải thể hiện rõ vai
trò tổ chức, chỉ đạo để phát huy tính tích cực của học sinh trong quá trình tiếp
thu kiến thức. Thiết kế bài giảng phải:
+ Ngắn gọn, xúc tích
+ Hạn chế tối đa các hiệu ứng (chuyển trang, màu sắc quá chói,...) dễ làm
học sinh mất tập trung.
+ Minh họa bằng hình ảnh sát với nội dung cần giảng dạy.
a. Những ưu điểm khi đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào một số bài
toán lớp 2:
* Nhóm bài: 29 + 5, 49 + 25 ( trang 16, 17 – SGK Toán 2);
28 + 5; 38 + 25 ( trang 16, 17 – SGK Toán 2):
Ở những bài này, để xây dựng được các công thức trong bảng cộng mà
không sử dụng giáo án điện tử thì người GV phải sử dụng rất nhiều que tính, GV
sẽ vất vả trong việc gắn que tính lên bảng cũng như gộp hoặc tách que tính để
phân tích nội dung bài học.
Trong khi đó, với việc sử dụng giáo án điện tử thì thay bằng các thao tác
gắn tách trên bảng, GV chỉ cần nhấp chuột là những hình ảnh GV cần sẽ lần

lượt hiện ra một cách sinh động (có màu sắc bắt mắt, hình ảnh động.....) gây sự
chú ý của HS.

Bước 1: Cô có 49 que tính (gồm 4 bó 1 Bước 2: có thêm 25 que tính nữa (gồm
2 bó 1 chục que tính và 5 que rời)
chục que tính và 9 que rời)

Bước 3: Có 9 que tính rời và thêm 5
que tính rời nữa, tức là thêm 1 que tính
vào 9 que tính (rồi bó lại thành 1 bó 1
chục que tính) và thêm tiếp 4 que tính còn
lại.

Bước 4: 4 bó thêm 2 bó rồi thêm 1 bó
nữa thành 7 bó hay 7 chục que tính, 7
chục que tính thêm 4 que tính là 74
que tính.


7

Như vậy 49 que tính thêm 25 que tính thành 74 que tính.
*Bài: Ki – lô - mét ( trang 151 – SGK Toán 2):
Ở bài này, để HS hình dung được độ dài 1 ki – lô - mét mà chỉ dùng hình ảnh
trong SGK thì khó có thể giúp các em hình dung được một cách cụ thể. Vì thế, khi
dạy bài này, GV cần lấy điểm mốc cụ thể trên quãng đường mà HS thường đi qua
hàng ngày để giúp các em dễ hình dung ra độ dài 1km là như thế nào.

Ở phần luyện tập, để giúp các em làm tốt bài tập số 3, GV đưa lược đồ
Việt Nam, đổi màu các đoạn đường để giúp HS hình dung được khoảng cách

giữa các tỉnh và các em sẽ dễ dàng so sánh được các quãng đường đó.

*Bài: Mi – li - mét ( trang 153 – SGK Toán 2):
Ở bài này để hướng dẫn HS cùng quan sát thước có vạch chia Mi - li - mét
là khó vì khoảng cách giữa các vạch là quá nhỏ.
Để GV có thể giới thiệu về 1mm và giúp HS nắm được biểu tượng 1mm
trên thước là rất khó cho việc quan sát của HS. Vì vậy, việc đưa hình ảnh cái


8

thước cùng với độ dài 1mm được tô màu đỏ lên màn hình sẽ giúp cho GV dễ
dàng truyền tải tới HS và HS cũng dễ dàng nắm bắt khái niệm.

Để HS nắm được 1cm = ...mm, GV có thể yêu cầu HS quan sát độ dài 1cm trên
thước và hỏi: “Độ dài 1cm, chẳng hạn từ vạch 0 đến vạch 1, được chia thành
bao nhiêu phần bằng nhau?” GV có thể đưa hình ảnh sau:

Hoặc khi hướng dẫn HS đo độ dài đoạn thẳng thì rất khó để cho HS quan
sát nếu GV sử dụng thước chia vạch Mi – li - mét của HS với một đoạn thẳng
chỉ có vài Mi – li - mét. Vì thế với GAĐT, GV có thể phóng lên màn hình để
hướng dẫn HS cách đo, cách đặt thước và đọc số đo của đoạn thẳng đó. HS có
thể quan sát dễ dàng mà không sợ thước nhỏ quá hay đoạn thẳng ngắn quá.

Ngoài ra, GV cũng có thể sử dụng máy quay để quay các thao tác đo mẫu
hoặc vẽ mẫu để đưa lên màn hình lớn cho HS quan sát một cách dễ dàng và
chính xác.
*Bài: Ngày, tháng ( trang 79 – SGK Toán 2):
Để dạy bài này, nếu không sử dụng máy chiếu GV phải mất thời gian scan
ảnh rồi phóng to ra giấy A0 nhưng vẫn rất khó cho HS có thể quan sát được.

Bằng việc sử dụng máy chiếu GV có thể phóng to tờ lịch, đổi màu chữ nếu cần
và HS có thể dễ dàng quan sát.


9

*Bài: Đơn vị, chục, trăm, nghìn ( trang 137 – SGK Toán 2):
Với bài này, phần nội dung bài mới, GV sẽ phải gắn rất nhiều các ô vuông
nhỏ biểu thị cho đơn vị, chục, trăm, nghìn lên bảng mất rất nhiều thời gian, và
nhiều khi nam châm không đủ chắc, lại mất thời gian chỉnh sửa. Bằng việc sử
dụng máy chiếu GV chỉ cần kích chuột là các biểu tượng sẽ hiện ra theo đúng ý
đồ của GV, không gây nên sự vất vả, tiết kiệm thời gian cho GV còn HS thì dễ
dàng tiếp cận với nội dung bài học.


10

Như vậy bằng việc sử dụng giáo án điện tử GV có thể mang lại cho HS
những giờ học bổ ích và lí thú, có thể tác động đến hầu hết các giác quan của
HS, tạo những ấn tượng sâu sắc tới các em. Khi soạn những bài giảng này, GV
không phải vất vả trong việc phóng to tranh ảnh ra giấy vừa tốn tiền vừa tốn thời
gian và công sức, lại phải mất công bảo quản đồ dùng sau mỗi lần dạy xong mà
hình ảnh màu sắc lại không sống động, không rõ nét như khi làm trên GAĐT.
Khi GV đã thành thạo sử dụng máy vi tính, Internet thì việc soạn bài trên máy
rất đơn giản, không cần phải di chuyển đi đâu, chỉ việc vào mạng Internet mọi tư
liệu đều có thể tìm thấy.
b. Minh họa thiết kế đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào bài học cụ thể:
Ví dụ 1: bài 25: Bảng chia 4.
Để hình thành bảng chia 4 giáo viên thiết kế một số Slide chính như sau:
+ Slide thứ nhất : -Thiết kế phần lời chào và giới thiệu.

+ Slide thứ hai: Nội dung phần kiểm tra bài cũ:


11

Ở phần này GV cho học sinh làm bài vào bảng con và bảng lớp. sau đó GV
và HS nhận xét .
+ Slide thứ ba: Nội dung bài học: Sau khi giáo viên xuất hiện các chấm
tròn cùng hình ảnh minh họa số quả và hướng dẫn học sinh biết được mối liên
hệ giữa phép nhân và phép chia. Từ bảng nhân 4, học sinh có thể thành lập đựơc
bảng chia 4 một cách dễ dàng.

+ Slide thứ tư chứa nội dung bảng chia 4 nhưng đã bị che khuất đi một số
số bị chia và thương bằng những hình ảnh sinh động giúp học sinh có thể học
thuộc nhanh hơn và thích thú hơn khi kết quả được xuất hiện sau những hình
ảnh đó.

+ Slide thứ năm chứa nội dung bài tập 1:
-Sau khi giáo viên xuất hiện bài tập.Giáo viên có thể gọi ngay học sinh
đọc yêu cầu một cách dễ dàng không mất thời gian mở sách giáo khoa hay đợi
giáo viên viết bảng rồi mới đọc.
- Giáo viên cho học sinh chơi trò chơi truyền điện (hoặc đố bạn). Các em
sẽ nối tiếp nhau mời bạn nêu kết quả phép tính mà mình đố. Và kết quả được
kiểm tra ngay khi giáo viên kích chuột vào các chấm tròn.Cứ như vậy cho đến
khi hết phép tính. Học sinh sẽ rất tích cực và hứng thú khi thực hiện bài tập này
mà không cảm thấy chán.


12


+Slide thứ sáu: Chứa nội dung bài tập 2: Giáo viên gọi học sinh đọc yêu
cầu và xác định yêu cầu của đề bài. Học sinh trả lời đến đâu giáo viên có thể
nhấn mạnh lại bằng cách gạch chân ngay các cụm từ trong đề bài, học sinh sẽ dễ
dàng biết cách tóm tắt bài toán và thực hiện làm bài giải. Sau khi học sinh làm
xong giáo viên xuất hiện bài giải trên bảng để học sinh có thể đối chiếu với bài
làm của mình.

+ Slide thứ bảy chứa nội dung củng cố bài học bằng trò chơi: Để phần trò
chơi luôn hấp dẫn trong các tiết học tôi có thể đổi tên trò chơi như: “Ai đúng, ai
sai?” hoặc “Thử tài đoán nhanh” Ở bài này tôi cho học sinh chơi trò (Ai nhanh
hơn) Thỏ về chuồng.
- Học sinh sẽ nhanh tay chọn con thỏ mang số( kết quả) về chuồng có phép
tính và kết quả đúng. Nếu học sinh chọn con thỏ mang số 3 thì sẽ đưa về chuồng
12: 4 = . Khi giáo viên bấm cho con thỏ về chuồng nếu đúng máy tính sẽ
thưởng cho một tràng vỗ tay, nếu sai chuồng, con thỏ sẽ tự động quay về vị trí
đứng cũ và sẽ xuất hiện gương mặt mếu.

-


13

* Tương tự các dạng bài thành lập bảng nhân 2, 3, 4, 5 và bảng chia 2, 3, 4,
5 các bước lên lớp cũng tương tự, nhưng giáo viên có thể thay đổi hình ảnh và
hình thức tổ chức cho phù hợp.
Ví dụ 2: bài Hình chữ nhật- Hình tứ giác
Đối với dạng bài này nếu dạy không phải là giáo án điện tử thì giáo viên
phải chuẩn bị rất nhiều hình mà sẽ không mang lại hứng thú cho học sinh.
+ Slide thứ nhất: Trước khi vào bài mới giáo viên cho học sinh khởi động
bằng trò chơi Đoán hình. GV xuất hiện 3 hình ( hình tròn, hình tam giác, hình

vuông) học sinh nêu tên các hình. GV xuất hiện tên hình.
- Sau khi học sinh nêu đúng. Giáo viên xuất hiện tiếp hình vuông và hỏi:
Hình vuông có đặc điểm gì?- HS trả lời – GV xuất hiện câu trả lời đúng.

+ Slide thứ hai: - GV xuất hiện hình chữ nhật . Cho học sinh gọi tên hình
và nhận biết đặc điểm của hình qua hệ thống câu hỏi của giáo viên.


14

+ Slide thứ ba: - Củng cố lại đặc điểm của hình bằng cách dùng thước để
đo từng cạnh cho học sinh thấy.

+ Slide thứ tư: - Xuất hiện trên màn hình các hình chữ nhật và gọi học sinh
đọc tên các hình.chữ nhật.

+ Slide thứ năm: - Xuất hiện trên màn hình các hình chữ nhật và gọi học
sinh đọc tên các hình.chữ nhật.

+ Slide thứ sáu: Cho học sinh so sánh điểm giống nhau và khác nhau giữa
2 hình. Đọc tên các hình.


15

+ Slide thứ bảy: Thực hành: Bài 1
- Giáo viên hướng dẫn học sinh cách chấm các điểm vào vở sau đó tự
học sinh dùng bút nối các điểm để có hình chữ nhật. GV xuất hiện cách nối
trên máy chiếu.
- Cho học sinh làm vào vở. Đọc tên các hình.


+ Slide thứ tám: Thực hành: Bài 2
-GV xuất hiện yêu cầu và hình trên bảng
- HS đọc yêu cầu xác định và tìm hình tứ giác.
- Sau khi học sinh lên chỉ, để biết học sinh chỉ đúng hay sai giáo viên chỉ
việc bấm chuột hình 1 hoặc hình 2 là hình tứ giác sẽ nhấp nháy và đổi màu.
Làm như vậy học sinh sẽ rất thích và không bị nhàm chán mà còn gây hứng thú
cho học sinh chú ý để học tập.


16

+ Slide thứ mười chín: Ở bài này tôi cho học sinh chơi trò Ai nhanh? Ai
đúng?.
-GV cho học sinh chọn hình ảnh mình thích, sau khi học sinh chọ giáo viên
nháy chuột vào hình đó và sẽ xuất hiện 1 câu hỏi, học sinh phải trả lời đúng câu
hỏi đó, nếu đúng sẽ được thưởng, nếu sai bạn khác sẽ được trả lời.

2.3.2. Sưu tầm tranh ảnh, hình ảnh sinh động để đưa vào bài dạy:


17

Hình ảnh đã thu hút học sinh, nhưng học sinh sẽ thấy thích thú hơn khi
giáo viên thiết kế hình ảnh động.
*Dạng toán phần Luyện tập, thực hành: Các bài thuộc dạng tính, đặt tính
hay tính nhẩm tôi tạm dừng màn hình cho học sinh làm bài tránh thiếu tập trung
bằng cách ấn vào phím : w hay chữ cái: b. Sau khi học sinh hoàn thành có thể
kiểm tra học sinh đổi chéo vở nhận xét và cho điểm miệng bài làm của bạn;
chữa bài theo dạy học truyền thống: chữa trên bảng lớp hay đối chiếu với kết

quả trên màn hình. Muốn thực hiện hoạt động tiếp theo trên Power Point giáo
viên bấm vào phím w hay phím: b

Với cách làm như trên, học sinh được quan sát một cách trực tiếp qua
những hình ảnh động, từ đó tiếp thu bài một cách dễ dàng.
2.3.3. Phát huy khả năng tư duy sáng tạo của học sinh qua trò chơi toán học:
Đối với học sinh nói chung và học sinh Tiểu học nói riêng, trò chơi học tập
có rất nhiều tác dụng đối với các em:
- Giúp học sinh có nhiều hứng thú trong học tập tham gia học tập một cách
tích cực, tự nhiên, hoạt động học tập có hiệu quả hơn.
- Tăng cường khă năng luyện tập, thực hành và vận dụng các kiến thức đã học.
- Củng cố, khắc sâu kiến thức đã học một cách nhẹ nhàng, tạo cho các em
ham học, ham hiểu biết qua hững trò chơi hấp dẫn.
- Khơi dậy trong trẻ em trí tưởng tượng, khả năng phán đoán, tính hài hước,
dí dỏm trong học tập và trong cuộc sống, bước đầu hòa đồng với tập thể, với bạn
bè xung quanh.


18

Mỗi tiết học có đặc trưng riêng, tùy nội dung, tùy vào khả năng của học
sinh mà giáo viên đưa trò chơi vào thời điểm thích hợp để đảm bảo tính vừa sức,
tính khoa học.
Sau khi hoàn thành bài học, tôi tổ chức trò chơi để củng cố, khắc sâu kiến
thức vừa học, đồng thời phát huy năng lực sáng tạo của học sinh bằng cách tổ
chức cho học sinh trò chơi:
• Một số trò chơi khác nhau ở các bài như sau:
Ví dụ: Bài Bảng nhân 4. Trò chơi: Chọn con vật về chuồng.
Yêu cầu học sinh chọn con vật phù hợp với chuồng của mình. Nếu về
nhầmguy hiểm. Thời gian chơi 3 phút.


`
24
4x2

8
4x
6

20
4 x5

Ví dụ: Bài 26 + 5. Trò chơi Ai nhanh, Ai đúng?

Các trò chơi trên có thể diễn ra đầu, giữa hoặc cuối tiết học.Trò chơi có
thể giải quyết được một hoặc nhiều bài toán. Trò chơi còn giúp học sinh tính
toán và phản xạ nhanh, từ đó phát triển tư duy cho học sinh. Để thưòng xuyên
đổi mới tôi thường thay đổi tên trò chơi để học sinh có hứng thú hơn.
2.3.4. Sử dụng phần mềm dạy học Toán:
Ngoài việc sử dụng giáo án điện tử giáo viên có thể sử dụng một số phần
mềm dạy học Toán phù hợp. Chẳng hạn, tôi sử dụng “Dạy toán 2” và “Học toán
2”- Bộ phần mềm về dạy học môn Toán lớp 2 của Schoolnet. Trong phần mềm
này có hơn 134 bài học được chia thành 4 chương. Một đặc điểm nổi bật của các
phần mềm này là giáo viên hoặc cha mẹ học sinh được quyền nhập trực tiếp dữ


19

liệu hoặc thông tin đầu vào đó. Với tính năng này, giáo viên sẽ hoàn toàn chủ
động để tìm kiếm thông tin và giảng dạy trực tiếp trên máy tính phù hợp với lớp

mình dạy.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Qua quá trình triển khai thực hiện các biện pháp ứng dụng công nghệ thông
tin như đã trình bày ở trên, tôi nhận thấy các em học sinh lớp 2 do tôi phụ trách
không những nắm chắc kiến thức, các em đọc bài rất tốt, làm toán nhanh, trình
bày bài và viết chữ rất đẹp. Học sinh lớp tôi còn biết chia sẻ thương yêu nhau,
đoàn kết giúp đỡ khi bạn gặp khó khăn, mạnh dạn, tự tin đứng trước lớp, thi đua
thể hiện năng khiếu. Nói chung, dạy học ứng dụng công nghệ thông tin học sinh
học tập phấn khởi hơn, tiếp thu bài nhanh hơn và có chất lượng thực sự. Kết quả
cuối cùng được thể hiện ngay trong bài kiểm tra của học sinh.
Đây là kết quả bài làm của học sinh sau thời gian tôi đã tiến hành thực
nghiệm các biện pháp trên.
Kết quả kiểm tra
Lớp Số HS
Làm toán nhanh
Làm toán chậm
Chưa biết làm toán
SL
TL
SL
TL
SL
TL
2C
29
19
65,5
10
34,5
0

0
Biện pháp trên đã tạo hứng thú, phát huy được tính tích cực chủ động
sáng tạo của học sinh, các em học bài không bị gò bó, nhiều em đã làm toán
có tiến bộ vượt bậc.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục - đào tạo là một yêu cầu cấp
thiết của chiến lược phát triển giáo dục 2015 - 2020 của Đảng ta. Qua nghiên
cứu và áp dụng biện pháp vào giảng dạy vào thực tế bản thân đã rút ra một số
bài học kinh nghiệm sau:
- Việc ứng dụng công nghệ thông tin để đổi mới phương pháp dạy học nếu
chưa được nghiên cứu kĩ có thể sẽ dẫn đến việc ứng dụng không đúng chỗ, đúng
lúc, nhiều khi lạm dụng.
- Giáo viên cần mạnh dạn, không ngại khó khi thiết kế và sử dụng bài giảng
điện tử. Điều này sẽ giúp giáo viên rèn luyện được nhiều kĩ năng và phối hợp tốt
các phương pháp dạy học tích cực khác. Giáo viên cần phải tích cực tham khảo
các bài dạy trên các phương tiện thông tin để xây dựng ý tưởng của bài dạy
sao cho hiệu quả, đạt chất lượng tốt, thường xuyên trao đổi và rút kinh
nghiệm, tiếp thu những công nghệ mới, trao đổi những cách làm hay.
- Khi thiết kế bài giảng điện tử cần chuẩn bị trước kịch bản, tư liệu (Video,
hình ảnh,...), chọn giải pháp cho sử dụng công nghệ, sau đó mới bắt tay vào soạn
giảng. Nếu sử dụng PowePiont làm công cụ chính cần lưu ý về Font chữ, màu
chữ xanh/ đen - trắng, vàng/ đỏ, và hiệu ứng thích hợp ( hiệu ứng đơn giản, nhẹ
nhàng tránh gây mất tập trung vào bài giảng).
- Nội dung bài giảng điện tử cần cô đọng, súc tích, hình ảnh mô phỏng cần
sát với chủ đề, cần khai thác thế mạnh của công nghệ thông tin trong kiểm tra


20


đánh giá và kiểm chứng kết quả.
3.2. Kiến nghị:
- Đối với Phòng Giáo dục: Cần thiết phải giải quyết mâu thuẫn giữa quỹ
thời gian soạn bài nhiều môn của giáo viên tiểu học với yêu cầu sử dụng công
nghệ thông tin và nâng cao chất lượng tổ chức các hoạt động trên lớp. Bởi vì
muốn sử dụng tốt đòi hỏi phải có thời gian nghiên cứu.
- Đối với chuyên môn nhà trường: Cần khuyến khích giáo viên tích cực chủ
động xây dựng nội dung bài giảng, các kiểu bài tập, các bài kiểm tra đánh giá
trên cơ sở thiết bị hiện có.
- Nhà nước tăng cường đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị phù hợp với việc
đổi mới chương trình, sách giáo khoa.
* Tóm lại: Đổi mới phương pháp dạy học đang là nhiệm vụ hết sức cấp
bách hiện nay nhất là đối với bậc tiểu học, bậc học có những đặc trưng khác biệt
so với bậc học khác, là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Đổi
mới phương pháp dạy học thì đồng thời phải đổi mới thiết bị và cách sử dụng
chúng trong dạy học, mục tiêu của tôi là sẽ làm cho công nghệ thông tin trở
thành người bạn đồng hành trung thành với giáo viên và học sinh trong việc
nâng cao chất lượng dạy học. Song hiệu quả của việc sử dụng công nghệ
thông tin lại phụ thuộc rất nhiều vào sự đầu tư công sức trí tuệ của mỗi giáo
viên.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã thực hiện ứng dụng công nghệ tin
học vào dạy trong chương trình lớp 2 tôi phụ trách. Tuy nhiên còn nhiều yếu tố
khách quan và chủ quan, nên sáng kiến của tôi còn có mặt còn hạn chế. Rất
mong được hội đồng khoa học các cấp và sự góp ý của đồng nghiệp để đề tài
của tôi được và hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Xuân Dương, ngày 26 tháng 6 năm 2020

Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm
của mình viết, không sao chép của người khác.
Người thực hiện

Trịnh Thị Đào



×