Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số biện pháp hướng dẫn quan sát tìm ý để rèn kĩ năng làm văn tả cảnh cho học sinh lớp 5 trường tiểu học yên nhân 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.05 KB, 18 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THƯỜNG XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪN QUAN SÁT TÌM Ý ĐỂ
RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN TẢ CẢNH CHO HỌC SINH LỚP
5 TRƯỜNG TIỂU HỌC YÊN NHÂN 2

Người thực hiện: Lê Thị Sáu
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Yên Nhân 2
SKKN môn : Tiếng Việt

THANH HÓA NĂM 2020


Mục lục
STT

1

2

3

Nội dung
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu


1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm
2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm với hoạt động giáo
dục, bản thân và nhà trường
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2.Kiến nghị

Trang
1
2
2
2
2
2
3
5
14
14
14
15


1
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài

Như chúng ta đã biết, dạy Tập làm văn nói chung và văn tả cảnh nói riêng
là dạy học sinh cách nhìn nhận cuộc sống xung quanh trong thực tế vốn có của
nó với cảm xúc thực của các em, giúp học sinh có thói quen quan sát, biết phát
hiện những điều mới mẻ, thú vị về thế giới xung quanh; biết truyền những rung
cảm của mình vào đối tượng miêu tả; biết sử dụng những từ ngữ có giá trị biểu
cảm, những câu văn sáng rõ về nội dung, chân thực về tình cảm để thể hiện sự
nhìn nhận ấy trong bài viết của mình. Một bài văn hay là một bài văn mà khi
người đọc thấy hiện ra trước mắt mình cảnh vật, đồ vật,…cụ thể, sống động như
nó vẫn tồn tại trong thực tế cuộc sống. Vì vậy, trong quá trình dạy học, thầy cô
đã luôn cố gắng học hỏi, tìm tòi, sáng tạo, đổi mới phương pháp dạy học để có
những giờ dạy hay, đem lại niềm vui và hứng thú cho học sinh.
Tuy nhiên trong thực tế, việc dạy và học phân môn tập làm văn ở Tiểu học
hiện nay còn gặp không ít khó khăn. Bởi dạy học Tập làm văn là một vấn đề vô
cùng quan trọng và khó. Nó đòi hỏi học sinh phải thực sự có năng khiếu mới có
kĩ năng viết văn, nhưng thực tế rất ít học sinh có khả năng này, còn lại hầu như
các em chưa đạt được mục tiêu đề ra. Trong đó, khó nhất đối với học sinh là văn
tả cảnh, nhiều em chưa biết nói, viết theo cách cảm, cách nghĩ của mình mà bài
viết thường có nội dung cơ bản na ná giống nhau. vận dụng rập khuôn theo gợi ý
của thầy cô hoặc bài văn mẫu. Bài văn thường mang tính liệt kê, kể lần lượt từng
phần của cảnh được tả, chưa biết miêu tả cảnh ở trong không gian và khoảng
thời gian khác nhau. Cách tả thường ước lệ chung chung hời hợt khiến người
đọc có cảm giác các em tả mà chưa từng quan sát. Thậm chí bài viết còn nghèo
nàn, dùng từ chưa chính xác, câu còn lộn xộn chưa hay, lặp ý, bố cục thiếu chặt
chẽ, chưa thể hiện được trình tự miêu tả, chưa bộc lộ được cảm xúc, chưa biết
cách sử dụng từ gợi tả, gợi cảm khi viết khiến cho bài văn thiếu hình ảnh, thiếu
độ chân thực. Các sự vật mà các em tả thường ở trong trạng thái tĩnh, không có
hồn, thiếu sức sống.
Điều này cũng dễ hiểu vì ở lứa tuổi của các em vốn sống và vốn kiến thức
còn hạn hẹp. Khi giảng dạy hay bồi dưỡng, giáo viên thường cho học sinh học
các bài văn mẫu, dập khuôn nên khi gặp những đề khác lạ, học sinh thường bị

ngợp, không viết được.
Đứng trước thực tế đó, là một giáo viên trực tiếp giảng dạy qua nhiều năm,
tôi luôn trăn trở: “ Làm thế nào để giúp các em yêu thích môn Tiếng Việt, thích
làm văn? Giúp các em có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của thiên nhiên đất
nước? Giúp các em có cơ hội bộc lộ cảm xúc của cá nhân, mở rộng tâm hồn và
phát triển nhân cách cho các em?” Bản thân tôi đã nghiên cứu và thực hiện thành
công sáng kiến“Một số biện pháp hướng dẫn học sinh quan sát, tìm ý để học tốt
văn tả cảnh ở lớp 5A Trường Tiểu học Yên Nhân 2”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Tạo điều kiện cho học sinh tiếp cận với vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước,
bộc lộ cảm xúc của cá nhân, mở rộng tâm hồn và phát triển nhân cách. Giúp các
em yêu thích môn Tiếng Việt, thích học làm văn.


2
Rèn các kỹ năng phân tích đề, quan sát đối tượng miêu tả, lập dàn ý trong
bài văn tả cảnh, xây dựng các đoạn văn và liên kết các đoạn văn thành bài văn
hoàn chỉnh để học tốt văn tả cảnh, góp phần nâng cao chất lượng dạy học Tập
làm văn cũng như chất lượng giáo dục toàn diện ở đơn vị.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp hướng dẫn học sinh quan sát, tìm ý để học tốt văn tả cảnh ở lớp
5A Trường Tiểu học Yên Nhân 2”.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn
- Phương pháp quan sát, trực quan
- Phương pháp luyện tập, thực hành
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

Miêu tả là thể loại văn dùng lời nói, bài viết có hình ảnh cảm xúc làm cho
người đọc người nghe hình dung một các rõ nét, cụ thể về người, vật, cảnh vật,
sự vật, sự việc, con vật như vốn có của nó trong đời sống. Một bài văn miêu tả
hay không những chỉ thể hiện rõ nét, chính xác sinh động được đối tượng miêu
tả mà còn phải thể hiện trí tưởng tượng, cảm xúc và đánh giá của người viết đối
với đối tượng miêu tả.
Tả cảnh là gợi tả những bức tranh về thiên nhiên hay cảnh sinh hoạt gợi ra
trước mắt người đọc về đặc điểm từng nét riêng của cảnh.
Yêu cầu tả cảnh:
- Xác định đối tượng miêu tả: Cảnh nào? Ở đâu? Vào thời điểm nào?
- Quan sát lựa chọn được những hình ảnh tiêu biểu.
- Trình bày những điều quan sát được theo một thứ tự.
Bố cục bài văn tả cảnh:
- Mở bài: Giới thiệu cảnh được tả.
- Thân bài: Tập trung tả cảnh vật chi tiết theo một thứ tự nhất định, có thể ở
một số trường hợp sau:
+ Từ khái quát đến cụ thể (hoặc ngược lại).
+ Không gian từ trong ra ngoài (hoặc ngược lại).
+ Không gian từ trên xuống dưới (hoặc ngược lại).
- Kết bài: Nêu cảm tưởng về cảnh vật đó.
Tập làm văn là sản phẩm thể hiện rõ vốn hiểu biết, đời sống, trình độ văn
hoá của học sinh mang tính tổng hợp và sáng tạo cao. Tổng hợp các kiến thức, kĩ
năng từ các phân môn Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu,... để viết
nên một bài Tập làm văn.
Để dạy - học có hiệu quả văn tả cảnh nhất thiết người giáo viên phải dạy tốt
Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu. Vì trong các bài đọc, trong câu
chuyện, trong các bài tập luyện từ và câu thường xuất hiện các đoạn văn, khổ
thơ có nội dung miêu tả rất rõ về cảnh vật, thiên nhiên, con người,... Bài Tập làm
văn nếu không sáng tạo sẽ trở thành một bài văn khô cứng, góp nhặt của người



3
khác, nội dung bài văn sẽ không hồn nhiên, trong sáng, mới mẻ như tâm hồn của
các tác giả nhỏ tuổi.
Trong Chương trình, các bài làm văn gắn với chủ điểm của đơn vị học. Quá
trình thực hiện các kỹ năng phân tích đề, tìm ý, quan sát, viết đoạn là những cơ
hội giúp học sinh mở rộng hiểu biết về cuộc sống theo các chủ điểm đã học. Học
các tiết Tập làm văn, học sinh có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của con người,
thiên nhiên qua các bài, đoạn văn điển hình.
Nội dung các bài học trong phân môn Tập làm văn lớp 5 là sự tiếp nối và
nâng cao, mở rộng. Các em được học tiếp văn miêu tả trong đó bao gồm tả cảnh,
tả người, tả cây cối, tả con vật.
Với bài hình thành kiến thức, được hướng dẫn theo từng phần nhận xét
một bài văn miêu tả mới. Đồng thời các em còn được hướng dẫn, nhận xét bài
văn miêu tả khá dài để học sinh rút ra ghi nhớ rồi tiếp tục vận dụng ghi nhớ để
nhận xét cấu tạo của bài văn miêu tả.
Với bài thực hành luyện tập được trình bày theo thứ tự hướng dẫn chuẩn
bị, hướng dẫn làm bài, hướng dẫn hoàn chỉnh bài. Hầu hết các tiết luyện tả cảnh
phần hướng dẫn chuẩn bị là những bài văn miêu tả yêu cầu học sinh tìm hiểu
theo mục tiêu làm cơ sở chuẩn bị cho nửa tiết còn lại lập dàn ý hoặc viết bài.
Đây là điều kiện thuận lợi cho học sinh làm văn miêu tả, đặc biệt là đối
với học sinh có năng khiếu, các em được chuẩn bị lập dàn ý ở cuối tiết học này,
đến cuối tiết học sau mới viết bài. Nhưng đối với học sinh khó khăn về học tập
các em lại mau quên, không chăm học nên kết quả làm bài sẽ khó đạt yêu cầu.
Tuy vậy cũng có một vài tiết thực hành hoàn chỉnh ngay trong tiết học.
Tổ chức cho học sinh quan sát đối tượng miêu tả là một công việc thuận về
nguyên tắc khi dạy học văn miêu tả. Trên cơ sở thu nhận trực tiếp các nhận xét, ấn
tượng, cảm xúc giúp cho việc quan sát tốt hơn. Từ đó hiểu biết kỹ năng về văn
miêu tả được hình thành một cách tự giác chủ yếu qua con đường thực hành.
Để có một một bài văn hoàn chỉnh, giáo viên dẫn dắt, giúp đỡ, khuyến

khích động viên các em thể hiện qua từng bước như sau:
Bước 1: Tìm hiểu đề
Bước 2: Quan sát tìm ý
Bước 3: Sắp xếp ý (lập dàn ý)
Bước 4: Viết bài hoàn chỉnh
Bước 5: Kiểm tra lại bài (Đánh giá kết quả, rút kinh nghiệm).
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1 Đặc điểm tình hình của lớp
Năm học 2018-2019, lớp 5A có 25 học sinh. Trong đó có 12 học sinh
nam, 13 học sinh nữ, tất cả các em đều là người dân tộc Thái sinh sống ở 5 thôn
bản trong xã nhưng có đến 4 thôn bản cách xa trường từ 3  7 km đường rừng
đi lại khó khăn lại phải qua khe, qua suối vì vậy vào mùa mưa lũ gặp rất nhiều
khó khăn cho việc duy trì số lượng, nâng cao chất lượng. Số ít học sinh có hoàn
cảnh gia đình phức tạp như: bố mẹ ly hôn, mồ côi hoặc gia đình thường xuyên
thay đổi chỗ ở, bố mẹ đi làm ăn xa gửi con ở với ông bà hoặc cô, dì, chú, bác.
Thiếu sự chăm sóc, nhắc nhở của bố mẹ, ông bà thường cưng chiều với quan


4
niệm “trời sinh voi, trời sinh cỏ” là nguyên nhân các em chưa có ý thức học tập
và đi học thất thường.
Số phụ huynh muốn quan tâm đến việc giúp đỡ con cái học tập nhưng
hướng dẫn không đúng, không phù hợp khiến cho trẻ không hiểu và thiếu tin
tưởng. Đành phó mặc việc học tập của con cho nhà trường, cho thầy cô với quan
niệm “trăm sự nhờ nhà trường, nhờ thầy cô''.
Đa số học sinh trong lớp tuy học không giỏi nhưng có đời sống thực tế
phong phú, kỹ năng sống tương đối tốt, thích nghi với môi trường khắc nghiệt
nơi đây. Từ nhỏ các em đã quen với cuộc sống tự cung tự cấp của gia đình, gắn
bó với môi trường thiên nhiên, chăn nuôi, trồng trọt, săn bắt hái lượm. Sáng đi
rừng săn bắn, hái măng, lấy củi,… tối đi suối bắt cá, mò cua đã giúp cuộc sống

của các em càng phong phú hơn. Bên cạnh đó các em cũng rất đoàn kết, quí mến
nhau, hiếu động thích tham gia các hoạt động tập thể do trường, lớp, đặc biệt là
những hoạt động học tập sôi nổi do thầy, cô giáo tổ chức.
2.2.2 Thực trạng công tác dạy học phân môn Tập làm văn lớp 5 ở Trường
Tiểu học Yên Nhân 2 trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Với sự quan tâm chỉ đạo sát sao của chuyên môn nhà trường về đổi mới
phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Phong trào đổi mới
phương pháp dạy học đã được phát động rộng rãi trong toàn trường. Giáo viên
đã chủ động vận dụng phương pháp theo hướng tích cực hoá hoạt động của
người học đóng góp vào việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện và đã đạt
được một số thành quả nhất định như: Đa số học sinh nắm được cấu tạo 3 phần
của một bài văn tả cảnh. Biết phân tích cấu tạo của một bài văn tả cảnh; biết viết
đoạn văn mở bài, đoạn kết bài. Biết phát hiện những hình ảnh đẹp trong bài văn;
biết quan sát và chọn lọc chi tiết trong bài văn tả cảnh, hoàn chỉnh các đoạn văn
dựa theo nội dung chính của bài.
Bên cạnh những thành quả đạt được cũng còn không ít khó khăn đó là văn tả
cảnh là một kiểu bài khó. Bởi đối tượng trong bài văn tả cảnh là cả quang cảnh
trong một không gian rộng nhưng trong chương trình sách giáo khoa, các tiết
hướng dẫn học sinh lập dàn ý còn chung chung, chưa cụ thể, không có tiết làm
văn miệng mà việc hướng dẫn học sinh làm văn miệng chỉ được giáo viên dạy
lồng ghép trong các tiết lập dàn ý, hay viết một đoạn văn. Có giáo viên ít chấm
chữa bài cho học sinh. Tiết trả bài còn dạy qua loa, có tâm lí “ngại” dạy vì nó
không chỉ khó mà còn đòi hỏi giáo viên phải có vốn sống, vốn kiến thức phong
phú và óc quan sát tinh tế và nhạy cảm.
Mặt khác, Yên Nhân là một xã vùng sâu, vùng xa, tuyên biên giới của
huyện Thường Xuân, 100% học sinh là người dân tộc Thái nên trong sinh hoạt
giao tiếp hàng ngày chủ yếu là ngôn ngữ mẹ đẻ (tiếng Thái) ít khi sử dụng tiếng
Kinh nên ngôn ngữ nói, viết càng bộc lộ nhiều hạn chế. Vì vậy, trong quá trình
dạy học từ lớp 1 đến lớp 4, giáo viên mới chú trọng làm thế nào để dạy cho học
sinh biết đọc, biết viết và biết làm toán mà chưa quan tâm đúng mức đến việc

rèn kĩ năng viết văn cho học sinh. Hơn nữa, khi hướng dẫn học sinh lập dàn ý
thường rập khuôn theo sách giáo khoa, sách giáo viên dẫn đến bài làm của học
sinh giống nhau về ý tưởng và nội dung. Việc làm này đã làm mất đi sự sáng tạo


5
và óc tưởng tượng phong phú của học sinh và chính là nguyên nhân dẫn đến mất
hứng thú, thiếu chủ động khi tham gia vào các hoạt động học tập mà còn nguy
hại hơn là tạo cho học sinh cảm giác nhàm chán, lười học.
Ngoài ra có thể kể đến các nguyên nhân chủ quan từ chính các em, như:
Hầu như các em thấy khó nên có tâm lý sợ học Tập làm văn, không thích học,
ngại viết vì khó viết, mà chỉ thích chơi các trò chơi hiện đại như games, phim
ảnh, truyện tranh và nhiều trò tiêu khiển khác dẫn đến sao nhãng trong học tập.
Qua thực tế khảo sát đầu năm học 2018 - 2019 với bài văn “Tả cảnh” ở
lớp 5A, Trường Tiểu học Yên Nhân 2. Kết quả đạt mức như sau:
Tổngsố HS
được khảo sát
25

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

SL

TL

SL


TL

SL

TL

5

20%

14

56%

6

24%

2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại
Khả năng quan sát yếu và thiếu: Do cha mẹ, thầy cô chưa khơi gợi được sự
ham học, yêu thích cảnh vật xung quanh, học sinh có thói quen quan sát mọi lúc
mọi nơi nên ngay cả những điều gần gũi, bình thường nhất như tả về ngôi nhà,
bầu trời, đêm trăng, dòng suối, quang cảnh trường em, đường làng, cánh đồng,...
dẫn đến các em ít cảm nhận được môi trường xung quanh.
Các em chưa hiểu rõ đặc điểm, cấu tạo của bài văn tả cảnh, chưa phân biệt
được sự khác biệt giữa văn tả với văn kể, chưa xác định rõ đối tượng và trình tự
miêu tả. Vốn từ còn nghèo nàn, chưa biết cách lựa chọn từ ngữ, dùng từ, đặt câu,
viết đoạn văn, kĩ năng diễn đạt, chưa biết cách sắp xếp ý khi viết bài, bố cục
thiếu rõ ràng, chưa khoa học. Không có thói quen sử dụng các từ ngữ gợi tả, gợi

cảm, biện pháp so sánh, nhân hoá khi viết văn. Khả năng giao cảm với đối tượng
miêu tả còn hạn chế; cảm xúc, tình cảm không tự nhiên, thậm chí thiếu tính
tưởng tượng và thừa sự bịa đặt.
Trong tiết trả bài, học sinh chưa được sửa lỗi và tự sửa lỗi kĩ và đầy đủ,
thậm chí bài viết còn rập khuôn máy móc văn mẫu và lời giảng của thầy (cô).
2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Biện pháp 1: Rèn kỹ năng phân tích cấu tạo bài văn tả cảnh
Phân tích cấu tạo, học sinh nắm được yêu cầu của bài văn tả cảnh: Cụ thể
hóa sự vật (tả cảnh gì?); cá thể hóa sự vật (tả như thế nào?), tả cảnh nào thì
người đọc hình dung cảnh đó chứ không bị lẫn lộn với cảnh khác. Mục đích hóa
sự vật (tả với mục đích gì?); cảm xúc hóa sự vật (tả với tư tưởng, tình cảm, thái
độ ra sao?). Bởi vì, từ việc phân tích cấu tạo bài văn sẽ giúp các em nắm vững
được đặc điểm cơ bản và bố cục, yêu cầu của từng phần của bài văn.
Để làm được điều này, tôi đã đưa ra các bài văn cụ thể, yêu cầu học sinh
đọc kĩ bài văn, thảo luận nhóm và xác định từng phần của bài văn, tìm nội dung
chính của từng phần và trình tự miêu tả của bài văn. Từ đó tổ chức cho đại diện
nhóm trình bày kết quả, các nhóm bạn nhận xét, bổ sung để tự rút ra kết luận.
Trên cơ sở kết quả thảo luận của các nhóm, tôi tổng kết và khắc sâu kiến thức
cho các em.


6
Ví vụ 1: Em hãy đọc và tìm các phần mở bài, thân bài, kết bài của bài
“Hoàng hôn trên sông Hương” ( Tiếng Việt 5 – Tập1, trang 11 ).
Tôi yêu cầu học sinh đọc thầm bài văn trao đổi nhóm đôi để chia đoạn và
nêu nội dung của từng đoạn. Từ đó học sinh rút ra cấu tạo của bài Hoàng hôn
trên sông Hương gồm 3 phần:
- Mở bài: Đặc điểm của Huế lúc hoàng hôn.
- Thân bài: Sự thay đổi màu sắc của sông Hương và hoạt động của con
người bên sông từ lúc hoàng hôn đến lúc thành phố lên đèn.

- Kết bài: Sự thức dậy của Huế sau hoàng hôn.
Giúp học sinh thấy được sự thay đổi của cảnh theo thời gian với thứ tự:
- Nêu nhận xét chung về sự yên tĩnh của Huế lúc hoàng hôn.
- Tả sự thay đổi màu sắc và sự yên tĩnh của Huế lúc hoàng hôn.
- Tả hoạt động của con người bên bờ sông, trên mặt sông lúc bắt đầu
hoàng hôn đến khi thành phố lên đèn.
- Tả sự thức dậy của huế sau hoàng hôn.
Ví dụ 2: Em hãy đọc bài “Quang cảnh làng mạc ngày mùa” mà em đã
học, nêu thứ tự miêu tả trong bài văn và so sánh với trình tự miêu tả của bài
“Hoàng hôn trên sông Hương” (bài Tập đọc mà học sinh đã học trong tuần).
Sau khi học sinh nắm rõ yều cầu đề bài, tôi yêu cầu cả lớp đọc thầm bài
văn, thảo luận nhóm đôi về thứ tự của việc miêu tả và thứ tự tả từng bộ phận của
cảnh trong bài Quang cảnh làng mạc ngày mùa; nhận xét sự khác biệt về thứ tự
miêu tả của hai bài văn. Đại diện các nhóm trình bày và rút ra kết luận. Trên cơ
sở kết quả thảo luận của các nhóm, tôi rút ra kết luận:
- Giống nhau: Cả hai bài đều giới thiệu bao quát quang cảnh định tả rồi đi
vào tả cụ thể từng cảnh:
+ Bài Hoàng hôn trên sông Hương nêu đặc điểm của Huế rồi tả từng cảnh.
+ Bài Quang cảnh làng mạc ngày mùa giới thiệu màu sắc bao trùm làng
quê ngày mùa rồi mới tả cảnh cụ thể màu sắc của từng vật.
- Khác nhau: Bài “Hoàng hôn trên sông Hương” tả sự thay đổi của cảnh
theo thời gian. Đặc điểm chung của Huế
sự thay đổi màu sắc của sông Hương
( từ lúc bắt đầu đến lúc tối Hoạt động của con người và sự thức dậy của Huế).
Tả hoạt động của con người từ lúc bắt đầu hoàng hôn đến lúc tối hẳn, lên đèn.
Bài “Quang cảnh làng mạc ngày mùa” tả từng bộ phận của cảnh.
Màu sắc hoa bao chùm làng quê ngày mùa
màu vàng
tả các màu
vằng khác nhau

thời tiết và con người trong ngày mùa.
Từ hai bài văn tả cảnh nêu trên, học sinh rút ra được cấu tạo của bài văn tả
cảnh gồm 3 phần: mở bài, thân bài, kết bài.
Mở bài: Giới thiệu bao quát về cảnh sẽ tả.
Thân bài: Tả từng phần của cảnh hoặc sự thay đổi của cảnh theo thời gian
để minh họa cho nhận xét ở mở bài.
Kết bài: Nêu nhận xét hoặc cảm nghĩ của người viết.
Văn tả cảnh ở lớp 5 thường yêu cầu học sinh tả những cảnh nhỏ gần nơi các
em đang sống: Ngôi nhà em đang ở, quang cảnh trường em, cánh đồng, đêm
trăng, buổi sáng sớm, lúc hoàng hôn, con đường đưa em tới trường với rất nhiều


7
kỉ niệm,…. Học sinh dựa vào cấu trúc ba phần đó để xây dựng nội dung đoạn
văn, bài văn, xác định đúng đối tượng, trọng tâm miêu tả của cảnh và chọn được
chi tiết tiêu biểu, nổi bật, gây ấn tượng miêu tả. Vì vậy, trong quá trình day học,
tôi thường hướng dẫn học sinh cách phân tích và xác định trọng tâm của đề để tả
đúng trọng tâm không bị lạc đề khi miêu tả. Đồng thời, đó chính là cơ sở của
việc quan sát, tìm ý, xây dựng dàn bài để rèn kỹ năng phân tích cấu tạo bài văn.
Giúp các em nắm vững cấu tạo, bố cục của bài văn tả cảnh.
Biện pháp 2: Nâng cao năng lực cảm thụ văn học từ các bài Tập đọc
Qua các bài Tập đọc, không chỉ giúp học sinh nắm vững bố cục, trình tự
miêu tả của bài văn mà còn nhận biết được các tín hiệu nghệ thuật mà tác giả đã
sử dụng thông qua các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ,….. Cách sử
dụng các từ gợi tả, gợi cảm được thể hiện trong bài của tác giả khiến bài văn
chân thực. Cảm thụ được nội dung và giá trị nghệ thuật từ các bài tập đọc, các
em sẽ cảm nhận nhiều nét đẹp từ thơ, văn, thêm phong phú tâm hồn, nói viết
thêm sinh động hơn. Các em thấy cách quan sát, cảm nhận và nghệ thuật dùng từ
của tác giả để vận dụng vào bài văn của mình.
Ví dụ: Trong bài Tiếng hát mùa gặt nhà thơ Nguyễn Duy có viết :

Gió nâng tiếng hát chói chang
Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời.
Tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật gì nổi bật ở hai câu thơ trên?
Nhờ biện pháp nghệ thuật nổi bật đó, em cảm nhận được nội dung, ý
nghĩa gì đẹp đẽ?
Tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nổi bật ở hai câu thơ là biện pháp
nhân hóa. Thể hiện rõ những từ gnữ chỉ đặc điểm của người: nâng, liếm.
Nhờ biện pháp nghệ thuật nổi bật đó, em cảm nhận nội dung, ý nghĩa đẹp
đẽ: cảnh mùa gặt ở nông thôn Việt Nam thật vui tươi, náo nức “Gió nâng tiếng
hát chói chang”; cánh đồng lúa tốt mênh mông hứa hẹn một cuộc sống ấm no
“Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời”. Những cảnh đó gợi cho ta thấy
không khí đầm ấm, thanh bình nơi thôn quê khi mùa gặt đến.
Ví dụ: Trong bài Hoàng hôn trên sông Hương có đoạn tả cảnh như sau:
Phía bên sông, xóm Cồn Hến nấu cơm chiều, thả khói nghi ngút cả một vùng tre
trúc. Đâu đó, từ khúc quanh vắng lặng của dòng sông, tiếng lanh canh của
thuyền chài gỡ những mẻ cá cuối cùng truyền đi trên mặt nước, khiến mặt sông
nghe như rộng hơn...
Hình ảnh có sức gợi tả sinh động: “khói nghi ngút cả một vùng tre trúc” gợi
tả vẻ ấm áp, bình yên của người dân thôn xóm ven sông, giúp người đọc tưởng
tượng ra bức tranh thuỷ mặc đơn sơ nhưng có cả một không gian rộng rãi.
Âm thanh có sức gợi tả sinh động: “tiếng lanh canh của thuyền chài gỡ
những mẻ cá cuối cùng truyền đi trên mặt nước” dường như có sức âm vang xa
rộng trong khung cảnh tĩnh lặng, khiến tác giả có cảm giác mặt sông nghe như
rộng hơn, gợi cho người đọc cảm nhận được vẻ đẹp thanh bình và nên thơ của
một buổi chiều trên sông Hương.


8
Bằng biện pháp so sánh tác giả đã đối chiếu sự vật, sự việc này với sự vật,
sự việc khác có nét tương đồng làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự vật được

nhắc tới, khiến cho câu văn thêm phần sinh động, gây hứng thú với người đọc.
Hay trong bài Bài tập đọc Quang cảnh làng mạc ngày mùa, các em thấy
được: Bằng nghệ thuật quan sát rất tinh tế, cách dùng từ gợi cảm, giàu hình ảnh
của nhà văn tô Hoài đã vẽ nên trước mắt người đọc một bức tranh làng quê vào
ngày mùa với những màu vàng rất khác nhau, với những vẻ đẹp đặc sắc và sống
động. Bài văn thể hiện tình yêu tha thiết của tác giả đối với quê hương.
Ví dụ: Tác giả Tô Hoài đã miêu tả màu vàng của rơm thóc: “Dưới sân, rơm
và thóc vàng giòn” làm cho chúng ta cảm nhận được màu vàng của vật được
phơi già nắng, tạo cảm giác giòn đến có thể gãy ra. Hay tả màu vàng của những
con vật quen thuộc: “Quanh đó, con gà, con chó cũng vàng mượt” gợi lên cho
chúng ta hình ảnh của những con vật béo tốt, có bộ lông óng ả, mượt mà.
Từ đó, giúp các em tiếp nhận được những hình ảnh, chi tiết có giá trị gợi tả
trong bài Tập đọc thông qua các từ mang tính gợi tả, gợi cảm trong tác phẩm
bằng những từ láy, tượng thanh, tượng hình để vận dụng trong bài viết của mình
một cách chân thực và sinh động.
Biện pháp 3: Rèn kĩ năng quan sát, tìm ý
Trong văn miêu tả nói chung và văn tả cảnh nói riêng, kĩ năng quan sát rất
quan trọng. Bởi đây là bước quyết định thành công của bài văn, học sinh muốn
viết được bài văn hay, sống động phải có được sự quan sát trực tiếp đối tượng
miêu tả và ghi chép tỉ mỉ, chi tiết những đặc điểm của đối tượng miêu tả. Bởi với
kiểu bài tả cảnh, ta quan sát theo trình tự: thời gian, theo đặc điểm nổi bật của
cảnh và theo từng góc độ của cảnh. Sự vật trong tự nhiên, mỗi sự vật có một đặc
điểm riêng, chỉ khi nào ta nắm được đặc điểm riêng đó của sự vật thì khi viết ra
mới có hình ảnh như thật. Thế nhưng, chỉ làm nổi bật đặc điểm bên ngoài thôi
chưa đủ, cần nêu được cái đặc sắc ẩn chứa bên trong sự vật đó để nói lên những
suy tư, những tình cảm không chỉ của người viết gửi gắm vào đó mà còn là của
sự vật đó. Muốn làm được điều này, dứt khoát phải có sự quan sát tinh tế và phải
có được những phát hiện rất riêng về đối tượng và rung cảm với nó. Quan sát để
làm văn nhằm phản ánh một đối tượng cụ thể, vừa chi tiết, vừa có tính khái quát,
qua chi tiết, người đọc phải thấy được bản chất của sự việc. Tuy chi tiết, cụ thể

nhưng không được rời rạc, tản mạn, mang tính chất liệt kê. Chọn lọc được
những điểm riêng biệt, nổi bật, gây ấn
tượng, chính là những chi tiết lột tả
được cái thần của cảnh.
Vì vậy, khi quan sát, tôi yêu
cầu học xác định đối tượng miêu tả:
Cảnh nào? Ở đâu? Vào thời điểm
nào? Lựa chọn được những hình ảnh
tiêu biểu để quan sát. Để quan sát đạt
hiệu quả thì vị trí quan sát là rất quan
trọng. Vì vậy, tôi đã hướng dẫn học
sinh xác vị trí quan sát tốt nhất, góc quan sát phù hợp, sẽ giúp các em nắm


9
được cái thần của đối tượng, cảm nhận đối tượng một cách rõ ràng, cụ thể và
tinh tế hơn. Quan sát đối tượng không chỉ bằng thị giác mà còn phải biết huy
động mọi giác quan: thính giác (nghe), khứu giác (ngửi), xúc giác (sờ, nắm), vị
giác (nếm). Những đoạn văn hay và hấp dẫn là những thành công của tác giả
trong việc dùng nhiều giác quan để quan sát. Tuy nhiên, tuỳ từng kiểu bài ta có
những cách quan sát khác nhau.
Bên cạnh đó để rèn cho học sinh có kỹ năng quan sát và tìm ý, đồng thời gây
hứng thú làm bài, trước khi quan sát, tôi thường xây dựng một hệ thống câu hỏi
gợi ý nội dung quan sát và các ý cần xác lập. Giúp các em bết cách ghi chép tỉ
mỉ những điều mình quan sát được, tạo thành một cuốn cẩm nang để khi miêu tả
học sinh có sẵn tư liệu để làm bài. Bởi mọi kết quả quan sát được thể hiện trong
bài làm của các em. Quan sát tỉ mỉ, thấu đáo bài viết sẽ đặc sắc hấp dẫn. Quan
sát hời hợt phiến diện bài viết sẽ khô khan.
Học sinh chuẩn bị chu đáo từ khâu đọc kỹ đề bài, phân tích đề, xác định rõ
trọng tâm định tả và đối tượng, yêu cầu, vị trí, thời điểm, không gian, trình tự

quan sát: từ trên xuống dưới hoặc từ dưới lên trên, từ trái sang phải hay từ ngoài
vào trong, từ xa đến gần hoặc quan sát từ sáng đến tối, từ lúc bắt đầu đến lúc kết
thúc. Cụ thể Mắt nhìn, mũi để ngửi hương thơm của cây cỏ, dùng tai để nghe
âm thanh của sự vật, dùng làn da để cảm nhận hơi thở, cảm nhận làn gió thổi,
không khí, thậm chí tay sờ để cảm nhận,..... Phải tập trung sự chú ý vào những
điểm nổi bật nhất, cơ bản nhất của cảnh vật, những điểm gây cho em ấn tượng
để tả. Đặc biệt, tôi thường lưu ý các em về mối tương quan giữa cảnh vật ấy với
cảnh vật xung quanh, với con người, thiên nhiên.
Thông qua quan sát để tích lũy vốn sống cho học sinh. Trong quá trình dạy
học ở tất cả các môn, tôi luôn có ý thức lồng ghép và tích hợp những kiến thức
có liên quan cho học sinh. Tạo cho các em có cơ hội quan sát mọi lúc, mọi nơi
như: giờ giải lao, giờ lao động, giờ ngoại khóa... tôi đều tận dụng để giúp các em
vừa học vừa chơi phóng xa tâm mắt để quan sát cảnh vật xung quanh.
Ví dụ: Để thay đổi không khí trong buổi lao động, tôi đã giúp học sinh
quan sát bầu trời bằng cách gợi mở cho các em: “ Nói cho cô một câu về màu
sắc của bầu trời lúc này!”. Hay khi đứng trên ban công cùng học sinh, trước một
cây phượng nở hoa đột ngột, tôi có thể giúp học sinh quan sát: “ Các em nhìn
kìa! Cây phượng kia hôm nay đã thay một chiếc áo mới!”. Hoặc với những ngày
dự báo mưa, bão, tôi định hướng cho các em hãy quan sát quang cảnh và bầu và
sự vật trời trước, trong và sau cơn mưa ( bão). Chỉ với một sự gợi mở nhỏ như
vậy mà các em thi nhau quan sát rồi bàn tán về những gì mình quan sát được.
Để rèn kỹ năng quan sát học sinh, tôi đã hướng dẫn cho các em cách quan
sát, không chỉ biết nhìn thấy mà phải biết nghe thấy, biết ngửi thấy, sờ thấy và
cảm nhận được. Quan sát không chỉ là cảm nhận bề ngoài mà là sự nhập thân
hóa thân vào sự vật và sống đời sống của nhân vật, sự vật đó. Đồng thời, quan
sát phải gắn liền với liên tưởng, tìm ra những nét đồng nhất, nét độc đáo của sự
vật gắn liền với tình cảm thái độ của tác giả. Điều hết sức quan trọng là quan sát
phải có lựa chọn không phải thấy gì tả nấy, phải tìm ra nét đặc trưng, nét tiêu
biểu của đối tượng tránh liệt kê kể lể khô khan, vô hồn... Vấn đề này là cả một



10
quá trình, ngoài việc giúp các em thấm nhuần các vấn đề trên qua các tiết học,
bài học qua việc phân tích các câu văn, ý thơ, đoạn văn điển hình của các tác giả
thông qua hoạt động cảm thụ văn học trong mỗi tiết Tập đọc thì tôi luôn luôn
theo sát, tạo mọi điều kiện, giúp đỡ, khuyến khích các em khi các em quan sát.
Ví dụ: Trong giờ ra chơi tôi có thể hỏi các em: “ Bây giờ, trong không
gian xung quanh đây, các em nghe được những âm thanh gì, màu sắc gì và mùi
vị gì?; Khi dạy học trong lớp, thấy ngoài trời đang mưa to, tôi ngưng lại ít phút
để thay đổi không khí. Bằng cách gợi mở: “ Các em dành một phút quan sát bầu
trời và tìm cho cô một từ chính xác để tả tiếng mưa rơi lúc này.
Hoặc: Nếu quan sát để tả cơn mưa rào thì các em quan sát kĩ những chi
tiết nào? Quan sát cơn mưa theo trình tự nào? vv...
Từ đó giúp các em hiểu được khi quan sát trong văn cảnh tả, các em cần
quan sát bằng tất cả các giác quan để miêu tả hết vẻ đẹp của cảnh vật và biết
cách sử dụng các từ gợi tả âm thanh, hình ảnh khác nhau để miêu tả cụ thể vẻ
đẹp của từng cảnh vật trong miêu tả. Đồng thời, giúp các em nắm được khi làm
bài văn tả cảnh các em cần xen tả hoạt động của con người với cảnh vật thiên
nhiên, thời tiết, chim muông và cảm xúc của mình để làm cho bài tả thêm đẹp và
sinh động đồng thời làm cho bài văn giàu sắc thái biểu cảm, những đặc điểm cơ
bản: hình dạng, màu sắc, hoạt động,… của đối tượng, hãy cố tìm và viết được
những điều mà người khác không nhìn thấy để bài viết của mình có cái mới, cái
riêng, cái độc đáo.
Biện pháp 4: Rèn kĩ năng sắp xếp ý và lập dàn ý cho bài văn tả cảnh
Kĩ năng lập dàn ý có vai trò hết sức quan trọng đây là khâu quyết định của
việc xây dựng nội dung bài văn, góp phần không nhỏ vào thành công của bài
văn. Bởi những điều các em quan sát thu thập được bao gồm cả thô lẫn tinh.
Điều quan trọng khi lập dàn ý là các em biết lựa chọn tinh và loại bỏ thô. Đây là
lúc mà học sinh chọn lọc, giữ lại chi tiết chính, loại đi những chi tiết không cần
thiết, tìm ý và sắp xếp các ý mà mình quan sát được. Sau khi đã thu thập được tư

liệu nhưng để sắp xếp các ý một cách có thứ tự trong bài quả là một công việc
không hề dễ đối với học sinh. Bởi học sinh chỉ biết cách quan sát, biết tìm ý
nhưng sắp xếp ý đúng trình tự hợp lý thì các em lại rất lúng túng. Điều khó khăn
nhất là các em không biết sắp xếp ý nào vào trước, ý nào sau. Đây chính là
nguyên nhân dẫn đến tình trạng, các em quan sát được gì viết nấy, nghĩ sao viết
vậy dẫn đến bài viết của các em rơi vào tình trạng kể không ra kể, tả không ra tả,
các ý thì lộn xộn, rời rạc, lủng củng. Để giúp học sinh khắc phục các lỗi trong
việc sắp xếp ý, diễn đạt các ý đó thành câu văn, đoạn văn, tôi thường đưa ra một
số câu văn cơ bản sau đó cho học sinh nêu cách diễn đạt, sắp xếp của mình từ ý
câu văn đó hoặc cho các câu văn rời rạc và yêu cầu các em sắp xếp lại thành một
đoạn văn hoàn chỉnh.Với sự gợi dẫn của tôi, học sinh đã biết cách quan sát, tìm
ý, sắp xếp ý và xây dựng được dàn ý cho bài văn tả cảnh.
Ví dụ: bài làm của em Lang Huyền Thương.


11

Biện pháp 5: Rèn kĩ năng dựng đoạn trong bài tả cảnh
Sắp xếp ý và lập dàn ý rồi nhưng làm sao diễn đạt ý đó thành câu văn, đoạn
văn cũng là vấn đề rất quan trọng. Nếu học sinh không làm được điều này thì coi
như tiết học đó không thành công bởi lẽ sản phẩm cuối cùng của phân môn này
là bài viết của học sinh. Đây là giai đoạn quan trọng nhất và cũng là khâu khó
nhất, đòi hỏi học sinh phải linh hoạt vận dụng nhiều kiến thức để làm. Học sinh
phải biết: Dùng từ, đặt câu, dựng đoạn; vận dụng phong cách ngôn ngữ văn bản;
bám sát dàn bài để viết thành bài văn hoàn chỉnh. Để giúp học sinh làm tốt bước
này, tôi đã rèn cho học sinh các kỹ năng sau đây:
- Dùng từ: Dùng từ phải đảm bảo độ chính xác, đồng thời biểu hiện được
tư tưởng, tình cảm một cách rõ ràng, đúng chính tả; dùng từ gợi cảm, gợi tả.
- Dùng từ giàu hình ảnh, âm thanh: Thường sử dụng các từ láy, từ tượng
hình, từ tượng thanh... ; sử dụng từ gần nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng nghĩa.

- Đặt câu: Viết câu văn đúng ngữ pháp và sử dụng dấu câu phù hợp, biết
sử dụng các phép liên kết câu như: Phép lặp, phép thế, phép nối, phép liên tưởng
và các biện pháp tu từ về câu (đảo ngữ, điệp ngữ, so sánh, nhân hoá...).
- Phân biệt được câu văn kể với câu văn tả để khi viết sẽ sử dụng các câu
văn miêu tả tránh dùng câu kể khiến người đọc có cảm giác như người viết đang
kể lể dài dòng về cảnh. Câu văn kể chỉ nêu một thông báo cho người đọc, người
nghe. Câu văn tả là câu văn phối hợp nhiều yếu tố như: kiểu câu, các loại câu,
các biện pháp tu từ về câu, các từ gợi tả, gợi cảm để người đọc, người nghe có
thể cảm thấy được hình ảnh, màu sắc, âm thanh, cảm xúc ... của cảnh đó.
- Dựng đoạn: Đoạn văn là phần văn bản nằm giữa hai chỗ xuống dòng và
thường biểu đạt một ý tương đối hoàn chỉnh. Khi làm bài thông thường học sinh
chỉ để ý đến từ, câu mà ít quan tâm đến đoạn văn nên trong quá trình giảng dạy,
tôi thường rèn cho các em kỹ năng trình bày các đoạn văn theo cấu trúc tổng phân - hợp. Đây là Cấu trúc này tương ứng với cấu trúc của cả bài văn.
- Liên kết đoạn văn: Khi trình bày bài văn thành nhiều đoạn khác nhau,
các em liên kết đoạn văn bằng cách dùng từ ngữ, dùng câu để tạo ra sự lôgic
trong diễn đạt.


12
Khi hướng dẫn học sinh viết đoạn, tôi thường lưu ý các em: một bài văn tả
cảnh hay là bài văn biết dùng lời văn có hình ảnh để làm hiện ra trước mắt người
đọc một bức tranh cụ thể về cảnh tả đó bằng từ ngữ giàu sức gợi tả, gợi cảm để
người đọc thấy rõ hình khối, kích thước, màu sắc, âm thanh hương vị…. Vì vậy
các em phải biết cách kết hợp sử dụng các tu từ để làm nổi bật cảnh tả đồng thời
biết chọn một thứ tự sắp xếp các chi tiết tả mà mình coi là thích hợp hơn cả
(Thời gian, không gian, từ ngoài vào trong, từ trên xuống dưới, từ toàn thể tới bộ
phận, hoặc theo thứ tự tâm lí, nét gì mình chú ý nhiều nhất hay cho là quan trọng
nhất cần được tả trước). Phải lồng cảm xúc, gửi gắm tình cảm của mình vào
từng cảnh tả để bài văn trở nên có hồn. Đặc biệt, đối với bài văn tả cảnh thì
trọng tâm là tả cảnh và phải đảm bảo có sự liên kết chặt chẽ về ý nghĩa giữa các

câu trong đoạn để cùng tả những đối tượng có quan hệ mật thiết với nhau trong
cảnh. Sự liên hệ của các câu về mặt ngôn ngữ là nhờ các biện pháp liên kết phép
lặp, phép thế, phép nối, phép liên tưởng….
Trong đoạn văn luôn có câu chủ đề hoặc câu kết đoạn. Câu chủ đề thường
đứng ở đầu đoạn diễn dịch tóm tắt toàn bộ nội dung đoạn. Câu kết đoạn thường
đứng ở cuối đoạn quy nạp. Các đoạn văn trong bài liên kết với nhau thành một
bài văn hoàn chỉnh. Có nhiều cách liên kết đoạn văn như dùng từ ngữ thay thế,
dùng câu nối,…. Khi miêu tả theo trình tự thời gian, tôi hướng dẫn học sinh nên
dùng các từ chỉ thời gian để liên kết đoạn còn miêu tả theo thứ tự không gian thì
dùng các từ chỉ vị trí.
Biện pháp 6: Tạo hứng thú học tập cho học sinh từ việc chấm, chữa bài
Chấm chữa bài là khâu rất quan trọng, vì nó giúp học sinh kiểm tra lại
toàn bộ bài văn để nhận ra cái sai cái thiếu sót của mình. Đồng thời căn cứ vào
nhận xét của thầy (cô) để sửa bài và viết lại bài văn hoàn thiện hơn, hay hơn.
Nhưng thực tế, đây là bước mà nhiều giáo viên bỏ qua hoặc nếu có thực hiện thì
chỉ nhận xét chung chung. Sau khi viết xong bài văn, nhận bài chấm của thầy
(cô), nhiều em không biết mình viết không đạt chỗ nào, lỗi sai ở đâu mà thậm
chí ngay cả khi nhận bài kiểm tra các em cũng chỉ quan tâm mình được mấy
điểm, hơn kém hơn kem bạn nào trong lớp.
Với tôi, một trong các biện pháp giúp các em học tốt văn tả cảnh là giáo
viên phải thực hiện tốt việc chấm, chữa bài để tạo động lực và hứng thú học tập
cho học sinh.Vì vậy, việc chấm bài và chữa bài thường xuyên là việc làm mà tôi
luôn coi trọng. Khi chấm bài, tôi rất chú trọng đến phát hiện lỗi trong bài làm
của học sinh. Vì vậy, trong lúc chấm bài, tôi luôn tỉ mỉ, kiên trì dành nhiều thời
gian để đọc và ghi chép lại những lỗi sai phổ biến ở từng đối tượng học sinh để
đến tiết trả bài tôi nhận xét đầy đủ, chi tiết những ưu điểm và nhược điểm về bài
làm của học sinh. Cụ thể như sau:
- Đánh giá chung về việc thực hiện yêu cầu đề bài: Cho học sinh nhắc lại
yêu cầu của đề bài: Thể loại, nội dung trọng tâm.
- Nêu những ưu nhược điểm của từng học sinh về việc thực hiện các yêu

cầu trên. Dẫn chứng cụ thể qua bài làm của các em do cô chuẩn bị (chỉ nêu tên
các em có ưu điểm, những em có nhược điểm thì tôi nhận xét riêng).


13
- Nhận xét lỗi bố cục (3 phần): Chữa các lỗi phổ biến về cách mở bài, kết
bài, cách sắp xếp ý phần thân bài.
- Sửa lỗi về nội dung: Chưa chính xác, thiếu ý, các chi tiết chưa hợp lí,...
- Nhận xét về lỗi dùng từ đặt câu: Tôi nêu những nhược điểm dùng từ đặt
câu, chính tả,... có minh họa bài làm của các em và kết hợp với sửa lỗi lỗi biến
trong bài.
Ví dụ: Dòng suối rộng độ hai mươi mét, nước trong vắt, mát lạnh, chảy
giữa những khe đá lỗ mổ và dưới vòm cây cổ thụ tóa bóng mát rượi.
Học sinh dùng sai từ “lỗ mổ”, lẽ ra dùng từ “lô nhô”.
- Lỗi ngắt câu tuỳ tiện
Ví dụ: Không những vậy, con suối còn như một cái máy điều hòa không
khí. Con suối còn giúp cho không khí trở nên trong lành hơn, mát mẻ hơn vào
những trưa hè nóng bức.
Tôi hướng dẫn học sinh diễn đạt lại thành một câu hoàn chỉnh: “Không
những vậy, con suối còn như một cái máy điều hòa không khí, giúp cho không
khí trở nên trong lành hơn, mát mẻ hơn vào những trưa hè nóng bức”.
- Lỗi so sánh không hợp lý
Ví dụ: Những bè củi bồng bềnh trên mặt suối những chiếc lá tre khô.
- Thực hiện trả bài cho học sinh và giúp các em tự sửa lỗi trong bài:
Trong qua trình chấm bài, tôi ghi nhận xét rõ những ưu, khuyết điểm nổi bật
trong bài làm của học sinh. Nếu học sinh mắc các lỗi về chính tả hoặc cách
dùng từ… tôi dùng bút đỏ gạch dưới các từ ngữ đó và giúp các em sửa lỗi (tôi
không sửa thay cho học sinh). Đây cũng là bước đặc biệt quan trọng giúp học
sinh nhìn nhận đánh giá và rút kinh nghiệm cho bài làm của mình.
- Đối với những bài làm có ý hay, tôi giúp học sinh trau truốt thêm cho

bài văn được hay hơn, sinh động hơn. Khi sửa bài, tôi giới thiệu những bài
làm hay ở năm học trước, hoặc những bài hay của học sinh trong lớp cho các
em tham khảo, nhằm kích thích tinh thần học tập ở học sinh.
Trước khi trả bài đã được tôi chuẩn bị công phu từ lúc chấm bài, thống kê
phân loại các lỗi phổ biến, chuẩn bị các dẫn chứng cụ thể để minh họa. Đặc biệt,
tôi đã soạn giáo án chi tiết cho tiết trả bài có sự gợi mở dẫn dắt ứng sử linh hoạt
trên lớp và thực hiện đánh giá học sinh theo đúng tinh thần của thông tư 30 và
thông tư 22 của Bộ Giáo dục Đào tạo. Điều này có lẽ ai cũng có xong việc thể
hiện thế nào và mang lại hiệu quả ra sao chưa hẳn ai cũng làm tốt được. Đặc biệt
trong quá trình chấm chữa bài cho học sinh tôi thường:
- Đặt mình vào vị trí là chính các em hoặc ít nhất cũng là người đồng
hành cùng các em để nhận xét sửa chữa nhằm làm cho các em thấy phấn khởi,
thấy thỏa đáng và mang lại hiệu quả dạy học cao hơn.
- Phát hiện ra những cố gắng và tiến bộ, sáng tạo dù rất nhỏ để khuyến
khích động viên các em kịp thời.
Ví dụ: Với một em ít khi viết được những câu hoàn chỉnh, nhưng hôm nay
lại viết đúng được vài câu thì tôi khen ngay: “Hôm nay con viết được câu “...”
và câu “...” có đầy đủ chủ ngữ vị ngữ, biết viết hoa đầu câu lại có dấu chấm ở
cuối câu. Cô khen nhiều, con cố gắng phát huy nhé!”.


14
- Bên cạnh việc chữa lỗi dùng từ đặt câu, sửa ý văn cũng đặc biệt quan
trọng, tôi luôn cảm nhận bài văn của học sinh bằng nhãn quan của chính các em.
Để từ đó có cách sửa sao cho vừa mang đặc thù của tư duy trẻ thơ vừa có ý tứ
của người dạn dày kinh nghiệm.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Qua việc áp dụng một số biện pháp hướng dẫn quan sát tìm ý để rèn kỹ năng
làm văn tả cảnh cho học sinh trong lớp, tôi đã thu được những kết quả sau:

- Học sinh nắm được cấu tạo của bài văn tả cảnh và yêu cầu của từng
phần trong bài văn tả cảnh.
- Học sinh có vốn sống, vốn kiến thức phong phú hơn biết cách quan sát
tinh tế và nhạy cảm hơn.
- Học sinh biết tìm ý, sắp xếp và lập được dàn ý của bài văn tả cảnh theo
yêu cầu.
- Hầu hết học sinh đều nắm được kỹ năng xây dựng đoạn để làm một bài
văn tả cảnh. Bên cạnh miêu tả những cái chung của đối tượng, các em còn phát
hiện ra những nét riêng, độc đáo. Bài văn của học sinh trở nên sinh động có hình
ảnh, bộc lộ cảm xúc chân thực giàu chất văn, tránh được điểm khô khan, liệt kê
sự việc mà thấm đượm cảm xúc của người viết, thể hiện một cách tự nhiên tình
cảm gắn bó, yêu thương đối với đối tượng được tả.
- Các em thoát ly văn mẫu, tự tin hứng thú diễn đạt những quan sát nhận xét
của mình một cách mạch lạc, trôi chảy, có sáng tạo. Với cùng một đề bài nhưng
luôn có nhiều bài văn khác nhau.
- Học sinh giao tiếp mạnh dạn hơn, tự tin hơn và ngôn ngữ cũng phong phú
hơn vốn sống thực tế cải thiện hơn.
Cụ thể kết quả kiểm tra cuối năm học 2018 - 2019 như sau:
Tổngsố HS
được khảo sát
25

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

SL


TL

SL

TL

SL

9

36%

16

64%

0

TL

Bài kiểm tra cuối năm học 2018-2019, phân môn Tập làm văn các em làm
bài đạt từ hoàn thành trở lên là 100%. Trong đó, có 9 em được đánh giá hoàn
thành tốt và có 04 em đạt giải trong kỳ giao lưu câu lạc bộ Tiếng Việt lớp 5 cấp
huyện năm học 2018-2019.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Chất lượng bài văn tả cảnh của học sinh cao hay thấp đều phụ thuộc vào
việc giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh. Để dạy tốt phân môn Tập
Làm Văn, giáo viên phải thực sự là người tâm huyết và có năng khiếu, thường
xuyên chấm và chữa bài một cách chu đáo. Việc này đòi hỏi giáo viên phải là

người giỏi văn, hiểu văn để cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong từng bài làm
của học sinh. Bởi mỗi bài văn của các em là một tác phẩm văn học khác nhau,
muôn màu muôn vẻ, thể hiện một sự suy nghĩ, hiểu biết mang đậm đà màu sắc


15
cá nhân là những sản phẩm không lặp lại của mỗi học sinh. Đồng thời đây là
một việc làm cần rất nhiều thời gian và tính kiên trì.
Quan sát thực tế sẽ để lại ấn tượng sâu sấc và lâu dài cho các em. Vì vậy
dạy học quan sát, tìm ý, lập dàn bài là những tiết học mà giáo viên cần lưu tâm
đầu tư và giảng dạy kĩ hơn để giúp các em nhận thấy rõ mối quan hệ giữa việc
“đã thấy” với việc “đã quan sát” có chủ đích, biết quan sát theo thứ tự và quan
sát để tìm ý, nhớ đủ ý và dựa vào dàn bài để viết viết nháp sau đó viết bài văn
hoàn chỉnh.
Rèn kĩ năng quan sát, tìm ý, lập dàn bài trong văn miêu tả là một việc làm
rất cần thiết, đòi hỏi mỗi giáo viên phải có sự nhiệt tình và tâm huyết. Làm được
như vậy không những giúp các em học tốt phân môn Tập làm văn mà còn giúp
các em có một vốn kiến thức vững vàng để học tiếp lên các bậc trên. Có thể nói,
bước đầu thành công trong việc hướng dẫn quan sát tìm ý để rèn kỹ năng làm
văn tả cảnh cho học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Yên Nhân 2 là nguồn động viên
rất lớn cho tôi. Tôi sẽ đem kinh nghiệm này tiếp tục áp dụng để giảng dạy phân
môn Tập làm văn ở các năm sau và sẽ giúp giáo viên dạy tốt phân môn Tập làm
văn và hi vọng nó còn có thể thực thi có hiệu quả ở tất cả các trường trong toàn
huyện và rộng hơn nữa góp phần nâng cao hiệu quả học tập bộ môn Tiếng Việt
cho học sinh.
Sáng kiến kinh nghiệm có thể làm cơ sở để phát triển các sáng kiến kinh
nghiệm khác về đề tài rèn kỹ năng làm văn miêu tả tiếp theo của bản thân cũng
như của đồng nghiệp.
3.2. Kiến nghị
Bản thân xin kiến nghị, Phòng Giáo dục và Đào tạo nên tổ chức các

chuyên đề về dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học cho giáo viên chúng tôi có cơ hội
được giao lưu học hỏi nhiều hơn.
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện sáng kiến chắc chắn không khỏi
những thiếu sót, tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của quí đồng nghiệp để
Sáng kiến mang lại hiệu quả cao hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 22 tháng 3 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người thực hiện

Lê Thị Sáu


16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Tiếng việt Lớp 5
2. Sách giáo viên Tiếng việt Lớp 5
3. Rèn kĩ năng Tiếng Việt lớp 5.
4. Bồi dưỡng học sinh giỏi Văn - Tiếng việt ( Nhà xuất bản tổng hợp TPHCM)
5. 99 ngày em giỏi tiếng Việt .
6. Chuyên đề dạy văn tả cảnh
7. Bộ đề thi Violympic Tiếng Việt lớp 5. ( Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà
Nội)




×